Đề tài Đánh giá thực trạng triển khai nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ô tô nước ngoài tại công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex (PJICO)

Tài liệu Đề tài Đánh giá thực trạng triển khai nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ô tô nước ngoài tại công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex (PJICO): Lời nói đầu An toàn giao thông luôn là vấn đề thời sự, mối quan tâm to lớn của Đảng và nhà nước ta. Mặc dù đã có những biện pháp mạnh mẽ, đầu tư thích đáng để giảm bớt tai nạn giao thông, những vẫn còn đó những nối đau. Nhất là hiện nay, đất nước đang trong thời kỳ đi lên công nghiệp hoá, hiện đại hoá, việc nối liền giao thông giữa các vùng trong cả nước cũng như giữa nước ta với thế giới là vấn đề cấp bách hơn bao giờ hết. Ngay từ sau khi kết thúc chiến tranh thống nhất đất nước, việc xây dựng cơ sở hạ tầng, đường xá giao thông đã không ngừng phát triển một cách mạnh mẽ, tạo nên một kết cấu hạ tầng vững chắc cho đất nước, từ đó mà góp phần ổn định đời sống kinh tế văn hoá cho nhân dân cũng như đảm bảo cho công cuộc quốc phòng an ninh bảo vệ tổ quốc… Cùng với đà phát triển đó, các phương tiện giao thông vận tải cũng đã được đưa vào sử dụng ngày một phong phú hơn như : máy bay, tàu hoả, tàu thuỷ, ô tô, … Tuy nhiên với sự cơ động nhanh, vận chuyển lớn của mình thì ô tô vẫn là phương ti...

doc79 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1347 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Đánh giá thực trạng triển khai nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ô tô nước ngoài tại công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex (PJICO), để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu An toàn giao thông luôn là vấn đề thời sự, mối quan tâm to lớn của Đảng và nhà nước ta. Mặc dù đã có những biện pháp mạnh mẽ, đầu tư thích đáng để giảm bớt tai nạn giao thông, những vẫn còn đó những nối đau. Nhất là hiện nay, đất nước đang trong thời kỳ đi lên công nghiệp hoá, hiện đại hoá, việc nối liền giao thông giữa các vùng trong cả nước cũng như giữa nước ta với thế giới là vấn đề cấp bách hơn bao giờ hết. Ngay từ sau khi kết thúc chiến tranh thống nhất đất nước, việc xây dựng cơ sở hạ tầng, đường xá giao thông đã không ngừng phát triển một cách mạnh mẽ, tạo nên một kết cấu hạ tầng vững chắc cho đất nước, từ đó mà góp phần ổn định đời sống kinh tế văn hoá cho nhân dân cũng như đảm bảo cho công cuộc quốc phòng an ninh bảo vệ tổ quốc… Cùng với đà phát triển đó, các phương tiện giao thông vận tải cũng đã được đưa vào sử dụng ngày một phong phú hơn như : máy bay, tàu hoả, tàu thuỷ, ô tô, … Tuy nhiên với sự cơ động nhanh, vận chuyển lớn của mình thì ô tô vẫn là phương tiện được phổ biến nhất. Với sự phát triển chung của đất nước thì số lượng cũng như chủng loại ô tô ở nước ta đã rất đa dạng. Ôtô không chỉ còn là của riêng nhà nước mà còn là của cá nhân, tổ chức, các doanh nghiệp… không chỉ là ô tô của người dân, tổ chức trong nước mà còn của cả các cá nhân, tổ chức nước ngoài hoạt động tại Việt Nam. Việc xuất hiện rất nhiều các thành phần cũng như các tổ chức sử dụng ô tô như thế đã gây lên sự phức tạp trong công tác quản lý. Đây lại là phương tiện rất dễ gây tai nạn và thiệt hại do nó gây lên rất lớn, không thể lường trước được. Chính vì thế mà việc cần phẩi đảm bảo an toàn cho loại phương tiện này là hết sức quan trọng, nhằm giảm bớt những phần nào thiệt hại khi có rủi ro xảy ra, đặc biệt là đối với những xe ô tô nước ngoài, bởi những người sử dụng nó là những người ngoài nước, chưa hiểu rõ về giao thông trong nước, ngoài ra nếu không đảm bảo tôt vấn đề này nó cũng có thể gây ảnh hưởng tới vấn đề ngoại giao của nước ta. Để đảm bảo an toàn cho mình, các chủ xe nước ngoài thường tham gia loại hình bảo hiểm vật chất xe ô tô nước ngoài. Nghiệp vụ bảo hiểm này ra đời và đi vào thực tiễn không chỉ đáp ứng được nhu cầu của người nước ngoài đang sinh sống và làm việc tại Việt Nam mà còn giúp họ yên tâm công tác, kinh doanh từ đó thúc đẩy nền kinh tế nước ta phát triển. Chính vì thế trong thời gian thực tập tại văn phòng 6 thuộc công ty cổ phần bảo hiểm PETROLIMEX( PJICO) em đã quyết định chọn đề tài “Đánh giá thực trạng triển khai nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ô tô nước ngoài tại công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex (PJICO)” để nghiên cứu làm đề tài và viết chuyên đề thực tập cho mình. Nội dung của đề tài em chia làm ba phần: Phần 1: lý luận chung về bảo hiểm vật chất xe ô tô Phần 2: Tình hình triển khai nghiệp vụ về bảo hiểm vật chất xe ô tô nước ngoài tại công ty bảo hiểm PJICO phần 3: một số kiến nghị nhằm nâng cao kết quả và hiệu quả của nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ô tô nước ngoài tại công ty bảo hiểm PJICO Em đã hoàn thành đề tài này dưới sự hướng dẫn tận tình của cô giáo Nguyễn Thị Hải Đường cùng với sự giúp đỡ nhiệt tình của các anh chị phòng bảo hiểm văn phòng 6. Em rất mong được sự giúp đỡ của cô giáo và các anh chị. Em xin chân thành cảm ơn! Phần 1: lý luận chung về bảo hiểm vật chất xe ô tô I- sự cần thiết và tác dụng của bảo hiểm vật chất xe ô tô 1. sự cần thiết của bảo hiểm vật chất xe ô tô Theo thời gian, dưới sự phát triển của khoa học kỹ thuật mà mọi đời sống của con người đã từng bước được cải thiện. Lao động đã dần được máy móc hoá, máy móc đã được đưa vào trong các ngành sản xuất để thay thế con người với năng suất và hiệu quả cao hơn rất nhiều so với trước, từ đó làm cho đời sống con người ngày càng được cải thiện rõ rệt. Trong đó không thể không kể đến ngành giao thông vận tải mà đặc biệt là giao thông đường bộ, nhờ sự phát triển của ngành giao thông vận tải mà hàng hoá được lưu chuyển dễ dàng và nhanh chong hơn góp phần thúc đẩy sự phát triển của các ngành sản xuất vật chất…cũng như sự phát triển của kinh tế nói chung. Vận chuyển đường bộ bằng ô tô là một hình thức vận chuyển rất phổ biến và hiệu quả. Ôtô được dùng ở mọi lúc, mọi nơi trong mọi địa hình với khả năng vận chuyển lớn, là phương tiện vẩn chuyển đem lại hiệu quả cao. Tuy nhiên, vận chuyển bằng ô tô cũng có nhiều nhược điểm bất cập nhất là trong quá trình vận chuyển nó mang tính nguy hiểm cao hơn so với các phương tiện khác. Đáng lo hơn khi trong một số năm gần đây số lượng các phương tiện ô tô ngày càng tăng trong khi hệ thống đường xá, cầu cống còn chưa kịp phát triển như : đường xá còn chật hẹp, nhiều đoạn bị hư hỏng, chưa tu sửa kịp và mang tính tạm thời, nhiều đoạn đường lại khá nguy hiểm như các đoạn đường đèo dốc, những nơi có mật độ dân cư đông đúc…90% là đường khổ hẹp, chưa tráng nhựa hoặc bê tông với 8000 cầu và 150 phà có khả năng thông hành kém, quốc lộ chính chỉ dài 15000 km. Với điều kiện địa lý phức tạp như vậy, xác suất xảy ra các vụ tai nạn giao thông ở nước ta sẽ có khả năng lớn hơn rất nhiều. Theo số liệu thống kê của cảnh sát giao thông, trong số các loại phương tiện giao thông đường bộ thì mức độ gây tai nạn giao thông ở ô tô cao hơn mô tô. Cụ thể, cứ 112 xe ô tô có 1 vụ tai nạn giao thông trong khi 526 xe mô tô mới có 1 vụ tai nạn giao thông. Ô tô vẫn được xem là loại phương tiện có giá trị lớn đối với các cá nhân, các tổ chức doanh nghiệp, do vậy khi gặp phải tai nạn thiệt hại mà chủ xe phải gánh chịu sẽ rất lớn, ảnh hưởng trực tiếp tới quá trình kinh doanh, gây khó khăn về mặt tài chính cho họ, nên việc bù đắp bằng tài chính kịp thời là một nhu cầu hết sức cần thiết. Nước ta lại là nước đang phát triển, hệ thống xe ô tô còn chưa được đảm bảo đầy đủ kỹ thuật an toàn, tinh thần trách nhiệm của chủ xe chưa cao, phương pháp phổ biến luật còn chưa hiệu quả. Chính vì thế đã gây ra tình trạng tai nạn giao thông ngày một tăng lên theo chiều tăng của số đầu xe lưu hành trên đường bộ. Tai nạn giao thông đã trở thành mối đe doạ thường trực đối với con người cũng như tài sản của họ. Sự thường xuyên phải tham gia giao thông của con người cũng như hàng hoá được vận chuyển bằng ô tô là nguyên nhân khiến cho tinh thần trách nhiệm của các chủ xe ô tô ngày một giảm đi nên khả năng gặp rủi ro lại càng tăng. Xem xét nguyên nhân gây ra các vụ tai nạn giao thông đường bộ ở nước ta trong năm 2004 cho thấy, nguyên nhân do lỗi của chủ phương tiện chiếm tới 75%, 25% còn lại là do các nguyên nhân khác. Hầu hết các lái xe chạy quá tốc độ, phóng nhanh, vượt ẩu,... Các chủ xe mặc dù có chú ý đề phòng ngăn ngừa rủi ro đi chăng nữa nhưng rủi ro xảy ra là hoàn toàn bất ngờ, không thể lường trước được nên rủi ro là không thể tránh được, từ đó sẽ gây thiệt hại về con người và tài sản trên xe, nhất là có những khi xe chở một khối lượng hàng hoá lớn lên đến hàng tỷ đồng. Để khắc phục những rủi ro đó, hầu hết các chủ xe đều có những kế hoạch tài chính riêng của mình. Có rất nhiều cách hạn chế tổn thất để các chủ xe có thể chọn cho mình như lập quĩ dự phòng để khi rủi ro xảy ra sẽ dùng quĩ này bù đắp những tổn thât gặp phải. Nhưng nhược điểm là đôi khi tổn thất xảy ra vượt quá quỹ dự phòng gây khó khăn về mặt tài chính cho các chủ xe. Một phương pháp khác hữu hiệu hơn và là biện pháp tốt nhất đã được chứng minh và vẫn đang được sử dụng phổ biến đó là chuyển giao rủi ro cho các nhà bảo hiểm thông qua hình thức mua bảo hiểm, người ta gọi phương pháp này là kỹ thuật tài trợ rủi ro. Với một số phí hợp lý phải đóng cho công ty bảo hiểm để tham gia bảo hiểm vật chất xe ô tô, các chủ xe có thể yên tâm phần lớn về việc khắc phục tình trạng khó khăn về mặt tài chính khi xe ô tô bị tai nạn, nhanh chóng khôi phục xe về trạng thái ban đầu để tiếp tục hoạt động kinh doanh. Như vậy khi tham gia bảo hiểm vật chất xe ô tô, các công ty bảo hiểm sẽ bảo hiểm cho mọi rủi ro bất ngờ xảy ra gây thiệt hại về vật chất của bản thân chiếc xe đó, trừ những trường hợp cố ý. Từ đó mà các chủ xe cũng như bản thân người tham gia giao thông bằng ô tô xe yên tâm hơn khi tham gia giao thông vì đã có các nhà bảo hiểm lo cho họ nếu chẳng may gặp phải rủi ro không mong muốn. Qua đây có thể thấy rằng, bảo hiểm vật chất xe ô tô là rất quan trọng và cần thiết với bất kỳ chủ xe nào trong thời gian lưu hành của mình, góp phần khắc phục những rủi ro và bảo đảm tài sản cho các chủ xe, giúp họ nhanh chóng ổn định được cuộc sống của mình. 2. Tác dụng của bảo hiểm vật chất xe ô tô Bảo hiểm vật chất xe ô tô là một hình thức chuyển giao tài trợ rủi ro, trong đó người bảo hiểm chấp nhận gánh vác phần tổn thất tài chính khi rủi ro xuất hiện. Thông qua việc bồi thường một cách hợp lý, kịp thời, chính xác, trung thực đã giúp cho các cá nhân và các tổ chức nhanh chóng khắc phục được thiệt hại. Đặc biệt trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh gay gắt như hiện nay, bảo hiểm vật chất xe ô tô vẫn sẽ là chỗ dựa tinh thần, là lá chắn kinh tế cuối cùng tạo sự ổn định sản xuất kinh doanh, đồng thời cũng thể hiện tính cộng đồng tương trợ nhân văn sâu sắc. Những tác dụng chủ yếu của nghiệp vụ này thể hiện: 2.1. Góp phần ổn định tài chính, sản xuất kinh doanh cho các chủ xe Ô tô là một loại tài sản có giá trị lớn, thậm chí là rất lớn đối với mỗi cá nhân và tổ chức. Chính vì vậy, nếu xảy ra tai nạn, người chủ sở hữu sẽ gặp phải rất nhiều khó khăn để khắc phục hậu quả. Tuy nhiên, thông qua việc tham gia bảo hiểm, các chủ xe sẽ nhận được một khoản tiền bồi thường đầy đủ, nhanh chóng từ các nhà bảo hiểm, tình trạng khó khăn ban đầu về tài chính do rủi ro gây ra sẽ nhanh chóng được giải quyết, nhờ đó các chủ xe có thể trang trải được các chi phí bất ngờ phát sinh vượt quá khả năng tài chính của mình, sớm ổn định đời sống và rút ngắn thời gian gián đoạn kinh doanh có thể xảy ra. 2.2. Tích cực ngăn ngừa và đề phòng tai nạn giao thông Bằng việc tuyên truyền sâu rộng về các rủi ro, các nguy cơ và hậu quả của chúng, đồng thời đóng góp tài chính một cách tích cực vào việc thực hiện các biện pháp đề phòng hạn chế tổn thất như làm đường lánh nạn, trồng các biển báo nguy hiểm,... các công ty bảo hiểm đã góp phần nâng cao được ý thức của nhiều người lái xe, từ đó giảm thiểu nhiều vụ tai nạn giao thông có thể xảy ra, giúp chủ xe yên tâm làm việc và nâng cao hiệu quả hoạt động. 2.3. Tăng thu cho ngân sách nhà nước Hàng năm, bảo hiểm nộp vào ngân sách nhà nước một khoản tiền rất lớn thông qua việc đóng thuế bao gồm thuế doanh thu và thuế giá trị gia tăng. Nhờ đó, nhà nước có thêm điều kiện đầu tư trở lại để nâng cấp và xây dựng mới cơ sở hạ tầng, đường xá giao thông, tạo đà cho nền kinh tế phát triển và tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động. Ngoài ra, nhà nước có thể tiết kiệm được những khoản chi khắc phục hậu quả tổn thất, tránh được những biến động chi tiêu ảnh hưởng đến kế hoạch của ngân sách nhà nước. 2.4. Thúc đẩy nền kinh tế đất nước phát triển và mở rộng mối quan hệ kinh tế với các nước trên thế giới Vì đối tượng tham gia bảo hiểm của công ty không chỉ là các chủ xe trong nước mà còn cả các chủ xe là người nước ngoài, các tổ chức nước ngoài và các doanh nghiệp nước ngoài cho nên số phí bảo hiểm mà những người này đóng góp cho công ty là rất lớn. Số phí bảo hiểm này sẽ hình thành nên nguồn quỹ của công ty, một phần để chi trả bồi thường, phần còn lại công ty có thể cho vay, mua trái phiếu, kinh doanh bất động sản, tham gia vào thị trường chứng khoán,.... hoạt động kinh tế nhờ vậy mà sôi động hơn, hiệu quả hơn. Bên cạnh đó, công ty bảo hiểm còn tiến hành tái bảo hiểm cho các công ty trong nước và ngoài nước, góp phần thúc đẩy phát triển quan hệ kinh tế giữa các nước với nhau. 2.5. Tăng thu ngoại tệ cho đất nước Khi triển khai loại hình bảo hiểm này, công ty đã góp phần làm tăng nguồn thu ngoại tệ cho đất nước bởi vì đa số người nước ngoài, các tổ chức nước ngoài và các doanh nghiệp nước ngoài đều đóng phí bằng đồng đô la, một đồng tiền có giá trị lớn trên thế giới và cần thiết cho nền kinh tế nước ta. Hơn nữa, nhờ có dịch vụ bảo hiểm này, các nhà đầu tư nước ngoài sẽ yên tâm đầu tư vốn vào nước ta, mang theo nguồn ngoại tệ lớn cho đất nước. Như vậy, bảo hiểm vật chất xe ô tô nước ngoài có rất nhiều tác dụng cả về kinh tế và xã hội. Nó ngày càng khẳng định được tầm quan trọng của mình đối với sự phát triển kinh tế đất nước nói chung và sự phát triển của ngành bảo hiểm nói riêng. II- Nội dung cơ bản của bảo hiểm vật chất xe ô tô 1. Đối tượng bảo hiểm Đối tượng của bảo hiểm vật chất xe ô tô là bản thân chiếc xe. Tuy nhiên các loại xe như xe dùng để tập đua, tập lái, chạy thử không phải là đối tượng được bảo hiểm nhưng nếu có thoả thuận riêng thì có thể được bảo hiểm. Đối tượng được bảo hiểm cần có điều kiện là đã được cấp giấy chứng nhận đăng ký, có biển kiểm soát và được cấp giấy phép lưu hành theo chê độ quy định kiểm soát của công an và nhà nước. Cơ quan bảo hiểm chỉ chịu trách nhiệm chính về bản thân chiếc xe đó gồm: vỏ, máy, trang thiết bị… Trong thời gian lưu hành xe phải được kiểm tra kỹ thuật định kỳ để đảm bảo an toàn khi tham gia giao thông, còn người điều khiển xe phải có bằng lái phù hợp với loại xe đó. Đối tượng bảo hiểm vật chất xe ô tô bao gồm tất cả các loại xe ô tô của người Việt Nam và người nước ngoài đang sống, làm việc tại Việt Nam, của các tổ chức trong nước và nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam và của các doanh nghiệp Việt Nam, các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vốn vào Việt Nam, đang còn giá trị, đảm bảo được những điều kiện về mặt kỹ thuật và pháp lý cho sự lưu hành đồng thời có đầy đủ các loại giấy đăng ký xe, biển kiểm soát, giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và môi trường, giấy phép lưu hành xe do cơ quan có thẩm quyền cấp, hoạt động trên lãnh thổ nước Việt Nam. Nhưng xét trên phương diện kỹ thuật bảo hiểm, người ta thường phân chia xe thành các tổng thành sau: * Tổng thành động cơ: bao gồm bộ li hợp, chế hoà khí, bơm cao áp, bầu lọc gió, bơm hơi và hệ thống điện. * Tổng thành hộp số: bao gồm hộp số chính, hộp số phụ và các lăng. * Tổng thành hệ thống lái: bao gồm vô lăng, trục lái, hộp tay lái, thanh kéo ngang và thanh kéo dọc. * Tổng thành lốp: bao gồm toàn bộ lốp lắp vào xe và được trang bị dự phòng trên xe. * Tổng thành trục trước: bao gồm dầm cầu xe, may ơ, hệ thống treo, má phanh, tăm bua và trục láp. * Tổng thành cầu chủ động: bao gồm vỏ và ruột cầu. * Tổng thành thân vỏ: bao gồm khung xe, ca bin, chắn bùn, kính, gương, ghế ngồi, các đường ống dẫn khí, dẫn dầu, két nước, tổng trơn, bộ điều hoà lực phanh,... Với cách phân chia như trên, công ty bảo hiểm có thể tiến hành bảo hiểm toàn bộ vật chất thân xe hoặc bảo hiểm từng bộ phận của chiếc xe. Tuy nhiên, trong số các tổng thành trên thì tổng thành thân vỏ vẫn chiếm tỷ trọng lớn nhất về mặt giá trị (chiếm 53% giá trị của chiếc xe), hơn thế nữa lại chịu ảnh hưởng của những hậu quả tai nạn nhiều nhất. Vì thế, hiện nay các công ty bảo hiểm Việt Nam thường khuyến khích khách hàng mua bảo hiểm toàn bộ xe hoặc bảo hiểm thân vỏ xe. 2. Phạm vi bảo hiểm 2.1. Rủi ro được bảo hiểm Phạm vi bảo hiểm là giới hạn các rủi ro được bảo hiểm và cũng là giới hạn trách nhiệm của người bảo hiểm. Nhà bảo hiểm bồi thường cho chủ xe những thiệt hại vật chất xảy ra cho chiếc xe được bảo hiểm trong những trường hợp sau đây: † Tai nạn do đâm va, lật đổ †Cháy, nổ, bão, lũ lụt, sét đánh, động đất, mưa đá †Mất cắp toàn bộ xe † Tai nạn do rủi ro bất ngờ khác gây nên Ngoài việc được bồi thường những thiệt hại vật chất xảy ra cho xe được bảo hiểm trong những trường trên , các công ty bảo hiểm còn thanh toán cho chủ xe tham gia bảo hiểm những chi phí cần thiết và hợp lý nhằm: †Ngăn ngừa và hạn chế tổn thất phát sinh thêm khi xe bị thiệt hại do các rủi ro được bảo hiểm. †Chi phí bảo vệ xe và kéo xe bị thiệt hại tới nơi sửa chữa gần nhất. †Giám định tổn thất nếu thuộc trách nhiệm của bảo hiểm . Tuy nhiên, trong mọi trường hợp, tổng số tiền bồi thường( bao gồm cả chi phí) của công ty bảo hiểm không vượt qúa số tiền bảo hiểm đã ghi trên giấy chứng nhận bảo hiểm. 2.2. Rủi ro loại trừ Công ty bảo hiểm không nhận bảo hiểm và không chịu bồi thường cho những thiệt hại vật chất của xe xảy ra do: †Hao mòn tự nhiên, mất giá, giảm dần chất lượng, hỏng hóc do khuyết tật hoặc hư hỏng thêm do sửa chữa.Hao mòn tự nhiên thường được tính dưới hình thức khấu hao và thường được tính theo tháng. † Hư hỏng về điện hoặc bộ phận máy móc, thiết bị( kể cả máy thu thanh điều hoà nhiệt độ), săm lốp hư hỏng mà không do tai nạn gây ra. †Mất cắp bộ phận của xe Ngoài ra để tránh những “nguy cơ đạo đức giả “ lợi dụng bảo hiểm, những hành vi vi phạm pháp luật, luật lệ an toàn giao thông hay một sô rủi ro đặc biệt khác, những thiệt hại, tổn thất xảy ra bởi những nguyên nhân sau cũng không được bồi thường: †Hành động cố ý của chủ xe, lái xe. †Xe không đủ điều kiện kỹ thuật và thiết bị an toàn để lưu hành theo qui định trong điều lệ trật tự an toàn giao thông vận tải đường bộ của liên bộ giao thông vận tải- nội vụ . †Chủ xe(lái xe) vi phạm nghiêm trọng luật an toàn giao thông đường bộ như: +Xe không có giấy phép lưu hành +Xe không có bằng lái hoặc có nhưng không hợp lệ. +Lái xe bị ảnh hưởng của rượu, bia, ma tuý hoặc các chất kích thích tương tự khác trong khi điều khiển xe. +Xe chở chất cháy, nổ trái phép. +Xe chở quá trọng tải hoặc quá số hành khách qui định +Xe đi vào đường cấm . +Xe đi đêm không có đèn hoặc chỉ có đèn bên phải. +Xe sử dụng để tập lái, đua thể thao, chạy thử sau khi sửa chữa † Những thiệt hại gián tiếp như: Giảm giá trị thương mại, làm đình trệ sản xuất kinh doanh. † Thiệt hại do chiến tranh † Tai nạn xảy ra ngoại lãnh thổ quốc gia trừ khi có thoả thuận riêng. 3. Giá trị bảo hiểm và số tiền bảo hiểm 3.1. Giá trị bảo hiểm Giá trị bảo hiểm của xe ô tô là giá trị thực tế trên thị trường của xe tại thời điểm người tham gia mua bảo hiểm. Việc xác định đúng giá trị của xe là công việc rất quan trọng vì đây là cơ sở để bồi thường chính xác thiệt hại thực tế cho chủ xe tham gia bảo hiểm. Tuy nhiên giá trị xe trên thị trường luôn biến động và có thêm nhiều chủng loại xe mới gây khó khăn cho việc xác định xe. Trong thực tế các công ty bảo hiểm thường dựa trên các yếu tố sau để xác định giá trị của xe: -Loại xe. -Năm sản xuất. -Mức độ mới cũ của xe. -Thể tích làm việc của xi lanh. v…v Một phương pháp khác xác định giá trị của xe mà các công ty bảo hiểm hay áp dụng đó là căn cứ vào giá trị ban đầu của xe và mức khấu hao, cụ thể: Giá trị bảo hiểm = Giá trị ban đầu – khấu hao + chi phí sửa chữa, đại tu. Hiện nay trên thị trường Việt Nam càng ngày càng có nhiều xe ô tô đời mới được nhập từ nước ngoài về. Do đó giá trị thực tế của xe nhập khẩu được tính như sau: GTTT = CIF x (100% +TSTNK) x (100%+ TSTTTDB) Trong đó: +GTTT: Giá trị thực tế của xe. +CIF: Giá CIF (bao gồm giá mua xe ô tô tại cửa khẩu nước xuất khẩu cộng với phí bảo hiểm cho chiếc xe vận chuyển từ nước ngoài về Việt Nam cộng với cước phí vận chuyển ) +TSTNK: Thuế xuất, thuế nhập khẩu. +TSTTTDB: Thuế xuất thuế tiêu thụ đặc biệt. Giá trị thực tế của xe là cơ sở để tính phí bảo hiểm vì vậy giá trị thực tế cần được các chủ xe kê khai một cách đầy đủ, chính xác. Các nhà bảo hiểm nên khuyến khích khách hàng tham gia đúng giá trị thực tế của xe và trong mọi trường hợp không bảo hiểm vượt quá giá trị thực tế của xe. 3.2. Số tiền bảo hiểm Số tiền bảo hiểm là khoản tiền được xác định trong hợp đồng bảo hiểm thể hiện giới hạn trách nhiệm của người bảo hiểm hay giới hạn bồi thường tối đa của nhà bảo hiểm. Nói cách khác, trong bất kỳ trường hợp nào, số tiền bồi thường, chi trả cao nhất của người bảo hiểm cũng chỉ bằng số tiền bảo hiểm. Cơ sở để xác định số tiền bảo hiểm trong bảo hiểm vật chất xe ô tô là giá trị bảo hiểm và được chia thành ba trường hợp sau: - Bảo hiểm dưới giá trị: theo hình thức này, số tiền bảo hiểm < giá trị bảo hiểm. - Bảo hiểm ngang giá trị: số tiền bảo hiểm = giá trị bảo hiểm. - Bảo hiểm trên giá trị: số tiền bảo hiểm > giá trị bảo hiểm. Thông thường, số tiền bảo hiểm do công ty bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm thoả thuận tức là số tiền bảo hiểm do người bảo hiểm yêu cầu và người được bảo hiểm chấp nhận. Trên thực tế, do giá trị của ô tô là rất lớn và rất khó xác định cho nên các công ty thường tiến hành bảo hiểm theo hình thức dưới giá trị hoặc ngang giá trị mà không thực hiện bảo hiểm trên giá trị để tránh hiện tượng trục lợi của chủ xe, gây nên hậu quả xấu. 4. Phí bảo hiểm 4.1. Phí bảo hiểm Phí bảo hiểm là khoản tiền mà bên mua bảo hiểm phải đóng cho doanh nghiệp bảo hiểm theo thời hạn và phương thức do các bên thoả thuận trong hợp đồng bảo hiểm. Doanh nghiệp bảo hiểm và chủ xe có thể thực hiện bảo hiểm theo biểu phí và mức trách nhiệm bảo hiểm tối thiểu do Bộ Tài Chính quy định hoặc có thể thoả thuận với nhau theo biểu phí và mức trách nhiệm cao hơn hoặc phạm vi bảo hiểm rộng hơn- biểu phí và mức trách nhiệm mà doanh nghiệp đã đăng ký với Bộ Tài Chính. 4.2. Phương pháp xác định phí bảo hiểm Việc xác định chính xác phí bảo hiểm trong nghiệp vụ bảo hiểm vật chất ô tô nói riêng và trong các nghiệp vụ bảo hiểm khác nói chung là rất quan trọng trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Có như vậy mới hình thành được quỹ bảo hiểm đủ lớn để bù đắp cho những thiệt hại bất ngờ xảy ra và những thiệt hại mang tính thảm hoạ nhưng đồng thời phí bảo hiểm cũng phải phù hợp với khả năng tài chính của người tham gia. Khi xác định phí bảo hiểm cho từng đối tượng tham gia cụ thể, công ty bảo hiểm thường căn cứ vào những nhân tố sau: †Loại xe: do mỗi loại xe có những đặc điểm kỹ thuật khác nhau, có độ rủi ro khác nhau nên phí bảo hiểm vật chất được tính riêng cho từng loại xe. Thông thường, các công ty bảo hiểm đưa ra những biểu phí xác định phí bảo hiểm phù hợp cho hầu hết các xe thông dụng thông qua việc phân loại thành các nhóm. Việc phân loại này dựa trên cơ sở tốc độ tối đa của xe, tỷ lệ gia tốc, chi phí và mức độ khó khăn khi sửa chữa, sự khan hiếm của phụ tùng, trọng tải xe. Đối với các xe hoạt động không thông dụng như xe kéo Rơmooc, xe chở hàng nặng do mức độ rủi ro cao nên phí bảo hiểm thường được cộng thêm một tỷ lệ nhất định dựa trên mức phí cơ bản. † Khu vực giữ xe và để xe: trong thực tế, không phải công ty bảo hiểm nào cũng quan tâm đến vấn đề này. Tuy nhiên một số công ty bảo hiểm khi tính phí bảo hiểm đã dựa trên khu vực để xe và giữ xe rất chặt chẽ. † Mục đích sử dụng xe: đây là nhân tố rát quan trọng khi xác định phí bảo hiểm. Với mục đích sử dụng xe khác nhau thì mức độ rủi ro cũng khác nhau. Xe dùng cho hoạt động sản xuất kinh doanh thì khả năng gặp rủi ro cao hơn rất nhiều so với xe sử dụng cho cá nhân gia đình hoặc cơ quan hành chính sự nghiệp. Xe lăn bánh trên đường càng nhiều thì rủi ro lại càng lớn. † Tình hình bồi thường tổn thất những năm trước: nếu những năm trước đó tổn thất xảy ra lớn và thường xuyên thì phí bảo hiểm sẽ tăng và ngược lại. † Tuổi tác, kinh nghiệm lái xe của người yêu cầu bảo hiểm và những người thường xuyên sử dụng chiếc xe được bảo hiểm: số liệu thống kê cho thấy rằng các lái xe trẻ tuổi bị tai nạn nhiều hơn so với các lái xe lớn tuổi. Trong thực tế, các công ty bảo hiểm thường áp dụng giảm phí bảo hiểm cho các lái xe trên 50 tuổi do kinh nghiệm cho thấy những lái xe này ít gặp tai nạn hơn so với các lái xe trẻ tuổi. Tuy nhiên, với những lái xe quá lớn tuổi ( thường từ 60 trở lên) phải xuất trình giấy chứng nhận sức khỏe phù hợp để có thể lái xe thì công ty bảo hiểm mới nhận bảo hiểm. Ngoài ra, để hạn chế tai nạn, công ty bảo hiểm thường yêu cầu người được bảo hiểm tự chịu một phần tổn thất xảy ra đối với xe của mình( hay còn gọi là mức miễn thường). Đối với những lái xe trẻ tuổi mức miễn thường này thường cao hơn so với các lái xe lớn tuổi. † Biểu phí đặc biệt: khi khách hàng có số lượng xe tham gia bảo hiểm nhiều, các công ty bảo hiểm có thể áp dụng biểu phí riêng cho khách hàng đó. Việc tính toán biểu phí riêng cũng tương tự như cách tính phí được đề cập ở trên, chỉ khác là dựa trên số liệu về bản thân khách hàng đó. Cụ thể: + Số lượng xe của công ty tham gia bảo hiểm. + Tình hình bồi thường tổn thất của công ty bảo hiểm cho khách hàng ở những năm trước đó. + Tỷ lệ phụ phí theo quy định của công ty. Trường hợp mức phí đặc biệt thấp hơn mức phí quy định chung của công ty thì áp dụng theo mức phí đặc biệt. Còn nếu mức phí đặc biệt cao hơn hoặc là bằng mức phí chung tức là tình hình tổn thất của khách hàng cao hơn hoặc bằng mức tổn thất chung thì công ty bảo hiểm sẽ áp dụng mức phí chung. Cách tính phí bảo hiểm: giống như cách tính phí bảo hiểm nói chung, phí bảo hiểm được xác định cho mỗi đầu xe đối với mỗi loại xe được xác định theo công thức: F = f +d Trong đó: + F : phí thu mỗi đầu xe +f : phí bồi thường thiệt hại hay phí thuần( thực phí) + d : phụ phí (chi phí quản lý, chi đề phòng và hạn chế tổn thất, một phần bổ xung cho quỹ dự phòng nghiệp vụ, nộp ngân sách cho nhà nước và chi khác) Trong công thức trên f được xác định: Trong đó: +Si : số vụ tai nạn xảy ra trong năm i +Ti : thiệt hại bình quân một vụ tai nạn trong năm thứ i + Ci : số xe hoạt động thực tế trong năm i Ngoài ra trong thực tế còn một phương pháp khác xác định phí bảo hiểm vật chất xe ô tô. Đó là căn cứ vào giá trị thực tế của xe khi tham gia bảo hiểm thông qua các chứng từ hoá đơn mua bán xe, sau đó hai bên thoả thuận với nhau về số tiền bảo hiểm, điều này đòi hỏi phải xác định được chính xác giá trị thực tế của xe khi đánh gía xe. Phí bảo hiểm sẽ được xác định dựa trên số tiền bảo hiểm và tỷ lệ phí bảo hiểm. F = STBH x R Trong đó: - STBH: là số tiền bảo hiểm - R: là tỷ lệ phí bảo hiểm Tỷ lệ phí được xác định căn cứ vào các yếu tố sau: + Xác suất rủi ro đối với những vụ tai nạn giao thông phát sinh nói chung cho từng loại xe. + Điều kiện thời tiết, khí hậu, địa hình từng vùng mà phạm vi chiếc xe đó hoạt động. + Tình trạng thực tế của chiếc xe. + Luật thuế của nhà nước. + Chi phí quản lý và lãi dự kiến của công ty. Chính vì phụ thuộc vào nhiều nhân tố như vậy nên tỷ lệ phí được chia làm 2 loại: R = R1 + R2 Trong đó: R1 : tỷ lệ phí thuần R2 : tỷ lệ phụ phí †Khi xác định tỷ lệ phí thuần, công ty bảo hiểm thường căn cứ vào tài liệu thống kê của một số năm trước đó: Bộ Tài Chính quy định biểu phí bảo hiểm vật chất xe ô tô như sau: Phạm vi bảo hiểm Phí bảo hiểm Bảo hiểm toàn bộ 1.36% số tiền bảo hiểm Bảo hiểm thân vỏ xe 2.27% số tiền bảo hiểm Đối với những xe hoạt động mang tính chất thời vụ tức là chỉ hoạt động một số ngày trong năm thì chủ xe chỉ đóng phí cho những ngày hoạt động đó theo công thức: † Đối với những xe tham gia bảo hiểm ngắn hạn thì nhiều công ty bảo hiểm áp dụng biểu phí ngắn hạn sau: Bảng 1: Biểu phí ngắn hạn Thời gian Phí bảo hiểm Dưới 3 tháng 30% phí bảo hiểm cả năm Trên 3 tháng 60% phí bảo hiểm cả năm Trên 3 đến 6 tháng 90% phí bảo hiểm cả năm Trên 9 tháng đến 12 tháng 100% phí bảo hiểm cả năm † Trường hợp chủ xe có nhu cầu tham gia bảo hiểm theo điều khoản mở rộng đặc biệt, các công ty yêu cầu các chủ xe kê khai đầy đủ, chi tiết những nội dung yêu cầu mở rộng trong giấy yêu cầu bảo hiểm cùng với những thông tin cần thiết khác để làm cơ sở cho việc tính phí bảo hiểm và tính toán bồi thường khi có tai nạn xảy ra. Khi đã chấp nhận bảo hiểm, các công ty phải cấp cho chủ xe bản thoả thuận bổ xung. Bản thoả thuận bổ xung là một bộ phận của hợp đồng bảo hiểm và được cấp cùng với giấy chứng nhận bảo hiểm. Điều khoản mở rộng đặc biệt bao gồm các nội dung sau: - Bảo hiểm không trừ khấu hao thay mới: công ty phải đánh giá giá trị còn lại thực tế của xe hoặc xác định thời gian đã sử dụng để áp dụng tỷ lệ phí. Khi xảy ra tai nạn thuộc trách nhiệm bảo hiểm các công ty xét giải quyết bồi thường không áp dụng tỷ lệ khấu hao đối với các vật tư thay mới. Bảng 2: Biểu phí bảo hiểm vật chất xe ô tô không tính khấu hao thay mới Giá trị thực tế Tỷ lệ phí bảo hiểm trên số tiền bảo hiểm Bảo hiểm toàn bộ Bảo hiểm bộ phận Xe mới đã sử dụng <3 năm hoặc gía trị còn lại từ 70 % trở lên so với giá trị xe mới 1.36% 2.27% Xe mới đã sử dụng từ 3 đến 6 năm hoặc gía trị còn lại từ 50% đến 70% trở lên so với giá trị xe mới 1.55% 2.45% Xe mới đã sử dụng trên 6 năm hoặc gía trị còn lại dưới 50% so với giá trị xe mới 1.73% 2.64% - Bảo hiểm bồi thường theo giới hạn trách nhiệm: Theo loại bảo hiểm này, chủ xe có thể tuỳ ý lựa chọn tham gia bảo hiểm cho chiếc xe được bảo hiểm theo giá trị nhất định thấp hơn giá trị thực tế của xe. Khi tính phí bảo hiểm cần lưu ý đến các yếu tố sau: giá trị bảo hiểm, giá trị còn lại, số tiền bảo hiểm để làm cơ sở tính tớn chính xác. Trong đó: STBH: là số tiền bảo hiểm GTTT: là giá trị thực tế - Bảo hiểm có áp dụng mức miễn bồi thường : chủ xe có thể lựa chọn mức miễn thường có khấu trừ từ 1.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng hoặc từ 100 USD đến 1000USD. Bảng 3: Mức miễn thường và tỷ lệ giảm phí Mức miễn bồi thường Tỷ lê giảm phí 1.000.000 đ hoặc 100 USD Giảm 5% tổng số phí 2.000.000 đ hoặc 100 USD Giảm 8% tổng số phí 3.000.000 đ hoặc 300 USD Giảm 11% tổng số phí 4.000.000 đ hoặc 400 USD Giảm 14% tổng số phí 5.000.000 đ hoặc 500 USD Giảm 17% tổng số phí 6.000.000 đ hoặc 600 USD Giảm 20% tổng số phí 7.000.000 đ hoặc 700 USD Giảm 23% tổng số phí 8.000.000 đ hoặc 800 USD Giảm 26% tổng số phí 9.000.000 đ hoặc 900 USD Giảm 30% tổng số phí 10.000.000 đ hoặc 1000 USD Giảm 35% tổng số phí - Bảo hiểm mất cắp bộ phận: mức miễn thường không khấu trừ là 1.500.000đ hoặc 150USD. Phí bảo hiểm bằng 115% phí cơ bản. *Các công ty bảo hiểm có thể áp dụng mức tăng , giảm phí bảo hiểm vật chất xe ô tô như sau: † Giảm phí theo tỷ lệ tổn thất: trường hợp không có khiếu nại phải bồi thường theo quy tắc bảo hiểm trong thời hạn quy định dưới đây phí bảo hiểm taí tục có thể được giảm: 01 năm liên tục : có thể giảm đến 10% 02 năm liên tục : có thể giảm đến 15% 03 năm liên tục : có thể giảm đến 20% † Giảm phí theo số lượng xe tham gia bảo hiểm : Từ 5 đến 10 xe có thể giảm tối đa 5% tổng số phí Từ 11 đến 20 xe có thể giảm tối đa 10% tổng số phí Từ 21 đến 30 xe có thể giảm tối đa 15% tổng số phí Từ 31 đến 50 xe có thể giảm tối đa 20% tổng số phí * Hoàn phí bảo hiểm Có những trường hợp chủ xe đã đóng phí bảo hiểm cả năm, nhưng trong năm xe không hoạt động vì lý do nào đó. Trong trường hợp này, thông thường công ty bảo hiểm sẽ hoàn lại phí bảo hiểm trong những tháng xe không hoạt động đó cho chủ xe. Số phí hoàn lại được tính như sau: Mỗi công ty bảo hiểm có tỷ lệ hoàn phí là khác nhau nhưng thông thường tỷ lệ này là 80%. Nếu chủ xe muốn huỷ bỏ hợp đồng bảo hiểm khi chưa hết thời hạn hợp đồng thì công ty bảo hiểm cũng hoàn lại phí bảo hiểm cho thời gian còn lại của hợp đồng theo công thức trên nhưng với điều kiện là chủ xe chưa có lần nào được công ty trả tiền bồi thường. 5. Giám định và bồi thường tổn thất Trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm, giám định và bồi thường được xem là khâu quan trọng quyết định đến hiệu quả kinh doanh và uy tín của doanh nghiệp bảo hiểm. Như chúng ta đã biết, đặc thù của sản phẩm bảo hiểm là vô hình và có chu trình sản xuất kinh doanh đảo ngược. Tức là ngay tại thời điểm mua, khách hàng không thể cảm nhận được ngay lợi ích hay tác dụng của sản phẩm mà đơn giản chỉ nhận được lời hứa, lời cam kết của công ty bảo hiểm. Chỉ đến khi nào có tổn thất thuộc phạm vi bảo hiểm phát sinh thì lúc đó sản phẩm bảo hiểm mới phát huy tác dụng. Vì vậy, quản lý giám định tốt, đảm bảo bồi thường kịp thời đúng với tổn thất thực tế sẽ giảm thiểu những thiệt hại tài chính cho công ty, đồng thời nâng cao chất lượng phục vụ và uy tín của doanh nghiệp trên thị trường bảo hiểm. 5.1. Giám định Công tác giám định bao gồm những bước như sau: † Thông báo tai nạn: cũng như các loại đơn bảo hiểm khác, cơ quan bảo hiểm yêu cầu chủ xe ( hoặc lái xe) khi xe bị tai nạn một mặt phải cứu chữa, một mặt phải báo ngay cho công ty bảo hiểm biết. Chủ xe không được di chuyển, tháo dỡ hoặc sửa chữa khi chưa có ý kiến của công ty bảo hiểm hoặc cơ quan có thẩm quyền. ` † Giám định tổn thất: thông thường đối với bảo hiểm vật chất ô tô việc giám định tổn thất được thực hiện dưới sự có mặt của chu xe hoặc lái xe hoặc người đại diện hợp pháp nhằm xác định nguyên nhân và mức độ thiệt hại. Chỉ trong trường hợp hai bên không đạt được sự thống nhất thì mới chỉ định giám định viên kỹ thuật làm trung gian thực hiện giám định. Kết luận của giám định viên kỹ thuật được coi là kết luận cuối cùng. Trường hợp kết luận của giám định viên kỹ thuật khác với kết luận của giám định viên bảo hiểm thì chi phí giám định do công ty bảo hiểm chịu và ngược lại chủ xe phải chịu chi phí này. Trong trường hợp đặc biệt nếu doanh nghiệp bảo hiểm không thể thực hiện được việc lập biên bản giám định thì có thể căn cứ vào các biên bản, đánh giá của các cơ quan có thẩm quyền và các hiện vật thu được, bản lời khai của nhân chứng và các bên có liên quan để xác định mức độ thiệt hại. Trong một vụ tai nạn thì chi phí giám định bao gồm chi phí định mức cho một ngày công giám định, chi phí quay phim, chụp ảnh, sao chụp hồ sơ… 5.2. Bồi thường tổn thất Bồi thường tổn thất phải thực hiện những bước sau: † Hồ sơ bồi thường Khi yêu cầu cơ quan bảo hiểm bồi thường thiệt hại vật chất, chủ phương tiện phải cung cấp những tài liệu, chứng từ sau: +Tờ khai tai nạn của chủ xe. + Bản sao giấy chứng nhận bảo hiểm, giấy chứng nhận đăng ký xe, giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường phương tiện cơ giới đường bộ, giấy phép lái xe. +Kết luận điều tra của công an hoặc bản sao hồ sơ tai nạn bao gồm: biên bản khám nghiệm hiện trường, biên bản khám nghiệm xe liên quan đến tai nạn, biên bản giải quyết tai nạn, biên bản giám định tai nạn. + Bản án hoặc quyết định của toà án trong trường hợp có tranh chấp tại toà án. + Các biên bản xác định trách nhiệm của người thứ ba. + Các chứng từ xác định thiệt hại do tai nạn: chứng từ xác định chi phí sửa chữa, thay mới phụ tùng, thuê cẩu kéo .. † Nguyên tắc bồi thường : Việc tính toán số tiền bồi thường của cơ quan bảo hiểm cho các chủ xe được dựa trên cơ sở thiệt hại thực tế của xe. Công ty bảo hiểm sẽ bồi thường khi chủ xe cung cấp đầy đủ chứng từ hợp lệ. Thông thường, việc tính toán số tiền bồi thường cho thiệt vật chất xe ô tô được xác định như sau: + Trường hợp xe tham gia bằng hoặc dưới giá trị thực tế: + Trường hợp xe tham gia trên giá trị thực tế Theo nguyên tắc hoạt động của bảo hiểm, để tránh việc lợi dụng bảo hiểm, công ty bảo hiểm chỉ chấp nhận số tiền bảo hiểm nhỏ hơn hoặc bằng gía trị bảo hiểm . Tuy nhiên, nếu người tham gia bảo hiểm cố tình hoặc vô tình tham gia lớn hơn gía trị bảo hiểm thì trong trường hợp này số tiền bồi thường cũng chỉ bằng thiệt hại thực tế và luôn luôn nhỏ hơn hoặc bằng giá trị thực tế của xe. Trường hợp công ty bảo hiểm chấp nhận trên giá trị thực tế, trong trường hợp này chủ xe phải đóng phí bảo hiểm khá cao theo các điều khoản bảo hiểm rất nghiêm ngặt. + Trường hợp tổn thất bộ phận: - Nếu xe ô tô được bảo hiểm với số tiền bảo hiểm bằng hoặc dưới giá trị thực tế của xe thì số tiền bồi thường tối đa cho chủ xe không vượt quá tỷ lệ % của bộ phận đó trong bảng ty cấu thành gía trị xe so với số tiền bảo hiểm. - Nếu xe ô tô bảo hiểm trên gía trị thực tế thì công ty bảo hiểm sẽ bồi thường theo giá trị thực tế của bộ phận đó ngay trước lúc xe bị tai nạn. - Trong quá trình sửa chửa xe được bảo hiểm, nếu phải thay mới bộ phận nào thì số tiền bồi thường tối đa cũng không vượt quá giá trị thực tế của bộ phận đó ngay trước khi xe bị tổn thất. + Trường hợp tổn thất toàn bộ Xe được coi là tổn thất toàn bộ khi bị mất cắp, mất tích hoặc xe bị thiệt hại nặng đến mức không thể sữa chữa được để đảm bảo lưu hành an toàn hoặc chi phí phục hồi lớn hơn giá trị thực tế của xe. -Nếu xe tham gia với số tiền bảo hiểm trên giá trị thực tế của xe thì số tiền bồi thường bằng giá trị thực tế của xe ngay trước khi xe bị tổn thất. - Nếu xe tham gia với số tiền bảo hiểm bằng hoặc nhỏ hơn giá trị thực tế của xe thì số tiền bồi thường bằng số tiền bảo hiểm ghi trên gíấy chứng nhận bảo hiểm. Khi công ty đã bồi thường toàn bộ cho chủ xe thì công ty bảo hiểm có quyền thu hồi , thanh lý chiếc xe đó. Các công ty bảo hiểm thường quy định khi giá trị thiệt hại so với giá trị thực tế của xe bằng hoặc lớn hơn một tỷ lệ nào đó thì được xem là tổn thất toàn bộ ước tính, tuy nhiên lại bị giới hạn bởi bảng tỷ lệ cấu thành xe. † Khi tính toán số tiền bồi thường phải tuân thủ các nguyên tắc: Khi bồi thường phải trừ khấu hao đã sử dụng hoặc chỉ tính giá trị tương đương với giá trị của bộ phận trước lúc xảy ra tai nạn. Nếu tổn thất xảy ra trước ngày 16 của tháng thì tháng đó không tính khấu hao, nếu từ ngày 16 trở về cuối tháng thì phải tính khấu hao. Tuy nhiên trong thực tế việc tính khấu hao chỉ áp dụng cho tổn thất toàn bộ hoặc tổn thất một tổng thành nào đó. Trường hợp thiệt hại xảy ra có liên quan đến bên thứ ba, công ty bảo hiểm sẽ bồi thường cho chủ xe và yêu cầu chủ xe bảo lưu quyền khiếu nại và chuyển quyền đòi bồi thường cho công ty bảo hiểm kèm theo toàn bộ hồ sơ chứng từ có liên quan. 6. Hợp đồng bảo hiểm vật chất xe ô tô 6.1. Khái niệm Hợp đồng bảo hiểm vật chất xe ô tô là một văn bản pháp lý qua đó bên bảo hiểm cam kết bồi thường cho bên được bảo hiểm khi có rủi ro xảy ra gây tổn thất cho chiếc xe và ngược lại, bên được bảo hiểm cam kết trả khoản phí phù hợp với mức trách nhiệm và rủi ro mà bên bảo hiểm đã nhận. Như vậy hợp đồng bảo hiểm vật chất xe ô tô cũng giống như các hợp đồng khác. Nó gồm có hai bên: Bên bảo hiểm chính là các công ty bảo hiểm sẽ được nhận phí bảo hiểm để thiết lập quỹ tài chính và chịu trách nhiệm chi trả bảo hiểm; bên được bảo hiểm là người tham gia bảo hiểm sẽ chịu trách nhiệm ký kết và nộp phí bảo hiểm. Hợp đồng bảo hiểm vật chất xe ô tô có thể được ký kết trực tiếp giữa người tham gia bảo hiểm với bên bảo hiểm hoặc ký kết gián tiếp thông qua môi giới, đại lý dựa trên nguyên tắc bình đẳng và cùng có lợi, nguyên tắc không trái với các quy định của pháp luật, nguyên tắc bàn bạc thống nhất và nguyên tắc tự nguyện. 6.2. Trách nhiệm của các bên trong hợp đồng bảo hiểm 6.2.1. Trách nhiệm của bên tham gia - Người tham gia bảo hiểm, trước hết, với tư cách là người đi mua sản phẩm bảo hiểm phải có trách nhiệm đóng phí bảo hiểm đầy đủ, theo thời hạn và phương thức đã thoả thuận trong hợp đồng bảo hiểm. - Khi khai báo rủi ro phải trả lời các câu hỏi liên quan đến rủi ro một cách đầy đủ, trung thực, chính xác theo yêu cầu của công ty bảo hiểm như xe đã sử dụng được mấy năm, xe đã từng bị tai nạn chưa,... - Thường xuyên cung cấp các thông tin liên quan đến mức độ trầm trọng của rủi ro để hai bên phối hợp kiểm soát. Cụ thể phải thông báo những trường hợp có thể làm tăng rủi ro hoặc làm phát sinh thêm trách nhiệm của công ty bảo hiểm trong quá trình thực hiện hợp đồng bảo hiểm theo yêu cầu của công ty. - Luôn luôn áp dụng các biện pháp đề phòng, hạn chế tổn thất mà công ty đưa ra. - Khi xe bị tai nạn, phải tìm mọi cách cứu chữa, hạn chế thiệt hại về người và tài sản đồng thời phải thông báo ngay cho công ty bảo hiểm và công an nơi gần nhất đến để phối hợp tiến hành giám định và khám nghiệm hiện trường và giải quyết hậu quả tai nạn. 6.2.2. Trách nhiệm của nhà bảo hiểm - Khi soạn thảo hợp đồng, người bảo hiểm phải đảm bảo tính trung thực để bảo vệ quyền lợi của cả hai bên. - Khi giao kết hợp đồng bảo hiểm, nhà bảo hiểm phải có trách nhiệm cung cấp đầy đủ các thông tin có liên quan đến hợp đồng bảo hiểm, giải thích cho bên mua bảo hiểm về các điều kiện, điều khoản bảo hiểm, quyền và nghĩa vụ của bên mua bảo hiểm. - Cấp cho bên mua bảo hiểm giấy chứng nhận bảo hiểm ngay sau khi giao kết hợp đồng bảo hiểm. - Tư vấn và hỗ trợ cho người tham gia bảo hiểm các biện pháp đề phòng hạn chế tổn thất. - Phải giải quyết bồi thường chi trả cho người được bảo hiểm khi có rủi ro bảo hiểm xảy ra gây thiệt hại cho chiếc xe của họ. Việc thanh toán phải nhanh chóng, kịp thời và hợp lí. 6.3. Nội dung của hợp đồng bảo hiểm Cũng giống như bất cứ hợp đồng nào khác, hợp đồng bảo hiểm vật chất xe ô tô bao giờ cũng có những nội dung sau: - Tên, địa chỉ của nhà bảo hiểm, bên mua bảo hiểm. - Đối tượng bảo hiểm. - Số tiền bảo hiểm và giá trị bảo hiểm. - Phạm vi bảo hiểm, điều kiện bảo hiểm, điều khoản bảo hiểm. - Điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm. - Thời hạn bảo hiểm. - Mức phí bảo hiểm, phương thức đóng phí bảo hiểm. - Thời hạn, phương thức trả tiền bảo hiểm hoặc bồi thường. - Các quy định giải quyết tranh chấp. - Ngày, tháng, năm giao kết hợp đồng. Tất cả những nội dung trên đều phải được kê khai đầy đủ, chi tiết trong hợp đồng bảo hiểm. Nếu thiếu bất kỳ một nội dung nào thì hợp đồng coi như không có giá trị. 6.4. Thời hạn bảo hiểm Thời hạn bảo hiểm của hợp đồng bảo hiểm vật chất xe ô tô là thời gian hợp đồng bảo hiểm có hiệu lực kể từ khi kí kết hợp đồng bảo hiểm cho tới khi kết thúc trách nhiệm bảo hiểm. Vì hợp đồng này cũng là hợp đồng bảo hiểm phi nhân thọ cho nên thời hạn của nó thường kéo dài trong vòng một năm. Trong vòng một năm này, hai bên có thể thoả thuận sửa đổi, bổ sung hợp đồng bảo hiểm, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. III- các chỉ tiêu đánh giá kết quả và hiệu quả kinh doanh bảo hiểm vật chất xe ô tô Tổng số xe ô tô thực tế lưu hành Số ô tô tham gia bảo hiểm Số vụ tai nạn phát sinh trong kỳ Số vụ tai nạn được giải quyết bồi thường trong kỳ Số vụ tai nạn chuyển sang kỳ sau giải quyết Tỷ lệ tồn đọng Tổng số tiền bồi thường trong kỳ Số tiền bồi thườn bình quân một vụ tai nạn Doanh thu phí bảo hiểm nghiệp vụ trong kỳ Tổng chi bồi thường trong kỳ Tổng chi trong kỳ Lợi nhuận Chỉ tiêu Đ.vị 2000 2001 2002 2003 2004 Tổng sô xe thực tế lưu hành Chiếc 425 526 597 649 716 Tỷ lệ xe nước ngoài t/g bảo hiểm so với tổng số xe t/g BH % 5.92 6.62 7.34 7.64 8.02 Số vụ tai nạn phát sinh trong kỳ Vụ 30 44 40 42 46 Số vụ được giải quyết trong kỳ - 33 37 46 40 48 Số vụ chuyển sang kỳ sau - 3 10 4 6 4 Tỷ lệ tồn đọng % 8.33 21.28 8.00 14.28 8.69 Tổng STBT Tr đ 220.11 297.11 320.92 284.80 371.04 STBT bình quân một vụ - 6.67 8.03 6.98 7.12 7.73 Doanh thu phí - 1834 2350 3251 4323 5768 Tổng chi trong kỳ - 671.71 881.42 1133.67 1373.80 1817.58 Lợi nhuận - 1162.29 1468.58 2117.33 2949.20 3950.42 Bảng 4: Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả và kết quả kinh doanh bảo hiểm vật chất xe ô tô nước ngoài tại việt namđược triển khai tại công ty PJICO ( Từ 2000 đến 2004) Nguồn: Báo cáo tổng kết cuối nămcủa công Ty PJICO Trên đây là toàn bộ những lý luận cơ bản về nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ô tô, những lý luận này sẽ là tiền đề để Công ty PJICO triển khai nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ô tô nước ngoài tại Việt Nam đạt được hiệu quả mong muốn. Phần 2 Tình hình triển khai nghiệp vụ về bảo hiểm vật chất xe ô tô nước ngoài tại công ty bảo hiểm PJICO Một số nét khái quát về công ty PJICO Lịch sử phát triển của công ty bảo hiểm PJICO Đến thời điểm 2004, ngành bảo hiểm Việt Nam đã có gần 40 năm phát triển. Nhưng trước năm 1994, ở Việt Nam vẫn là một thị trường bảo hiểm độc quyền, mới chỉ có duy nhất một doanh nghiệp bảo hiểm nhà nước hoạt động kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ là Bảo Việt.Do đó thị trường bảo hiểm Việt Nam ở trong tình trạng nhiều người mua nhưng chỉ có một người bán. Điều này ngày càng không phù hợp khi mà toàn cầu hoá và khu vực hoá đang dần trở thành một xu thế chủ yếu của các quan hệ kinh tế quốc tế hiện đại, trong đó Việt Nam là một trong số những quốc gia có nền kinh tế chậm phát triển phải nỗ lực hội nhập nếu không muốn bị gạt ra khỏi lề của sự phát triển. Hơn thế nữa sau gần 10 năm đổi mới (kể từ năm 1986), Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu bước đầu khả quan, nhiều công trình xây dựng, cơ sở hạ tầng được xây dựng, đời sống của người dân ngày càng được cải thiện khiến cho nhu cầu bảo hiểm ngày càng nâng cao. Điều này đòi hỏi thị trường bảo hiểm nói chung và thị trường bảo hiểm phi nhân thọ nói riêng phải có sự chuyển biến đột phá. Trước nhu cầu đổi mới đó, ngày 18 tháng 12 năm 1993 Chính phủ đã ban hành Nghị định 100/CP về kinh doanh bảo hiểm tại Việt Nam, qua đó cho phép các doanh nghiệp thuộc nhiều thành phần kinh tế khác nhau và các nhà đầu tư nước ngoài (nếu đủ điều kiện) được phép thành lập công ty bảo hiểm, tái bảo hiểm, môi giới bảo hiểm, mở chi nhánh của các công ty bảo hiểm nước ngoài ở Việt Nam, đánh một dấu mốc quan trọng cho sự hình thành và phát triển của thị trường bảo hiểm Việt Nam với sự đa dạng hoá về lĩnh vực hoạt động và hình thức sở hữu. Chỉ một năm sau ngày Nghị định 100/CP được ban hành, các công ty bảo hiểm đã lần lượt ra đời, trong đó có công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex, đánh dấu một bước đi đầu tiên của Việt Nam trong lộ trình hoà nhập hoạt động kinh doanh bảo hiểm trong khu vực và trên thế giới. Công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex (viết tắt là PJICO) là công ty cổ phần đầu tiên hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm được thành lập tại Việt Nam, do người đề xướng và chủ trì dự án là Tổng công ty xăng dầu Việt Nam Petrolimex. Ngay từ năm 1994, sau khi tiếp cận chủ trương chính sách đổi mới phát triển kinh tế của Nhà nước, Tổng công ty xăng dầu Petrolimex đã tiến hành tiếp xúc với một số công ty tham gia góp vốn cổ phần để lập nên một công ty bảo hiểm phi nhân thọ. Và sau gần một năm thai nghén, Công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex đã ra đời trong sự chào đón nồng nhiệt của khách hàng trong nước và bạn bè quốc tế. Ngày 27/05/1995, Công ty đã được Bộ Tài Chính cấp giấy chứng nhận số 06-TC/GCN công nhận đủ tiêu chuẩn và điều kiện kinh doanh bảo hiểm. Ngày 08/06/1995, Công ty được UBND thành phố Hà Nội cấp giấy phép thành lập số 183/GP-UB và ngày 15/06/1995, Uỷ ban kế hoạch (nay là Sở Kế hoạch - đầu tư) cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh: Tên gọi đầy đủ : Công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex Tên giao dịch quốc tế : Petrolimex Join-stock Insurance Company Tên viết tắt : PJICO Hình thức hoạt động : Công ty cổ phần Vốn điều lệ khi thành lập : 55 tỷ đồng (VND) Thời gian hoạt động : 25 năm Ngành nghề kinh doanh : Kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ Trụ sở chính của công ty : + Trước 15/01/2000: tại số 1 Khâm Thiên - Đống Đa - Hà Nội + Sau 15/01/2000: tại 22 Láng Hạ - Đống Đa - Hà Nội + Sau 01/04/2003: tại 105 Láng Hạ - Đống Đa - Hà Nội + Sau 01/04/2004: tại 22 Láng Hạ - Đống Đa - Hà Nội Công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex được thành lập bởi 7 cổ đông sáng lập là Tổng công ty Xăng dầu Việt Nam, Ngân hàng ngoại thương Việt Nam, Tổng công ty Thép Việt Nam, Công ty Tái bảo hiểm Quốc gia Việt Nam, Công ty vật tư và thiết bị toàn bộ, Công ty điện tử Hà Nội, Công ty Thiết bị An toàn và 1.251 cổ đông thể nhân. Bảng 6: Cơ cấu vốn đăng ký ban đầu của các cổ đông TT Đơn vị Vốn góp (Triệu đồng) Tỷ trọng (%) Số cổ phiếu 1 Tcty Xăng dầu Việt Nam (PETROLIMEX) 28.050 51 14.025 2 Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (VIETCOMBANK) 5.500 10 2.750 3 Cty TBH Quốc gia Việt Nam (VINARE) 4.400 8 2.200 4 Tcty Thép Việt Nam (VSC) 3.300 6 1.650 5 Cty vật tư thiết bị toàn bộ (MATEXIM) 1.650 3 825 6 Cty Điện tử Hà Nội (HANEL) 1.100 2 550 7 Công ty thiết bị an toàn (A-T) 275 0,5 138 8 Thể nhân 10.275 19,5 5.362 Tổng cộng 55.000 100 27.500 Mệnh giá mỗi cổ phiếu khi phát hành ban đầu là 2.000.000 đồng/cp. Bảy cổ đông sáng lập trên đều là các doanh nghiệp nhà nước, với số vốn góp chiếm 80,5% tổng số vốn góp khi thành lập, trong đó TCT Xăng dầu Việt Nam là cổ đông có vốn góp cao nhất (51%). Số còn lại là của các cá thể và phần lớn là của cán bộ công nhân viên của các cổ đông sáng lập. Xuất phát từ nhu cầu sử dụng vốn trong thực tế, khi thành lập Công ty chỉ huy động 31,2 tỷ đồng vốn cổ phần, đảm bảo cao hơn vốn pháp định quy định trong nghị định 100/C P ngày 18/03/1994. Đến ngày 15/04/2004, PJICO đã tăng mức vốn điều lệ của mình lên 70 tỷ đồng (theo giấy phép số 06/GPDC-12/KDBH), đáp ứng đúng yêu cầu về mức vốn pháp định và thời gian điều chỉnh vốn được quy định trong Luật Kinh doanh bảo hiểm có hiệu lực ngày 01/04/2001. Kể từ đây, PJICO bắt đầu bước sang một thời kỳ mới trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Có thể nói, công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex (PJICO) ra đời là phù hợp với xu thế phát triển của nền kinh tế Việt Nam nói chung và của ngành bảo hiểm nói riêng. Sự ra đời của PJICO và một loạt các công ty bảo hiểm khác đã phá vỡ tính độc quyền trong kinh doanh bảo hiểm, trả lại cho khách hàng những ưu đãi và quyền lợi chính đáng mà họ được hưởng trong nền kinh tế thị trường kể cả về về phương diện tài chính (phí bảo hiểm giảm) cũng như chính sách chăm sóc khách hàng thường xuyên, phục vụ tận tình chu đáo khi có tổn thất xảy ra. Khách hàng đã có thêm nhiều cơ hội để lựa chọn sản phẩm và người cung cấp dịch vụ phù hợp cho mình. Cơ cấu tổ chức bộ máy của Công ty được tổ chức theo kiểu trực tuyến, trong đó đứng đầu là Hội đồng quản trị, sau đó là Tổng giám đốc, 2 Phó tổng giám đốc và các phòng ban chức năng để điều hành hoạt động kinh doanh. - Hội đồng quản trị: là cơ quan quản lý, có toàn quyền nhân danh Công ty để quyết định mọi vấn đề liên quan đến mục đích, quyền lợi của Công ty. Hội đồng quản trị của Công ty bao gồm có 9 thành viên là những người đại diện cho các cổ đông sáng lập nên Công ty trong đó có một chủ tịch và một phó chủ tịch Hội đồng quản trị. - Tổng giám đốc: là thành viên của Hội đồng quản trị, là người điều hành hoạt động hàng ngày của Công ty và chịu trách nhiệm trước Hội đồng quản trị về việc thực hiện các quyền và nhiệm vụ được giao. Tổng giám đốc trực tiếp quản lý, điều hành phòng Đầu tư tín dụng và thị trường chứng khoán, phòng Giám định bồi thường và các tổng đại lý, đại lý, cộng tác viên bảo hiểm. - Hai phó Tổng giám đốc: giúp Tổng giám đốc điều hành Công ty theo sự phân công hoặc uỷ quyền của Tổng giám đốc. - Phòng tổng hợp: có chức năng tổng hợp tình hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, báo cáo ban giám đốc, quản lý và giải quyết các công việc hàng ngày, tổ chức và phục vụ các hội nghị của cơ quan, ... - Phòng tổ chức cán bộ: có chức năng quản lý Công ty bao gồm công tác quản lý cán bộ, tổ chức tiền lương, phân phối phúc lợi khen thưởng và chế độ khoán chi phí quản lý, tổ chức nâng cao trình độ cho cán bộ nhân viên trong Công ty. - Phòng kế toán: có chức năng phản ánh tình hình thu chi tài chính và hoạt động kinh doanh của Công ty. Đảm bảo thanh, quyết toán kịp thời cho khách hàng nhằm phục vụ tốt yêu cầu kinh doanh. Xây dựng hệ thống sổ sách chứng từ theo chế độ quản lý mới, tổ chức kiểm tra, kiểm soát hoạt động thu chi tài chính của chi nhánh, văn phòng đại diện trực thuộc một cách thường xuyên. - Ban thanh tra pháp chế: có nhiệm vụ nghiên cứu các văn bản pháp quy của Nhà nước có liên quan đến hoạt động kinh doanh bảo hiểm, kiểm tra tính chất pháp lý của các hợp đồng bảo hiểm cũng như hồ sơ bồi thường, kiểm tra các đơn vị trong việc thực hiện ký kết hợp đồng bảo hiểm và thủ tục bồi thường, phát hiện các trường hợp trục lợi bảo hiểm,... - Phòng giám định và bồi thường: có nhiệm vụ giám định các tổn thất phát sinh đồng thời giải quyết những tranh chấp về quyền lợi bảo hiểm cho khách hàng, làm cho khách hàng hiểu rõ quyền lợi của họ được hưởng trong từng vụ tổn thất của từng loại hợp đồng bảo hiểm. - Phòng đầu tư tín dụng và TTCK: có nhiệm vụ xác định nguồn vốn đầu tư, phương thức đầu tư phù hợp với thị trường tài chính cũng như chiến lược kinh doanh của Công ty, theo dõi sự biến động về giá cả của các loại chứng khoán trên thị trường chứng khoán, xác định nguồn lợi thu được và phương pháp phân bổ nguồn lợi,... - Phòng bảo hiểm hàng hải: có chức năng hướng dẫn, chỉ đạo, kiểm tra và trực tiếp kinh doanh nghiệp vụ hàng hải. - Phòng bảo hiểm phi hàng hải: có chức năng hướng dẫn triển khai thực hiện việc khai thác bảo hiểm, kết hợp với phòng tổ chức chỉ đạo kiểm tra các chi nhánh, văn phòng đại diện, đại lý của Công ty trong việc thực hiện khai thác nghiệp vụ. - Phòng tái bảo hiểm: căn cứ vào khả năng tài chính của PJICO để tổ chức thực hiện nhượng, nhận tái bảo hiểm đối với tất cả các loại hình bảo hiểm. Các phòng ban nêu trên và một số các phòng ban khác ngoài việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của mình, còn phải phối hợp với các chi nhánh, văn phòng đại diện, đại lý để hoàn thành các kế hoạch sản phẩm một cách đồng bộ, chi tiết hơn. 2. Tình hình hoạt động kinh doanh của công ty PJICO trong thời gian qua Ngay sau khi thành lập, PJICO đã nhanh chóng triển khai hoạt động kinh doanh của mình trên hai lĩnh vực chính là kinh doanh bảo hiểm và đầu tư. Thông qua hai lĩnh vực chủ đạo này, Công ty đã và đang thu được nhiều thành tựu đáng khả quan, đưa Công ty trở thành một trong những công ty bảo hiểm hàng đầu tại Việt Nam. Bảng 7: Doanh thu bảo hiểm của công ty PJICO( 2000- 2004) Năm Kế hoạch (tỷ đồng) Thực hiện (tỷ đồng) Thực hiện/ kế hoạch (%) Tốc độ tăng trưởng so với năm trước (%) 2000 138.00 144.00 104.35 - 2001 152.08 164.60 108.23 14.31 2002 186.20 211.90 113.80 28.74 2003 220.42 252.83 114.70 19.31 2004 292.58 321.10 109.74 27.00 Nguồn: Các báo cáo tổng kết kinh doanh cuối năm từ 2000- 2004 của công ty PJICO Nhìn chung, trong 5 năm hoạt động kinh doanh gần đây, PJICO đều hoàn thành vượt mức kế hoạch do hội đồng quản trị giao.cả 5 năm công ty đều vượt mức kế hoạch trên 100% đẩy mức độ tăng trưởng của năm này so với năm trước hơn 10%. Công ty đã bảo hiểm và đồng bảo hiểm nhiều công trình lớn, giá trị hàng trăm triệu đô là Mỹ như khách sạn Daewoo, toà nhà HITC tại Hà Nội, Diamon Plaza tại TP. Hồ Chí Minh, các công trình cầu đường (cầu Đuống, cầu Đà Rằng, cầu Hàm Rồng, đường quốc lộ số 1. đường cao tốc xuyên á, đường Hồ Chí Minh), công trình thuỷ điện sông Hinh, đường dây tải điện Hàm Thuận - Đa Mi, các tàu dầu lớn của Petrolimex, VOSCO ... Ngoài ra, Công ty cũng đã thiết lập được nhiều mối quan hệ với các công ty tái bảo hiểm trong và ngoài nước như VinaRe, MunichRe, CologneRe, SwissRe, HartfortRe, West of England, HannoverRe, Willis Faber, Lloyd's,..., đồng thời tham gia vào nhiều loại hình đầu tư như cho vay cầm cố chứng khoán, đầu tư vào bất động sản, góp vốn liên doanh,... Mặc dù với con số tăng trưởng như trên chưa thực sự là cao nhưng cũng chứng tỏ được sự nỗ lực, cố gắng của Công ty trong suốt quá trình hoạt động, dần dần khẳng định được vị thế của Công ty trên thị trường bảo hiểm. tình hình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ô tô nước ngoài tại công ty bảo hiểm PJICO( 2000-2004) Trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm vật chất xe ô tô tại các công ty bảo hiểm ở Việt Nam, dù là nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ô tô trong nước hay nước ngoài thì quá trình triển khai đều phải được tiến hành qua ba bước: Khai thác sản phẩm; Giám định và Bồi thường tổn thất; Đề phòng và Hạn chế tổn thất. Tuy nhiên, quá trình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ô tô nước ngoài vẫn mang những nét riêng so với nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ô tô trong nước xuất phát từ đặc thù chính, đó là: yếu tố khách hàng. Có thể nói rằng, quá trình triển khai nghiệp vụ chịu sự chi phối của nhiều yếu tố, nhất là yếu tố khách hàng. ở đây, vì đối tượng tham gia là người nước ngoài, các tổ chức nước ngoài và các doanh nghiệp nước ngoài cho nên họ có những nhận thức, suy nghĩ về bảo hiểm rất khác so với những đối tượng là người trong nước. Trước hết, người nước ngoài hiểu biết rất sâu sắc về bảo hiểm, họ không chỉ thấy được bảo hiểm là cần thiết mà còn thấy được những tác dụng to lớn của bảo hiểm đối với đời sống, sản xuất kinh doanh của họ. ở nhiều nước trên thế giới, nhất là những nước có nền bảo hiểm phát triển, bảo hiểm không còn là điều xa lạ đối với mọi cá nhân, mọi tổ chức trong xã hội. Dường như tham gia bảo hiểm đã trở thành một thói quen, truyền thống của họ. Chẳng hạn như ở Nhật Bản, doanh thu phí ròng của bảo hiểm xe ô tô khoảng 4000 tỷ Yên mỗi năm, chiếm hơn nửa tổng doanh thu phí ròng của bảo hiểm phi nhân thọ với hơn 80% số hộ gia đình đều tham gia bảo hiểm. ở nước Anh, thị trường bảo hiểm xe cơ giới cũng hết sức phát triển, trong đó có 25 triệu xe đang lưu hành và hơn 60% số hộ gia đình mua bảo hiểm xe cơ giới. Còn ở Việt Nam, số lượng xe cơ giới lưu hành chỉ chiếm khoảng 10 triệu xe trong đó chỉ có khoảng 3% số xe đó là tham gia bảo hiểm vật chất thân xe. Do có sự khác biệt nêu trên nên khi đến Việt Nam, đa số người nước ngoài đều tham gia bảo hiểm một cách tự nguyện. Có thể nói, đây là một điều kiện thuận lợi cho các công ty bảo hiểm ở Việt Nam khi triển khai nghiệp vụ này, đặc biệt là các công ty có thể tiết kiệm được chi phí, thời gian dành cho các hoạt động tuyên truyền, quảng cáo để tập trung vào các dịch vụ chăm sóc khách hàng sau bán. Bên cạnh đó, khi mua bảo hiểm, người nước ngoài thường dựa vào danh tiếng, uy tín của công ty là chính. Không giống như những người trong nước, trước khi đi đến quyết định mua bảo hiểm, người nước ngoài thường nghiên cứu, xem xét rất kỹ tên tuổi của công ty trên thương trường, vị thế của công ty và thậm chí cả khả năng tài chính của công ty. Những người này thường tham gia bảo hiểm ở nhưng công ty có danh tiếng, có tiềm lực tài chính mạnh. Theo họ, chỉ có những công ty như vậy mới đủ khả năng đảm bảo quyền lợi của họ. Hơn thế nữa, người nước ngoài cũng thường đánh giá công ty thông qua trình độ của nhân viên. Với họ, một công ty tốt là một công ty có đội ngũ nhân viên giỏi cả về trình độ chuyên môn nghiệp vụ, cả về trình độ giao tiếp,...Điều này cho thấy trong quá trình triển khai nghiệp vụ, công ty phải làm sao nâng cao được uy tín, vị thế của mình và đồng thời phải không ngừng nâng cao trình độ của đội ngũ nhân viên, nhất là những nhân viên làm công tác khai thác và công tác giám định, bồi thường tổn thất. Bên cạnh những nhận thức cao về bảo hiểm, người nước ngoài cũng am hiểu luật lệ giao thông. Vì thế mức độ rủi ro của xe ô tô nước ngoài là thấp hơn ô tô trong nước. Điều này giúp các công ty hạn chế được chi tiêu dành cho công tác đề phòng hạn chế rủi ro, tổn thất bởi vì người nước ngoài tự họ cũng ý thức được vấn đề này. Và do đó xe ô tô nước ngoài có được ưu tiên đặc biệt là thường được giảm phí từ 10% đến 15% so với quy định. Một đặc điểm nữa của người nước ngoài là thường tham gia bảo hiểm với số tiền bảo hiểm lớn. Một mặt, do họ có thu nhập cao hơn so với những người trong nước nhưng mặt khác, họ có quan điểm rằng nếu tham gia bảo hiểm với số tiền ít thì khi tổn thất xảy ra cũng chẳng bù được thiệt hại, trách nhiệm lớn thì kinh phí sẽ lớn, hơn thế chi phí cho bảo hiểm là chi phí thường xuyên, số phí đóng bảo hiểm chỉ là một khoản phải chi nhỏ của họ. Do vậy, các công ty bảo hiểm thường chào bán các hợp đồng với số tiền bảo hiểm lớn. Tóm lại, từ những đặc điểm nêu trên, ta thấy khách hàng là một yếu tố quan trọng quyết định tới tất cả các khâu của quy trình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ô tô nước ngoài. Với đối tượng là người nước ngoài, quá trình khai thác trở nên dễ dàng hơn, bởi vì các cán bộ khai thác sẽ không phải mất nhiều thời gian cho việc giới thiệu những lợi ích của sản phẩm mà thay thế vào đó là thực hiện các hoạt động khuyếch trương uy tín, thanh thế của công ty trên thương trường, bồi dưỡng, nâng cao trình độ cho nhân viên khai thác. Thêm vào đó, quy trình giám định và bồi thường tổn thất đòi hỏi phải được tiến hành nhanh chóng hơn, các giấy tờ về sản phẩm, biên bản,... đều phải được quy định rõ ràng, cụ thể. Công tác đề phòng hạn chế tổn thất chủ yếu tập trung vào việc hướng dẫn thực hiện các biện pháp đề phòng hạn chế tổn thất, còn các trang thiết bị phục vụ cho nó hầu như đều do chính bản thân người nước ngoài tự trang bị lấy, nhờ đó mà số tiền dành cho công tác này giảm đi nhiều so với khi triển khai nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ô tô trong nước. Dưới góc độ nhà bảo hiểm, một sản phẩm bảo hiểm thường được triển khai theo một quy trình thống nhất bao gồm ba khâu công việc sau: - Khai thác bảo hiểm hay còn gọi là bán các dịch vụ, các sản phẩm bảo hiểm. - Đề phòng và hạn chế tổn thất hay còn gọi là kiểm soát tổn thất. - Giám định và bồi thường hay còn gọi là giải quyết khiếu nại. Cả ba khâu trên có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, mỗi khâu đều đóng một vai trò quan trọng trong toàn bộ quy trình triển khai bảo hiểm và chúng đều có ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả và hiệu quả kinh doanh của cả doanh nghiệp. Vì vậy, phân tích thực trạng hoạt động của từng khâu trong từng tháng, từng quý, từng năm để rút ra kinh nghiệm và đề ra phương hướng hoạt động tốt hơn là một trong những nội dung quan trọng trong phân tích hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Trước hết, chúng ta sẽ đi vào phân tích cụ thể nội dung của công tác khai thác bảo hiểm vật chất xe ô tô nước ngoài của công ty PJICO. 1. Công tác khai thác Khai thác bảo hiểm là khâu đầu tiên của quy trình triển khai bảo hiểm. Nó có ý nghĩa quyết định đến sự thành bại của các công ty bảo hiểm nói chung và từng nghiệp vụ bảo hiểm nói riêng, đặc biệt là những nghiệp vụ bảo hiểm mới triển khai. Trong điều kiện thị trường bảo hiểm trong nước cạnh tranh gay gắt như hiện nay, đối với công ty PJICO, khai thác bảo hiểm lại càng trở nên quan trọng hơn. Bởi vì: - Nguyên tắc của hoạt động kinh doanh bảo hiểm là "lấy số đông bù số ít", nhằm tạo lập nguồn quỹ bảo hiểm đủ lớn để dễ dàng san sẻ rủi ro. Thông qua hoạt động khai thác bảo hiểm, Công ty sẽ có khả năng thu hút nhiều khách hàng tham gia, từ đó mới tạo lập được quỹ tài chính tập trung đủ lớn để bồi thường, chi trả khi có thiệt hại phát sinh, ngoài ra còn trang trải được các chi phí hoạt động và tạo ra lợi nhuận cho Công ty. - Do đặc điểm của sản phẩm bảo hiểm là "sản phẩm vô hình", người mua không thể cảm nhận ngay được lợi ích hay tác dụng của sản phẩm mà đơn giản chỉ nhận được lời hứa, lời cam kết từ phía bảo hiểm. Vì thế, các khách hàng sẽ rất khó tham gia bảo hiểm nếu như Công ty không thực hiện hoạt động khai thác. - Chỉ có bán được bảo hiểm thì doanh thu phí bảo hiểm gốc mới có để lập quỹ dự phòng dùng cho đề phòng, hạn chế tổn thất và mục tiêu phát triển lâu dài của Công ty. - Đối tượng của nghiệp vụ là các khách hàng nước ngoài, những người luôn luôn coi trong uy tín, danh tiếng của Công ty, do vậy chỉ có thông qua khai thác, Công ty mới có khả năng tiếp cận với khách hàng để chỉ cho họ thấy rằng" mình chính là công ty có uy tín, có vị thế trên thương trường", "là nơi an toàn để gửi trọn niềm tin". Nhận thức được tầm quan trọng của khâu khai thác đối với hoạt động kinh doanh, PJICO đã xây dựng một quy trình khai thác bảo hiểm rất chặt chẽ, trong đó mỗi quy trình đều có những định hướng và nội dung cụ thể. Tìm kiếm các khách hàng tiềm năng Tiếp xúc với khách hàng để giới thiệu và chào bán sản phẩm Đánh giá rủi ro ban đầu Chấp nhận bảo hiểm Không chấp nhận bảo hiểm Tính phí bảo hiểm cấp giấy chứng nhận bảo hiểm Thu phí bảo hiểm Quy trình khai thác một hợp đồng bảo hiểm của PJICO được minh họa theo sơ đồ dưới đây: * Tìm kiếm các khách hàng tiềm năng: Khách hàng tiềm năng là các tổ chức nước ngoài, các doanh nghiệp nước ngoài và các cá nhân người nước ngoài đang hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam có nhu cầu về bảo hiểm vật chất xe ô tô nhưng chưa tham gia bảo hiểm ở công ty nào hoặc đang tham gia bảo hiểm ở các công ty khác. Để tiến hành quá trình tìm kiếm các khách hàng tiềm năng, công ty PJICO đã sử dụng rất nhiều chính sách, chiến lược, trong đó tập trung vào chính sách thiết lập mối quan hệ với các cơ quan hữu quan và chiến lược tuyên truyền quảng cáo. Thực hiện chính sách thiết lập mối quan hệ với các cơ quan hữu quan, công ty đã và đang thiết lập rất nhiều mối quan hệ với các cơ quan như: Bộ ngoại giao, Đại sứ quán, Bộ kế hoạch và đầu tư, Bộ công an,... và hợp tác với các công ty môi giới nước ngoài tại Việt Nam. Qua đó, Công ty có thể nắm bắt được các thông tin về các dự án sẽ được cấp phép đầu tư tại Việt Nam, số lượng các công ty, tổ chức nước ngoài hoạt động tại Việt Nam và hơn hết là số lượng xe nước ngoài tham gia vào quá trình giao thông.Sau đó, Công ty sẽ lập kế hoạch tiếp xúc, vận động và tuyên truyền khách hàng mua bảo hiểm. Với chiến lược tuyên truyền quảng cáo, Công ty thấy rằng hoạt động này sẽ rất có lợi cho Công ty trong việc nâng cao thanh thế, đồng thời có thể quảng bá tên tuổi, hình ảnh của Công ty đến với khách hàng, từ đó rất có thể các khách hàng tiềm năng sẽ tự động tìm đến. Hàng năm, Công ty cũng trích một phần doanh thu phí bảo hiểm cho công tác tuyên truyền quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng như báo, đài, tạp chí,... * Tiếp xúc với các khách hàng tiềm năng để giới thiệu và chào bán sản phẩm: Tiếp xúc với khách hàng, đặc biệt là các khách hàng nước ngoài đòi hỏi phải có nghệ thuật. Các nhân viên đại lý, các công tác viên phải nắm bắt được tâm lý khách hàng, phải hiểu được nhu cầu cũng như mong muốn của họ. Để quá trình tiếp xúc khách hàng diễn ra thành công, công ty PJICO thường xuyên tổ chức các buổi hội nghị khách hàng để trao đổi trực tiếp với họ, đồng thời mở các lớp đào tạo đại lý, cộng tác viên bảo hiểm để nâng cao trình độ cũng như khả năng giao tiếp của họ, tổ chức khen thưởng kịp thời với những đại lý, cộng tác viên khai thác giỏi. * Điều tra đánh giá rủi ro ban đầu: Khi khách hàng đồng ý tham gia bảo hiểm, Công ty phải nhanh chóng tiến hành điều tra và đánh giá rủi ro ban đầu trước khi giao kết hợp đồng bảo hiểm. Mục đích của công việc này là đánh giá chính xác các rủi ro có thể xảy ra với đối tượng bảo hiểm về nguyên nhân chủ quan và khách quan, từ đó Công ty sẽ quyết định xem nên nhận hay từ chối bảo hiểm. Để đánh giá rủi ro được chính xác, Công ty thường dựa vào một số các thông tin: loại xe và mục đích sử dụng, năm sử dụng, xe đã từng bị tai nạn bao giờ chưa, hồ sơ các vụ tai nạn xe đã gặp phải,... được kê khai trên phiếu điều tra rủi ro. Trên thực tế để đánh giá rủi ro được chính xác, trung thực hơn, Công ty cử cán bộ khai thác đến làm việc trực tiếp với khách hàng, kiểm tra các giấy tờ liên quan đến thủ tục pháp lý của lái xe như giấy phép lái xe, tuổi,... hoặc phối hợp với cơ quan kiểm định chất lượng để kiểm tra xe trước khi kí kết hợp đồng bảo hiểm. Trên cơ sở đánh giá rủi ro, Công ty sẽ quyết định nhận hay không chấp nhận bảo hiểm hoặc chấp nhận ở điều kiện và phạm vi nào. * Tính phí bảo hiểm, cấp giấy chứng nhận bảo hiểm và thu phí: Sau khi chấp nhận bảo hiểm, Công ty sẽ xác định phí bảo hiểm phải thu dựa trên giá trị thực tế của chiếc xe, từ đó sẽ cấp giấy chứng nhận bảo hiểm và thoả thuận với khách hàng về phương thức và thời hạn nộp phí. Quy trình khai thác trên đòi hỏi những cán bộ khai thác phải hết sức năng động nhạy bén: từ việc xác định đối tượng tiềm năng hay thu thập các thông tin về khách hàng đến việc làm thế nào để tiếp cận, giới thiệu và thuyết phục họ tham gia bảo hiểm. Vấn đề khó khăn với công ty PJICO ở đây là làm thế nào để thống kê chính xác khách hàng tiềm năng, thuyết phục họ tham gia bảo hiểm trong khi vẫn phải đương đầu với sự cạnh tranh của một loạt các công ty bảo hiểm khác ở Việt Nam trong lĩnh vực này. Mặc dù vậy, kết quả dưới đây cũng cho thấy được sự nỗ lực cố gắng của Công ty trong việc khắc phục khó khăn để thúc đẩy nghiệp vụ phát triển. Bảng 8: Số xe ô tô nước ngoài tham gia bảo hiểm vật chất tại công ty PJICO (2000 -2004) Chỉ tiêu Đơn vị 2000 2001 2002 2003 2004 Số xe ô tô nước ngoài Chiếc 425 526 597 649 716 Tổng số xe ô tô (trong nước + nước ngoài) Chiếc 7174 7944 8135 8495 8923 Tỉ lệ xe nước ngoài tham gia bảo hiểm với tổng số xe tham gia bảo hiểm % 5,92 6,62 7,34 7.64 8.02 Nguồn: Báo cáo tổng kết cuối năm của công ty PJICO Bảng số liệu trên cho thấy số lượng xe ô tô của người nước ngoài tham gia bảo hiểm vật chất tại Công ty và tỷ lệ giữa số xe này so với tổng số xe mà Công ty khai thác được qua các năm ngày càng tăng lên. Nếu như năm 2000, Công ty khai thác được 425 chiếc xe, chiếm 5.92% trong tổng số xe tham gia bảo hiểm tại Công ty thì tính đền cuối năm 2004, số xe này lên đến 716 chiếc, chiếm 8.02% tổng số xe. Nhìn chung, số lượng xe ô tô nước ngoài tăng ở mức khá ổn định. Tuy nhiên, kết quả trên chưa phải là cao, nhất là so với tỉ lệ % số xe ô tô của người trong nước mà Công ty đã khai thác được thì tỉ lệ số xe ô tô nước ngoài còn thấp hơn rất nhiều. Chẳng hạn như năm 2004, cứ 100 xe tham gia thì chỉ có 8 xe ô tô nước ngoài, còn lại là 92 xe trong nước, thấp hơn nữa là năm 2004, cứ 100 xe ô tô tham gia thì chỉ có 7 xe ô tô người nước ngoài. Sở dĩ số xe ô tô của người nước ngoài tham gia loại hình bảo hiểm vật chất thấp là do: - Thứ nhất, số lượng xe ô tô nước ngoài lưu hành trên lãnh thổ Việt Nam chưa phải là nhiều, chỉ xấp xỉ 1,5% số xe ô tô của người trong nước. - Thứ hai, mặc dù loại hình bảo hiểm này đã được Công ty triển khai ngay từ khi mới được thành lập nhưng đến năm 1997 nó mới thực sự được chú trọng đến, do vậy kết quả khai thác trên phần nào cũng bị hạn chế. - Thứ ba, đội ngũ khai thác viên cho loại hình bảo hiểm này vẫn còn ít, hơn nữa lại còn trẻ, hầu hết mới ra trường, chưa có kinh nghiệp làm việc, trình độ tiếng Anh chưa cao và chưa tạo được mối quan hệ rộng khắp nên ít nhiều cũng ảnh hưởng đến kết quả khai thác của Công ty. - Thứ tư, xét trên thị trường thì Bảo Việt vẫn là công ty chiếm thị phần lớn nhất. Hầu hết người nước ngoài đều tham gia ở Bảo Việt bởi vì đây là công ty có uy tín lâu năm trên thị trường bảo hiểm Việt Nam. Trong khi đó, công ty PJICO mới được thành lập năm 1995 cho nên so với Bảo Việt, danh tiếng của Công ty trên thị trường thấp hơn, chưa được nhiều người nước ngoài biết đến. Để tìm hiểu rõ hơn tình hình khai thác nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ô tô nước ngoài của Công ty, ta đi vào phân tích bảng số liệu sau: Bảng 9: Tình hình khai thác nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ô tô nước ngoài tại công ty PJICO (2000- 2004) Chỉ tiêu Đơn vị 2000 2001 2002 2003 2004 Số xe ô tô nước ngoài Chiếc 425 526 597 649 716 STBH Tr đ 127500 159694 236830 274657 342821 STBH bình quân 1 xe Trđ/ Chiếc 300,00 303,60 396,70 423.20 478.80 Lượng tăng (giảm) Tr đ - 32194 77136 37827 68164 Tốc độ tăng trưởng % - 25,25 48,30 15.97 24.81 Doanh thu phí Tr đ 1834 2350 3251 4323 5768 Doanh thu phí bình quân 1 xe Trđ/ Chiếc 4,32 4,47 5,45 6.66 7.63 Lượng tăng (giảm) Tr đ - 516 901 1072 1445 Tốc độ tăng trưởng % - 28,14 38,34 32.97 33.43 Nguồn: Báo cáo tổng kết cuối năm của công ty PJICO Qua bảng số liệu trên ta thấy: ứng với sự tăng lên của số đầu xe ô tô tham gia bảo hiểm, chỉ tiêu số tiền bảo hiểm cũng tăng dần từ năm 2002 đến năm 2004. Cụ thể là: Năm 2000 số tiền bảo hiểm là 127500 triệu đồng, năm 2001 số tiền bảo hiểm là 159694 triệu đồng, số tiền bảo hiểm tăng 32194 triệu đồng, tương ứng tăng 25,25%. Năm 2002 số tiền bảo hiểm là 236830 triệu đồng, tăng 77136 triệu đồng so với năm 2001 tương ứng tăng 48,30%. Năm 2003 tốc độ tăng trưởng số tiền bảo hiểm của Công ty giảm xuống 15.97% do số tiền bảo hiểm trong năm này chỉ tăng 37827 triệu đồng so với năm 2002. Năm 2004 tốc độ tăng trưởng số tiền bảo hiểm lại tăng lên 24.81% tương ứng lượng tăng là 68164 triệu đồng so với năm 2003. Có thể thấy rằng, số tiền bảo hiểm của các hợp đồng bảo hiểm vật chất xe ô tô nước ngoài mà Công ty khai thác được trong 5 năm trở lại đây có xu hướng tăng lên, đây quả là một dấu hiệu đáng mừng. Trong những năm này, bên cạnh việc khai thác được ngày càng nhiều xe ô tô, Công ty đã khuyến khích được các khách hàng tham gia kí kết những hợp đồng có số tiền bảo hiểm ngày một lớn. Thêm vào đó, do tình trạng trục lợi của người nước ngoài hầu như không xảy ra và cũng để đáp ứng nhu cầu của họ, Công ty đã tiến hành bảo hiểm ngang giá trị cho rất nhiều xe ô tô (mà giá trị của xe ô tô nước ngoài là rất lớn) do đó nâng số tiền bảo hiểm của những năm sau lên cao hơn so với những năm trước. Điều này có thể thấy rất rõ trong chỉ tiêu số tiền bảo hiểm bình quân 1 xe ô tô, chỉ tiêu này cũng tăng dần từ năm 2000 đến năm 2004. Một vấn đề khác cũng cần phải quan tâm là doanh thu phí bảo hiểm. Tốc độ tăng trưởng doanh thu phí của nghiệp vụ trung bình trong 5 năm 2000 - 2004 đạt 33.73% trong đó doanh thu phí bảo hiểm đạt được cao nhất năm 2004 và thấp nhất là năm 2000. Cụ thể: Năm 2000 doanh thu phí bảo hiểm là 1834 triệu đồng, năm 2001 doanh thu phí bảo hiểm là 2350 triệu đồng tăng 516 triệu đồng so với năm 2000, tương ứng tăng 28,14%. Năm 2002 doanh thu phí là 3251 triệu đồng tăng 901 triệu đồng so với năm 2001. Tiếp đến các năm 2003, 2004 doanh thu phí đạt 4323 triệu đồng và 5768 triệu đồng, tương ứng tăng 1072 triệu đồng và 1445 triệu đồng so với năm 2002 và 2003. Về chỉ tiêu doanh thu phí bảo hiểm bình quân ta thấy luôn tăng mặc dù giữa các lần tăng là không đồng đều. Qua phân tích, chứng tỏ Công ty đã tổ chức tốt khâu khai thác mặc dù trong những năm này Công ty cũng gặp phải không ít những khó khăn. Để đạt được kết quả đó, trước hết phải nói đến sự nỗ lực cố gắng của toàn bộ tập thể cán bộ nhân viên khai thác trong Công ty, những người đã biết vận dụng linh hoạt các chiến lược Marketing mà Công ty đã đề ra, những người đã biết khắc phục khó khăn trong công việc để có thể tiếp xúc với khách hàng và thuyết phục họ tham gia. Với sự tận tâm chu đáo, Công ty đã tạo được ấn tượng tốt với các chủ xe, tỷ lệ tái tục hợp đồng tăng lên. Đồng thời do sự giới thiệu của khách hàng cũ, thêm nhiều khách hàng mới đã chủ động liên lạc, chủ động đến với Công ty. Đặc biệt, sau một thời gian các nhân viên khai thác đã nhanh chóng đúc rút được kinh nghiệm, biết kết hợp các biện pháp khai thác phù hợp với thực tế, đáp ứng được nhu cầu bảo hiểm của các chủ xe. Cùng với việc khai thác có hiệu quả, khâu thu phí của Công ty cũng luôn được đảm bảo đúng thời gian, đúng quy cách, tạo thuận lợi tốt nhất cho các khách hàng trong quá trình nộp phí. Đó chính là lí do tại sao số tiền bảo hiểm và doanh thu nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ô tô nước ngoài của Công ty luôn tăng lên mỗi năm. 2. Công tác giám định Công tác giám định được tiến hành ngay sau khi nhận được thông báo tai nạn từ chủ xe. Công ty cử ngay cán bộ giám định đến hiện trường nơi xảy ra tai nạn để nắm tình hình, thu thập các bằng chứng để trên cơ sở đó có thể giải đáp được những câu hỏi: tai nạn xảy ra ở đâu, như thế nào, vì sao,... để xác định thiệt hại có thuộc phạm vi bảo hiểm hay không. Thêm vào đó, các cán bộ giám định của Công ty sẽ nhanh chóng hướng dẫn chủ xe một số biện pháp nhằm hạn chế, giảm thiểu mức độ tổn thất và kiểm tra các giấy tờ cần thiết có liên quan như giấy chứng nhận bảo hiểm, giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường, sơ đồ xảy ra tai nạn,... Khi công việc giám định đã được hoàn tất, nhân viên trong Công ty sẽ lập biên bản giám định trong đó miêu tả chi tiết quy mô thiệt hại, mối quan hệ nhân quả giữa nguyên nhân và hậu quả thiệt hại. Sau đó biên bản này cùng với một số giấy tờ có liên quan khác sẽ được gửi lên phòng bồi thường để xét duyệt bồi thường. Biên bản này phải có đầy đủ chữ ký của các bên. Trong những năm hoạt động vừa qua, công ty PJICO đã có rất nhiều cố gắng trong việc nâng cao chất lượng của công tác giám định để hỗ trợ cho công tác bồi thường và đảm bảo hiệu quả kinh doanh. - Trong thời gian tiến hành giám định, cán bộ Công ty luôn kết hợp chặt chẽ với cảnh sát giao thông để xác định nguyên nhân tai nạn và thiệt hại một cách chính xác, tránh tình trạng chủ xe cố tình gây ra để trục lợi bảo hiểm. - Do đối tượng tham gia bảo hiểm là người nước ngoài, chưa thông thạo thủ tục hành chính ở Việt Nam, vì vậy bên cạnh công tác giám định, các nhân viên trong Công ty còn nhiệt tình hướng dẫn họ làm thủ tục làm hồ sơ đòi bồi thường để việc bồi thường được diễn ra nhanh chóng và thuận lợi. - Nhằm nâng cao chất lượng giám định, Công ty đã tổ chức những cuộc trao đổi, hội thảo chuyên đề với các chuyên viên giám định quốc tế, với cảnh sát giao thông,... để học hỏi kinh nghiệm. - Trong năm 2004, Công ty đã tổ chức nhiều đợt tập huấn nâng cao trình độ nghiệp vụ cho cán bộ giám định và quan trọng hơn là nâng cao ý thức trách nhiệm của họ đối với công việc. Tuy nhiên, công tác này cũng còn tồn tại cần phải khắc phục, đó là: chất lượng giám định chưa cao, đặt biệt là tính pháp lý của nhiều hồ sơ còn chưa chặt chẽ, dẫn đến bồi thường sai ở một số vụ. 3. Công tác bồi thường Một trong những yêu cầu quan trọng của công ty bảo hiểm là phải quan tâm một cách sâu sắc tới các nguyện vọng của khách hàng. Yêu cầu này phải được thể hiện rõ nét trong khâu giải quyết bồi thường. Giải quyết bồi thường tốt có nghĩa là giải quyết nhanh và đúng. Đây là biện pháp tuyên truyền có hiệu quả nhất làm tăng uy tín của công ty bảo hiểm và có ảnh hưởng tích cực đến khâu khai thác. Để quá trình bồi thường được diễn ra nhanh chóng, công ty PJICO đã tiến hành phân cấp bồi thường, đối với những vụ tổn thất nhỏ (dưới 1.000.000 đồng), việc giải quyết bồi thường sẽ do các văn phòng đảm nhiệm, còn đối với những vụ tổn thất lớn (trên 1.000.000 đồng), công việc này sẽ giao cho phòng bồi thường đảm nhiệm. Phải thừa nhận rằng, những người chưa quen với thủ tục hành chính Việt Nam, chưa thông thạo các thủ tục bồi thường như người nước ngoài thì chỉ hoàn thành một bộ hồ sơ bồi thường thôi cũng thấy hết sức phức tạp, cồng kềnh. Nhưng với sự giúp đỡ nhiệt tình của cán bộ trong Công ty, hầu hết các hồ sơ này đều được hoàn thành nhanh chóng, giảm bớt khó khăn cho người bị thiệt hại. Do có quan hệ tốt với nhiều xưởng sửa chữa ô tô, việc cung cấp các thiết bị, vật tư thay thế cũng diễn ra kịp thời, giảm tới mức tối thiểu chi phí thiết hại, tạo sự tin tưởng của khách hàng với Công ty. Bên cạnh đó, thời gian, tiến độ giải quyết bồi thường của Công ty ngày càng được rút ngắn, đáp ứng được nhu cầu thực tế. Sau khi hồ sơ hoàn tất, chỉ trong vòng 15 ngày Công ty đã giải quyết cho người bị nạn, trong nhiều trường hợp đơn giản, Công ty chỉ giải quyết trong 3 ngày. Tuy rằng công ty PJICO đã đề ra nhiều biện pháp về quản lý cũng như tiến hành công tác này sao cho có hiệu quả nhất nhưng một số khâu trong dây truyền bồi thường đôi lúc còn chậm chễ dẫn đến việc giải quyết bồi thường của một số vụ không đảm bảo thời gian như trong quy trình. Đây là điểm mà Công ty cần phải khắc phục. Dưới đây là tình hình bồi thường nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ô tô nước ngoài tại Công ty: Bảng 10: Tình hình bồi thường nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ô tô nước ngoài tại công ty PJICO( 2000- 2004) Năm Số vụ Tỷ Lệ Tồn đọng (%) STBT (tr đ) STBT Bình quân một vụ (trđ/vụ) Tồn đọng năm trước Phát sinh trong năm đã giải quyết Tồn đọng chuyển sang năm sau 2000 6 30 33 3 8.33 220.11 6.67 2001 3 44 37 10 21.28 297.11 8.03 2002 10 40 46 4 8.00 320.92 6.98 2003 4 42 40 6 14.28 284.80 7.12 2004 6 46 48 4 8.69 371.04 7.73 Nguồn: Phòng giám định- bồi thường của công ty PJICO Qua bảng số liệu trên ta thấy: Số vụ phát sinh bồi thường có xu hướng tăng lên qua các năm, số tiền chi bồi thường nói chung cũng có xu hướng tăng lên Năm 2000, số vụ phát sinh nhỏ nhất 30 vụ, trong đó đã giải quyết 33 vụ, với số tiền bồi thường là 220.11 triệu đồng, tức là khoảng 6.67 triệu đồng trên một vụ. Năm 2001, số vụ phát sinh trong năm là 44 vụ, trong đó đã giải quyết 37 vụ, với số tiền bồi thường là 297.11 trđ, tương ứng với 8.03 trđ trên một vụ. Tuy nhiên trong năm này tỷ lệ tồn đọng lại cao nhất 21.28%. Riêng với năm này do các vụ tổn thất xảy dồn dập vào cuối năm tài chính cho nên Công ty không kịp giải quyết, nâng số vụ tồn chuyển năm sau lên cao nhất trong 5 năm. Đây cũng là năm mà mức độ thiệt hại là nghiêm trọng nhất, thể hiện ở chỉ tiêu số tiền bảo hiểm bình quân 1 vụ: 8,03 triệu đồng. Năm 2002, mặc dù tình hình tai nạn giao thông trên khắp cả nước có xu hướng gia tăng song số vụ tai nạn phát sinh trong năm này lại thấp hơn năm 2001. Công ty đã giải quyết được 46 vụ với số tiền chi trả bồi thường là 320,92 triệu đồng. Năm này, Công ty đã có rất nhiều nỗ lực trong việc giải quyết dứt điểm các vụ tổn thất cho nên tỉ lệ tồn đọng là thấp nhất: 8,00%. Năm 2003, số vụ phát sinh trong năm lại tăng lên 42 vụ, trong đó đã giải quyết 40 vụ, với số tiền bồi thường là 284.80 trđ tương ứng với 7.12 trđ bình quân một vụ. Trong năm này, tỷ lệ tồn đọng lại tăng lên từ 8.00% lên 14.28%. Năm 2004, số vụ phát sinh trong năm vẫn tăng, 46 vụ phát sinh trong đó đã giải quyết 48 vụ, với số tiền bồi thường là 371.04 trđ tương ứng với 7.73 trđ bình quân một vụ. Trong năm này số tiền bồi thường của công ty là lớn nhất trong 5 năm, tuy nhiên tỷ lệ tồn đọng đã giảm xuống từ 14.28 xuống còn 8.69% thể hiện sự tiến bộ về chất lượng bồi thường của công ty. Như vậy, sau 5 năm công tác bồi thường của Công ty đã có nhiều chuyển biến đáng kể, đặc biệt là về chất lượng bồi thường. Với số vụ tại nạn giao thông ở nước ta ngày càng tăng lên và mức độ thiệt hại cũng ngày càng nghiêm trọng thì số vụ khiếu nại phát sinh và số tiền chi trả bồi thường của Công ty tăng lên sau mỗi năm cũng là điều dễ hiểu. Tuy nhiên, với tỉ lệ tồn đọng có xu hướng giảm, nhất là năm 2004 đã chứng tỏ chất lượng bồi thường của Công ty tăng lên rõ rệt bởi nhiều vụ tổn thất đã được Công ty giải quyết nhanh gọn ngay trong năm, thoả mãn được mong muốn của người bị thiệt hại. Nếu như trong những năm tới đây, Công ty tiếp tục làm tốt công tác bồi thường thì rất có thể số lượng khách hàng tham gia bảo hiểm tại Công ty sẽ còn tăng lên nhiều. 4. Công tác đề phòng và hạn chế tổn thất Trong quy trình triển khai một nghiệp vụ bảo hiểm, công tác đề phòng hạn chế tổn thất luôn được triển khai trước khi tổn thất xảy ra. Chỉ sau khi đã xét qua tình hình bồi thường mới đánh giá được công tác đề phòng hạn chế tổn thất ở công ty là tốt hay yếu. Đề phòng và hạn chế tổn thất liên quan đến cả trách nhiệm và quyền lợi của công ty bảo hiểm. Nó có ý nghĩa lớn lao cả về mặt kinh tế và xã hội. Nếu làm tốt khâu này, số vụ tổn thất sẽ giảm đi và mức độ tổn thất trong mỗi vụ cũng giảm, từ đó công ty bảo hiểm sẽ tiết kiệm được số tiền bồi thường hoặc chi trả. Tổn thất không xảy ra, đề phòng và hạn chế tổn thất sẽ tạo thêm niềm tin của khách hàng với công ty và hơn thế nữa là góp phần đảm bảo an toàn xã hội, hạn chế các vụ tai nạn giao thông. Hàng năm, với số phí bảo hiểm thu được, công ty PJICO trích ra khoảng 2% để lập quỹ đề phòng và hạn chế tổn thất. Mục đích chính của hoạt động này là nghiên cứu và đề xuất ra những biện pháp hữu hiệu để giảm thiểu mọi khả năng tổn thất có thể xảy ra. Khoản chi này thường bao gồm: chi tuyên truyền, chi hỗ trợ kinh phí cho khách hàng, chi đào tạo... Đối với nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ô tô nước ngoài, trong các khoản chi này thì khoản chi hỗ trợ kinh phí chiếm tỷ trọng lớn nhất trong toàn bộ số chi cho công tác này. Khoản chi này có tác dụng to lớn không chỉ về mặt kinh tế mà còn có tác dụng tích cực trong tuyên truyền cho hoạt động của nghiệp vụ. Khoản chi này Công ty dùng để cung cấp bình cứu hoả cho các chủ xe ô tô, hoặc để cung cấp một số bình bọt cho các gara ô tô,... Một khoản chi không kém phần quan trọng là chi cho tuyên truyền. Khoản chi này không chỉ có tác dụng to lớn đối với công tác khai thác mà còn có tác dụng to lớn đối với công tác đề phòng hạn chế tổn thất. Với khoản chi này, Công ty đã sử dụng nhiều biện pháp tuyên truyền khác nhau như sách, báo, đài,... và điều này có ảnh hưởng mạnh mẽ tới ý thức đề phòng tai nạn giao thông và chấp hành luật lệ giao thông của các chủ xe trong nước và chủ xe nước ngoài. Thông qua các khoản chi hội nghị với khách hàng, công ty tìm hiểu phân tích, đánh giá các biện pháp hạn chế tổn thất hiệu quả nhất. Ngoài ra, đề công tác đề phòng và hạn chế tổn thất thêm hiệu quả, Công ty cử nhân viên đến làm việc trực tiếp với các khách hàng, tư vấn cho họ về việc phòng ngừa rủi ro như lựa chọn người lái xe có trình độ, am hiểu luật lệ giao thông và có tư cách tốt, tránh tình trạng lái xe có tay nghề cao nhưng lại nghiện rượu, cẩu thả,... Đồng thời phối kết hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng có liên quan như công an, giao thông công chính để tăng cường hệ thống biển báo chỉ đường, xây dựng bổ sung khép kín cọc tiêu, xây các tường chắn phòng vệ ở các đường cua thường xảy ra tai nạn,... và hỗ trợ kinh phí tổ chức các cuộc thi lái xe an toàn và tuyên truyền giáo dục luật lệ an toàn giao thông. Qua đó, Công ty đã góp phần làm giảm thiểu số vụ tai nạn giao thông đường bộ xảy ra trên đất nước ta. Bảng 11: Tình hình chi đề phòng và hạn chế tổn thất nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ô tô nước ngoài tại công ty PJICO (2000- 2004) Năm Định mức chi ( Tr đ ) Thực tế chi ( Tr đ ) Lượng tăng giảm 2000 36,68 11,44 - 2001 47,00 20,31 8,87 2002 65,02 32,51 12,22 2003 87.33 51.48 18.97 2004 93.52 62.18 10.70 Nguồn: Báo cáo tổng kết cuối năm của công ty PJICO Bảng số liệu trên cho thấy: chi đề phòng và hạn chế tổn thất thực tế của Công ty thấp hơn so với định mức song lại có xu hướng tăng lên trong những năm gần đây. Điều này chứng tỏ công tác này đã được Công ty ngày một chú trọng hơn. Cụ thể như: Năm 2001, thực tế chi đề phòng hạn chế tổn thất là 20.31 triệu đồng, tăng 8.87 triệu đồng so với năm 2000. Các năm tiếp theo 2002 và 2003, chi cho đề phòng hạn chế tổn thất là 32.51 triệu đồng và 51.48 triệu đồng, tăng 12.22 triệu đồng và 18.97 triệu đồng so với năm 2001 và 2002. Năm 2004, chi đề phòng đã tăng lên 62.18 triệu đồng, tăng 10.70 so với năm 2003. Điều này chứng tỏ trong những năm gần đây mức chi đề phòng hạn chế tổn thất của công ty là khá ổn định, thể hiện sự quan tâm của công ty đến công tác này đã đi vào nề nếp. Cùng với sự tăng lên của doanh thu phí bảo hiểm, số chi cho công tác đề phòng và hạn chế tổn thất cũng tăng lên. Nó góp phần giảm đi nguy cơ xảy ra rủi ro cho các chủ xe, đồng thời làm giảm mức độ nghiêm trọng của các vụ tai nạn. Tuy nhiên chúng ta có thể nhận thấy rằng, mặc dù Công ty đã tăng cường chi cho công tác này nhưng số vụ tai nạn phát sinh vẫn tăng lên qua các năm. Như thế có nghĩa là số tiền này chưa thực sự phát huy hiệu quả của nó. Vì thế, vấn đề trước mắt của Công ty là cần phải làm thế nào để phân bổ số tiền chi cho đề phòng và hạn chế tổn thất một cách hợp lí hơn, tránh tình trạng chi nhiều mà vẫn không đạt như mong muốn. III- phân tích kết quả và hiệu quả của hoạt động kinh doanh 1. Kết quả và hiệu quả kinh doanh 1.1. Kết quả Kết quả hoạt động kinh doanh là một chỉ tiêu tổng hợp phản ánh quá trình tiến hành hoạt động từ khâu khai thác đến giám định bồi thường, đề phòng và hạn chế tổn thất. Kết quả kinh doanh của nghiệp vụ được thể hiện ở hai chỉ tiêu chủ yếu là doanh thu và lợi nhuận. - Doanh thu nghiệp vụ của công ty bảo hiểm là tổng số tiền thu được của nghiệp vụ trong một thời kỳ nhất định (thường là 1 năm). Doanh thu của nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ô tô nước ngoài bao gồm: + Doanh thu phí bảo hiểm gốc + Thu từ thủ tục phí tái bảo hiểm ( phí nhận tái bảo hiểm và hoa hồng nhượng tái bảo hiểm) + Thu kết dư dự phòng năm trước chuyển qua + Thu từ hoạt động đầu tư phần vốn tạm thời nhàn rỗi của nghiệp vụ + Thu khác Doanh thu có một ý nghĩa rất quan trọng đối với nghiệp vụ. Doanh thu cao, công ty mới có khả năng thanh toán chi trả cao, khả năng lập quỹ dự phòng lớn, chi phí cho công tác khai thác nhiều,... Hơn nữa, doanh thu cao sẽ nâng cao được uy tín của công ty trên thị trường vì nó chứng tỏ được khách hàng thực sự tin tưởng vào công ty. - Chi phí nghiệp vụ của công ty bảo hiểm được hiểu là toàn bộ số tiền chi ra cho việc thực hiện nghiệp vụ trong một thời kỳ nhât định (thường là 1 năm), bao gồm: + Chi bồi thường + Chi hoa hồng + Chi quản lý + Chi đề phòng hạn chế tổn thất + Chi thuế Mục đích hoạt động kinh doanh của các công ty bảo hiểm là phải tối đa hoá lợi nhuận. Muốn có lợi nhuận cao tức là kết quả kinh doanh cao thì chênh lệch thu chi phải lớn. Chính vì vậy, bên cạnh việc tăng cường tổng thu còn phải hết sức chú ý đến các khoản chi. Điều đó có nghĩa là chi phải phù hợp và tiết kiệm. Trong các khoản chi trên thì có lẽ chi bồi thường là khoản chi không thể lường trước được, tuy nhiên khoản chi này có thể giảm bớt nếu công ty tăng cường các biện pháp đề phòng và hạn chế tổn thất. Trong 5 năm qua ( 2000 - 2004 ), dựa trên nguyên tắc hoạt động lấy thu bù chi, PJICO đã luôn duy trì được kết quả hoạt động kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ô tô nước ngoài của mình tăng ở mức ổn định, thể hiện qua bảng số liệu sau: Năm Doanh thu nghiệp vụ ( Tr đ ) Các khoản chi nghiệp vụ ( Tr đ ) Lợi nhuận Bồi thường Thuế 10% DT Hoa hồng 5% DT Quản lý 9%DT ĐPHCTT Tổng chi 2000 1834 220,11 183,40 91,70 165,06 11,44 671,71 1162,29 2001 2350 297,11 235,00 117,50 211,50 20,31 881,42 1468,58 2002 3251 320,92 325,10 162,55 292,59 32,51 1133,67 2117,33 2003 4323 284.80 432.30 216.15 389.07 51.48 1373.80 2949.20 2004 5768 371.04 576.80 288.44 519.12 62.18 1817.58 3950.42 Bảng 12: Kết quả hoạt động kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ô tô nước ngoài tại công ty PJICO( 2000- 2004) Nguồn: Báo cáo tổng kết cuối năm của công ty PJICO Nhìn vào bảng số liệu trên ta có thể nhận xét: Cả hai chỉ tiêu doanh thu nghiệp vụ và tổng chi nghiệp vụ đều tăng lên qua các năm. Tuy nhiên mức tăng doanh thu vẫn lớn hơn mức tăng chi phí cho nên kéo theo lợi nhuận của những năm sau luôn lớn hơn những năm trước. Điều đó cho thấy tình hình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ô tô nước ngoài của Công ty đang trong đà phát triển. Nếu xét cụ thể từng năm thì: Năm 2000, doanh thu và chi phí là thấp nhất nên lợi nhuận năm này chỉ đạt 1162,29 triệu đồng. Sang năm 2001, do doanh thu tăng thêm 516 triệu đồng trong khi chi phí chỉ tăng thêm 209.71 triệu đồng so với năm 2000 cho nên lợi nhuận năm này đạt 1468.58 triệu đồng, tăng 26.35%. Các năm sau 2002 và 2003, lợi nhuận tiếp tục tăng và tăng nhiều hơn những năm trước, cụ thể năm 2002 là 2117.33 triệu đồng, tăng 44.18% so với năm 2001 và về tuyệt đối là 648.75 triệu đồng, cao nhất trong 5 năm; năm 2003 là 2949.20 triệu đồng, tăng 39.29% so với năm 2002 và về tuyệt đối là 831.87 triệu đồng. Năm 2004 là năm mà doanh thu của Công ty đạt giá trị cao nhất và tổng chi cũng ở mức cao nhất, nhưng lợi nhuận vẫn đạt 3950.42 triệu đồng, tăng 33.9% so với năm 2003. Như vậy có thể nói kết quả kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ô tô nước ngoài của Công ty đang có nhiều thuận lợi, điều này được thể hiện khá rõ trong sự tăng trưởng lợi nhuận kinh doanh. Có được kết quả này là nhờ thực hiện tốt một số khâu trong quy trình triển khai nghiệp vụ, đặc biệt là khâu khai thác và khâu chi trả bồi thường. Chắc chắn trong tương lai nếu Công ty tiếp tục hoàn thiện các khâu nhiều hơn nữa thì lợi nhuận của Công ty sẽ còn tăng lên nhiều. 1.2. Hiệu quả Hiệu quả hoạt động kinh doanh nghiệp vụ là thước đo sự phát triển của nghiệp vụ. Nó phản ánh trình độ sử dụng chi phí trong việc tạo ra những kết quả kinh doanh nhất định, nhằm đạt được các mục tiêu đã đề ra. Với tư cách là thước đo sự phát triển của nghiệp vụ, hiệu quả kinh doanh thể hiện ở các chỉ tiêu đặc trưng kinh tế, xã hội khác nhau và được xác định bằng tỷ lệ so sánh giữa kết quả với chi phí. Thông thường để đánh giá hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ của công ty, người ta dựa vào hai chỉ tiêu sau: - Tỷ lệ giữa doanh thu nghiệp vụ và chi phí bỏ ra để đạt được doanh thu đó. Chỉ tiêu này cho biết cứ một đồng chi phí bỏ ra trong kỳ tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu. - Tỷ lệ giữa lợi nhuận thu được và chi phí bỏ ra để đạt được lợi nhuận đó. Chỉ tiêu này cho biết cứ một đồng chi phí bỏ ra trong kỳ tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận. Các chỉ tiêu hiệu quả trên càng lớn thì càng tốt bởi vì nếu với mức chi phí nhất định, công ty sẽ thu được mức doanh thu nghiệp vụ và lợi nhuận ngày càng tăng, đó là mục tiêu hàng đầu của công ty. Như đã phân tích, chỉ tiêu lợi nhuận có xu hướng tăng lên qua các năm đã chứng tỏ kết quả hoạt động kinh doanh nghiệp vụ của Công ty có khả quan. Tuy vậy, chỉ tiêu này mới chỉ là chỉ tiêu “bề nổi”, nó chỉ mới phản ánh được kết quả hoạt động kinh doanh chứ chưa đề cập đến chi phí trong kinh doanh mà đây lại là yếu tố rất đáng quan tâm, bởi nếu chi phí tăng nhanh và sử dụng lãng phí thì về lâu dài, kết quả đó sẽ không có ý nghĩa và hoàn toàn không có hiệu quả. Chính vì vậy, để có thể đánh giá một cách triệt để tình hình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ô tô nước ngoài của Công ty, ta đi vào phân tích bảng hiệu quả sau: Bảng 13: Hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ô tô nước ngoài tại công ty PJICO ( 2000 - 2004) Năm DT ( Tr đ ) CP ( Tr đ ) LN ( Tr đ ) DT/CP (Trđ/trđ) LN/CP ( Tr đ/Tr đ ) 2000 1834 671,71 1162,29 2,73 1,73 2001 2350 881,42 1468,58 2,67 1,67 2002 3251 1133,67 2117,33 2,87 1,87 2003 4323 1373.80 2949.20 3.15 2.15 2004 5768 1817.58 3950.42 3.17 2.17 Nguồn: Báo cáo tổng kết cuối năm của công ty PJICO Bảng số liệu trên cho thấy: cả hai chỉ tiêu hiệu quả theo doanh thu và hiệu quả theo lợi nhuận đều lớn hơn 1 qua các năm, chứng tỏ hoạt động kinh doanh nghiệp vụ có hiệu quả. Xét chỉ tiêu hiệu quả theo doanh thu ( DT/CP), ta thấy: Năm 2000, chỉ tiêu này là 2.73 tức là cứ 1 triệu đồng chi phí bỏ ra tạo được 2.83 triệu đồng doanh thu. Đến năm 2001, chỉ tiêu này lại giảm xuống, cứ bỏ ra 1 triệu đồng thu được 2.67 triệu đồng doanh thu. Sang năm 2002 và 2003, chỉ tiêu này lại tăng lên là 2.87 và 3.15. Năm 2004, chỉ tiêu này tiếp tục tăng, cứ bỏ ra 1 triệu đồng thì thu về 3.17 triệu đồng doanh thu, đạt giá trị cao nhất trong 5 năm. Xét chỉ tiêu hiệu quả theo lợi nhuận ( LN/CP ), ta thấy: Sự biến động của chỉ tiêu hiệu quả theo lợi nhuận tương ứng với sự biến động của chỉ tiêu hiệu quả theo doanh thu. Trong đó: Năm 2000 chỉ tiêu này đạt giá trị thấp nhất, cứ 1 triệu đồng bỏ ra thu được lợi nhuận là 1.73 triệu đồng. Đến năm 2004, thì chỉ tiêu này đạt giá trị cao nhất, cứ 1 triệu đồng bỏ ra thì thu được lợi nhuận là 2.17 triệu đồng. Như vậy, qua việc phân tích hai chỉ tiêu hiệu quả nêu trên ta thấy hiệu quả hoạt động kinh doanh nghiệp vụ của Công ty là khá ổn định, các chỉ tiêu hiệu quả đều tăng, mặc dù lượng tăng là không đồng đều. Sau khi phân tích tình hình kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ô tô nước ngoài tại Công ty PJICO trong thời gian qua ta thấy công ty đã đạt được những thành quả mong muốn, lợi nhuận luôn có lãi ở mức cao và phấn đấu trong thời gian tới sẽ còn cao hơn nữa. 2. Các tồn tại và nguyên nhân Bên cạnh những thuận lợi như trên Công ty vẫn còn có những tồn tại là: - Trình độ chuyên môn nghiệp vụ và khả năng giao tiếp bằng tiếng Anh của các nhân viên, nhất là nhân viên khai thác còn yếu, vì thế nảy sinh rất nhiều khó khăn trong việc thuyết phục người nước ngoài tham gia bảo hiểm. Hiện nay, 80% trong tổng số các cán bộ nhân viên đang làm việc tại Công ty đều không tốt nghiệp đúng chuyên ngành bảo hiểm do vậy họ không nắm vững nghiệp vụ bảo hiểm, từ đó dẫn đến tình trạng tư vấn sai khiến cho khách hàng hiểu nhầm nghiệp vụ, ảnh hưởng nghiêm trọng đến công tác bồi thường sau này. - Tác phong, thái độ làm việc của một số cán bộ trong Công ty còn kém, chưa phù hợp với điều kiện kinh tế thị trường, chưa quen với phong cách làm việc của người nước ngoài. Vẫn còn nhiều cán bộ khai thác bảo hiểm chưa biết tận dụng đi khai thác kết hợp với tuyên truyền quảng cáo vận động nên vẫn còn một số khách hàng năm trước tham gia bảo hiểm ở Công ty nhưng năm sau lại không tái tục hợp đồng nữa mà tham gia bao hiểm ở công ty khác. Hoặc có nhân viên do chạy theo số lượng hợp đồng mà tự ý bỏ qua một số bước cơ bản trong khâu đánh giá rủi ro của xe dẫn đến việc xác định xác suất rủi ro của xe không được chính xác gây khó khăn cho công tác giám định bồi thường. - Công ty chưa trang bị đầy đủ các phương tiện cần thiết cho cán bộ nhân viên trong quá trình làm việc như điện thoại di động, máy tính xách tay, thậm chí chưa kết nối mạng internet cho các văn phòng, chi nhánh. Hiện nay, mạng internet được xem là một trong những phương tiện có hiệu quả nhất trong khâu khai thác nghiệp vụ này bởi vì trên thực tế, hầu hết người nước ngoài đều sử dụng mạng, họ thường tìm kiếm các thông tin qua mạng và có thói quen mua bán qua mạng. Khai thác qua mạng là một hình thức tiết kiệm thời gian. - Khâu khai thác bảo hiểm chủ yếu là trực tiếp chứ chưa qua trung gian do mạng lưới đại lý, cộng tác viên còn mỏng. Trên khắp tỉnh thành trong cả nước, Công ty mới chỉ có 400 đại lý và cộng tác viên bảo hiểm trong khi đó số lượng đại lý và cộng tác viên ở Bảo Việt là 4000. Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong việc mở rộng mạng lưới trung gian nhưng nhìn chung vẫn chưa đạt yêu cầu. Hơn nữa, nhiều cộng tác viên và nhân viên đại lý của Công ty chưa được tham gia các khoá đào tạo cơ bản về nghiệp vụ, về khả năng Marketing bán hàng và khả năng đàm phán. - Công tác tuyên truyền quảng cáo ở Công ty chưa mạnh, chất lượng của một số chương trình quảng cáo chưa cao, chưa tạo được ấn tượng với người xem. Quảng cáo của Công ty vẫn thường chỉ có logo cùng với thông điệp gửi tới khách hàng, vẫn chưa có hình ảnh "bắt mắt" hấp dẫn đi kèm. Ngoài ra, Công ty chưa tận dụng được hết tiềm năng của tất cả các phương tiện thông tin đại chúng. Hình thức quảng cáo trên truyền hình được xem là có hiệu quả nhất ở Việt Nam hiện nay thì Công ty chưa sử dụng mà chủ yếu là trên các ô tô hoặc trên các panô, áp phích. - Kinh phí của Công ty dành cho công tác đề phòng hạn chế tổn thất còn thấp hơn so với các công ty bảo hiểm khác ở Việt Nam. Công ty vẫn chưa thực chủ động tham gia vào công tác này thể hiện ở việc có một số vụ tổn thất thuộc phạm vi bảo hiểm phát sinh một phần là do các biện pháp đề phòng hạn chế tổn thất chưa được thực hiện đầy đủ, khách hàng chưa biết phải làm như thế nào để đề phòng tai nạn, hạn chế mức độ thiệt hại. Thêm vào đó, việc Công ty chưa thiết lập được các trạm bảo dưỡng, các trung tâm cứu hộ đã khiến cho mức độ tổn thất và chi phí khắc phục tổn thất tăng lên. - Chất lượng giám định chưa cao, đặc biệt tính pháp lý trong nhiều hồ sơ chưa chặt chẽ, một số cán bộ còn thiếu kiến thức nên khó khăn khi giám định các vụ phức tạp, do đó gây sự chậm chễ trong việc giải quyết bồi thường. - Thời gian giải quyết, xử lý các hồ sơ khiếu nại bồi thường còn kéo dài do sự phân cấp bồi thường ở công ty chưa thực sự hợp lý. Các hồ sơ bồi thường hầu như đều phải được chuyển lên trên chứ ít khi để văn phòng giải quyết do vậy số lượng các vụ nợ đọng còn nhiều. Mặt khác, có những vụ tổn thất chỉ giải quyết không quá một tuần nhưng Công ty lại giải quyết đến hơn 15 ngày khiến nhiều khách hàng mất lòng tin. Ngoài ra, giấy tờ còn nhiều, chưa rõ ràng cộng với chi phí cho giấy tờ liên quan đến biểu mẫu còn hạn chế cũng ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng và hiệu quả của nghiệp vụ. Như vây, công ty phải nhanh chóng đưa ra biện pháp giải quyết để đưa công ty ngày càng phát triển hơn nữa, có thể cạnh tranh với các công ty bảo hiểm lớn khác trên thế giới. phần 3 một số kiến nghị nhằm nâng cao kết quả và hiệu quả của nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ô tô nước ngoài tại công ty bảo hiểm PJICO Sau gần 10 năm hoạt động trên thị trường bảo hiểm, công ty PJICO đã dần trưởng thành hơn về mọi lĩnh vực: từ khâu khai thác, giám định và bồi thường tổn thất, đề phòng hạn chế rủi ro tổn thất đến quản lý hợp đồng. Điều này được thể hiện rất rõ trong thực tiễn triển khai nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ô tô nước ngoài của Công ty. Nhìn lại quá trình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ô tô nước ngoài của PJICO trong những năm vừa qua cho thấy Công ty rất quan tâm tới tới mảng thị trường này. Bên cạnh việc đưa ra các chính sách, nhất là các chính sách khai thác phù hợp, đúng đắn, Công ty còn thường xuyên đôn đốc, nhắc nhở và giám sát hoạt động của phòng bảo hiểm phi hàng hải, các văn phòng và các chi nhánh liên quan, đồng thời cũng tạo điều kiện để phát triển nghiệp vụ như tạo môi trường học tập, làm việc lí tưởng cho các cán bộ, nhân viên trong phòng. Đặc biệt, Công ty cũng đã tranh thủ được sự giúp đỡ, hỗ trợ của các ban ngành hữu quan như Bộ ngoại giao, Sở kế hoạch và đầu tư, Đại sứ quán,... Về phía các cán bộ, nhân viên chuyên đảm nhiệm các công việc có liên quan đến nghiệp vụ này luôn luôn không ngừng trau dồi và nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Trước những cố gắng và nỗ lực đó, sau một thời gian triển khai, số lượng khách hàng tham gia bảo hiểm ngày càng đông, doanh thu nghiệp vụ ngày một tăng cao, đem lại một nguồn lợi nhuận không nhỏ cho Công ty, các công tác đề phòng hạn chế rủi ro, giám định và bồi thường tổn thất cũng ngày mộ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc13275.DOC
Tài liệu liên quan