Đề tài Đánh giá hiệu quả kinh tế-Xã hội và môi trường của quy hoạch kinh tế-xã hội huyện Thuỷ Nguyên thành phố Hải Phòng

Tài liệu Đề tài Đánh giá hiệu quả kinh tế-Xã hội và môi trường của quy hoạch kinh tế-xã hội huyện Thuỷ Nguyên thành phố Hải Phòng: LỜI NÓI ĐẦU Lý do chọn đề tài. Thuỷ Nguyên là một huyện đồng bằng ven biển thuộc thành phố Hải Phòng nhưng ở vào vị trí chuyển tiếp của hai vùng địa lý tự nhiên lớn là ĐBSH và vùng đồi núi Đông Bắc. Huyện có diện tích tự nhiên 24.2712 ha. Thuỷ Nguyên có nhiều điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên thuận lợi, đặc biệt là vị trí đặc biệt gần cảng Hải Phòng và vùng than Quảng Ninh, trong tam giác tăng trưởng và các cảng biển lớn cửa xuất-nhập khẩu hàng hoá quan trọng của toàn toàn vùng Đông Bắc. Có nhiều khả năng thuận lợi để phát triển kinh tế, nhưng tính đến năm 1996 nền kinh tế Thuỷ Nguyên còn mang nhiều tính thuần nông, tăng trưởng kinh tế hàng năm còn thấp và đời sống nhân dân còn chưa cao, GDP/người mới đạt 1.924.000 đ/năm. Thực hiện nghị quyết của thành uỷ và UBND thành phố Hải Phòng về việc triển khai xây dựng quy hoạch phát triển kinh tế-xã hội các huyện thị đến năm 2010 (sau khi quy hoạch tổng thế phát triển kinh tế- xã hội thành phố đã được thủ tướng chính phủ phê ...

doc79 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1220 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Đánh giá hiệu quả kinh tế-Xã hội và môi trường của quy hoạch kinh tế-xã hội huyện Thuỷ Nguyên thành phố Hải Phòng, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU Lý do chọn đề tài. Thuỷ Nguyên là một huyện đồng bằng ven biển thuộc thành phố Hải Phòng nhưng ở vào vị trí chuyển tiếp của hai vùng địa lý tự nhiên lớn là ĐBSH và vùng đồi núi Đông Bắc. Huyện có diện tích tự nhiên 24.2712 ha. Thuỷ Nguyên có nhiều điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên thuận lợi, đặc biệt là vị trí đặc biệt gần cảng Hải Phòng và vùng than Quảng Ninh, trong tam giác tăng trưởng và các cảng biển lớn cửa xuất-nhập khẩu hàng hoá quan trọng của toàn toàn vùng Đông Bắc. Có nhiều khả năng thuận lợi để phát triển kinh tế, nhưng tính đến năm 1996 nền kinh tế Thuỷ Nguyên còn mang nhiều tính thuần nông, tăng trưởng kinh tế hàng năm còn thấp và đời sống nhân dân còn chưa cao, GDP/người mới đạt 1.924.000 đ/năm. Thực hiện nghị quyết của thành uỷ và UBND thành phố Hải Phòng về việc triển khai xây dựng quy hoạch phát triển kinh tế-xã hội các huyện thị đến năm 2010 (sau khi quy hoạch tổng thế phát triển kinh tế- xã hội thành phố đã được thủ tướng chính phủ phê duyệt), năm 1996 UBND huyện Thuỷ Nguyên phối hợp với trung tâm nghiên cứu và phát triển vùng xây dựng “ Quy hoạch phát triển kinh tế-xã hội huyện Thuỷ Nguyên thời kỳ 1996-2010 ”. Bản quy hoạch được được thành phồ Hải Phòng phê duyệt và đưa vào thực hiện năm 1998 và năm 2003 đã được rà soát, điều chỉnh lại. Tính đến năm 2003, sau 5 năm thực hiện huyện Thuỷ Nguyên đã thu được một số thành tựu đáng kể về kinh tế-xã hội. Nền kinh tế đã tăng trưởng cao hơn, đời sống nhân dân cũng được cải thiện hơn, lĩnh vực công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ đã có sự phát triển mạnh hơn. Trong quy hoạch đã đưa ra những phương án phát triển cụ thể cho từng ngành, từng lĩnh vực và cũng có quan tâm đến vấn đề môi trường. Tuy nhiên vấn đề bảo vệ môi trường chỉ được quan tâm và nhắc đến một cách chung chung và sau 5 năm thực hiện theo quy hoạch vấn đề bảo vệ môi trường gần nh­ không được quan tâm đến. Trong thời gian tới khi vốn đầu tư để phát triển kinh tế còn nhiều hạn chế vấn đề bảo vệ môi trường sẽ dễ dàng bị hy sinh cho phát triển kinh tế. Bản quy hoạch này cũng như hầu hết các quy hoạch kinh tế-xã hội đang được thực hiện ở Việt Nam, chỉ quan tâm đến phát triển kinh tế-xã hội trước mắt, còn vấn đề môi trường chỉ được quan tâm đến khi đã có những sự phát triển nhất định về kinh tế hoặc khi ô nhiễm môi trường đã trở nên quá cấp thiết ảnh hưởng đến sản xuất và đời sống một cách mạnh mẽ. Xét theo quan điểm phát triển bền vững và dựa trên quan điểm hiệu quả kinh tế-xã hội và môi trường, quy hoạch này chỉ đơn thuần là quy hoạch kinh tế-xã hội không có lồng ghép quy hoạch môi trường nên không thể đảm bảo phát triển bền vững về lâu dài. Nếu có một sự đánh giá nhìn nhận đầy đủ về hiệu quả kinh tế-xã hội và môi trường của việc thực hiện theo quy hoạch như vậy có thể thấy được một cách rõ ràng những hiệu quả về kinh tế-xã hội do phát triển theo quy hoạch mang lại cũng như sự cần thiết phải lồng ghép quy hoạch môi trường vào để tạo ra sự phát triển bền vững lâu dài. Đứng trước một thực tế nh­ vậy em xin chọn hướng nghiên cứu cho chuyên đề tốt nghiệp của mình là “ Đánh giá hiệu quả kinh tế-xã hội và môi trường của quy hoạch kinh tế-xã hội huyện Thuỷ Nguyên-thành phố Hải Phòng”. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. Đối tượng nghiên cứu: những hiệu quả kinh tế-xã hội và môi trường do quy hoạch kinh tế-xã hội mang lại đối với huyện Thuỷ Nguyên giai đoạn 1998-2003, dự báo những tác động môi trường do quy hoạch kinh tế –xã hội giai đoạn 2003-2010. Phạm vi nghiên cứu. Chuyên đề này tập trung vào một số vấn đề chủ yếu sau. Những hiệu quả kinh tế-xã hội do thực hiện theo quy hoạch kinh tế-xã hội mang lại tại huyện Thuỷ Nguyên trong giai đoạn 1998-2003. Những tác động môi trường do thực hiện theo quy hoạch kinh tế-xã hội tại huyện Thuỷ Nguyên trong giai đoạn 1998-2003. Dự báo những tác động môi trường có thể có do thực hiện theo quy hoạch kinh tế-xã hội tại huyện Mục tiêu nghiên cứu. Đề tài “ Đánh giá hiệu quả kinh tế-xã hội và môi trường của quy hoạch kinh tế-xã hội huyện Thuỷ Nguyên-thành phố Hải Phòng” có mục tiêu nh­ sau: Đánh giá hiệu quả kinh tế-xã hội, môi trường và dự báo một số tác động môi trường do thực hiện theo quy hoạch kinh tế-xã hội của huyện Thuỷ Nguyên. Đề xuất hướng khắc phục nhằm đảm bảo sự phát triển bền vững cho huyện Thuỷ Nguyên. Thuỷ Nguyên trong giai đoạn 2003-2010. Giới thiệu về kết cấu chuyên đề. Chuyên đề gồm 3 chương : Chương I: Cơ sở lý luận về quy hoạch tổng thể kinh tế-xã hội, môi trường và phát triển bền vững Chương iI: Mô hình quy hoạch tổng thể kinh tế-xã hội huyện thuỷ nguyên thành phố hải phòng giai đoạn 1996-2010 và rà soát điều chỉnh năm 2003. CHƯƠNG III: đáng giá hiệu quả kinh tế - xã hội và mội trường của quy hoạch kinh tế xã hội của huyện thuỷ nguyên. LỜI CẢM ƠN Chuyên đề tốt nghiệp này được hoàn thành với sự giúp đỡ và hướng dẫn tận tình của các thầy cô giáo và nhiều cán bộ chuyên môn của trung tâm nghiên cứu và phát triển vùng. Em xin bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc tới: Thầy Lê Trọng Hoa, giảng viên chính khoa Kinh Tế-Quản Lý Môi Trường và Đô thị, trường đại học KTQD, giáo viên hướng dẫn. TS Lê Hà Thanh, giảng viên khoa Kinh Tế-Quản Lý Môi Trường và Đô Thị, trường đại học KTQD, giáo viên hướng dẫn. Cử nhân Đỗ Trung Tuyến, cán bộ ban nghiên cứu của trung tâm nghiên cứu và phát triển vùng, cán bộ hướng dẫn tại nơi thực tập. Cử nhân Vũ Thị Mai Hương, cán bộ ban nghiên cứu của trung tâm nghiên cứu và phát triển vùng, cán bộ hướng dẫn tại nơi thực tập. Các thầy cô giáo khoa Kinh Tế-Quản Lý Môi Trường và Đô Thị. Các cán bộ ở trung tâm nghiên cứu và phát triển vùng. Kinh tế môi trường là một chuyên ngành mới, hơn nữa do trình độ và thời gian nghiên cứu còn hạn chế, vì vậy chuyên đề không thể trành khỏi những thiếu sót cần bổ sung sữa chữa. Vì vậy, rất mong được sự đóng góp ý kiến nhận xét, phê bình để nội dung chuyên đề được hoàn thiện hơn. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan nội dung chuyên đề này là do bản thân thực hiện, không sao chép, cắt ghép các tài liệu, chuyên đề hoặc luận văn của người khác. Nếu sai phạm tôi xin chịu kỷ luật với nhà trường. Hà nội, ngày 18 tháng 05 năm 2004 Sinh viên Đỗ Thị Thanh Phượng Chương I Cơ sở lý luận về quy hoạch tổng thể kinh tế-xã hội và quy hoạch môi trường Giới thiệu về quy hoạch kinh tế-xã hội. Những nhận định tổng quát về quy hoạch kinh tế-xã hội. Thời gian gần đây, trong quá trình đổi mới công tác quản lý đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng ta, công tác quy hoạch kinh tế-xã hội ngày càng được chú trọng và ngày càng giữ vị trí quan trọng. Chóng ta đã làm công tác quy hoạch trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế sang cơ chế thị trường có sự điều tiết ở tầm vĩ mô theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là vấn đề mới trên thế giới chưa có tiền lệ, vì vấn đề này mang màu sắc rất Việt Nam. Vì vậy, rất cần khách quan, thực sự cầu thị, học tập kinh nghiệm của các nước đã được tích luỹ trên lĩnh vực này. Mặt khác rất cần sáng tạo để tìm ra cách làm phù hợp với nước ta. Cách làm quy hoạch của các nước có cơ chế thị trường phát triển đặt ra mục tiêu chủ yếu là tạo nên môi trường quản lý, môi trường xã hội để cho thị trường tự do phát triển trển cơ sở động lực là tự do cạnh tranh. Cách làm quy hoạch này không đảm bảo cho nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa theo đường lối của đảng ta. Vấn đề quy hoạch kinh tế-xã hội đối với chúng ta còn khá mới mẻ, nhiều điều đang cần được nghiên cứu bổ sung và hoàn thiện. Quy hoạch kinh tế-xã hội được định nghĩa là văn bản nhà nước cụ thể hoá các mục tiêu và định hướng chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của một vùng, một địa phương dựa trên cơ sở phân tính, đánh giá sâu sắc hiện trạng và dự báo phát triển trong tương lai. Văn bản quy hoạch xây dựng các kịch bản tăng trưởng, xác định các trọng điểm tập trung nỗ lực, đề ra các giải pháp chủ yếu để thực hiện mục tiêu. 1.2. Vai trò của quy hoạch kinh tế-xã hội. Quy hoạch có vai trò rất quan trọng và cần thiết đối với sự phát triển kinh tế-xã hội của một quốc gia, một vùng lãnh thổ hay một địa phương...Quy hoạch nếu được thực hiện một cách đúng đắn có ý nghĩa là: Trong kinh tế thị trường quy hoạch tổng thể là bộ khung cho các lực lượng thị trường phát triển. Quy hoạch đảm bảo tính ổn định và tốc độ phát triển của kinh tế. Quy hoạch đảm bảo tính cân đối và nhịp nhàng trong phát triển giữa các khu vực kinh tế, giữa kinh tế và xã hội. Quy hoạch là biện pháp thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Quy hoạch tạo lòng tin và tâm lý ổn định cho người đầu tư. Quy hoạch đảm bảo phát triển kinh tế-xã hội. Quy hoạch tạo tính chủ động trong phát triển kinh tế, thúc đẩy tính sáng tạo của các cấp trong xây dựng kinh tế-xã hội. Giá trị của quy hoạch rất lớn, có giá trị thiết thực. Địa phương phải làm quy hoạch. Quy hoạch là một tài sản. Sự cần thiết phải có quy hoạch trong hoạt động quản lý nhà nước đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng và phát huy tinh thần làm chủ nhân dân. Bởi vì: Quy hoạch rất quan trọng, không thể thiếu. Trước đây để lẫn trong công tác kế hoạch nhưng nó vẫn luôn được đặt ra nh­ trong phân bố lực lượng sản xuất, quy hoạch các ngành. Quy hoạch rất cần thiết để phát huy có hiệu quả các nguồn tài nguyên (thiên nhiên, kinh tế, xã hội), các nguồn lực được huy động. Quy hoạch cần thiết để đảm bảo giữ vững định hướng phát triển đã được lựa chọn. Với nước ta đó là định hướng xã hội chủ nghĩa. Quy hoạch cần thiết để kết hợp giữa phát huy truyền thống với hiện tại và giữa dự báo với hoạt động thực tế. Quy hoạch cần thiết để đảm bảo cân đối, hài hoà, nhịp nhàng giữa các ngành, các địa phương. Quy hoạch cần thiết để đảm bảo an toàn, chủ động cho các ngành, các cấp trong triển khai các nhiệm vụ kinh tế-xã hội của mình. Thiên chức của các nhà lãnh đạo và quản lý nhà nước là xây dựng và quản lý thực thi quy hoạch tổng thể. 1.3. Nội dung của quy hoạch kinh tế-xã hội. Phân tích hiện trạng. Đánh giá các nguồn lực phát triển. Xác định các tiền đề. Các nhóm vấn đề cần được phân tích đánh giá gồm: Tài nguyên thiên nhiên: đất, nước, khí hậu, sinh vât, sinh thái. Tài nguyên lao động, nhân lực: số lượng, cơ cấu, trình độ. Các hoạt động kinh tế: nông nghiệp, công nghiệp, xây dựng, dịch vụ. Xã hội, nhân văn: truyền thống, tay nghề, tập quán, lịch sử. Vị trí địa lý, các mối quan hệ liên vùng, liên địa phương. Các tiền đề cần xác định gồm: Các đường lối, chiến lược phát triển chung của Đảng lãnh đạo, của nhà nước đối với các vùng. Các dự báo phát triển về kinh tế, xã hội, khoa học công nghệ trong tương lai. Xây dùng quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế-xã hội Để xây dựng quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội cần : Cân nhắc, phân tích sâu sắc trên cơ sở khoa học và thực tiễn để xây dựng các quan điểm phát triển. Xác định các mục tiêu chung cần đạt đến cuối kỳ quy hoạch, đó là : Mục tiêu sản xuất. Mục tiêu đời sống. Mục tiêu xã hội. Mục tiêu phát triển kinh tế. Mục tiêu môi trường. Lựa chọn, xây dựng các mục tiêu cụ thể: chỉ xây dùng trong những lĩnh vực trọng tâm, những hoạt động chủ yếu. Tính toán xây dựng các kịch bản tăng trưởng kinh tế chung. Xây dùng quy hoạch phát triển các ngành và lĩnh vực. Việc phân chia các ngành và lĩnh vực có thể khác nhau, cách sắp xếp cũng có thể khác, tuỳ theo điều kiện đặc biệt của địa bàn làm quy hoạch, tuỳ theo điều kiện tư liệu, tài liệu thu thập được, tuỳ theo yêu cầu cụ thể đặt ra cho công tác quy hoạch. Quy hoạch phát triển các tiểu vùng, các khu vực, các đơn vị hành chính. Xây dựng nội dung các giải pháp chủ yếu đảm bảo quy hoạch tổng thể. II. Quy hoạch môi trường. 2.1. Giới thiệu về quy hoạch môi trường. Tác động do các hoạt động của con người đối với môi trường tự nhiên đã được nhận thấy từ nhiều thế kỉ nay . Tuy nhiên, đối với nhiều nơi , những điều quan sát thấy không giúp một cách hệ thống việc giảm thiểu những ảnh hưởng không mong muốn do các quyết định sai trái của con người . Từ những năm cuối thập kỉ 60 , mối quan tâm của thế giới đối với suy thoái môi trường ngày càng gia tăng . Việc quy hoạch một cách có hệ thống nhằm duy trì chất lượng môi trường đã được tăng cường ở nhiêù nước trên thế giới. Nhiều luật và nghị định của chính phủ được ban hành bắt buộc các tổ chức phải xem xét , tính đến các tác động môi trường trong các quyết định của họ. Sự quan tâm ngày càng tăng đối với các ảnh hưởng môi trường do các hoạt động của con người làm xuất hiện một lĩnh vực mới đó là quy hoạch môi trường . Ở Việt Nam , luận bảo vệ môi trường năm 1993 có quy định “ Nhà nước thống nhất quản lý bảo vệ môi trường trong phạm vi cả nước , lập quy hoạch bảo vệ môi trường , xây dựng tiềm lực cho hoạt động bảo vệ môi ttường ở trung ương và địa phương . Nhà nước có chính sách đầu tư , khuyến khích và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước đầu tư dưới nhiều hình thức , áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào bảo vệ môi trường. Để đạt mục tiêu bảo vệ môi trường và phát triển bền vững , việc nhất thể hoá quy hoạch môi trường vào kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội là điều cần thiết. Quy hoạch môi trường là sự cố gắng nhằm làm cân bằng và hài hoà các hoạt động phát triển mà con người vì lợi Ých của mình đã áp đặt quá mức lên môi trường tự nhiên. Đặc biệt là với việc công nghiệp hoá, không chỉ có tài nguyên môi trường bị khai thác liên tục mà chính bản thân môi trường đã trở thành một thùng đựng mọi loại chất thải công nghiệp , dẫn đến những tổn thất nghiêm trọng mà thường là không sửa chữa được . Sự cần thiết phải khôi phục lại mối quan hệ tôn trọng và phụ thuộc lẫn nhau, đòi hỏi phải có các biện pháp mạnh mẽ để bảo vệ môi trường .Quy hoạch môi trường cung cấp một cơ hội để vạch ra các biện pháp này, ngay từ giai đoạn đầu tiên của quá trình phát triển. Vấn đề quy hoạch môi trường tuy ra đời muộn nhưng lại được quan tâm và phát triển rất mạnh trong đó có các nước Châu á ( Nhật Bản, Trung Quốc ). Một số tổ chức quốc tế nh­ ngân hàng Châu á ( ADB) , ngân hàng thế giới ( WB) ... đã ban hành nhiều tài liệu giới thiệu về quy hoạch môi trường ở một số nước . Quy hoạch môi trường được hiểu là quá trình sử dụng có hệ thống các kiến thức khoa học để xây dựng các chính sách và biện pháp trong sử dụng hợp lý tài nguyên và bảo vệ môi trường nhằm định hướng các hoạt động phát triển trong khu vực đảm bảo mục tiêu phát triển bền vững . 2.2. Sự cần thiết phải quy hoạch môi trường Khái niệm phát triển truyền thống chỉ nhấn mạnh tăng trưởng kinh tế, xem nhẹ việc bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi trường làm cho tài nguyên thiên nhiên có nguy cơ bị cạn kiệt và chất lượng môi trường ngày càng xấu đi, điều này lại tác động ngược lại sự phát triển kinh tế-xã hội của con người. vào những năm 80, vấn đề điều tiết mối quan hệ giữa dân số, tài nguyên, môi trường và phát triển ngày càng được mọi người coi trọng. Khái niệm bền vững được tiếp nhận và làm thành chiến lược của phát triển. Những điểm cơ bản của khái niệm phát triển bền vững là: Mục đích của phát triển là cải thiện chất lượng cuộc sống của loài người. Phát triển kinh tế chỉ là một bộ phận quan trọng của phát triển chứ không phải là mục đích. Nhưng chỉ khi tăng trưởng kinh tế đạt ở giữa mức độ nhất định mới có khả năng cải thiện từng bước chất lượng cuộc sống, mới có năng lực và điều kiện bảo vệ tài nguyên, môi trường hỗ trợ cho phát triển bền vững. Phát triển cần dựa trên bảo vệ tài nguyên, môi trường. Hệ sinh thái tự nhiên là cơ sở chúng ta dựa vào để sinh tồn nên cần bảo vệ cơ cấu chức năng và tính đa dạng của nó. Cải thiện chất lượng sinh hoạt của loài người yêu cầu giảm tới mức tối đa các chất phế thải có hại. Phát triển cần lấy việc khai thác, sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên thiên nhiên làm cơ sở. Đối với việc sử dụng tài nguyên tái sinh, không được sử dụng quá khả năng tái sinh của chúng để đảm bảo sử dụng lâu bền. Đối với tài nguyên tiêu hao, không tái sinh nên giảm sử dụng tới mức thấp nhất hoặc tìm mọi cách để có thể thay bằng nguồn tài nguyên tái sinh. Khả năng chịu tải của hệ sinh thái trên trái đất là có giới hạn, sự giới hạn đó ở các vùng khác nhau cũng khác nhau nên định ra một chính sách cân bằng giữa số lượng nhân khẩu và phương thức sinh hoạt với khả năng chịu đựng của tự nhiên. Đồng thời thông quy tiến bộ của khoa học kỹ thuật và quản lý nghiêm ngặt mà nâng cao giới hạn đó. Phát triển cần phải bền vững. Không những thoả mãn nhu cầu hiện tại mà còn phải để lại cho thế hệ tương lai một cơ sở tài nguyên, môi trường tốt đẹp để họ có thể dựa vào đó mà thoả mãn nhu cầu của mình. Toàn bộ hiệu quả của hệ thống khu vực là sự kết hợp tối ưu hiệu quả của cả 3 hệ thống kinh tế-xã hội-tự nhiên. Thực thi chiến lược phát triển bền vững là đảm bảo thu được hiệu quả của toàn hệ thống. Chỉ có chiến lược phát triển bền vững mới có thể đảm bảo phát triển nhịp nhàng của 3 hệ thống con: tự nhiên, xã hội, kinh tế đảm bảo toàn hệ thống khu vực thực hiện sự vận hành tuần hoàn lành mạnh. Sự cần thiết phải khôi phục lại quan hệ tôn trọng và phụ thuộc lẫn nhau giữa con người và tự nhiên đòi hỏi phải có biện pháp hợp lý có tính khả thi về quản lý môi trường. Quy hoạch kinh tế-xã hội bên cạnh những mục tiêu về kinh tế-xã hội mặc dù có đề cập đến các mục tiêu về môi trường, nhưng sự bảo vệ môi trường chỉ được thực hiện sau khi đã diễn ra các hoạt động phát triển kinh tế-xã hội và trong quá trình phát triển các mục tiêu về môi trường thường bị hy sinh cho các hoạt động kinh tế. Chính vì vậy sự phát triển bền vững thường không được đảm bảo nhất là đối với các nước đang phát triển khi mà đời sống còn nhiều khó khăn, nền kinh tế còn nghèo nàn lạc hậu thường có tư tưởng phát triển kinh tế-xã hội trước đã rồi mới có điều kiện để bảo vệ môi trường. Chính sự phát triển một cách không bền vững nh­ vậy đã làm cho môi trường ngày càng bị suy thoái nghiêm trọng và lại quay trở tác động tiêu cực đến các hoạt động kinh tế. Để đạt được sự phát triển bền vững một cách lâu dài cần phải thực hiện một cách kết hợp giữa phát triển kinh tế-xã hội và vấn đề bảo vệ môi trường. Quy hoạch môi trường chính là công cụ quan trọng trong quản lý môi trường và phải thực hiện từ giai đoạn đầu của quá trình phát triển để đảm bảo sự phát triển bền vững. Việc thống nhất quy hoạch môi trường với quy hoạch phát triển kinh tế-xã hội của một vùng là quy hoạch tổng hợp phát triển kinh tế-xã hội và môi trường vùng. Quy hoạch này không phải là sự gắn kết đơn giản các kế hoạch kinh tế và môi trường riêng biệt lại với nhau mà cần phải làm rõ những mối liên hệ giữa phát triển kinh tế, việc sử dụng các nguồn lực, việc sản sinh ra các vật dư thừa và các tác động đối với môi trường và cộng đồng. Cũng nh­ vậy bất cứ một kế hoạch quản lý môi trường khu vực nào cũng phải lưu ý cân nhắc về khía cạnh kinh tế. Mục đích của quy hoạch môi trường trong khu vực chính là điều hoà sự phát triển của ba hệ thống nhỏ, điều hoà mối quan hệ của phát triển kinh tế-xã hội với tài nguyên môi trường. Loại điều hoà này có hai mặt: Đảm bảo một cách chắc chắn sự phát triển của hệ thống nhỏ kinh tế, xã hội không vượt quá năng lực chịu đựng của hệ thống tự nhiên. Xuât phát từ góc độ bảo vệ tài nguyên môi trường mà hướng dẫn cho xây dựng kinh tế-xã hội, làm cho nó có thể sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên mà không gây ô nhiễm làm huỷ hoại môi trường. Đảm bảo chắc chắn sự phát triển của hệ thống tự nhiên phù hợp với sự phát triển cảu hai hệ thống kinh tế và xã hội. Quản lý và xây dựng quy hoạch tài nguyên-môi trường tăng cường khả năng tái sinh của các tài nguyên có thể tái sinh và khả năng xây dựng của môi trường làm cho nó không gây hạn chế cho sự phát triển của kinh tế và xã hội. Chương iI Mô hình quy hoạch tổng thể kinh tế-xã hội huyện thuỷ nguyên thành phố hải phòng giai đoạn 1996-2010 và rà soát điều chỉnh năm 2003 I. Đặc điểm các nguồn lực phát triển tại thời điểm năm 1996. 1.1. Đặc điểm các điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên, dân số và nguồn lao động . 1.1.1. Vị trí địa lý và địa hình. Thuỷ Nguyên ở phía bắc thành phố Hải Phòng, có giới hạn địa lý từ 20052' đến 21001 vĩ độ bắc và 106031' đến 106046' kinh độ đông. Thuỷ Nguyên là một huyện ven biển của thành phố Hải Phòng thuộc vùng châu thổ sông Hồng, phía bắc giáp tỉnh Quảng Ninh, phía tây giáp tỉnh Hải Dương, phía nam giáp quận Hồng Bàng, quận Ngô Quyền và huyện An Dương, phía đông tiếp giáp với vịnh Bắc Bộ. Thuỷ Nguyên được bao bọc 4 mặt bởi sông và biển: phía bắc và tây bắc là sông Kinh Thày, Phía nam và tây nam giáp sông Cấm, phía đông là vùng của sông Bạch Đằng. Thuỷ Nguyên nằm ở vị trí tiếp giáp giữa 2 vùng địa lý tự nhiên lớn: vùng ĐBSH và vùng đồi núi Đông Bắc. Huyện có vị trí địa lý rất thuận lợi, là cầu nối giữa Thành Phố Hải Phòng với vùng than Quảng Ninh. Trung tâm huyện chỉ cách nội thành Hải Phòng khoảng 8,5 km, giao thông thuỷ, bộ phát triển huyện lại nằm trên một số trục giao thông bộ, thuỷ quan trọng có ý nghĩa liên vùng, trục đường số 10 nối giữa vùng đồng bằng sông Hồng và vùng mỏ than Quảng Ninh. Từ Thuỷ Nguyên có thể toả đi các tỉnh đồng bằng sông Hồng, các tỉnh trung du miền núi phía Bắc, các tỉnh phía Nam ra Quảng Ninh đi Trung Quốc và các nước trong khu vực tương đối dễ dàng. Thuỷ Nguyên còn có vị thế thuận lợi của một huyện ngoại thành và hiện nay trên lãnh thổ Thuỷ Nguyên đã hình thành khu công nghiệp tập trung ở xã Minh Đức với gần chục nhà máy, xí nghiệp tương lai khu này sẽ phát triển thêm các xí nghiệp công nghiệp lớn. Về địa hình Thuỷ Nguyên là huyện đồng bằng nhưng ở vào vị trí chuyển tiếp của 2 vùng địa lý tự nhiên lớn là châu thổ sông Hồng và vùng đồi núi Đông Bắc. Vì vậy một số xã ở phía Bắc và Đông Bắc huyện có núi đá vôi và đồi đất thấp, xen kẽ thung lung và cánh đồng, địa hình không bằng phẳng, mang đặc điểm của vùng bắn sơn địa, các xã phía nam có địa hình bằng phẳng hơn, mang đặc điểm của vùng đồng băng. Do vậy về đặc điểm sinh thái, Thuỷ Nguyên có thể chia thành 3 tiểu vùng: tiểu vùng đá vôi xen kẽ thung lũng, tiểu vùng đồi núi đất xen kẽ đồng bằng, tiểu vùng cửa sông ven biển. 1.1.2. Khí hậu, thuỷ văn. Khí hậu mang tính chất nhiệt đới gió mùa, nóng Èm, chịu ảnh hưởng của khí hậu chuyển tiếp giữa đồng bằng ven biển với đồi núi Đông Bắc. Đặc điểm chung là mùa hè nóng Èm, mưa nhiều, thường xuyên xuất hiện bão và chịu ảnh hưởng của nước biển dâng. Mùa đông có gió mùa Đông Bắc, khô, lạnh , mưa phùn. Huyện còn có 2 chế độ gió mùa, Đông và Đông –Nam, mùa hè có nhiều giông bão và áp thấp nhiệt đới. Về thuỷ văn, Thuỷ Nguyên có 4 con sông lớn chảy qua là sông Kinh Thày, sông Giá, sông Bạch Đằng. Nhìn chung các sông chảy qua Thuỷ Nguyên đều là hạ lưu của hệ thống sông Thái Bình và sông Hồng, lưu lượng dòng không lớn và lượng phù sa còng Ýt, khả năng bồi tụ vùng ven biển, cửa sông chậm. Hiện nay vùng đất ven biển của huyện đang là cốt đất thấp, thường xuyên bị ngập nước và có hiện tượng xâm thực vào đất liền gây nhiễm mặn khá rõ. Vào mùa đông các sông ở đây nguồn nước thường bị nhiễm mặn, nguồn nước ngọt chủ yếu dựa vào sông Giá, kênh Hòn Ngọc và các ao, hồ, đầm, ruộng trũng. 1.1.3. Tài nguyên đất và nước. Trong tổng số 24.272 ha đất tự nhiên của huyện có các loại sau: 13.820 ha đất nông nghiệp, trong đó mới sử dụng 13.225 ha, còn 595 ha chưa sử dụng. Hệ số sử dụng đất trồng mới chỉ đạt khoảng 1,8 lần, có thể nâng lên trên 2 lần. Diện tích vườn 1562 ha nhưng hiện còn trồng nhiều cây kém giá trị kinh tế. Diện tích gò đồi, núi đất còn khoảng 1.535 ha chiếm 6,3% diện tích tự nhiên, mới trồng cây lấy gỗ, cây ăn quả 615 ha, còn 920 ha chưa sử dụng. Vùng núi đá vôi còn có các thung lũng bằng, giầu canxi rất thích hợp với cây lương thực, cây thực phẩm, cây công nghiệp ngắn ngày, cây ăn quả và để thả bò, dê, hiện nay một số hộ nông dân đã tận dụng diện tích này để sản xuất nông nghiệp đạt kết quả nhưng còn thấp. Đất xây dựng cơ bản phát triển công nghiệp và đô thị mới cũng còn khá. Về tài nguyên nước , nguồn nước mặt chủ yếu dựa vào các sông Kinh Thày, sông Hàn, sông Giá, sông Bạch Đằng và các ao, hồ, đầm, ruộng trũng. Theo điều tra đánh giá thì Thuỷ Nguyên là một huyện có nguồn nước ngầm khá. Tài nguyên nước của Thuỷ Nguyên đủ cung cấp cho sản xuất và đời sống của nhân dân trong huyện, nhưng cần có quy hoạch bảo vệ nguồn nước để sử dụng lâu dài. 1.1.4. Tài nguyên khoáng sản. Khoáng sản kim loại tuy có, nhưng trữ lượng rất nhỏ, không có ý nghĩa công nghiệp, khoáng sản phi kim loại có ý nghĩa công nghiệp là đá vôi sản xuất xi măng, đá làm vật liệu xây dựng thì có trữ lượng lớn phân bố nh­ sau. Puzơlan (chất phụ gia) phân bố ở Pháp cổ Lại Xuân có thành phần chủ yếu : ôxit Si 88%, ôxit AL 5,08%, ôxit Ca 0,55% ôxit Mg 0,25% ... Trữ lượng khoảng trên 70 triệu tấn, đang được khai thác làm phụ gia cho sản xuất xi măng. Đá vôi Tràng Kềnh để sản xuất ở xã Minh Đức, thành phần chủ yếu là ôxit Ca 54,28%, ôxit Mg 0,85%, Fe2CO3 0,14% ... trữ lượng kinh tế khoảng 185 triệu tấn, có thể khai thác trong vòng 50 năm. Hiện nay đang khai thác làm nguyên liệu cho nhà máy xi măng Chinh Phong và xi măng Hải Phòng, và làm nguyên liệu để xây dựng đất đèn bột nhẹ... Đá làm vật liệu xây dựng tập trung nhiều ở Trại Sơn thuộc xã Kỳ Sơn, trữ lượng khoảng 11 triệu tấn. Đất sét có ở Lưu Kiếm trữ lượng khoảng 3 triệu tấn, hiện đang khai thác để làm gốm xây dựng. Để đảm bảo nguồn nguyên liệu lâu dài phải mở rộng quy mô tìm kiếm, đánh giá thêm trữ lượng kinh tế. Những khoáng sản phi kim loại chính ở Thuỷ Nguyên TT Tên khoáng sản Trữ lượng kinh tế ( triệu tấn ) Địa điểm phân bố 1 Đá vôi nguyên liệu xi măng 185 Minh Đức 2 Puzơlan 70 Lại Xuân 3 Đá làm vật liệu xây dựng khác 11 Kỳ Sơn 4 Đất sét 3 Lưu Kiến Nguồn: niên gián thống kê Thuỷ Nguyên 1996 1.1.5. Tài nguyên du lịch và nhân văn. Thuỷ Nguyên có tiềm năng vào loại khá để phát triển du lịch so với nhiều huyện đồng bằng nhưng chưa được khai thác để phát triể kinh tế. Đó là cảnh quan du lịch hồ sông Giá, một cảnh quan du lịch hấp dẫn với phong cảnh sơn thuỷ đẹp, hộ dựa vào núi đá hướng ra biển, mặt nước hồ phẳng lặng trong xanh, sạch sẽ. Với dãy núi đá vôi với nhiều hình thù kì dị gợi mở sự liên tưởng về những chiến công xa xưa của ông cha ta chống giặc ngoại xâm thời Ngô Quyền, Trần Hưng Đạo trên sông Bạch Đằng... là nơi du lịch về cội nguồn hấp dẫn. Ngoài ra ở Thuỷ Nguyên loại hình du lịch nhân văn cũng rất phong phú, nhiều chùa, đền thờ, miếu, đình, di tích lịch sử, nhiều bia, ký, trúc, tháp ... với những kiểu kiến trúc độc đáo của người Việt, là tiềm năng du lịch, nghiên cứu khoa học, nghệ thuật, khảo cổ, kiến trúc... không phải nơi nào cũng có. Trong đó tiểu biểu nhất là di tích Chùa Phù Lưu, chùa Hàm Long, chùa Mỹ Cụ, chùa Đảng Trung, đền thờ Trần Quốc Bảo ... Ngoài ra dải ven biển cũng có nhiều điểm du lịch nghỉ mát đẹp. Thuỷ Nguyên còn có nhiều lễ hội truyền thống được tổ chức hàng năm. 1.1.6. Hiện trạng dân số và nguồn lao động. Hiện trạng về bức tranh phát triển dân số và nguồn lao động tt Chỉ tiêu 1990 1996 Số người % so với tổng số dân Số người % so với tổng số dân 1 Dân sè trung bình _Tỷlệ tăng dân số tự nhiên(%) 240.005 2,5 1 275.441 2,3 1 2 Cơ cấu dân số theo khu vực _ Thành thị _ Nông thôn Trong đó:dân cư nông nghiệp 12.000 228.005 201.976 5 95 84,15 19.000 256.441 223.100 6,9 93,1 81 3 Cơ cấu dân số theo giới tính _Nam _Nữ 114.667 125.338 47,8 52,2 135.200 140.241 49,08 50,92 4 Cơ cấu dân số theo cấp tuổi 0-9 10-15 16-25 26-35 36-45 45-54 55-60 >60 67.813 24.382 43.063 43.040 12.331 21.498 8.454 19.504 28,25 10,16 17,94 17,93 5,14 8,96 3,52 8,10 79.115 30.239 49.594 47.714 13.764 23.852 9.509 21.651 28,72 10,98 18,01 17,32 5 8,66 3,45 7,86 5 Tổng số người trong tuổi lao động. Trong đó: + Những người có khả năng lao động cần bố trí việc làm. 99.828 79.862 41,6 33,28 137.720 129.450 50 47 Nguồn: niên gián thống kê Thuỷ Nguyên 1996 Đến thời điểm năm 1996, Thuỷ Nguyên có dân số là 275.441 người với tỷ lệ tăng dân số tự nhiên 2,3%, trong đó dân số thành thị chiếm 6,9%, nông thôn chiếm 93,1% và 81% dân số hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp.Về cơ cấu dân số theo giới tính nữ chiếm 50,92, còn nam chiếm 49,08%. Huyện hiện có 50 dân số trong tuổi lao động trong đó chiếm 47% dân số là những người có khả năng lao động cần bố trí việc làm. Đây là tiềm lực để phát triển kinh tế, đồng thời cũng là sức Ðp về giải quyết việc làm gay gắt. Trong đó, số người trong độ tuổi 16-25 chiếm 18,01% dân số, là lực lượng cần phải giải quyết vấn đề việc làm cấp thiết nhất. 1.2. Thực trạng phát triển kinh tế – xã hội. 1.2.1. Thực trạng phát triển của các ngành kinh tế. a. Thực trạng phát triển nông nghiệp (nông-lâm-ngư nghiệp). Trồng trọt. Cơ cấu sử dụng đất nông nghiệp có nhiều tiến bộ, chuyển đổi theo hướng giảm dần diện tích lúa úng trũng, cấy cưỡng, năng suất thấp, đầu tư tốn kém sang nuôi trồng thuỷ sản có kết hợp với cây lúa vụ đông xuân nâng hiệu quả rõ rệt đã được hình thành ở một số xã như Phục Lễ, Lập Lễ, Phả Lễ ... Diện tích cây lương thực giảm dần theo hướng giảm diện tích đất xấu, nhiễm chua mặn, đẩy mạnh thâm canh nên năng suất cây lương thực tăng không ngừng từ 29,13 T/ha/vụ lên 41 T/ha/vụ 1996 và sản lượng lương thực từ 50.738 tấn năm 1991 lên 74000 tấn năm 1996 trong khi diện tích giảm từ 10500 ha xuống 10190 ha. Bên cạnh đó diện tích vườn tạp kém giá trị kinh tế đang được thay thế dần bằng những cây ăn quả có giá trị kinh tế để nâng cao hiệu quả. Diện tích cây thực phẩm tập trung và phân tán tăng khá, đảm bảo khối lượng rau xanh hàng hoá đáng kể đáp ứng nhu cầu thị trường nội huyện và thành phố, tăng lên không ngừng ( từ 8000 tấn 1991 lên 18600 tấn 1996). Năng suất cây trồng chủ yếu tăng đáng kể, các tiến bộ về giống, chế độ canh tác và tưới nước.. không ngừng đổi mới. Đến nay nhiều giống lúa, ngô mới, có năng suất cao được đưa vào ở hầu hết các xã năng suất lúa tăng bình quân mỗi năm 22%. Chăn nuôi. Sản lượng một số vật nuôi năm 1996 Tt Sản lượng 1 Đàn trâu 75,4 2 Đàn bò 150,5 3 Đàn lợn 147,7 4 Đàn dê 300 5 Gia cầm 400 6 Diên tích nuôi trồng thuỷ sản 147,3 Nguồn : niên gián thống kê Thuỷ Nguyên 1996 Nuôi cá nước ngọt được chú ý phát triển theo mô hình VAC, tận dụng fiện tích ao, hồ, đầm, ruộng trũng để nuôi và đã đạt được sản lượng khoảng trên 1000/tấn/năm. Thực trạng phát triển ngư nghiệp. Là một huyện đồng bằng ven biển, Thuỷ Nguyên có nguồn lợi về biển vào loại khá, ngư trường đáng bắt khá rộng. Về nuôi trồng thuỷ sản nhiều hộ đã mạnh dạn đầu tư tới hàng trăm triệu đồng, theo hướng thâm canh với những giống hải sản có giá trị kinh tế cao nh­ tôm hùm, tôm he, cua... Việc khai thác tổng hợp nguồn lợi biển cũng được chú ý nh­ mở rộng diện tích nuôi trồng và phát triển dải rừng ven biển, lấn biển mở rộng diện tích. Vấn đề khai thác bãi bồi ven biển, cửa sông được chú ý, mở ra triển vọng hình thành vùng kinh tế tổng hợp ven biển phát triển mạnh. Đến năm 1996 diện tích nuôi trồng thuỷ sản là 2.732 ha với sản lượng cá tôm nuôi đạt 2.000 tấn Thực trạng phát triển lâm nghiệp. Thuỷ Nguyên có diện tích đất lâm nghiệp khoảng 1535 ha, chiếm 6,32% diện tích đất tự nhiên toàn huyện ( 24.272 ha) đây là một tiềm năng lợi thế so với các huyện khác. Trong đó đã trồng cây trên 615 ha, tức là mới khai thác 40,1% tiềm năng hiện có để trồng cây lấy gỗ, cây ăn quả, còn 920 ha còn bỏ trồng. b. Thực trạng phát triển công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp. Những xí nghiệp có quy mô lớn tt Tên nhà máy Diện tích chiếm đất (ha) Lao động hiện có (người) Công suất Sản phẩm chủ yếu 1 Nhà máy xi măng Chinh Phong(Minh Đức) 300 400 1400000 T/năm Xi măng mác P300-4000 2 Nhà máy sửa chữa tàu biển Nam Triệu 10 289 120 c/năm Tàu loại nhỏ đi sông, biển 3 Nhà máy đất đèn Tràng Kênh ( Minh Đức) 20 241 3000 T/năm Đất đèn 4 Xí nghiệp bột nhẹ Minh Đức 3,5 136 2000 T/năm Bột nhẹ 5 Xí nghiệp đá số 2 3,5 120 100000 m3/năm Đá xây dựng 6 Xí nghiệp đá Minh Đức 2,8 100 80000 m3/năm Đá là nguyên liệu cho xi măng 7 Nhà máy sữa chữa tàu biển Phà Rừng 867 867 25 tàu/năm Sửa chữa tàu biển lớn chủ yếu cho nước ngoài Nguồn : niên gián thống kê Thuỷ Nguyên 1996 Tính đến năm 1996 trên địa bàn huyện có 16 xí nghiệp nhưng quy mô rất khác nhau. Các xí nghiệp của trung ương và thành phố thì có quy mô lớn trong khi các xí nghiệp của huyện thì rất nhỏ bé. Công nghiệp của trung ương, thành phố và liên doanh gồm xi măng Chinh Phong, đât đèn Tràng Kềnh, bột nhẹ Minh Đức, sữa chữa tàu biển Phà Rừng, tập trung ở Minh Đức. Còn xí nghiệp của huyện tập trung ở khu vực thị trấn Núi Đèo với các ngành vật liệu xây dựng, chế biến gỗ, cơ khí sữa chữa, sản xuất công cụ phục vụ nông nghiệp, ngư nghiệp, giao thông vận tải , đóng mới, sữa chữa thuyền phục vụ nghề cá, chế biến lương thực, thực phẩm... Còn có công ty trách nhiệm hữu hạn, các HTX và tổ hợp sản xuất công nghiệp, tư nhân với 393 hộ chuyên gồm các nghề đúc, rèn, mộc, gốm sứ... c. Thương mại, dịch vụ tổng hợp và du lịch. Các ngành thương mại và dịch vụ tổng hợp đã có sự phát triển. Thương nghiệp quốc doanh đã đổi mới sắp xếp lại cho phù hợp với cơ chế thị trường, bước đầu kinh doanh có hiệu quả. Chủ động nắm bắt nguồn hàng tham gia tích cực điều tiêt quan hệ cung cầu, nên giá cả hàng hoá Ýt biến động, góp phần thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát triển. Mạng lưới thương mại (mua hàng nông sản, bán hàng công nghệ phẩm, vật liệu, nguyên liệu, chât đốt cho nhân dân) hình thành tương đối hợp lý, thuận tiện. Hoạt động thương mại đã linh hoạt hơn, không nhưng trong thị trường nội huyền mà đã có sự vươn ra thị trường trong thành phố và các tỉnh trong vùng. Dịch vụ tổng hợp phát triển khá đến tận xã, tập trung vào các lĩnh vực buôn bán nhỏ, dịch vụ ăn uống, sữa chữa và dụng cụ gia đình, dịch vụ vận tải… ngoài 10 tổ hợp chuyên thương mại và dịch vụ tổng hợp còn có khoảng 1.753 hộ tư nhân cá thể làm thương mại dịch vụ tổng hợp. Về du lịch: tuy Thuỷ Nguyên có khá nhiều thế mạnh về du lịch, đặc biệt là vùng hồ sông Giá nhưng hoạt động du lịch ở đây hầu nh­ chưa phát triển. 1.2.2. Cơ sở vật chất kĩ thuật hiện có đến năm 1996. Đến thời điểm năm 1996, Thuỷ Nguyên đã hình thành được hệ thống cơ sở vật chất kĩ thuật đáng kể, tuy chưa lớn nhưng là cơ sở rất tốt để phát triển. Từ hạ tầng phục vụ sản xuất đến hạ tầng phục vụ đời sống. Cụ thể : Mạng lưới giao thông, ngoài 42 km đường quốc lộ, tỉnh lộ chạy qua, có 56,3 km đường trục huyện và trên 238 km đường liên xã, liên thôn. Đã có 100% xã có đường ô tô vào đên trung tâm, việc đi lại và vận chuyển hàng hoá trên địa bàn rất thuận tiện. Mạng lưới cung cấp điện đã có ở tất cả 36 xã trong huyện, với 94% số hộ dùng điện. Có 235,7 km đường dây tải điện, 50 trạm hạ thế, 2 trạm trung thế. Đã cơ bản giải quyết được nhu cầu về điện các xã ở huyện ở mức bình thường. Tuy nhiên, nhiều trạm hạ thế, đường dây dẫn đã hư hỏng, xuống cấp gây tổn thất điện năng nhiều làm tăng giá điện sinh hoạt hơn quy định đến 46%. Hệ thống cung cấp nước ngọt về cơ bản đủ khả năng cung cấp ở mức bình thường cho sản xuất và sinh hoạt của nhân dân, với 120 km kênh cấp I, 220 km kênh cấp II, 183 trạm bơm, hàng trăm cống tưới tiêu ...Trong nông nghiệp đã đảm bảo tưới tiêu được 82% diện tích lúa nước. Về tổ chức sản xuất kinh doanh, toàn huyện có 44 HTX nông nghiệp đã được kiện toàn và sắp xếp cho phù hợp với cơ chế mới chủ yếu là làm dịch vụ cho sản xuất nông nghiệp. 9 tập đoàn đánh cá, 9 công ty trách nhiệm hữu hạn và nhiều tổ hợp TTCN thương mại và dịch vụ. 16 xí nghiệp công nghiệp và vận tải, trong đó có 5 là trung ương, thành phố và liên doanh với nước ngoài, 393 hộ thủ công nghiệp, 260 hộ thuỷ sản, 15 hộ xây dựng, 1750 hộ dịch vụ...đã hình thành một số làng nghề về đúc, vật liệu xây dựng, mộc, vận tải... 1.2.3. Thực trạng giáo dục-đào tạo, y tế, văn hoá, xã hội. Về giáo dục-đào tạo: toàn huyện có 26 nhà trẻ, 35 lớp mẫu giáo, 36 trường tiểu học, 36 trường phổ thông và 4 trường phổ thông trung học. Toàn huyện có 537 người có trình độ từ trung cấp trở lên và khoảng gần 1000 công nhân kĩ thuật, chưa kể số cán bộ và công nhân của các xí nghiệp của trung ương và thành phố đóng trên địa bàn. Tính trung bình cứ 1000 dân thì có 225,8 người đi học và khoảng 6,0% số người được đào tạo. Tuy vậy, so với yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội thì còn rất thấp và chưa đủ đáp ứng yêu cầu. Về y tế, chăm sóc sức khoẻ nhân dân: trên toàn huyện hiện có 1 bệnh viện, 4 phòng khám đa khoa khu vực và 36 trạm y tế, trong đó có 24 trạm được xây dựng khang trang kiên cố. Bệnh viện huyện có 200 giường bệnh có đủ bác sĩ đa khoa và chuyên khoa, còn trạm y tế xã mới có 2 bác sĩ đa khoa. Chất lượng khám chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe về cơ bản đảm bảo được nhu cầu, điều trị được bệnh thông thường cho nhân dân và ngăn ngừa được dịch bệnh. Về thông tinh, văn hoá, xã hội: huyện có đài phát thanh sóng ngắn và tiếp hình đặt tại thị trấn Núi Đèo là trung tâm huyện và có 36 trạm truyền thanh xã. 1.2.4. Việc làm và đời sống của nhân dân trong huyện. Thực trạng tình hình việc làm năm 1996 1996 Nguời %so với lđ cầnviệclàm %sovới lđ đang làmviệc Nhân khẩu trong độ tuổi lao động +Sè lao động cần việc làm a.Số lao động đang làm việc trong các ngành KTQD -Lao động công nghiệp và xây dựng -Lao động nông, ngư nghiệp -Lao động dịch vụ b. Sè lao động chưa bố trí được việc làm 137.720 129.450 121.690 7.545 104.045 8.100 7.767 1 94 6 1 6,2 85,5 8,3 Nguồn: niên gián thống kê Thuỷ Nguyên 1996 Tính đến năm 1996 huyện có 137.720 người trong độ tuổi lao động, trong đó có 129.450 lao động cần việc làm. Toàn huyện hiện có 94% sè lao động đang cần việc làm đang làm việc trong các ngành KTQD, 6% sè lao động cần việc làm chưa có việc làm. Trong cơ cấu lao động thì lớn nhất là lao động nông nghiệp chiếm 85,5% sè lao động đang làm việc, chỉ có 8,3% lao động làm việc trong ngành dịch vụ và 6,2% lao động công nghiệp và xây dựng. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân trong huyện đã được cải thiện nhiều, không còn hộ đói, riêng hộ nghèo đã giảm đáng kể, chỉ còn khoảng 10%. Cho đến năm 1996 về cơ bản huyện đã tự đảm bảo được nhu cầu lương thực thực phẩm nh­ rau xanh, thịt cá các loại.. của nhân dân trong huyện ở mức khá, còn có lương thực, thực phẩm hàng hoá bán sang thị trường thành phố. Thu nhập bình quân đầu người 1996 là 1.924 nghìn đồng/người. Tuy nhiên thực tế đang có sự phân hoá giàu nghèo mạnh, sự chênh lệch về thu nhập giữa các tiểu vùng rõ rệt. Trong huyện đã hình thành các loại hộ kinh tế cơ bản với mức giầu nghèo khác nhau. II. Những thuận lợi, khó khăn và phương hướng phát triển của Thuỷ Nguyên . Dựa trên những đặc điểm trên khái quát lại có thể thấy những thuận lợi, những thế mạnh và những khó khăn của Thuỷ Nguyên là: 2.1. Những thuận lợi và thế mạnh của Thuỷ Nguyên. Thuỷ Nguyên có vị trí thuận lợi gần cảng Hải Phòng và vùng than Quảng Ninh, trong tam giác tăng trưởng và các cảng biển lớn cửa xuất-nhập khẩu hàng hoá quan trọng của toàn vùng Bắc Bộ, với nhiều trung tâm kinh tế-khoa học kĩ thuật và công nghệ, trung tâm giao lưu, hợp tác kinh tế lớn của cả nước là thị trường tiêu thụ lớn các sản phẩm của nông lâm ngư nghiệp. Huyện có thế mạnh: Có nguồn tài nguyên khoáng sản với trữ lượng lớn để phục vụ phát triển ngành công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng nh­ xi măng, ngói, vôi, đá xây dựng, bột nhẹ, đất đèn... Là địa phương có phần tiếp giáp biển, có vùng cửa sông lớn để phát triển các cơ sở sữa chữa, đóng mới tàu thuyền và làm các hoạt động dịch vụ hàng hải khác. Ngoài ra Thuỷ Nguyên còn có diện tích bãi triều lớn để phát triển nuôi trồng thuỷ sản. Có tiềm năng để phát triển du lịch và dịch vụ du lịch, ngoài việc có sẵn nhiều di tích, danh lam, lễ hội, Thuỷ Nguyên còn rất gần với trung tâm du lich lớn nh­ Đồ Sơn, Cát Bà, Hạ Long… Gần với các khu vực có nguồn năng lượng lớn, trong tương lai bản thân Thuỷ Nguyên cũng sẽ là nơi cung cấp điện năng lượng lớn cho khu vực xung quanh. Có nguồn lao động dồi dào, nhân dân có truyền thống cách mạng, sáng tạo trong lao động, có chủ trương chính sách đúng đắn của đảng và nhà nước. Tuy cơ sở vật chất kĩ thuật hiện có còn chưa được hiện đại nhưng so với nhiều huyện ở đồng bằng sông Hồng thì còn khá hơn nhiều, đấy là lợi thế để phát triển. Xét về khả năng thực tế, Thuỷ Nguyên có thế mạnh về sản xuất vật liệu xây dựng (xi măng, đá xây dựng, gạch, ngói, vôi... ), nuôi trồng, đánh bắt hải sản, rau xanh và gia công một số mặt hàng tiêu dùng, sản phẩm đúc gang, rèn, may mặc... và có mặt bằng phát triển khu công nghiệp tập trung và đô thị, đây là những lợi thế mà Thuỷ Nguyên có thể hợp tác với thành phố Hải Phòng để phát triển trong thời gian tới. Khó khăn. Bên cạnh những điều kiện, những thế mạnh nh­ vậy, Thuỷ Nguyên còn gặp phải không it khó khăn cho quá trình phát triển kinh tế-xã hội. Nền kinh tế của huyện vốn mang tính thuần nông, giá trị các ngành nông-lâm-ngư vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu kinh tế của huyện. Tài nguyền khoáng sản tuy có nhưng trữ lượng nhỏ không có ý nghĩa để phát triển công nghiệp, khoáng sản phi kim loại chỉ có đá vôi có trữ lượng lớn có thể đáp ứng công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng, còn các loại khác trữ lượng không lớn. Thuỷ Nguyên đang là huyện nông nghiệp đông dân, bình quân đất nông nghiệp bình quân đầu người rất thấp, khoảng 783m2/người đất nông nghiệp và 521m2/người đất canh tác. Địa hình không bằng phẳng gây cản trở cho sản xuất, là vùng ven biển nên thường nhiễm mặn, đất kém màu mỡ, độ phì nhiêu không cao, đầu tư thâm canh tốn kém. Quá trình đô thị hoá nhanh làm mất nhiều đất nông nghiệp của các huyện ngoại thành trong đó có Thuỷ Nguyên, trong khi dân số vẫn tăng là khó khăn đối với huyện. Bên cạnh đó đó có nhiều sông chảy qua, nhiều ao, hồ, đầm nhưng do địa hình không bằng phẳng, gần biển nên nước các sông chảy ra nhanh. Chưa có quy hoạch đồng bộ trữ nguồn nước ngọt nên xảy ra tình trạng mừa mưa thừa nước, mùa đông lạnh thì thiếu nước. Thuỷ Nguyên chịu ảnh hưởng trực tiếp nhiều của bão và nước biển dâng (nhất là các xã ven biển) gây nhiều thiệt hại cho sản xuất nông, ngư nghiệp và kho tàng nhà cửa của nhà nước và nhân dân đê sông, đê biển thường xuyên sạt lở. Để hạn chế tác hại công trình phải được xây dựng kiên cố nên đầu tư tốn kém. Còng nh­ các địa phương khác trong vùng, Thuỷ Nguyên hiện đang thiếu rất nhiều đội ngũ lao động kỹ thuật, các nhà quản lý kinh doanh có nhiều kinh nghiệm và trình độ cao… Ngân sách địa phương còn hạn hẹp khả năng tự đầu tư còn hạn chế. Đầu tư nước ngoài vào Thuỷ Nguyên còn chưa nhiều, vấn đề giải quyết việc làm hiện nay của huyện đang là một bức xúc rất lớn. Là huyện nằm trong địa bàn trọng điểm và vùng tam giác tăng trưởng kinh tế, đây là điều kiện hết sức thuận lợi nhưng cũng là yếu tố thách thức rất lớn về sức Ðp cạnh tranh trên thị trường hàng hoá, thị trường lao động, thị trường du lịch… Mặc dù huyện đã có hệ thống cơ sở vật chât kỹ thuật khá, nhưng còn bất cập so với yêu cầu phát triển. Như vậy về điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên Thuỷ Nguyên có rất nhiều thế mạnh để phát triển, nhưng cho đến thời điểm này nền kinh tế còn chậm phát triển, mang đặc điểm thuần nông, đời sông nhân dân còn nhiều khó khăn, chưa khai thác được các thế mạnh để phát triểt kinh tế-xã hội. Lý do chủ yếu là trong những năm qua quy huyện chưa có những quy hoạch cụ thể để phát triển kinh tế-xã hội. 2.3. Phương hướng phát triển kinh tế-xã hội của huyện đến năm 2010. Sau những năm đổi mới kinh tế Thuỷ Nguyên đã có những chuyển biến tích cực, đời sống nhân dân đã phần nào được cải thiện. Tuy nhiên nền kinh tế vẫn còn mang tính thuần nông, cơ sở hạ tần kém phát triển, đời sống nhân dân vẫn còn nhiều khó khăn, những thế mạnh về tài nguyên thiên nhiên, điều kiện tự nhiên của huyện chưa được khai thác và phát huy đầy đủ. Nguyên nhân chủ yếu là do chưa có những quy hoạch phát triển kinh tế-xã hội một cách đầy đủ, khoa học để có thể phát huy được các thế mạnh chủ yếu của huyện. Vì thế đến năm 1996 huyện đã phối hợp với trung tâm nghiên cứu và phát triển vùng xây dựng dự án quy hoạch kinh tế-xã hội huyện Thuỷ Nguyên giai đoạn 1996-2010. Dựa trên những thế mạnh về tài nguyên thiên nhiên, điều kiện tự nhiên, dân số, lao động và hiện trạng cơ sở vật chất kĩ thuật hiện có của Thuỷ Nguyên , phương hướng phát triển kinh tế-xã hội của huyện là: Đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH tập trung sản xuất hướng vào xuất khẩu trên cơ sở khai thác có hiệu quả các nguồn tài nguyên thế mạnh. Tạo những sản phẩm mũi nhọn có chất lượng, có sức cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước. a. Nông ngư nghiệp lấy sản xuất thực phẩm làm trọng tâm. b. Công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp lấy sản xuất vật liệu xây dựng làm mũi nhọn đột phá. Đồng thời phát triển thêm công nghiệp tiểu thủ công nghiệp sử dụng nguyên liệu nhập ngoại để tạo thêm việc làm cho lao động. c. Dịch vụ lấy vận tải và thương mại làm nòng cốt và phát triển du lịch để góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển nhanh. Đẩy nhanh quá trình chuyển đổi cơ cấu sản xuất theo hướng hiệu quả, với thị trường tiêu thụ, sản phẩm là ra phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng. Đa dạng hoá mặt hàng và đa dạng hoá ngành nghề và thành phần kinh tế. Mở rộng liên doanh liên kết với bên ngoài, trước hết là vùng kinh tế trọng điểm và nước ngoài. Từ nay đến năm 2000 tập trung tạo những tiền đề quan trọng cho giai đoạn 2001-2010 và các năm tiếp theo có điều kiện phát triển nhanh. Do đó, tập trung phát triển kết cấu hạ tầng, chuẩn bị địa bàn thu hút đầu tư. Phát triển mạng lưới giao thông, điện nước, thông tin liên lạc, lực lượng lao động đủ trình độ phù hợp với yêu cầu phát triển. Khẩn trương đổi mới cơ cấu sản xuất nông ngư nghiệp hình thành các vùng nông ngư hàng hoá có sức cạnh tranh trên thị trường. Đẩy mạnh phát triển ngành nghề trong nông ngư nghiệp để tạo thêm việc làm thu hót lao động, tăng thu nhập cho nông thôn. Đối với công nghiệp: khu công nghiệp Minh Đức sẽ tiếp tục phát triển thêm. Công nghiệp huyện phải phối hợp chặt chẽ với công nghiệp TW, thành phố và liên doanh đóng trên lãnh thổ để phát triển mạnh vật liệu xây dựng (khai thác đá, sản xuât gạch nung, không nung, vôi…) khôi phục và phát triển các ngành nghề truyền thống đảm bảo sản phẩm có chất lượng, mỹ thuật bán được ở thị trường đô thị và xuất khẩu… chuẩn bị điều kiện đón nhận hàng gia công của thành phố và công nghiệp thu hút nhiều lao động của nội thành dãn ra. Phát triển thương mại-dịch vụ tổng hợp và du lịch, làm cho lưu thông hàng hoá nhanh chóng. Ưu tiên phát triển dịch vụ vận tải, liên doanh liên kết với thành phố và bên ngoài để phát triển du lịch. Chú trọng đầu tư phát triển giáo dục trên các mặt: nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực và bồi dưỡng nhân tài. Phát triển y tế, chăm sóc sức khoẻ toàn dân. Phấn đấu đến năm 2010 giảm bớt được khoảng cách chênh lệch về chỉ tiêu GDP/người, tỉ lệ huy động ngân sách và tỉ lệ tích luỹ đầu tư từ GDP giữa nội thành và ngoại thành để Thuỷ Nguyên trở thành huyện giầu có. III. Mô hình quy hoạch kinh tế-xã hội huyên Thuỷ Nguyên giai đoạn 1996-2010 . 3.1. Phương án phát triển đối với kinh tế trên địa bàn huyện. Sự kết hợp chặt chẽ giữa kinh tế địa phương, thành phố và liên doanh nước ngoài với kinh tế do huyện quản lý là hết sức cần thiết, thực sự đem lại hiệu quả phát triển kinh tế-xã hội ngày càng cao trên địa bàn lãnh thổ huyện. Quá trình phát triển gồm 3 giai đoạn: 3.1.1. Giai đoạn 1996-2000. Phương án: Có tốc độ tăng trưởng GDP 13,0%/năm, năm 2000 tổng GDP lãnh thổ khoảng 977 tỉ đồng, gấp 1,84 lần GDP năm 1996, GDP/người đạt khoảng 3,2 triệu đồng (tương đương 294 USD). Cơ cấu : công nghiệp 27,3%/năm, xây dựng 2,2%/năm, nông ngư nghiệp 33,9%/năm, dịch vụ 36,6%/năm. 3.1.2. Giai đoạn 2001-2005. Phương án: Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân khoảng 15,5%/năm vào năm 2005, tổng GDP đạt khoảng 6,7 triệu đồng ( tương đương 614 USD) với cơ cấu kinh tế : công nghiệp 35,7%/ năm, xây dựng 2,9%, nông ngư nghiệp 21,4% và dịch vụ 40%. 3.1.3. Giai đoạn 2006-2010. Phương án phát triển được lựa chọn có mức tăng từ từ : Tốc độ tăng trưởng GDP đạt khoảng 4610 tỉ đồng, GDP/người đạt khoảng 13,2 triệu đồng ( tương đương 1200 USD). Cơ cấu công nghiệp 39%, xây dựng 3,8%, nông ngư nghiệp 13,5% và dịch vụ 43,7%. 3.2. Phương hướng phát triển các ngành và các lĩnh vực cụ thể. 3.2.1. Phát triển nông nghiệp. Căn cứ vào thị trường tiêu thụ trong và ngoài huyện, giá bán của nông sản, đánh giá tổng hợp các điều kiện về đất, khí hậu, nguồn nước để phát triển nông nghiệp... dự án đưa ra phương án phát triển cho nông nghiệp của huyện Thuỷ Nguyên: a. Đối với trồng trọt. Trên cơ sở phân vùng nông nghiệp đã được thành phố xác định, ở ngoại thành sẽ phát triển theo hướng thâm canh, thành vùng nông sản thực phẩm hàng hoá lớn. Về lương thực: lúa, ngô là trọng tâm. Đẩy mạnh tập trung thâm canh, sử dụng những giống lúa, ngô có năng suất cao, hình thành vùng lúa cao sản ở các xã Thiên Hương, Đông Sơn, Thuỷ Đường, Lưu Kiếm, Quảng Thanh, Phả Lễ với diện tích từ 1500 - 2000 ha và phát triển toàn diện lúa ở các xã còn lại cùng với đẩy mạnh trồng thêm khoai lang, ngô để đạt được sản lượng lương thực năm 2010 khoảng 106 -107 nghìn tấn. Phấn đấu giải quyết đủ lương thực trên địa bàn một cách cao nhất và làm bàn đạp phát triển cây trồng, vật nuôi khác có giá trị kinh tế tạo hàng hoá đáp ứng nhu cầu tiêu dùng tại chỗ và các thị trường ngoài huyện. Về cây rau : ưu tiên phát triển vùng rau cao cấp như bắp cải, su hào, súplơ, cà rốt, cà chua, ớt xào, dưa chuột.... theo hướng rau sạch hàng hoá tập trung ở Thuỷ Đường, Hoà Bình, Kiền Bái, Thiên Hương. Đồng thời phát triển rau thực phẩm thông thường ở các xã còn lại để giải quyết nhu cầu rau xanh hàng ngày cho thị trường nội huyện. Về cây ăn quả: cải tạo vườn tạp cào kém giá trị kinh tế, kết hợp với kết hợp tận dụng đất gò đồi thấp đất còn tốt có khẳ năng chăm sóc để phát triển cây ăn quả. Hướng tập trung mạnh như chuối, vải thiều, na dai, cam, táo, mơ ... để đến năm 2010 toàn huyện có khoảng trên 1000 ha cây ăn quả, và phát triển thêm những cây có giá trị kinh tế khác như hoa, cây cảnh, cây dược liệu... để tăng thêm thu nhập cho dân cư. b. Đối với chăn nuôi. Về gia súc: chú trọng phát triển đàn lợn thịt hàng hoá có tỉ lệ nạc cao, chăn nuôi lợn vừa để lấy thịt vừa có thêm phân hữu cơ phục vụ cho thâm canh cây trồng. Đàn trâu phát triển mạnh ở mức đảm bảo đủ sức kéo cho nông nghiệp và một phần để vận chuyển hàng hóa. Phát triển mạnh đàn bò lấy thịt, lấy sữa tạo hàng hoá đáp ứng nhu cầu tiêu dùng nội huyện và thị trường nội thành, khu công nghiệp than Quảng Ninh và các thị trường khác. Phát triển đàn dê ở những xã có núi đá, gò đồi núi thấp. Phát triển mạnh đàn gia cầm, nhất là gà ta, gà công nghiệp, nuôi theo kiểu trang trại. Phát triển vịt đàn lấy thịt, lấy trứng, lấy lông và nuôi thêm ngan, ngỗng, chim Õch, ba ba, lươn, rắn … Dựa vào điều kiện thuận lợi về tự nhiên của Thuỷ Nguyên với diện tích cây ăn quả vào loại khá, lại có giải rừng sú vẹt ở ven biển, cửa sông, có địa hình đất gò đồi... thuận lợi để phát triển nghề nuôi ong lấy mật. Phát triển lâm nghiệp Với 1535 ha đất gò đồi núi đất thấp để phát trển lâm nghiệp, trong đó có khoảng 300-700 ha có thể trồng được cây ăn quả, số còn lại trồng cây lấy gỗ là tiềm năng đáng kể cần khai thác để phát triển lâm nghiệp Phương án và mục tiêu phát triển: Cây ăn quả: trồng trên đất gò, đồi thấp còn tốt, thích hợp với cây ăn quả, ước tính có thể trồng khoàng 600 ha, phấn đấu đến 2000 có thể trồng 300 ha, đến 2005 cho sản phẩm và trồng tiếp 300 ha còn lại để 2010 cho sản phẩm. Cây lấy gỗ: phấn đấu đến 2000 đưa tổng diện tích rừng gỗ lên 772 ha và trồng tiếp số diện tích còn lại vào năm 2005 để đến 2010 có 935 ha. d. Phát triển ngư nghiệp. Có 2 phương án phát triển ngư nghiệp: - Phương án I: Coi trọng nuôi trồng vàđánh bắt ven bờ với kinh doanh tổng hợp nông ngư nghiệp, còn đánh bắt ngư trường khới xa có mức độ. Dự tính đến năm 2010 ngành hải sản của huyện sẽ đạt các mục tiêu chủ yếu: giá trị tăng thêm 70-126 tỉ đồng, xuất khẩu khoảng 2-4,5 triệu USD, đóng góp ngân sách khoảng 8-35 tỉ đồng, giải quyết thêm việc làm cho khoảng 1500-1700 lao động. Phương án II: lấy đánh bắt hải sản xa bờ là chủ yếu, còn đánh bắt ven bờ có mức độ kết hợp với phát triển tổng hợp ngư nông nghiệp. Dự tính theo phương án này đến năm 2010 Thuỷ Nguyên sẽ đạt các chỉ tiêu sau: giá trị tăng thêm khoảng 68-128 tỉ đồng, xuất khẩu đạt khoảng 3-5,5 triệu USD, nộp ngân sách khoảng 7-40 tỉ đồng và thu hút thêm được khoảng 1300-2000 lao động. 3.2. 2. Phát triển công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp. a. Phương hướng phát triển. Triệt để tận dụng những lợi thế về nguồn nguyên liệu và cơ sở vật chất kĩ thuật và sự kết hợp giữa công nghiệp trung ương, thành phố và liên doanh với công nghiệp huyện để phát triển với cơ cấu công nghiệp chủ lực là vật liệu xây dựng (xi măng, đá xây dựng, gạch ngói, vôi, cát, sỏi... ), chế biến nông sản, thuỷ sản, sữa chữa và đóng mới tàu, thuyền, hoá chất cơ bản, chế biến thức ăn gia súc, luyện thép, lọc hoá dầu, chất dẻo. Công nghiệp huyện tập trung khai thác đá để cung cấp nguyên liệu cho 2 nhà máy xi măng lớn là Chinh Phong và Hải Phòng, sản xuất gạch thông thường và gạch có cường độ chịu lực cao, ngói lợp, vôi, cát xây dựng... Phát triển đúc, mộc, may mặc... đa dạng hoá mặt hàng và khuyến khích các thành phần và mở rộng liên doanh với bên ngoài. Các ngành chức năng huyện như kế hoạch - đầu tư, tài chính, ngân hàng, thương mại cần hỗ trợ vốn tìm công nghệ tiên tiến, đối tác liên doanh, nguyên liệu, vật tư thiết yếu từ bên ngoài vào và tìm thị trường tiêu thụ sản phẩm. b. Các phương án phát triển. Các sản phẩm được xác định là sản phẩm công nghiệp then chốt của Thuỷ Nguyên là xi măng, đá xây dựng, đất đèn, bột nhẹ, vật liệu xây dựng khác, sản phẩm tiểu thủ công nghệp, nông sản chế biến. Đồng thời phát triển công nghiệp sử dụng nguyên liệu nhập ngoại, tiến tới tỉ trọng này sẽ chiếm khoảng 40% giá trị sản lượng của toàn ngành công nghiệp trở lên, nhờ đó mới góp phần giải quyết công ăn việc làm, tăng thu nhập, tạo những tiền đề quan trọng để thay đổi cơ cấu kinh tế của huyện. Trên cơ sở các phương án phát triển như trên cho từng giai đoạn cụ thể với mục tiêu đều lấy đẩy mạnh sản xuất vật liệu xây dựng và sử dụng nguồn nguyên liệu tại chỗ làm trọng tâm. Các phương án đầu phát huy được thế mạnh của huyện. Phương án I được lựa chọn là phù hợp nhất với tình hình thực tế và sức vươn lên của huyện lúc này. c. Phát triển những ngành công nghiệp chủ yếu. +Phát triển mạnh công nghiệp xi măng. +Phát triển công nghiệp đóng và sữa chữa tàu thuyền. +Khai thác và chế biến đá. +Sản xuất gạch, ngói, cát xây dựng. +Chế biến nông hải sản. +Phát triển các ngành tiểu thủ công nghiệp. +Đối với khu vực nông thôn: từng bước thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá hướng ưu tiên là sản xuất vật liệu xây dựng, may mặc, thủ công mỹ nghệ, đan lát, cơ khí nhỏ, sữa chữa máy móc phục vụ nông nghiệp, ngư nghiệp, vận tải nông thôn, chế biến lương thực, thực phẩm, thức ăn gia sóc. 3.2.3. Phát triển du lịch. Xuất phát từ vị trí địa lý thuận lợi, nằm giữa thành phố Hải Phòng và tỉnh Quảng Ninh là 2 trung tâm công nghiệp lớn của cả nước, có tiềm năng du lịch sinh thái, nhân văn, văn hoá tương đối khá nên du lịch cũng là một lợi thế của huyện. Nhưng trong điều kiện gần nội thành và khu du lịch Hạ Long (Quảng Ninh), là sự cạnh tranh gay gắt nên phải lựa chọn các loại hình du lịch thích hợp thu hút khách trên cơ sở khai thác, phát huy được tiềm năng về du lịch như du lịch sinh thái kết hợp với du lịch văn hoá, tham quan các hang động, di tích lịch sử, văn hoá được xếp hạng, du lịch câu cá, leo núi, cắm trại, đua thuyền, tìm hiểu các làng nghề thủ công truyền thống, du lịch lễ hội, nghỉ dưỡng, nghỉ cuối tuần... làm cho các loại hình du lịch sôi động, hấp dẫn. Hình thành các cụm, tuyến du lịch Bắc Thuỷ Nguyên, Tràng Kềnh, du lịch tham quan hang động, rừng ngập mặn, đua thuyền, leo núi... cụm hồ sông Giá du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, cắm trại, chơi golf, câu cá, đua thuyền, bơi lội. Cụm Núi Đèo có điều kiện giao thông thuận lợi phát triển loại hình du lịch thể thao giải trí, biểu diễn nghệ thuật. Đồng thời kết hợp chặt chẽ với du lịch thành phố và mở rộng liên doanh, liên kết với bên ngoài để phát triển và lựa chọn những điểm du lịch. 3.3. Phương hướng phát triển các lĩnh vực khác. 3.3.1.Phương hướng phát triển văn hoá- xã hội. Hướng phát triển là phát huy triệt để vốn văn hoá truyền thống, bảo tồn những di tích lịch sử đã được sếp hạng để đưa dần vào phát triển kinh tế. Ngăn chặn các hoạt động văn hoá thiêu lành mạnh, đồi truỵ, xây dựng gia đình văn hoá mới… Trong quy hoạch phát triển các khu dân cư mới phải chú ý phát triển các dịch vụ công cộng, hình thành trung tâm kinh tế –kĩ thuật-văn hoá-xã hội theo cụm xã. Đồng thời tăng thêm phương tiện sinh hoạt văn hoá nghệ thuật cho nhà văn hoá huyện, xã làm hạt nhân cho phong trào văn hóa văn nghệ quần chúng, tạo môi trường văn hoá lành mạnh trên phạm vi toàn huyện. Thường xuyên chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho những người có công và người già cô đơn… 3.3.2. Phương hướng phát triển kết cấu hạ tầng chủ yếu. Về mạng lưới giao thông: Trong những năm tới mở rộng thêm 12 km đường liên xã còn hẹp, cứng hoá mặt đường liên huyện, liên xã, liên thôn bằng rải nhựa, hay lát bê tôn. Mở rộng bến xe ở thị trấn Minh Đức, Núi Đèo, khu vực Quảng Thanh, bến Bính và Phà Rừng. Về đường thuỷ, nạo vét luồng lạch, xây dựng bến bãi, cầu cảng để vận chuyển hàng hoá. Tăng thêm phương tiện vận tải thuỷ và công cộng, đa dạng hoá loại hình vận tải, các phương tiện vận tải để tăng năng lực lưu thông hàng hoá, hành khách trong và ngoài huyện. Về bưu điện: để đáp ứng được nhu cầu thông tin nhanh, kịp thời, chính xác và nâng cao dân trí ở mức cao hơn hiện nay thì mạng lưới bưu điện hiện có cần phải đầu tư thêm để phát triển. Về mạng lưới cấp điện: để đáp ứng đầy đủ cho nhu cầu sản xuất và đời sống của nhân dân phải tập trung sữa chữa, thay thế những trạm hạ áp và cải tạo lưới cấp điện cùng với phát triển, thêm trạm và lưới cấp điện mới, bảo đảm việc cung cấp điện được thường xuyên cho sản xuất và đời sống. Theo phương châm nhà nước, doanh nghiệp và nhân dân cùng góp vốn xây dựng phát triển lưới điện. Hệ thống thuỷ lợi và cấp nước: trong những năm tới nhu cầu về nước cho sản xuất và sinh hoạt sẽ tăng lên rất nhiều. Do đó cần sớm xây dựng nhà máy nước sông Giá để cung cấp nước sạch cho khu vực thị trấn Núi Đèo và Minh Đức. Trong những năm tới cần tiếp tục hoàn chỉnh các công trình đầu mối (hồ chứa nước, hệ thống tưới tiêu) hệ thống dẫn nước. Đầu tư sửa chữa những công trình đang bị hư hỏng nặng, tăng cường công tác quản lý, bảo vệ nguồn nước, tránh ô nhiễm và khai thác bừa bãi. Khai thác hợp lý nước theo mùa. Đảm bảo đủ nước tưới ở mức cao nhất cho phát triển nông nghiệp và công nghiệp, các ngành khác, đủ lượng nước cho sinh hoạt của nhân dân. 3.4. Phát triển đô thị và phân chia thành các tiểu vùng. 3.4.1. Phát triển đô thị. Theo quy hoạch phát triển của thành phố Hải Phòng đến năm 2010, khu vực nội thành sẽ được mở rộng ra một số huyện ngoại thành để hình thành một số quận mới. Trong đó Thuỷ Nguyên có khu đô thị Bắc sông Cấm thuộc lãnh thổ hai xã Lâm Động và Hoa Động. Đồng thời khu công nghiệp Minh Đức, thị trấn Minh Đức hiện nay sẽ phát triển thành đô thị cấp thị xã. Thị trấn Núi Đèo cũng sẽ phát triển lớn hơn quy mô hiện nay để thực sự là trung tâm kinh tế, thương mại, dịch vụ-hành chính của huyện. Bên cạnh đó, sẽ phát triển các đô thị cấp tiểu vùng ở khu vực Kỳ Sơn, Lưu Kiếm, Quảng Thanh, Thiên Hương và Ngũ Lão cùng các trung tâm cụm xã cũng được phát triển thành hạt nhân, nơi trao đổi mua bán hàng hoá, sản phẩm, nơi thưởng thức văn hoá nghệ thuật, thể thao nông thôn. Đến năm 2010 trục Bến Bính qua thị trấn Bến Bính qua thị trấn Núi Đèo đến Phà Rừng sẽ hình thành một trục dân cư đô thị dông đúc sầm uất và có thể coi đây là hình thức phát triển đô thị theo dải. Cầu cứng bắc qua sông Cấm nôi khu đô thị mới Bắc sông Cấm thuộc Thuỷ Nguyên với nội thành qua quốc lộ 10 ra Tràng Bạch-Mạo Khê gặp đường quốc lộ 18 cũng sẽ hình thành trục dân cư đô thị. 3.4.2. Phân chia lãnh thổ để chỉ đạo phát triển. Căn cứ vào điều kiện đất đai, khí hậu, tài nguyên, cơ sở vật chất kỹ thuật và kinh nghiệm sản xuất phân chia để chỉ đạo sản xuất nh­ sau: Tiểu vùng I gồm 6 xã Gia Minh, Minh Đức, Minh Tân, Lưu Kiếm, Liên Khê và Minh Đức, trung tâm tiểu vùng tại Lưu Kiếm. Cơ cấu sản xuất: lương thực, cây ăn quả, thuỷ sản, vật liệu xây dựng và dịch vụ… Tiểu vùng II: gồm 7 xã là Lai xuân, An Sơn, Kỳ Sơn, Phủ Ninh, Quảng Thanh, Chính Mỹ, Hợp Thành, trung tâm tiểu vùng tại Quảng Thanh. Cơ cấu sản xuất: lương thực, thực phẩm , cây ăn quả, vật liệu xây dựng và dịch vụ. Tiểu vùng III gồm 15 xã : Cao Nhân, Mỹ Đồng, Kiền Bái, Thiên Hương, Thuỷ Sơn, Đông Sơn, Kênh Giang, Hoàng Động, Hoa Động, Lâm Động, Tân Dương, Dương Quan, Hoà Bình, Thuỷ Đường, Núi Đèo. Cơ cấu sản xuất: lương thực, thực phẩm, cây ăn quả, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ. Tiểu vùng IV gồm 8 xã : Trung Hà, Thuỷ Triều, Ngũ Lão, Tam Hưng, Phục Lễ, Phả Lễ, Lập Lễ, An Lư. Cơ cấu: lương thực, thuỷ hải sản, chăn nuôi và dịch vụ. IV. Đánh giá việc thực hiện theo mô hình quy hoạch kinh tế-xã hội trong giai đoạn 1996-2003. Sau một thời gian thực hiện phát triển kinh tế-xã hội theo quy hoạch Thuỷ Nguyên đã đạt được một số thành tựu nhất định nhưng vẫn còn tồn tại rất nhiều hạn chế cần khắc phục, điều chỉnh để có thể tiếp tục thu được nhiều thành tựu trong giai đoạn tiếp theo. Cụ thể: 4.1. Những thành tựu đạt được và chưa được. 4.1.1. Tốc độ tăng trưởng. Theo quy hoạch được duyệt năm 1996 , mục tiêu về tăng trưởng của các kỳ quy hoạch là : +1996 - 2000: 11% +2001 - 2005: 14,5% + 2006 - 2010: 15,5% Trong 5 năm qua từ 1996 - 2000 mặc dù Thuỷ Nguyên đã cố gắng rất nhiều song nền kinh tế của huyện mới chỉ đạt tốc độ tăng trưởng là 8,8%/năm, so với mục tiêu đưa ra trước đây của quy hoạch mới chỉ đạt 80%. Giai đoạn 2001 - 2005 theo quy hoạch thì tốc độ tăng trưởng bình quân năm là 14,5%, so với tình hình thực tế thì đây là mục tiêu quá cao, trong 2 năm 2001 và 2002 nền kinh tế của huyện tăng bình quân trên 11,0%/năm. Như vậy mục tiêu về dự báo nhịp độ tăng trưởng kinh tế của huyện đến năm 2010 đạt 16% là chưa sát thực vì vậy cần được điều chỉnh cho phù hợp với tình hình phát triển chung của vùng kinh tế trọng điểm cũng như thành phố Hải Phòng. 4.1.2. Về cơ cấu kinh tế. Theo phương án được chọn trong quy hoạch trước đây thì cơ cấu kinh tế của Thuỷ Nguyên trong các kỳ quy hoạch được xác định nông nghiệp - công nghiệp - dịch vụ là: Đến năm 2000: 44,7% - 18,1% - 37,2%. Đến năm 2005: 21,4% - 38,6% - 40%. Đến năm 2010: 18% - 34,9% - 48,1%. Qua 5 năm thực hiện, mặc dù đã có những cố gắng lớn nhưng mức độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo mục tiêu quy hoạch đề ra là huyện không thể đạt được. Đến năm 2000, cơ cấu kinh tế của huyện mới đạt: nông nghiệp 56,1%, công nghiệp - xây dựng 14,8%, dịch vụ 24,1%. Đến năm 2002 cơ cấu kinh tế của huyện là : nông nghiệp 47,9%, công nghiệp - xây dựng 26,4%,dịch vụ 25,7%. Chính vì vậy nhất thiết phải có sự điều chỉnh để hoà với xu thế và đặc điểm phát triển chung của huyện trong thời kỳ tới. 4.2. Nguyên nhân của những hạn chế. Sau một thời gian thực hiện mặc dù đã đạt được nhiều thành tựu nhưng huyện đã không đạt được những mục tiêu như đã đề ra trong dự án quy hoạch kinh tế-xã hội giai đoạn 1996-2010, vì vậy cần phải có sự điều chỉnh, bổ sung để có thể thực hiện tốt trong giai đoạn tiếp theo. Nguyên nhân của những hạn chế đó là. Ngân sách địa phương còn hạn hẹp, khả năng tự đầu tư còn hạn chế còn đầu tư nước ngoài vào Thuỷ Nguyên còn chưa nhiều nên nhu cầu về vốn đầu tư để phát triển kinh tế-xã hội không được đáp ứng đủ. Quy hoạch kinh tế-xã hội đã không tính đến yếu tố môi trường cũng là một trong những nguyên nhân gây ra những hạn chế. Những mục tiêu đặt ra chưa phù hợp với tình hình thực tế và khả năng của huyện. Các hoạt động kinh tế trên địa bàn huyện chưa được thực hiện hoàn toàn theo quy hoạch. V. Mô hình quy hoạch kinh tế-xã hội giai đoạn 2003-2010 sau khi đã có sự rà soát, điều chỉnh. 5.1. Những hạn chế cần khắc phục. Trên cơ sở đánh giá thực trạng phát triển của Thuỷ Nguyên trong giai đoạn đầu thực hiện quy hoạch và xác định lại các yếu tố ảnh hưởng, các khó khăn tồn tại trong thời gian qua và các thách thức trong thời gian tới cần tiến hành điều chỉnh lại các mục tiêu phát triển của huyện đến năm 2010 trên cơ sở đó định hướng phát triển cụ thể cho các ngành, các lĩnh vực trong thời kỳ từ nay đến năm 2010. Những hạn chế của mô hình đề ra ban đầu cần khắc phục: Mục tiêu về nhịp độ tăng trưởng kinh tế của huyện đến cho giai đoạn 2001-2005 là 14,5% và cho giai đoạn 2006-2010 là 15,5% là chưa sát thực nên cần được điều chỉnh cho phù hợp với tình hình chung và thực tế. Mục tiêu của quy hoạch về cơ cấu kinh tế (nông nghiệp-công nghiệp-cịch vụ) đến năm 2005 là 21,4%-38,6%-40% và đến năm 2010 là 18%-34,9%-48,1% là chưa hợp lý cần phải điều chỉnh cho phù hợp. Trên cơ sở điều chỉnh trên điểu chỉnh mục tiêu cho các ngành các lĩnh vực cụ thể. 5.2. Mô hình bổ sung. 5.2.1. Điều chỉnh mục tiêu của quy hoạch đến năm 2010. Tập trung khai thác có hiệu quả mọi tiềm năng thế mạnh để phát triển nhanh và bền vững kinh tế - xã hội. Tạo sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH tăng tỷ trọng công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ. Phấn đấu đưa tốc độ tăng trưởng kinh tế của huyện đạt bình quân 11,5 - 12,0%/năm của thời kỳ 2003 - 2010, từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân, văn hoá xã hội phát triển mạnh, quốc phòng vững chắc, hệ thống chính trị vững mạnh, phấn đấu đến năm 2010 trên toàn huyện không còn hộ nghèo. Cụ thể, phấn đấu để nhịp độ tăng trưởng GDP bình quân của cả thời kỳ 2003 - 2010 đạt 11,85%/năm. Trong đó: Giai đoạn 2003 - 2005 đạt tốc độ tăng 11%/năm với cơ cấu kinh tế đến năm 2005 là: công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp theo tỷ lệ tương ứng là 32,2%-27,3%-40,5%. Giai đoạn 2006 - 2010 nhịp độ tăng GDP đạt 12,3%/năm với cơ cấu kinh tế đến năm 2010 là công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp theo tỷ lệ tương ứng là 39% - 34%- 27%. 5.2.2. Phương án phát triển. Dựa trên các cơ sở: Từ việc xem xét những bước phát triển đã qua, những cơ hội, lợi thế, những tiềm năng và thách thức đối với Thuỷ Nguyên trong giai đoạn tới. Xuất phát từ các mục tiêu cần đạt tới của thành phố Hải Phòng và của huyện Thuỷ Nguyên. Căn cứ vào quy hoạch phát triển kinh tế-xã hội của thành phố Hải Phòng đã được điều chỉnh và nghị quyết Đại hội huyện Đảng bộ lần thư XXI. Theo dự báo về dân số huyện đến năm 2010. Tập trung đầu tư khai thác tiềm năng để phát triển các ngành công nghiệp-tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ-du lịch. Phương án phát triển được lựa chọn là: Dự báo cơ cấu và tốc độ tăng trưởng GDP Chỉ tiêu Cơ cấu Tốc độ tăng trưởng 2002 2005 2010 2003/2010 (%) 2006/2010 (%) 2003/2010 (%) Tổng GDP 100 100 100 11,05 12,33 11,85 -Nông lâm ngư 47,9 40,5 27 5,01 5,58 4,11 -Công nghiệp xây dựng 26,4 32,2 39 18,65 16,71 17,44 -Dịch vô 25,7 27,3 34 13,31 17,37 15,83 Nguồn : Trung tâm nghiên cứu và phát triển vùng CHƯƠNG III ĐÁNG GIÁ HIỆU QUẢ KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ MỘI TRƯỜNG CỦA QUY HOẠCH KINH TẾ XÃ HỘI CỦA HUYỆN THUỶ NGUYÊN I. Đánh giá hiệu quả kinh tế - xã hội và môi trường sau một thời gian thực hiện dự án tính đến năm 2003. 1.1. Hiệu quả về mặt kinh tế. 1.1.1. Tình hình nên kinh tế huyện nói chung sau 5 năm thực hiện quy hoạch. a. Tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Trong những năm qua huyện Thuỷ Nguyên đã đạt được nhiều thắng lợi trên các lĩnh vực khác nhau trong quá trình phát triển KTXH của huyện. Nhịp độ tăng trưởng kinh tế bình quân đạt trên 8%/năm. Các ngành kinh tế phát triển theo chiểu hướng tích cực. Tuy nông nghiệp vẫn là ngành sản xuất chủ yếu, huyện đã tập trung phát triển mạnh công nghiệp và các ngành dịch vụ khác. Cụ thể: Giá trị sản xuất nông nghiệp của huyện năm 1998 là 271,6 tỷ đồng, đến năm 2002 đạt 329,8tỷ đồng và riêng 6 tháng đầu năm 2003 đã đạt 189,5 tỷ đồng. Giá trị sản xuất ngành dịch vụ đạt 116 tỷ năm 1999, đến năm 2020 đạt 176,9 tỷ đồng . Ngành công nghiệp - xây dựng có tốc độ tăng lớn nhất, năm 1999 mới đạt 91 tỷ đồng thì đến năm 2002 đạt 182 tỷ đồng, tăng gấp 2 lần so với năm 1999. Về cơ cấu kinh tế của huyện trong những năm qua đã chuyển biến theo hướng tích cực. Cơ cấu kinh tế huyện Thuỷ Nguyên thời kỳ 1999 - 2002 Chỉ tiêu 1999 2000 2001 2002 Tổng GDP - Nông - lâm - ngư nghiệp - Công nghiệp - xây dựng - Dịch vụ 100 57,5 18,7 23,8 100 56,1 19,8 24,1 100 53,1 22,6 24,3 100 47,9 26,4 25,7 Nguồn: niên gián thống kê Thuỷ Nguyên 2002 Cùng với việc phát triển nông nghiệp huyện đã chú trọng phát triển dịch vụ và công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp. So với cơ cấu kinh tế năm 1996 là nông - lâm - ngư nghiệp, công nghiệp - xây dựng, dịch vụ lần lượt là 52,1 - 16,2 - 31,7, cơ cấu kinh tế từ 1999 - 2002 nhìn chung có thể thấy đang chuyển dịch theo hướng giảm dần tỷ trọng nông nghiệp ( 57,5% - 56,1% - 53,1% - 47,9%) và tăng dần tỷ trọng các ngành công nghiệp ( 18,7% - 19,8% - 22,6% - 26,4%) và dịch vụ (23,8 - 24,1- 24,3 - 25,7), nhưng còn khá chậm. Cùng với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung, cơ cấu nội bộ từng ngành cũng thay đổi nhưng còn chậm. b. Thu chi ngân sách và đầu tư phát triển Tình hình thu chi ngân sách thời kỳ 1999 - 2002 ( đ.v: triệu đồng ) Chi tiêu 1999 2000 2001 2002 Tổng thu ngân sách 14.962 21.440 38.556 41.038 _ Thu trên địa bàn 9.289 10.642 2.939 3.483 _ Thu trợ cấp tự NS cấp trên 5.643 10.794 33.919 37.539 _ Thu khác 27 0 0 _ Thu kết dư 2 4 1.707 16 2. Tổng chi ngân sách 9.296 11.951 38.549 41.028 _ Chi sự nghiệp kinh tế 2.442 2.157 3.793 1.884 _ Chi sự nghiệp giao dục 1.268 1.673 21.432 24.261 _ Chi quản lý hành chính. 2.884 3.081 4.009 4.521 _ Chi ngân sách xã. 2.305 3.884 5.089 6.784 Nguồn: niên gián thống kê Thuỷ Nguyên 2002 Tổng thu ngân sách của huyện đã tăng dần từ 1999 - 2002, năm 2002 là 54.493 triệu đồng ( bao gồm cả công trợ), gấp 1,4 lầ so với năm 1999. Nguồn thu trên địa bàn huyện năm 2000 tăng so với 1999, nhưng sang đến 2001, 2002 lại giảm dần. So với tổng thu ngân sách hàng năm, nguồn thu trên địa bàn huyện từ 1999 - 2002 lần lượt là: 62,08% - 49,63% - 7,62% - 8,48%, trong khi thu trợ cấp từ NS cấp trêm chiếm lần lượt là 37,71% - 50,34% - 87,95% - 91,47% so với tổng thu ngân sách hàng năm. Như vậy, tổng thu ngân sách của huyện hàng năm tính đến 2002 vẫn còn phụ thuộc nhiều vào thu trợ cấp từ ngân sách cấp trên, nguồn thu trên địa bàn huyện còn Ýt. Về chi ngân sách của huyện tập trung chủ yếu vào chi sự nghiệp kinh tế, chi sự nghiệp giáo dục, chi sự nghiệp quản lý hành chính và đặc biệt là chi cho ngân sách xã. Chi cho sự nghiệp giáo dục ngày càng tăng và tăng mạnh trong những năm 2001, 2002 ( từ 13,6% năm 1999, 13,99% năm 2000 so với tổng chi ngân sách đến năm 2001 và 2002 đã chiếm lần lượt là 55,6% và 59,1% tổng chi ), cho thấy sự quan tâm đến giáo dục của huyện ngày càng nhiều. Bên cạnh đó chi cho ngân sách xã luôn đạt trên 20% tổng chi ngân sách. Chi cho sự nghiệp kinh tế Svẫn còn khá thấp 1999 là 2.442 triệu, chiếm 26,27% tổng chi ngân sách, năm 2000 là 2.157 triệu chiếm 18, 5%, năm 2001 là 3.793 triệu chiếm 9,84%, năm 2002 là 1.884 triệu chiếm 4,6%. Về tích luỹ đầu tư phát triển: trong những năm qua vấn đề đầu tư phát triển mở rộng sản xuất đã được huyện chú trọng, nhưng tỷ lệ đầu tư từ GDP còn thấp do nền kinh tế còn chưa mạnh, đời sống còn khó khăn. Huyện đã có nhiều chủ trương, chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư vào phát triển sản xuất. Những năm qua vốn đầu tư phát triển toàn xã hội của Thuỷ Nguyên không ngừng tăng nhanh, năm 2002 chỉ riêng vốn đầu tư XDCB trên địa bàn huyện của dân cư và tư nhân đã đạt 202 tỷ đồng, trong đó phần thiết bị đạt 81 tỷ đồng. Tuy nhiên nhu cầu về vốn đầu tư phát triển của huyện còn thiếu rất nhiều. 1.1.2. Tình hình phát triển của các ngành, các lĩnh vực nói riêng. a. Ngành nông - lâm - ngư nghiệp (nông nghiệp) Trong những năm qua sản xuất nông nghiệp của huyện đã đạt được những kết quả tương đối toàn diện, năm 2002 giá trị sản xuất nông nghiệp gấp 1,2 lần so với năm 1999. Tổng GDP của nông - lâm - ngư nghiệp tăng dần qua các năm và ngày càng cao hơn, cho thấy sự phát triển của các ngành này trong những năm qua. Trong nông nghiệp, GDP của cả trồng trọt và chăn nuôi đều tăng từ 1999 - 2002, GDP từ trồng trọt vẫn lớn hơn chăn nuôi rất nhiều (năm 1999 gấp 2,6 lần, năm 2000 gấp 2,6 lần, năm 2001 gấp 3,5 lần. Giá trị GDP ngành nông nghiệp thời kỳ 1999 - 2002 ( giá cố định năm 1994 ) Đơn vị: triệu đồng Chỉ tiêu 1999 2000 2001 Tổng GDP nông, lâm, thuỷ sản 134.564 144.000 150.181 A. Ngành nông nghiệp 101.085 108.010 112.184 1. Ngành trồng trọt 72.035 76.927 78.101 - Cây lương thực 55.650 55.218 55.435 _ Cây thực phẩm 4.158 4.983 5.058 _ Cây ăn quả 4.364 6.819 7.863 _ Cây công nghiệp 4.744 6.223 6.482 _ Cây khác 573 978 531 2. Ngành chăn nuôi 27.148 29.041 31.798 3. Dịch vụ nông nghiệp 1.902 2.042 2.285 B. Ngành lâm nghiệp 3.611 4.097 4.295 C. Ngành thuỷ sản 29.868 31.893 33.702 Nguồn: niên gián thống kê Thuỷ Nguyên 2002 Nhìn chung sản xuất nông nghiệp của Thuỷ Nguyên trong những năm qua đã có những bước phát triển tích cực, đến năm 2002 ngành nông nghiệp đóng góp khoảng 47,9% giá trị các ngành kinh tế của toàn huyện, cơ cấu nông nghiệp đã có sự chuyển dịch tích cực, tỷ trọng ngành chăn nuôi đã được nâng lên trong từng năm, tuy nhiên còn rất chậm. Bên cạnh đó là một huyện nông nghiệp chủ yếu là thâm canh lúa trình độ đa dạng hoá còn thấp, sản phẩm hàng hoá Ýt, tập quán canh tác đổi mới còn chậm. Tài nguyên đất đai, khí hậu chưa được khai thác hợp lý để phát triển sản xuất nông nghiệp. Quan hệ sản xuất chưa ổn định, các HTX đã chuyển đổi theo luật nhưng hoạt động chưa có hiệu quả. Hoạt động dịch vụ nông nghiệp đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc đáp ứng yêu cầu của ngành nhưng hoạt động này vẫn chưa đủ mạnh để đáp ứng yêu cầu của sản xuất. Về tiêu thụ sản phẩm, hiện nay trên địa bàn huyện chưa có những đầu mối lớn để là dịch vụ tiêu thụ sản phẩm. Hầu hết sản phẩm của ngành đều do người sản xuất tự đứng ra tiêu thụ trên địa bàn hoặc vùng lân cận. Huyện chưa tìm được thị trường tiêu thụ ổn định cho các sản phẩm nông nghiệp. Cơ sở vật chất kĩ thuật còn thiếu, chưa đảm bảo duy trì và từng bước nâng cao năng suất cây trồng, vật nuôi. Chưa có giải pháp hữu hiệu nhằm hạn chế sự ảnh hưởng của thiên tai đối với sản xuất. Tỷ trọng giá trị sản xuất ngành nông nghiệp thời kỳ 1999 - 2002 Đơn vị: % Chỉ tiêu 1999 2000 2001 2002 Tổng sè 100 100 100 100 1. Trồng trọt 71,04 67,02 64,87 58,53 Cây lương thực (so với trồng trọt) 88,4 82,7 80,4 80,59 Cây thực phẩm (so với trồng trọt) 7,9 8,7 9,4 9,39 Cây công nghiệp-cây ăn quả-cây dược liệu ( so với trồng trọt ) 2,9 7,1 8,3 7,92 Các cây khác 0,7 1,6 1,9 2,09 2. Ngành chăn nuôi 25,49 28,98 31,24 37,79 Chăn nuôi gia sóc ( so với chăn nuôi) 83,7 84,2 84,1 87,35 Chăn nuôi gia cầm (so với chăn nuôi) 14,5 14,3 14,5 1,17 Chăn nuôi khác ( so với chăn nuôi ) 1,8 1,5 1,4 0,95 3. Dịch vụ 3,47 4,00 3,88 3,67 Nguồn : niên gián thống kê Thuỷ Nguyên 2002 Qua bảng trên cho thấy, cơ cấu trong nông nghiệp, từ 1999 - 2002 cơ cấu nông nghiệp có sự chuyển dịch theo hướng giảm dần tỷ trọng trồng trọt, tăng dần tỷ trọng chăn nuôi và dịch vụ, nhưng sự chuyển dịch này còn diễn ra rất chậm. Trong ngành nông nghiệp, trồng trọt vẫn là ngành chiếm tỷ trọng lớn nhất. Mục tiêu đề ra của quy hoạch là phấn đâu đến năm 2000 cơ cấu nông nghiệp là 50%trồng trọt, 50% chăn nuôi đã không đạt được và khó có thể đạt được mục tiêu đến 2005, 2010 cơ cấu này là 45%, 55% và 40%, 60% Ngành trồng trọt. Trong thời kỳ 1999-2002, ngành trồng trọt có diện tích gieo trồng và năng suất cây trồng đã tăng nhanh, có giá trị sản xuất đạt tốc độ tăng trưởng 6%-6,5%/năm. Cơ cấu cây trồng và mùa vụ luôn luôn được huyện chỉ đạo theo hướng đi vào sản xuất hàng hoá. +Về cây lương thực: Do ảnh hưởng của quá trình CNH, HĐH, một số tuyến đường giao thông đi qua huyện được cải tạo mở rộng, một số nhà máy, cơ sở sản xuất mới được xây dựng đã tác động đến tình hình sản xuất nông nghiệp của huyện. Do đó diện tích trồng lúa tăng từ 10.190 ha năm 1996 lên thành 17.712 ha năm 1999, nhưng từ năm 1999 trở đi lại giảm mạnh, đến năm 2002 diện tích lúa cả năm của huyện chỉ đạt 16.973 ha, bình quân mỗi năm đã giảm 246 ha. Nhìn chung cơ cấu giống lúa đã thay đổi qua mỗi vụ sản xuất và ngày càng phù hợp hơn với điềsu kiện tự nhiên của huyện. Sản lượng lúa và năng suất bình quân đã tăng nhiều. Năng suất lúa bình quân thời kỳ 1999 - 2002 Đơn vị: tạ/ha Chỉ tiêu 1999 2000 2001 2002 Năng suất bình quân cả năm 42,8 45 45,07 45,62 _ Năng suất vụ đông 40,02 46 44,2 46,2 _ Năng suất vụ mùa 45,26 44,05 46,08 45,1 Nguồn: niên gián thống kê Thuỷ Nguyên 2002 Sản lượng lúa của huyện tăng từ 74.000 tấn năm 1996 lên 75.000 tấn năm 1999 và năm 2002 đạt 77.000 tấn. Sản lượng lú a nh­ vậy tăng so với sản lượng năm 1996 ( năm 1996 sản lượng là 71,2 tấn). Năng suất lúa bình quân năm 1999 (42,8tạ/ha) cao hơn năm 1996 (41,0tạ/ha) và tăng dần đến năm 2002 đã đạt sản lượng 45,62 tạ/ha. Diện tích cây màu lương thực là loại có giá trị kinh tế không cao đang giảm mạnh dần từ 995 ha năm 1999 xuống 655,5 ha năm 2002. Cây công nghiệp được trồng không nhiều, hàng năm diện tích chỉ dao động trong khoảng 40 - 60 ha, đưa lại giá trị thu nhập hàng năm khoảng trên dưới 300 triệu đồng/năm, tập trung vào một số cây như thuốc lào, đậu tương, mía. Diện tích trồng các loại cây này nhìn chung có xu hướng giảm dần trong các năm qua, chỉ có diện tích đậu tương là tăng lên. Diện tích cây ăn quả năm 2002 đạt 2.363 cao hơn nhiều năm 2000 (1998 ha) với năng suất nhìn chung tương đối cao, giá trị sản phẩm hàng hoá năm 2002 là 60 tỷ đồng. Trong những năm qua diện tích cây rau thực phẩm luôn tăng, đã hình thành nhiều khu vực trồng rau mang tính chất sản xuất hàng hoá (Thuỷ Đường, Hoà Bình, Thiên Hương...), về cơ bản đã đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng trong vùng và có xuất khẩu một số loại như cà chua, dưa chuột... Đến năm 2002 diện tích rau đậu đạt 1.320 ha và sản lượng đạt 19.732 tấn. Ngành chăn nuôi. Chăn nuôi trong những năm qua cũng đã có những bước phát triển khá, giá trị sản xuất năm 1999 đạt 76,1 tỷ đồng, chiếm 34,3%, đến năm 2002 đạt 170,4 tỷ đồng, chiếm 40,5% tổng giá trị sản xuất ngành nông nghiệp. Năm 2002 giá trị sản xuất của ngành chăn nuôi tăng gấp 1,2 lần năm 1999 nhưng nhìn chung ngành này vẫn chưa phát triển mạnh, chưa được chú ý đầu tư nhiều. Mặc dù Thuỷ Nguyên có điều kiện tốt để phát triển đàn lợn và gia cầm nhưng trong những năm qua tốc độ tăng của đàn lợn và gia cầm không cao. Lượng sản phẩm chăn nuôi xuất rakhỏi vùng chưa nhiều, chỉ chủ yếu phục vụ trong nội bộ huyện. Từ năm 1999 đến 2002 tổng đàn lợn tăng 16%, bình quân hàng năm tăng 7%. Năm 2002 tổng đàn lợn của huyện đạt 121.819 con gấp 1,2 lần năm 1999, cao hơn năm 1996 rất nhiều (81.000 con) và vượt mục tiêu của quy hoạch là phấn đấu đến năm 2000 đạt 104.000 con và năm 2005 là 108.000 con. Tổng đàn gia cầm năm 2002 là 650.000 con trong đó chiếm đa số là đàn gà, sản lượng thịt đàn gia cầm đạt 1200 tấn, tốc độ tăng là 12%/năm. Trong khi năm 1996 đàn gia cầm đã đạt 707.000 con và mục tiêu của quy hoạch là phấn đấu đến 2000 đạt 804.000 con, 2005 đạt 950.000 con Về ngư nghiệp. Về nuôi trồng và khai thác thuỷ sản, trong những năm qua thuỷ sản đã có bước phát triển. Diện tích nuôi trồng năm 2002 đạt 2.450 ha , sản lượng nuôi trồng đạt 4.823 tấn, trong khi năm 1996 diện tích nuôi trồng là 2.732 ha và sản lượng nuôi trồng là 2000 tấn. Năm 2002 trên toàn huyện có 1400 phương tiện tàu thuyền tham gia đánh bắt hải sản, sản lượng khai thác đạt 5.833 tấn (năm 1996 là 2000 tấn ). Giá trị sản xuất năm 2002 là 70.000 triệu đồng. Tuy nhiên hiện nay vốn đầu tư thấp chưa khai thác được hết tiệm năng thuỷ sản của huyện. Bảng: Diện tích và sản lượng nuôi thuỷ sản 1999 2000 2001 2002 Diện tích nuôi (ha) 2.307,7 2.060,0 2.057,9 2.450 Sản lượng nuôi (tấn) 2.576,5 3.700,0 4.276,0 4.823 Nguồn: niên gián thống kê Thuỷ Nguyên 2002 Ngành lâm nghiệp. Diện tích đất lâm nghiệp của huyện năm 1996 là 1.535 ha, đến năm 2002 giảm xuống còn 1.237 ha (chiếm 80% tổng diện tích đất có khả năng phát triển lâm nghiệp), trong đó diện tích tự nhiên khoảng 175,9 ha. Diện tích trồng rừng trong những năm qua luôn ổn định ở mức trên dưới 1000 ha. Lượng cây phân tán đước trồng cũgn tăng dần qua từng năm. Sản phẩm lâm nghiệp khai thác chủ yếu tập trung ở đây là gỗ tròn và củi. Giá trị kinh tế tạo ra không đáng kể. b. Ngành công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp và xây dựng. Ngành công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp. Ngành công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp của Thuỷ Nguyên nhìn chung còn nhỏ bé, manh múm, chưa phát triển, sản phẩm chất lượng chưa cao, tỷ suất sản phẩm hàng hoá còn thấp, chưa được sự quan tâm đầu tư thích đáng, lực lượng công nhân và thợ kỹ thuật có trình độ tay nghề cao ở đại phương còn quá Ýt, thị trường tiêu thụ còn hạn chế và không ổn định, điều kiện giao thông đi lại còn bị cách trở. Tuy nhiên trong những năm qua công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp của huyện đã có những bước phát triển. Cụ thể: Số cơ sở sản xuất côgn nghiệp trên địa bàn đã tăng liên tục, năm 1999 có 1.230 cơ sở thì đến năm 2002 đã có 1.352 cơ sở. Các ngành nghề và lĩnh vực sản xuất đã đa dạng và phong phú hơn nhiều so với những năm 1996 - 1997. Phần lớn các cơ sở sản xuất của huyện thuộc ngành công nghiệp chế biến (1389 cơ sở). Tổng số lao động hiện đang làm việc trong các ngành sản xuất công nghiệp của năm 2002 dạt 6.245 lao động, chiếm 5,5% tổng số lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế). Trong đó lao động chủ yếu là trong các ngành công nghiệp chế biến ( chiếm 87%). Giá trị sản xuất của ngành công nghiệp-tiểu thủ công nghiệp thời kỳ 1999-2002 theo giá thực tế Đơn vị: tỷ đồng Chỉ tiêu 1999 2000 2001 2002 Giá trị ngành CN - XD 91 105 133,4 182 - Giá trị sản xuất công nghiệp 61,5 75 85,11 105 - Giá trị sản xuất xây dựng 29,5 32 48,29 77 Nguồn : niên gián thống kê Thuỷ Nguyên 2002 Giá trị sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp của huyện tăng nhanh từ 1999 đến nay, tính đến 2002 giá trị sản xuất của công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp và xây dựng đã gấp 2,1 lần năm 1999, từ 54 tỷ năm 1999 tăng lên thành 113 tỷ đồng năm 2002 ( theo giá cố định năm 1994). Trong những năm qua sự đóng góp của công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp vào phát triển kinh tế của huyện nói chung chưa lớn, tỷ lệ giá trị của ngành này chỉ chiếm 26,4% trong tổng giá trị của các ngành của huyện (năm 2002). Sản phẩm chủ yếu tiêu dùng trong nội bộ huyện. Một số ngành sản xuất tiểu thủ công nghiệp đã bị mai mét do gặp nhiều khó khăn về thị trường, vốn đầu tư, nguồn nguyên liệu. Bên cạnh đó trình độ công nghệ hiện nay còn hết sức hạn chế, hầu hết các cơ sở sản xuất do huyện quản lý đều là các đơn vị thủ công nghiệp, kỹ thuật thô sơ, lạc hậu, trang bị đơn giản, cũ kỹ lạc hậu, tình trạng sản xuất mang nặng tính nhỏ lẻ, phân tán. Các đơn vị công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp do huyện quản lý thường có quy mô nhỏ, tập trung ở khu vực thị trấn Núi Đèo, thị trấn Minh Đức. Tình hình sản xuất của một số ngành chủ yếu: + Công nghiệp khai thác: tập trung chủ yếu vào ngành khai thác đá. Đến năm 2002 các ngành khai thác có 19 cơ sở sản xuất với hầu hết là cơ sở sản xuất khai thác đá, trong đó có một số đơn vị có quy mô hoạt động lớn như công ty xi măng Chinh Phong, công ty xi măng Hải Phòng, công ty đá, phụ gia Minh Đức. Các đơn vị này có sản lượng khai thác hàng năm khoảng 2,3 - 2,5 triệu tấn. Số lao động được thu hút vào đây là 811 lao động. Năm 2002 giá trị sản xuất đạt 18 tỷ đồng và toàn huyện đã khai thác được 399.000 m3đá các loại. Hoạt động khai thác đá được tập trung chủ yếu ở khu vực An Sơn, Minh Tân, nhất là khu vực Minh Tân có nhiều núi đá, điều kiện giao thông thuận lợi nên hoạt động khai thác đá phát triển khá mạnh. Ngoài tài nguyên đá xây dựng, trong vùng còn có mỏ sít ở Minh Đức, đang được khai thác phục vụ xi măng. Công nghiệp sản xuất thực phẩm và đồ uống: tính đến năm 2002 trên địa bàn huyện có 586 cơ sở sản xuất thực phẩm và đồ uống, thu hót 668 lao động và tạo ra giá trị sản xuất khoảng trên 4 tỷ đồng. Sản xuất may mặc: năm 2002 ngành sản xuất may mặc chủ yếu tập trung vào sản xuất trang phục, thu hót 276 lao động trong 209 cơ sở sản xuất và tạo ra giá trị sản xuất là 1,6 tỷ đồng. Sản xuất khoáng phi kim loại: tính đến năm 2002 toàn huyện có 155 cơ sở sản xuất, thu hót 1.732 lao động và tạo ra 31 tỷ đồng. Sản xuất sản phẩm từ kim loại: tính đến năm 2002 lĩnh vực này đã thu hót 665 lao động vào 72 cơ sở sản xuất và tạo ra giá trị sản xuất trên 48 tỷ đồng. Lĩnh vực sản xuất sản phẩm từ gỗ: đến năm 2002 toàn huyện có 136 cơ sở sản xuất đồ gỗ, thu hót 325 lao động và đạt giá trị sản xuất 5,7 tỷ đồng. Ngoài hệ thống các cơ sở sản xuất công nghiệp do huyện quản lý, trên địa bàn huyện còn có khá nhiều các cơ sở, nhà máy, xí nghiệp sản xuất công nghiệp không do huyện quản lý như xi măng Chinh Phong, xí nghiệp sữa chữa tàu Nam Triệu, đất đèn Tràng Kềnh, công ty hoá chất Minh Đức. Ngành xây dựng. Trong những năm qua ngành xây dựng của huyện đã phát triển tương đối ồn định, đáp ứng được yêu cầu phục vụ phát triển sản xuất và đời sống của nhân dân trong vùng. Có khá nhiều các công trình xây dựng do các đơn vị của huyện thực hiện đạt chất lượng tốt. Việc đẩy mạnh công tác quản lý nhà nước về xây dựng cơ bản đã được chú ý, các dự án, các công trình do huyện làm chủ đầu tư đều được tổ chức triển khai thực hiện theo đúng quy định của nhà nước, đảm bảo đúng tiến độ, thời gian, chất lượng công trình. Năm 2002 giá trị sản xuất của ngành xây dựng đạt hơn 66 tỷ đồng, gấp 2,1 lần so với năm 1999. Ngành dịch vụ. Tính đến năm 2003 ngành dịch vụ của huyện đã phát triển mạnh, đặc biệt khối dịch vụ vận tải và thương mại đã phát triển nhanh, giá trị sản xuất của ngành dịch vụ đã tăng từ 116 tỷ đồng năm 1999 lên 176,9 tỷ đồng năm 2002 và đến năm 2002 ngành này đã đóng góp 25,7% trong tổng giá trị sản xuất của các ngành trong huyện. Là một huyện nông nghiệp nên dịch vụ hỗ trợ sản xuất nông nghiệp đã phát triển, hàng năm hoạt động dịch vụ đã cung cấp hàng nghìn tấn đạm, lân, kali và hàng chục tấn thuốc BVTV phục vụ sản xuất. Dịch vụ giống cây trồng và vật nuôi trên địa bàn huyện cũng đã phát triển mạnh với hàng trăm lao động, cung cấp giống cây trồng và vật nuôi cho nhân dân trong huyện. Tuy nhiên các hoạt động này vẫn chưa xứng đáng với vai trò một bộ phận quan trọng trợ giúp sản xuất nông nghiệp phát triển. Bên cạnh đó các dịch vụ tưới tiêu, dịch vụ làm đất, dịch vụ tuốt lúa cũng đã phát triển mạnh với hình thức các tổ, các hộ. + Ngành thương mại - du lịch - khách sạn, nhà hàng. Năm 1999 giá trị sản xuất của dịch vụ thương mại đạt 62 tỷ đồng, đến năm 2002 đã đạt 75 tỷ đồng. Các ngành thương mại đã được đổi mới, sắp xếp phù hợp với cơ chế thị trường, tham gia tích cực trong việc điều tiết thị trường, hoạt động thương mại đã linh hoạt hơn, không những phát triển mạnh thị trường tại huyện mà còn vươn ra thị trường thành phố và thị trường các tỉnh lân cận. Một số trung tâm dịch vụ đã hình thành và phát triển ở các khu vực nông thôn, lượng hàng hoá ngày càng phong phú. Cơ cấu các thành phần kinh tế tham gia thị trường đã có sự biến động mạnh, số đơn vị kinh doanh thương mại ngoài quốc doanh tăng nhanh. Hoạt động thương mại của huyện hiện nay chủ yếu là do tư nhân nắm vai trò chủ yếu. Do sự phát triển của ngành thương mại còn hạn chế nên số lao động thu hút vào đây không cao, năm 2002 tổng số lao động của ngành đạt trên 8000 lao động. Thuỷ Nguyên là một huyện có tiềm năng lớn về phát triển du lịch với khoảng 25 di tích lịch sử, văn hoá, kiến trúc nghệ thuật được xếp hàng quốc gia và 70 di tích chưa xếp hạng. Tuy nhiên hoạt động du lịch hiện còn mang tính tự phát, quy mô tổ chức du lịch còn nhỏ. Việc quản lý khai thác vẫn chưa hợp lý đối với các điểm di tích chưa xếp hạng vì phần lớn giao cho xã, thôn quản lý thiếu kinh phí cho các hoạt động du lịch. Việc khai thác du lịch mới ở giai đoạn đầu, còn nhiều hạn chế, có sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch còn yếu nh­ cơ sở vui chơi giải trí, lưu trú, dịch vụ nhà hàng.... Do đó tốc độ tăng trưởng của ngành du lịch còn chậm, thu ngân sách về mặt này còn Ýt. Nhìn chung du lịch chưa được phát triển tương xứng với tiềm năng. 1.2. Hiệu quả về mặt xã hội. 1.2.1. Về lao động và việc làm. Tình hình lao động huyện Thuỷ Nguyên năm 2002 tt Chỉ tiêu Năm 2002 Số lượng %so với dân số 1 Dân sè trung bình 287.335 100 2 Nhân khẩu trong độ tuổi lao động 149.410 52 3 Lao động đang làm việc 114.063 40 Nguồn niên gián thống kê Thuỷ Nguyên 2002 Dân số huyện Thuỷ Nguyên vào thời điểm 2002 là 287.335 người, với số người trong độ tuổi lao động là 149.440 người ( chiếm 52%), trong đó 114.063 lao động đang có việc làm ( chiếm 40% dân số,76,32% số người trong tuổi lao động). Trong khi năm 1996 dân số trung bình là 275.441 người, với 137.720 người trong tuổi lao động(chiếm 50% dân số), trong đó có 121.690 lao động đang làm việc trong các ngành KTQD (chiếm 44,1%, chiếm 88,36% người trong tuổi lao động ). Nh­ vậy tình hình việc làm của huyện so với năm 1996 gần như không có biến chuyển mạnh, mặc dù số người có việc làm tăng lên nhưng %so với số người trong tuổi lao động lại thấp hơn do số người trong tuổi lao động cũng tăng lên. Đến năm 2002 cùng với sự gia tăng dân số, lượng lao động dư thừa ngày càng tăng, số lao động không có việc làm là 20.000 người, tăng so với năm 1996 là 7.760 người. Đây là một áp lực lớn mà huyện cần giải quyết. Về cơ cấu lao động trong các ngành kinh tế Cơ cấu lao động trong các ngành kinh tế của các năm 2001 - 2002 Chỉ tiêu 2001 2002 Số lượng % Số lượng % Lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế 113.160 100 114. 063 100 _ Nông - lâm - ngư nghiệp 99.142 87,6 99.666 87,3 _ Công nghiệp - xây dựng 8.937 7,9 9.207 8,0 _ Dịch vụ 5.081 4,5 5.190 4,7 Nguồn: niên gián thống kê Thuỷ Nguyên 2002 Trong cơ cấu lao động theo các ngành sản xuất như trên có thể thấy số lượng lao động làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng lớn nhất (87,3% lao động trong các ngành KTQD) và lớn hơn nhiều trong các lĩnh vực khác. Trong khi cơ cấu lao động này năm 1996 là nông, ngư nghiệp là 104.045 người ( chiếm 85,5% sè lao động đang có việc làm trong các ngành kinh tế), công nghiệp -tiểu thủ công nghiệp và xây dựng là 7.545 người ( chiếm 6,2%), dịch vụ 10.100 người ( chiếm 8,3%). Có thể thấy số lượng lao đông nông nghiệp vẫn chiếm chủ yếu, thể hiện sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của huyện còn chậm trong những năm qua. 1.2.2. Hiện trạng phát triển hệ thống hạ tầng . Sau nhiều năm xây dựng và phát triển tính đến nay Thuỷ Nguyên đã hình thành được hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật đáng kể, tuy chưa lớn nhưng rất quý để phát triển. Từ hạ tầng kỹ thuật phục vụ sản xuất đến hạ tầng kỹ thuật phục vụ đời sống. Năng lực kinh tế -xã hội được tăng thêm không ngừng đã góp phần làm thay đổi bộ mặt kinh tế -xã hội của huyện. Đó là mạng lưới giao thông, mạng lưới cung cấp điện, nước, thông- tin liên lạc, hệ thống trạm , trại trường học, bệnh viện, tạm y tế, cơ sở chế biến nông-lâm-ngư, công nghiệp và dịch vụ, phát thanh -truyền hình... +Về mạng lưới giao thông: Hiện nay trung ương và thành phố đang triển khai xây dựng đoạn quốc lộ 10 mới chạy qua huyện, đây là trụ giao thông lớn của giải ven biển Bắc Bộ. Chạy qua huyện còn có tỉnh lộ 351 và 352, đường 351 đoạn đi qua huyện dài 10 km là đoạn đường không lớn, hiện đã xuống cấp, đường 352 là tuyến tỉnh lộ khá dài đi qua huyện hiện cũng đã xuống cấp nhiều. Ngoài ra huyện còn có rất nhiều các tuyến trục giao thông huyện và các tuyến đường liên xã, liên thôn, trong thời gian qua thành phố và huyện đã đầu tư khá lớn vào việc cải tạo, nâng cấp . Hiện nay trên toàn huyện tất cả các xã đều có đường ô tô vào đến trung tâm xã. Về giao thông thuỷ, toàn huyện có 94 km đường sông. Tuy vậy tất cả đều đẻ phục vụ vận chuyển hàng hoá, trong đó chủ yếu để vận chuyển vật liệu xây dựng, trên địa bàn huyện hiện có một số cảng sông như bến Đá Bạc, Xuân Lai, bến Kiều, bến Minh Đức, bến Côn Sơn và Lập Lễ chủ yếu để phục vụ chuyên chở vật liệu xây dựng, vận chuyển hàng hoá, hành khách và khách du lịch. +Về hệ thống bưu chính viễn thông-phát thanh truyền hình, huyện đã có hệ thống thông tin liên lạc khá thuận lợi, đảm bảo thông tin kịp thời về kinh tế, văn hoá. Huyện hiện có 1 bưu điện cấp huyện và 5 bưu cục trung tâm lớn, tính đến năm 2002 toàn bộ 36 xã, thị trấn đều có bưu điện văn hoá xã. Huyện có 1 tổng đài tự động DMS, có mạng cấp thông tin hoàn chỉnh khắp huyện, đến 2002 toàn huyện đã được phủ sóng phát thanh và truyền hình và có tổng số điện thoại 4.000 máy với bình quân 14,4 máy/1000 dân. + Về mạnh lưới cung cấp điện, hiện 36 xã và thị trấn đều đã có điện lưới quốc gia, toàn huyện có 164 trạm biến áp cùng với 3000 km đường giây. Giá bán điện trên địa bàn huyện tương đối ổn định ở mức 600-625 đ/lWh. + Về hệ thống ngân hàng tín dụng, có mạng lưới đến các xã phục vụ kịp thời nhu cầu về vốn cho sản xuất kinh doanh và đời sống của dân. +Hệ thống thuỷ lợi và mạng lưới cung cấp nước sạch. Huyện hiện có hệ thống công trình có toàn bộ 76 cống lớn nhỏ dưới đê các sông: Cấm, Bạch Đằng, Đá Bạch và Kinh Thầy, có 196 trạm bơm với 234 máy bơm các loại nhưng phần lớn là máy bơm có công suất nhỏ từ 350-540 m3/h và hầu hết đã bị xuống cấp. Hệ thống kênh mương có 165 km kênh trục và kênh cấp I, trong đó có 2 trục chính là kênh Hòn Ngọc, hồ sông Giá và một số đầm tự nhiên. Hầu hết các kênh đều bị bồi lắng do khai thác đã lâu, Ýt có điều kiện vạo vét nên khả năng dẫn nước và trữ nước bị hạn chế. Về hệ thống đê điều toàn huyện có 77,8 km đê sông, hàng năm đều được tu bổ, tôn cao, áp trúc đảm bảo chống đỡ nước sông lên to và gió bão. + Mạng lưới cung cấp nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn. Hiện nay huyện có 2 nhà máy nước (tổng công suất 10.000 m3/ngđ) đặt tại thị trấn Núi đèo và thị trấn Minh Đức và nhiều nhà máy nhỏ tại các xã khác nhau. Đa số dân cư ở vùng nông thôn hiện nay đều sử dụng nước giếng khơi và nước ao, hồ. Về vệ sinh môi trường nông thôn, hàng năm huyện luôn đẩy mạnh phong trào vệ sinh môi trường với việc hỗ trợ một phần kinh phí cho người dân xây dựng các loại nhà về sinh tự hoại và các bể xử lý chất thải chăn nuôi, chất thải làng nghề. 1.2.3. Ngành văn hoá - y tế - giáo dục. Thông tin tuyên truyền được đẩy mạnh, phong trào văn hoá, văn nghệ, thể dục, thể thao, rèn luyện sức khoẻ tiếp tục phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu. Phong trào xây dựng gia đình, làng, xã văn hoá, khu dân cư tiên tiến, nếp sống mới đã đạt được một số kết quả nhất định, khơi dậy truyền thống văn hoá, bản sắc dân tộc, góp phần xây dựng nếp sống mới, con người mới trong cộng đồng dân cư, bài trừ thủ tục mê tín dị đoan, hạn chế xâm nhập văn hoá phẩm độc hại. Huyện đã xây dựng được 29 nhà văn hoá xã, 29 làng văn hóa và được công nhận 5 làng văn hoá đạt tiêu chuẩn cấp huyện. Nhìn chung y tế đã được chú trọng phát triển, công tác khám chữa bệnh đã được nâng cao về chất lượng, đội ngũ y bác sĩ đã được đào tạo nâng cao trình độ. Mạng lưới y tế cơ sở được củng cố, kiện toàn, cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật bệnh viện, phòng khám, trạm y tế được đầu tư nâng cấp. Công tác vệ sinh phòng dịch, phòng bệnh, các chương trình y tế được đầu tư nâng cấp. Công tác vệ sinh phòng dịch, phòng bệnh, các chương trình y tế quốc gia được triển khai đồng bộ, có hiệu quả. Số dân được khám chữa bệnh tăng. Độ ngũ cán bộ y tế được tăng cường về số lượng và chất lượng, thương xuyên chăm lo bảo vệ và nâng cao sức khoẻ cho dân. Các chương trình y tế quốc gia, y tế cộng đồng được thực hiện tốt. Cơ sở vật chất trang thiết bị phục vụ cho y tế được tăng cường. Các tiến bộ KHKT đã được ứng dụng vào sản xuất, y tế, giáo dục, đời sống... Hội đồng KHKT được kiện toàn. Chương trình nước sạch và vệ sinh môi trường được quan tâm. Trong giáo dục, sự nghiệp giáo dục và đào tạo với mục tiêu nâng cao dân trí , đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài có nhiều chuyển biến tiến bộ. Hình thành thêm các loại hình trường lớp để đáp ứng nhu cầu học tập của nhân dân. Tỷ lệ học sinh trong độ tuổi đi học ngày càng tăng. Chất lượng giáo dục có tiến bộ rõ, số giáo viên dạy giỏi và học sinh giỏi ngày càng nhiều. Toàn huyện duy trì và giữ vững phổ cập tiểu học, hoàn thành phổ cập PTCS. Công tác chốgn mù chữ, bổ túc văn hóa, dạy nghề, dạy ngoại ngữ được mở rộng. Tính đến năm 2002 trên toàn huyện có 74 trường tiểu học và THCS, 8 trường PTTH. Hàng năm thường xuyên có khoảng 65.000 học sinh theo học. Số giáo viên hiện có là 2.700 người. 1.3. Tác động đến môi trường do thực hiện theo quy hoạch. Dự án quy hoạch kinh tế-xã hội huyện Thuỷ Nguyên giai đoạn 1996-2010 đến năm 1998 mới được UBND thành phố Hải Phòng duyệt và huyện Thuỷ Nguyên đi vào thực hiện, nên tính đến năm 2003 Thuỷ Nguyên thực hiện quy hoạch kinh tế xã hội theo dự án dự án mới được 5 năm. Sau 5 năm thực hiện Thuỷ Nguyên đã đạt được một số thành tựu và mục tiêu mà quy hoạch đề xuất về kinh tế-xã hội. Nhưng dự án quy hoạch này chỉ tính đến những mục tiêu và phương hướng phát triển về kinh tế-xã hội mà không tính đến yếu tố môi trường. Chính vì vậy, cộng với những hoạt động phát triển kinh tế trước khi thực hiện quy hoạch, môi trường trên địa bàn huyện hiện tại đã bị những tác động xấu. Tình hình môi trường trên địa bàn huyện nói chung tính đến năm 2003 như sau: Môi trường không khí Với hoạt động canh tác nông nghiệp là chủ yếu, mật độ cây xanh lớn, hoạt động công nghiệp còn rất thấp, các tác nhân gây ô nhiễm không khí chủ yếu là do đốt nhiên liệu sinh hoạt, các phản ứng háo tự nhiên sinh ra CO2. Nhưng với mật độ dân cư Ýt, cây xanh nhiều, các tác nhân gây ô nhiễm không khí không đáng kể, có thể nói chất lượng không khí ở Thuỷ Nguyên cũng như các vùng nông thôn khác của Hải Phòng hầu như chưa bị ô nhiễm. 1.3.2. Môi trường đất. Phần lớn dân số Thuỷ Nguyên đang sống bằng làm nông nghiệp, do vậy để đảm bảo điều kiện canh tác hàng năm đã phải sử dụng một lượng phân bón các loại như phân chuồng, phân đạm, lân, kali… và lượng thuốc bảo vệ thực vật rất lớn. Vấn đề sử dụng bừa bãi, quá tải không hợp lý phân bón và thuốc bảo vệ thực vật đã dẫn đến ảnh hưởng xấu đến chất lượng môi trường đất, nước và sức khoẻ cộng đồng. Tình hình sử dụng phân bón và thuốc trừ sâu: vì muốn tăng sản phẩm của mình và do thiếu sự hướng dẫn cụ thể, ý thức còn chưa cao cùng với trình độ sản xuất còn lạc hậu, trong hoạt động sản xuất nông nghiệp người dân đã sử dụng một khối lượng lớn các loại phân bón hữu cơ và vô cơ cùng một lượng lớn thuốc trừ sâu cho đồng ruộng của mình. Trung bình một người dân đã sử dụng khoảng 300 kg đạm, 600 kg lân, 100 kg kali và 10 tấn phân chuồng cho 1 ha lúa. Bên cạnh đó do tập quán sinh sống và canh tác lâu đời của người dân nông thôn, do nguồn thu chủ yếu của nông thôn dựa vào việc trồng trọt và chăn nuôi gia sóc, gia cầm nên một số nơi còn tồn tại hình tức hố xí và chuồng trại chăn nuôi gia sóc gia cầm để lấy phân bón ruộng, nuôi cá. Nhất là ở những nơi phát triển cây hoa màu, cây công nghiệp và những nơi phát triển mạnh nghề nuôi cá nước ngọt thì hiện tượng trên còn diễn ra khá phổ biến. Tình trạng này làm tăng thêm ô nhiễm đặc biệt ô nhiễm về đất. Theo kết quả điều tra mấy năm gần đây xuất hiện rất nhiều loại sâu bệnh nh­ bọ trĩ, ruồi đen, sâu gai, sâu đục thân, sâu cuốn là với mật độ cao và mức độ thiệt hại lớn. Do vậy hàng năm người dân làm nông nghiệp đã sử dụng một lượng lớn thuốc trừ sâu. Trung bình một vụ lúa người dân phải phun thuốc trừ sâu từ 2 đến 3 lần. 1.3.3. Môi trường nước. Môi trường nước mặt. Từ nhiều năm nay do sử dụng các loại thuốc trừ sâu, diệt cỏ, canh tác chưa hợp lý đặc biệt nuôi trồng thuỷ sản tràn làn, thiếu quy hoạch đã ảnh hưởng đến nguồn nước mặt phục vụ sản xuất và sinh hoạt. Hầu hết nông dân chưa có được nước đảm bảo tiêu chuẩn vệ sinh trong sinh hoạt hàng ngày. Các xã ven sông Bạch Đằng của Thuỷ Nguyên đã xảy ra dịch bệnh trong nuôi trồng thuỷ sản làm thiệt hại về năng suất và giảm chất lượng môi trường sinh thái. Hầu hết các nhà máy, xí nghiệp, các cơ sở thủ công nghiệp trên địa bàn huyện

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docMt22.doc
Tài liệu liên quan