Đề tài Đảm bảo nguồn nguyên liệu bông tự nhiên trong nước cho công nghiệp dệt may

Tài liệu Đề tài Đảm bảo nguồn nguyên liệu bông tự nhiên trong nước cho công nghiệp dệt may: Lời mở đầu Bước vào thế kỉ 21 thế giới đang bước vào thời đại của hội nhập , quốc tế hoá sâu sắc cùng nền kinh tế tri thức và khoa học công nghệ hiện đại , Đảng và Nhà nước nhận thức rõ về xu thế chung này của thời đại…Gia nhập WTO, Việt Nam đã chính thức ghi tên mình vào sân chơi bình đẳng của nền kinh tế thế giới, đó là cơ hội cũng chính là thách thức cho nền kinh tế Việt Nam...Ngành công nghiệp dệt may, cùng với dầu thô là một trong hai ngành hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, đóng góp lớn cho ngân sách quốc gia, tạo 2 triệu việc làm cho người lao động của đất nước, với tư cách đó ngành công nghiệp dêt may càng phải chịu nhiều áp lực hơn. Để tồn tại và phát triển, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam buộc phải nâng cao sức cạnh tranh của mình bằng nhiều cách. Đối với nền công nghiệp đang phải nhập khẩu hầu hết nguyên liệu, thì viêc đảm bảo nguồn nguyên liệu nội địa- chủ yếu là bông xơ là 1 vấn đề cấp bách được các nhà sản xuất và lãnh đạo ngành dệt may, cũng như các nhà hoạch định ...

doc31 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1237 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Đảm bảo nguồn nguyên liệu bông tự nhiên trong nước cho công nghiệp dệt may, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu Bước vào thế kỉ 21 thế giới đang bước vào thời đại của hội nhập , quốc tế hoá sâu sắc cùng nền kinh tế tri thức và khoa học công nghệ hiện đại , Đảng và Nhà nước nhận thức rõ về xu thế chung này của thời đại…Gia nhập WTO, Việt Nam đã chính thức ghi tên mình vào sân chơi bình đẳng của nền kinh tế thế giới, đó là cơ hội cũng chính là thách thức cho nền kinh tế Việt Nam...Ngành công nghiệp dệt may, cùng với dầu thô là một trong hai ngành hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, đóng góp lớn cho ngân sách quốc gia, tạo 2 triệu việc làm cho người lao động của đất nước, với tư cách đó ngành công nghiệp dêt may càng phải chịu nhiều áp lực hơn. Để tồn tại và phát triển, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam buộc phải nâng cao sức cạnh tranh của mình bằng nhiều cách. Đối với nền công nghiệp đang phải nhập khẩu hầu hết nguyên liệu, thì viêc đảm bảo nguồn nguyên liệu nội địa- chủ yếu là bông xơ là 1 vấn đề cấp bách được các nhà sản xuất và lãnh đạo ngành dệt may, cũng như các nhà hoạch định chính sách quan tâm . Đó vừa là yêu cầu bắt buộc, vừa là mục tiêu mà ngành dệt may cần thực hiện trong “Chiến lược tăng tốc đến năm 2010”. Với tầm quan trọng như vậy em xin chọn đề tài “Đảm bảo nguồn nguyên liệu bông tự nhiên trong nước cho công nghiệp dệt may” với mong muốn được tìm hiểu về một ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước. Đề án của em gồm 3 phần: Phần 1: Sơ lược về cây bông với vai trò là nguyên liệu cho ngành dệt may Phần 2: Những nhân tố ảnh hưởng đến ngành trồng bông Phần 3: Thực trạng của việc phát triển bông tự nhiên trong nước những năm qua - Giải pháp và kiến nghị. Em xin chân thành cảm ơn PGS.TS.Vũ MinhTrai, người đã trực tiếp hướng dẫn và các thầy cô cùng các bạn đã giúp em hoàn thành đề án này. Phần I: Sơ lược về cây bông với vai trò là nguyên liệu cho ngành dệt may 1. Vài nét về cây bông Cây bông thuộc dòng họ Malvaceae, chi Gossypium, là cây trồng lấy sợi rất quan trọng. Nó cung cấp nguyên liệu dệt vải mặc cho con người. Ngoài việc trồng chủ yếu để lấy xơ, hạt bông còn được dùng làm dầu ăn cho người và gia súc, thân cây bông làm nguyên liệu cho công nghiệp giấy, gỗ ép, làm chất đốt và làm phân xanh. Có thể nói cây bông là một cây công nghiệp có hiệu quả kinh tế và đem lại lợi nhuận cao cho một số nước trồng bông lớn trên thế giới như Liên Xô (cũ), Mỹ, Trung Quốc, Ân Độ, Pakistan…Hiện nay ở Việt Nam cây bông đang được Nhà nước rất quan tâm đầu tư phát triển. 1.1. Đặc điểm của cây bông. - Đặc điểm của hạt bông Hạt bông có hình bầu dục nhọn một đầu, hạt bông đã chín thì hạt màu đen hoặc nâu đen rất cứng. Hạt bông chưa chín thì vỏ hơi mềm có màu hồng, màu nâu, màu vàng, có khi có màu trắng. Hạt bông bao gồm: Lông áo, vỏ, nhân (nội nhũ, phôi). Phần ngoài của vỏ hạt là xơ bông (có 2 loại: xơ ngắn và xơ dài). Sau khi cán bông hạt (hạt bông đang còn xơ bám) lấy xơ dài để lại xơ ngắn bám trên vỏ hạt, xơ ngắn này người ta còn gọi là lông áo vỏ hạt. Màu sắc của sơ ngắn thay đổi tuỳ theo giống bông, có màu trắng, màu tro, màu nâu vàng.Hiện nay trong công nghệ sản xuất hạt giống người ta thường khử bỏ lớp lông áo trên vỏ hạt để tạo điều kiện cho hạt nảy mầm được dễ dàng, đồng thời khử mồng mống sâu bệnh. Thành phần hoá học của hạt bông bao gồm: Protein: 21,7% MgO : 0,54% CaO : 0,2% N : 3,0% Gluxit : 45,6% Lipit : 21,4% P2O5 : 1,1% K2O : 3,96% Ro : 3,96% Khối lượng của hạt bông là một chỉ tiêu rất quan trọng để đánh giá chất lượng hạt giống, khối lượng 100 hạt của các hạt giống bông luồi từ 8-10 gam, các giống bông lai 10-13 gam. Trong cùng một loài, giống chín sớm hạt thường nhỏ hơn giống chín muộn. Trên cùng một cây thì quả gần gốc, gần thân chính có hạt nặng hơn. - Giai đoạn ngủ nghỉ, nảy mầm của hạt bông: Hạt bông khi mới thu hoạch thường có sức nảy mầm kém, vì lúc này trong vỏ hạt còn tồn tại một số chất như: Acid Absisic và Paracumaric làm cản trở sự nảy mầm của hạt. Do vậy hạt giống bông cần có một thời gian ngủ nghỉ nhất định sau khi thu hoạch. Trong thời gian ngủ nghỉ hạt bông phải được phơi khô, bảo quản trong điều kiện thích hợp để làm giảm hàm lượng các acid này xuống và tạo điều kiện tốt cho hạt nảy mầm. Hạt bông thường chứa 7% nước, với lượng nước này trong điều kiện 20-32 độ C thì sự nảy mầm có thể bảo quản được đến thứ 28. Nếu độ ẩm hạt 14%, ở nhiệt độ 21 độ C thì sau 17 tháng sẽ hoàn toàn mất khẳ năng nảy mầm, ở nhiệt độ 32 dộ C thì sau 4 tháng khả năng nảy mầm mất hoàn toàn.Nguyên nhân làm mất khẳ năng nảy mầm là do độ ẩm trong hạt cao, kết hợp với sự tăng nhiệt độ môi trường dẫn đến sự giảm đột ngột hàm lượng đường, phôtpho, các nuclêotit, protêin, các vitamin và sư tăng lên của các acid béo tự do trong hạt. 1.2. Các giai đọan phát triển của cây bông. - Giai đoạn nảy mầm Giai đoạn này xúc tiến từ 4-7 ngày tính từ khi hạt giống bông hút đủ nước cho tới khi xoè hai lá mầm. Muốn cho hạt mọc nhanh, mọc đều, cần phải có các điều kiện cơ bản sau: nhiệt độ, độ ẩm và oxy. +Nhiệt độ: Khi hạt bông đã đủ ẩm rồi thì nhiệt độ càng cao, hạt nảy mầm càng nhanh. Nhiệt độ tốt nhất cho quá trình nảy mầm là 25-30 độ C và trên 40 độ C hạt gần như không mọc. +Độ ẩm : Độ ẩm của đất thích hợp nhất cho quá trình nảy mầm là 90%. + Oxy : Rất cần cho quá trình nảy mầm, trong điều kiện đất nặng gieo xong gặp mưa, đất đóng váng, không khí không lưu thông được hạt sẽ không mọc. Khi gieo hạt phải đảm bảo độ ẩm thích hợp, làm đất nhỏ vừa phải, độ sâu thích hợp, độ nén đất vừa phải thì hạt mới nảy mầm mọc đều được. - Giai đoạn cây con: Giai đoạn này tính từ khi xoè hai lá mầm đến khi có nụ đầu tiên, khoảng 24-36 ngày. ở giai đoạn này rễ được ưu tiên phát triển nhiều nhất. Bông giai đoạn cây con rất mẫn cảm với điều kiện ngoại cảnh, do vậy việc chăm sóc bông giai đoạn cây con hết sức quan trọng, nó ảnh hưởng rất lớn tới sinh trưởng phát triển, cho năng suất bông hạt sau này. Các biện pháp kỹ thuật cần chú ý trong giai đoạn này là : Tỉa định cây kịp thời. Làm cỏ và xới xáo sớm. Cung cấp dinh dưỡng sớm. Tưới nước khi cần thiết, không được để bông bị úng nước. - Giai đoạn nụ: Giai đoạn này tính từ khi xuất hiện nụ đầu tiên cho tới khi có hoa nở đầu tiên nở, thời gian từ 20-25 ngày. Nụ bông do mầm hoa phân hoá từ mầm hỗn hợp mà thành. Mầm hoa là do ở mỗi đỉnh của đốt trên cành quả phát dục thành. Cây bông từ lúc ra nụ cho đến khi quả chín nở hai quá trình sinh trưởng dinh dưỡng và sinh trưởng sinh thực luôn chồng chéo nhau, tức là cùng một lúc vừa ra cành lá, vừa ra hoa, quả cứ thế liên tục. Quan hệ giữa sinh trưởng dinh dưỡng và sinh trưởng sinh thực là quan hệ thúc đẩy lẫn nhau. Sinh trưởng dinh dưỡng (thân, lá, cành) tốt sẽ cung cấp vật chất cần thiết cho sự ra nụ, hoa và thành quả. Nếu cây còi cọc (sinh trưởng dinh dưỡng kém) thì chất hữu cơ tạo ra trong cây không đủ, gây trở ngại cho việc ra nụ, nở hoa và kết trái. Trong trường hợp cây sinh trưởng quá mạnh, chất dinh dưỡng tiêu phí chủ yếu cho thân, lá, cây bông trở thành “bốc lá”, không đáp ứng đầy đủ yêu cầu của ra nụ, hoa, quả. Do vậy cần phải chú ý điều tiết cây bông sinh trưởng, phát triển cân đối để đạt được năng suất bông cao. - Giai đoạn hoa nở rộ: Giai đoạn này tính từ khi cây có hoa đầu tiên nở cho tới khi có quả đầu tiên nở, thời gian 55-60 ngày. Hoa bông thuộc loại hoa hoàn toàn, bao gồm tai hoa, đài hoa, tràng hoa, nhị đực, nhuỵ cái. Hoa bông là hoa lưỡng tính, tự hoa thụ phấn là chính, ngoài ra có khoảng 2-12% số hoa thụ phấn từ hoa ngoài (do côn trùng). Tai hoa bông hình tam giác, hoa có ba tai. Đài hoa do năm lá đài hợp thành vây lấy tràng hoa. Nhị bông có 60-90 chỉ thị, trên đầu mỗi chỉ thị có bao phấn, trong bao phấn có nhiều hạt phấn, hạt phấn hình cầu, bề mặt có nhiều gai . Nhụy hoa bông bao gồm đầu nhụy, trụ và bầu, bầu có 3-5 vách ngăn, trong mỗi vách ngăn có 7-11 noãn, noãn sau này sinh trường thành hạt bông. Hoa bông thường nở từ 7-9 giờ sáng, những ngày nhiệt độ cao hoa nở sớm, nhiệt độ thấp hoa nở muộn. Hoa nở buổi sáng có màu trắng, về chiều hoa chuyển qua màu hồng, sang ngày thứ hai có màu hồng tía. Hoa bông nở theo trình tự từ dưới lên trên, từ trong ra ngoài. Hoa ở vị trí 1 của cành thứ nhất nở cách hoa ở vị trí 1 cành thứ 2 từ 1-2 ngày.Trong cùng một cành, hoa ở vị trí 1 nở cách hoa ở vị trí 2 từ 5-6 ngày. Thời gian cây bông ra hoa có thể kéo dài tới 2 tháng, nhưng cũng có thể 1 tháng tuỳ theo giống hoặc tác động các biện pháp kỹ thuật (điều tiết nước, phân bón, trừ sâu tốt). Điều tiết làm cho bông ra hoa nở quả sớm tập trung là một biện pháp kỹ thuật rất tốt để né tránh những lứa sâu hại. Chú ý trong giai đoạn từ khi hoa bắt đầu nở cho đến khi hoa nở rộ, hình thành quả là thời kì nhựa lưu thông mạnh, nhựa sống được hút từ đất qua rễ lên cành lá, nuôi nụ, hoa, quả. Do vậy thời kì này phải cung cấp dinh dưỡng, tưới nước, tiêu úng (nếu ngập mưa) kịp thời, tạo ruộng bông thông thoáng, tạo điều kiện cho cây quang hợp, đồng thời cho quá trình thụ tinh và hình thành quả, Đặc biệt cảnh giác với các loại cây đục quả. - Giai đoạn quả nở: Hoa bông sau khi được thụ phấn tốt, đài không rụng thì quả bông được lớn dần. Quả bông thuộc loại quả nang, do 3-5 lá noãn hợp thành, mỗi lá noãn chiếm một phần của quả bông. Vỏ quả bông có chứa diệp lục nhưng ít,khi quả bông lớn lên và chín, vỏ quả từ màu lục biến thành màu nâu. Khi quả già thành thục hoàn toàn, vỏ quả mất nước, co lại, nứt ra, để phơi những múi bông, xơ bông khô và nở phồng lên. Lúc thu hoạch, chỉ rút các múi bông hạt ra. Giai đoạn quả nở rất cần nắng, nắng nhiều quả già mau nở. Trong giai đoạn này nếu trời mưa nhiều, độ ẩm không khí cao, quả sẽ bị thối, ảnh hưởng tới năng suất bông hạt và chất lượng xơ bông. 2.Cây bông nguyên liệu quan trọng cho ngành dệt may: Ngành dệt may Việt Nam trong những năm qua đã có bước tiến đáng kể,tốc độ tăng trưởng cao, tạo được công ăn việc làm cho 2 triệu lao động trực tiếp và hàng vạn lao động gián tiếp trong sản suất nguyên liệu như trồng bông, trồng dâu nuôi tằm. Thế nhưng việc sản xuất nguyên liệu lại chưa được chú trọng đúng mức đã ảnh hưởng không nhỏ đến sứ phát triển của ngành trong thời gian qua. Đây quả là một nghịch lý đối với một quốc gia nông nghiệp có ngành dệt may đã trở thành ngành nghề truyền thống từ hàng nghìn năm nay như Việt Nam. Đối với Việt Nam, nguyên liệu phục vụ cho ngành dệt có rất nhiều loại như bông xơ, tơ, sợi…Trong đó, người ta thường nhắc đến hai loại nguyên liệu chủ yếu quyết định, quan trọng cho sự phát triển của ngành dệt may Việt Nam, đó là bông xơ và tơ tằm. Việc nhập khẩu hầu hết nguyên liệu là một trong những nguyên nhân khiến cho giá hàng dệt may Việt Nam cao hơn của các nước trong khu vực từ 10%-20%, riêng với Trung Quốc khoảng 20%. Gia nhập WTO, hàng dệt may Việt Nam phải cạnh tranh gay gắt trên sân nhà với sản phẩm của các nước, đặc biệt là Ân Độ và Trung Quốc. Việc cắt giảm chi phí và củng cố lại sản xuất có thể chưa đủ để gia tăng khả năng cạnh tranh của một nền công nghiệp đang thiếu nguồn nguôn liệu nội địa. Các nhà sản xuất ngành dệt may Việt Nam phải nhập khẩu hầu hết nguyên liệu, trong khi Trung Quốc có thể tìm nguồn cung ngay tại trong nước.Đảm bảo nguồn nguyên liệu trong nước, trong đó có nguồn nguyên liệu bông xơ tự nhiên là một vấn đề cấp bách đặt ra cho ngành dệt may Việt Nam 3. Tiềm năng của cây bông: Có thể nói cây bông vừa là cây trồng truyền thống, vừa là cây trồng mới ở nước ta. Là cây truyền thống bởi vì nó đã có từ lâu đời . Cho đến nay , nghề trông bông dệt vải, dệt thổ cẩm rất phổ biến trong cộng đồng các dân tộc ít người ở vùng núi các tỉnh phía Bắc, đồng bào Chăm ở Duyên Hải miền Trung và đồng bào Khơ Me ở Nam Bộ. Ngày nay khi nền công ngiệp tơ, sợi nhân tạo trên thế giới đang thống lĩnh các sản phẩm may mặc của con ngưòi thì ở các nước phát triển xu thế dùng vải mặc từ bông từ bông tự nhiên bắt đầu xuất hiện và tăng cao bởi tính ưu việt của sợi bông thiên nhiên mà các loại sợi tổng hợp không có được. Loài người văn minh lại trở về với sản phẩm may mặc truyền thống. Cây bông là cây trồng mới bởi vì dưới giác độ bông công nghiệp, lượng xơ bông sản xuất trong nước cung cấp cho ngành dệt ở nước ta còn quá ít so với tiềm năng đất đai và nhu cầu nguyên liệu. Diện tích trồng bông ở tập trung của nước ta hiện nay khoảng 15-17 ngàn ha, sản lượng bông hàng hoá trong nước chỉ chiếm khoảng 10% nhu cầu hiện tại, thị trường tiêu thụ bông trong nước rộng lớn, hiện nay đang giành cho nước ngoài. Từ sau ngày đất nước thống nhất, Đảng và Nhà Nước đã rất quan tâm đến việc phát triển cây bông. Tuy nhiên cây bông đã trải qua nhiều thăng trầm và chỉ những năm gần đây các kết quả nghiên cứu, thực nghiệm, sản xuất thử của ngành bông mới phần nào phản ánh đúng tiềm năng và hiệu quả của cây bông vải Việt Nam. Nói cây bông có tiềm năng to lớn ở nước ta bởi vì : + Cây bông vải vừa là cây dài ngày, vừa là cây hàng năm có rất nhiều ưu thế trên nhiều mặt kể cả trồng trọt, chế biến và sử dụng. Hơn nữa bông vải là cây trồng không kén đất. Các loại đất nâu, đen, sỏi cơm, đất bazan trung tính, đất xám phát triển trên đá granit, đất xám vùng bán khô hạn và đất vùng phù sa cổ có tầng dày trên dưới 1m đều có thể trồng bông. Nhờ vậy có thể tận dụng được nhiều loại đất để trồng xen, trồng gối với nhiều loại cây ngắn ngày, hoặc trồng trong các vườn cây lâu năm, dài ngày (như cà phê, cao su, điều) trong thời kì kiến thiết cơ bản. Chính vì vậy việc phát triển cây bông không tranh chấp với các cây trồng khác. + Cây bông hành năm được trồng vào vụ mưa (vụ 2) nên đã tận dụng được thời vụ gieo trồng và sử dụng đất triệt để hơn bằng phương pháp trồng gối vụ và trồng xen. Bằng cách trồng bắp lai xen đậu vụ 1, gối bông vào bắp trước khi thu hoạch 15-20 ngày, ở vụ 2 có thể xen đậu vào bông tạo nên một mô hình canh tác hợp lý, tăng thu nhập lên 2 lần so với bắp xen đậu, hoặc tăng 1,5 lần so với bắp vụ 1 và bông thuần vụ 2. +Trồng bông còn có một lợi thế nữa là tận dụng lao động nông nghiệp mùa khô ở những vùng trồng trọt nhờ nước trời. Nhờ đặc tính vừa sinh trưởng vừa ra hoa kết quả kéo dài của cây bông, vì vậy thời vụ thu hoạch bông kéo dài hơn các cây trồng khác từ 30 -50 ngày, là lúc mà lao động nông nhàn không có việc làm. Chưa kể là việc chế biến bông kéo sợi, dệt vải là những ngành nghề sử dụng lao động rất cao. Vì vậy có thể nói cây bông là cây trồng giải quyết việc làm. Vấn đề này ở một nước đông dân như nước ta cần được đặt lên hàng đầu. + Những năm gần đây do sinh thái, khí hậu toàn cầu biến đổi có nhiều bất lợi, cùng với tình trạng chặt phá rừng nên tình trạng hạn hán thường xuyên xảy ra đã gây nhiều thảm hoạ và thất thoát mùa màng, nhất là đối với cây trồng cạn. Nhờ đặc tính chịu hạn của cây bông, đặc biệt là giống bông lai ngay cả thời kì cây con. Nếu không có mưa 25- 30 ngày cây bông chỉ sinh trưởng chậm hoặc dừng sinh trưởng phát triển chứ không chết như bắp, đậu. Khi mùa mưa trở lại cây bông tiếp tục ra hoa, kết trái và vẫn cho năng suất. Chính vì vậy việc đưa cây bông vào cơ cấu cây trồng được coi là một biện pháp chống hạn hiệu quả. + Các kết quả nghiên cứu và chuyển giao các tiến bộ kỹ thuật của ngành bông vào sản xuất trong những năm gần đây đã giải quyết hai vấn đề hết sức quan trọng, tạo tiền đề vững chắc để phát triển mạnh mẽ bông vải. + Cây bông là cây trồng tạo ra nguyên liệu thay thế nhập khẩu cho nên có thể coi việc trồng bông là tạo ra ngoại tệ từ nội bộ kinh tế. Nếu cứ trồng bông 1 ha thì với năng suất bình thường như hiện nay thì thu hồi bông xơ 750 USD và từ hạt bông 100 USD. + Cây bông là là cây trồng có giá trị sử dụng cao: Ngoài xơ bông là sản phẩm chính để dệt vải, bông vệ sinh, y tế…., dầu từ hạt bông là sản phẩm có giá trị dinh dưỡng và có nhiều ưu thế trong chế biến thực phẩm tốt hơn các dầu thực vật khác (nhờ có nhiệt độ sôi cao hơn) và được rất ưa chuộng ở một số thị trường trên thế giới : Nhật Bản, Malaixia, Lào,…Khô dầu bông là sản phẩm làm thức ăn tinh cho gia súc, gia cầm có hàm lượng protein cao (47%), đặc biệt đối với bò sữa có hiệu suất năng suất sữa so với thức ăn khác 1,5 lần. Ngoài ra thân cây bông và vỏ hạt bông có hàm lượng cellulo cao có thể làm giấy, tấm cách nhiệt, ván hoặc làm chất đốt. Như vậy có thể nói đất nước ta có thể trồng được bông và tiến tới tự túc nguyên liệu dệt trong nước. Việc trồng bông đem lại lợi ích rất nhiều mặt. Tuy nhiên hiện nay cây bông còn chưa được chú ý quan tâm của các ngành, các cấp và các địa phương. Để đạt được mục tiêu phát triển bông đến năm 2010 mà Chính Phủ đã đề ra, cần thiết phải quy hoạch vùng nguyên liệu, các chính sách đầu tư cơ sở hạ tầng cho sản xuất, chế biến gắn với nguồn nguyên liệu, cũng như tăng cường công tác khuyến nông, hỗ trợ công tác nghiên cứu khoa học và chuyển giao các tiến bộ khoa học kỹ thuật trong những bước đi ban đầu nhằm đưa cây bông hội nhập vào cơ cấu cây trồng nông nghiệp ngày nay. PhầnII: Những nhân tố ảnh hưởng đến ngành trồng bông Ngành trồng bông là 1 ngành sản xuất cây công nghiệp chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố khác nhau bao gồm : nhân tố khách quan , nhân tố chủ quan ; nhân tố tự nhiên , nhân tố con người …nhưng trong điều kiện ngành bông nước ta hiện nay, có thể chia ra làm 2 nhân tố chủ yếu sau: 1. Nhân tố trong sản xuất: 1.1. Điều kiện tự nhiên: Cây bông là cây có nguồn gốc vùng nhiệt đới, do vậy nó đòi hỏi cao về nhiệt độ. Cây bông sinh trưởng và phát triển bình thường trong điều kiện nhiệt độ từ 25-30 độ C; ở nhiệt độ dưới 25 độ C sự phát triển của cây bông chậm lại và nhiệt độ dưới 17 độ C cây bông bị cằn lại. Nhiệt độ từ 37-40 độ C cây bông ngừng phát triển. Trong trường hợp nhiệt độ cao hơn mức bình thường, ở giai đoạn đầu của chu kì sinh trưởng và phát triển (trước giai đoạn nụ) thì thúc đẩy cây bông sinh trưởng, phát triển nhanh hơn. Nếu ở giai đoạn hoa rộ thì làm giảm khả năng hấp thụ phấn, làm rụng đài hoa nhiều, đặc biệt khi nhiệt độ trên 40 độ C hạt phấn hoàn toàn mất khả năng thụ phấn. Nhiệt độ cao ảnh hưởng xấu đến sự hút dinh dưỡng của cây bông, làm giảm tỷ lệ xơ bông, chiều dài xơ. Để hoàn thành một quá trình sinh trưởng và phát triển của cây bông từ khi mọc đến khi quả nở cần phải có một lượng nhiệt hữu hiệu trung bình từ 1450 độ C đến 1650 độ C. - ánh sáng: Cây bông rất ưa ánh sáng, trong điều kiện thiếu ánh sáng cây bông phát triển chậm và cây vống lên. Nếu trong giai đoạn nụ hoa và hình thành quả mà cây bị thiếu ánh sáng thì đài và quả non sẽ bị rụng nhiều. Thời gian chiếu sáng trong ngày có ảnh hưởng mạnh đến sự phát triển của cây bông. Cây bông đòi hỏi đêm dài ngày ngắn. Trong điều kiện ngày dài, cây bông phát triển chậm, bước vào giai đoạn sinh thực muộn (chậm hình thành nụ và nở hoa). Ttrong điều kiện ngày ngắn cây bông phát triển nhanh hơn, nhanh chống bước vào giai đoạn sinh thực. - Nước: Cây bông là cây chịu hạn khá tốt, tuy nhiên để cho cây bông sinh trưởng phát triển bình thường cho năng suất cao, phẩm chất xơ tốt thì phải có một chế độ nước thích hợp với từng thời kì của cây bông: Giai đoạn cây con (trước khi ra nụ)khi diện tích quang hợp ít,cây bông cần ít nước (1 ha cần bình quân 10-12m3 nước).Giai đoạn nụ, đặc biệt là giai đoạn hoa nhu cầu về nước của cây bông tăng lên mạnh, để phục vụ cho nhu cầu hình thành nụ, hoa, quả(giai đoạn nụ cần 30-35m3/ha; hoa 90-100m3/ha). Đến giai đoạn nở quả nhu cầu về nước của cây bông lại giảm xuống 30-40m3/ha. Cả vụ cây bông cần 5.000-8.000m3 nước/ha. - Đất và dinh dưỡng: Cây bông trồng được trên các loại đất có thành phần cơ giới trung bình, tơ xốp có độ mùn từ trung bình trở lên,có pHkcl>5, pH thích hợp nhất cho cây bông là 6,5-7,5.Nếu bông trồng trên đất chua(pH từ 4,5-5) và đất mặn năng suất bông rất thấp, đất có pHkcl<4,5 không trồng được bông. Cây bông cho năng suất cao khi đất có đầy đủ dinh dưỡng cho cây sinh trưởng và phát triển. Dựa vào từng loại đất giầu hay nghèo dinh dưỡng mà con người phải cung cấp thêm vào trong đất một lượng dinh dưỡng nhất định phục vụ cho nhu cầu của cây qua từng giai đoạn thì mới có cơ hội thu được năng suất bông cao. Ngoài phân bón đa lượng NPK cung cấp qua bộ rễ, cây bông còn có nhu cầu lớn về phân vi lượng bổ sung qua rễ hoặc lá. + Phân đạm: Phân đạm là vật chất cây bông cần để sinh trưởng, phát triển, đồng thời đạm là thành phần cấu tạo nên các chất protein, diệp lục tố, acid, nucleotit, các loại men. Nếu cung cấp đạm đầy đủ sẽ có tác dụng làm tăng diện tích lá, làm tăng hàm lượng protein trong thịt lá, tăng tổng hợp diệp lục, đồng thời các hoạt động sinh lý khác mạnh lên, rễ, thân, lá cây bông sinh trưởng tốt, phát dục nhanh, thời kì đậu quả hữu hiệu. Ngoài ra còn làm cho chiều dài xơ tăng lên, hàm lượng protein và hàm lượng dầu trong hạt cao. Ngược lại, nếu thiếu đạm, cây bông sẽ sinh trưởng chậm, cây mọc thấp, bé, phiến lá nhỏ màu nhạt, số cành quả ít, rụng đài nhiều, tàn lụi sớm, quả bé và nhẹ. Nhưng nếu thừa đạm thì cây sinh trưởng quá mạnh, phiến lá to và mỏng, lóng dài cây bông cao lớn, ruộng bông rậm rạp, thiếu ánh sáng, nụ ít và bé, rụng đài nhiều, chín muộn, quả nhỏ và nhẹ, dễ bị thối khi bị mưa nhiều cuối vụ. Mặt khác lá rậm rạp sâu bệnh phát triển nhiều. +Phân lân : Là nguyên tố cấu tạo nên protein, acid amin và ATP cung cấp năng lượng cây, có tác dụng lớn trong sinh trưởng, phát dục của cây, nó làm tăng khả năng vận chuyển các chất dinh dưỡng trong cây. Thúc đẩy quá trình phát triển của bộ rễ ở giai đoạn cây con. ở thời kì 45 – 50 ngày sau khi gieo , lân thúc đẩy nhanh sinh trưởng dinh dưỡng sang sinh trưởng sinh thực, làm cho cây bông sớm ra nụ, hoa. ở thời kì sau, lân xúc tiến hạt bông mau chín, tăng hàm lưọng dầu trong hạt, tăng khối lượng quả. Tăng khẳ năng chống chịu bệnh, chống rét, chống phèn, mặn cho cây trồng. Từ những đặc điểm đó ta có thể khẳng định các tỉnh phía Nam có nhiều vùng đất đai sinh thái khí hậu thích hợp trồng bông vào mùa mưa và thu hoạch vào đầu mùa khô. Đó là : -Vùng Đông Nam Bộ : Đồng Nai, Bà Rịa Vũng Tàu, Bình Phước, vùng này có khoảng 70.000- 100.000 ha đất nâu, đen, đỏ bazan có nguồn gốc feralit, Trừ những vùng trồng cây cao su, cà phê và các loại đất chua có pH<4,5 còn lại đất đang trồng cây bắp, đậu vụ 1, có thể trồng bông vụ 2 có tiềm năng, năng suất cao. - Vùng Duyên HảI Nam Trung Bộ gồm Bình Thuận, Ninh Thuận, Khánh Hoà và Phú Yên. Trong đó đặc biệt là Bình Thuậngồm có Đưc Linh, Tánh Linh, Hàm Tân, Hàm Thuận Bắc và BắcBình có thể quy hoạch 20.000-30.000 ha. Ơ vùng này còn có thể trồng bông có nước tưới, thâm canh cao có năng suất 2- 3 tấn/ha, nhờ sử dụng nguồn nước của các công trình thuỷ lợi. - Vùng Tây Nguyên gồm Đắc Lắc và Gia Lai được đánh giá là vùn có tiềm năng phát triển bông, có thể phát triển với quy mô 20.000- 30.000 ha trong 5 năm tới. - ở các tỉnh phía Nam và các vùng nói trên có thể quy hoạch trồng từ 180- 200 ngàn ha bông, đủ cung cấp nguyên liệu cho ngành dệt trong nước, thay thế nhập khẩu. 1.2.ứng dụng khoa học công nghệ trong sản xuất: - Về công tác nghiên cứu giống: Giống bông có tác động trực tiếp đến năng suất và sản lượng bông. Cần kết hợp các phương pháp chọ tạo giống truyền thống với việc dẩy mạnh úng dụng công nghệ sinh học hiện đại để tạo giống và sản xuất hạt giống, đặc biệt là chuyển gien kháng sâu bệnh và điều kiện ngoại cảnh bất lợi. Viện nghiên cứu và phát triển cây bông cần tăng cường hơn nữa các nghiên cứu tạo giống lai và phương pháp sản xuất hạt lai sử dụng tính bất dục đực nhặm hạ giá thành hạt giống, tạo điều kiện giảm chi phí cho nông dân. Việc sử dụng giống bông kháng sâu, kháng cỏ VN15, VN02.2 đã làm cho năng suất cây bông tăng từ 10-11 tạ/ha lên 18-20 tạ/ha, chỉ sau 2-3 năm áp dụng, tạo ra thế tương quan mới cho cây bông về lợi thế so sánh. - Công tác nghiên cứu quản lý dịch hại. Hiện nay, với sự áp dụng thành công quy trình phòng trừ tổng hợp (IPM), số lần phun thuốc sâu chỉ còn từ 1-2 lần/vụ nhưng vẫn đạt nhưng vẫn đạt năng suất cao. Tuy nhiên phát triển hàng trăm ngàn ha bông thì vấn đề phòng trừ sâu bệnh phải được đặt ra và có biện pháp cụ thể. Nguyên lí chung là duy trì sự cân bằng tự nhiên, phat huy khả năng chống chịu sâu bệnh bằng các giống bông và sự hỗ trợ có hiệu quả của các giống bông thiên địch…Nhưng áp dụng cho từng vùng, từng vụ phải linh hoạt. Thành công của IPM là nhờ một phần quan trọng vào sự hiểu biết và kỹ năng thực hành của nông dân cũng như cán bộ khuyến nông. 1.3.Vốn và người nông dân: Trong mọi lĩnh vực sản xuất thì người lao động là nhân tố quan trọng nhất,và trong ngành trồng bông thì người nông dân là nhân tố sống còn ảnh hưởng trực tiếp đến ngành bông . Đầu tư cho nông dân sản xuất là một biện pháp nhằm mở rộng diện tích và nâng cao năng suất cây trồng. Người dân Việt Nam trồng bông từ rất lâu nhưng chủ yếu là sản xuất nhỏ lẻ theo lối tự cung tự cấp cho các khung dệt thủ công truyền thống. Muốn quy hoạch vùng nguyên liệu cần phải có chính sách cho nông dân vay vốn với những ưu đãi nhất định. Nông dân là những người có nguồn vốn eo hẹp. Nếu có chính sách đầu tư cho nông dân thì diện tích tích trồng bông sẽ tăng lên rất nhanh. Ngược lại, chỉ cần một biến động nhỏ trong chính sách đầu tư cũng sẽ làm người nông dân lo lắng, thu hẹp diện tích trồng bông. Công ty bông Việt Nam là đơn vị đầu tư, tổ chức sản xuất và thu mua chế biến khoảng 95% lượng bông cả nước nhưng vốn đầu tư chỉ có 7,5 tỷ đồng, không đủ để sản xuất 50% hạt giống, nên không thể cho nông dân vay đầu tư sản xuất được. Người nông dân khó vay vốn vì sự then trọng quá mức của ngân hàng nên họ chỉ trông chờ vào nguồn tiền của công ty, mà công ty cũng phải đi vay vốn của ngân hàng thương mại. Bởi vậy chính sách lãi suất của ngân hàng có ảnh hưởng đến việc phát triển cây bông . 2. Ngành dệt may: Dệt may chính là đầu ra chủ yếu cho ngành bông ,ảnh hưởng trực tiếp đến ngành bông . Hiện nay khi mà ngành dệt may đang bao tiêu toàn bộ cho ngành bông và sản xuất bông không đủ đáp ứng cho dệt may trong nước thì yêu cầu cấp thiết là mở rông diện tích trồng bông và nâng cao năng suất của cây bông . Đó chính là bài toán đặt ra cho cả 2 ngành . Ta sẽ phân tích một số nét sơ lược về ngành dệt may của nước ta để có cái nhìn tổng quát về nó. 2.1. Vai trò và đặc điểm của ngành dệt may: Dệt may là ngành có truyền thống lâu đời của nước ta.Ra đời cách đây hàng nghìn năm,dệt may liên tục phát triển,vươn lên trở thành một trong hai ngành hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam,đem lại lợi nhuận cao,đóng góp to lớn vào ngân sách quốc gia.Trong những năm gần đây,ngành dệt may Việt Nam đã có bước phát triển đáng kể với tốc độ xấp xỉ 20%/năm,góp phần quan trọng vào sự phát triển của nền kinh tế đất nước.Đến hết năm 2005,toàn ngành có khoảng 2000 doanh nghiệp,với khoảng 2 triệu lao động, chỉ chiếm 10% lực lượng lao động nhưng đã chiếm 32% giá trị sản xuất khẩu công nghiệp và 23,6%kim ngạch xuất khẩu toàn ngành.Năm 2006,kim ngạch xuất khẩu ngành dệt may ước đạt 5,8 tỉ USD,tăng khoảng 20% so với năm 2005.Mục tiêu năm 2007 đề ra là xuất khẩu 7 tỉ USD. Thành quả trên đây là hệ quả tất yếu từ việc các doanh nghiệp dệt may Việt Nam đã biết tận dụng lợi thế,nắm bắt cơ hội,lấy đó làm tiền đề,động lực cho sự phát triển của ngành. Việt Nam là một nước nông nghiệp với nhiều chủng loại cây cho xơ-nguyên liệu chính phục vụ cho ngành dệt may-như bông,lanh,gai,đay và tơ tằm vô cùng dồi dào và phong phú.Đây thực sự là nguồn nguyên liệu quý báu,tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của ngành công nghiệp dệt,làm tiền đề vững chắc cho sự phát triển của ngành may.Điều này càng có giá trị hơn khi thị hiếu của người tiêu dùng ngày càng nghiêng về những sản phẩm sử dụng nguyên liệu có nguồn gốc từ thiên nhiên. Thêm vào đó,so với các nước trong ASEAN-đối thủ chính của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam-ngành dệt may nước ta có lợi thế về nguồn nhân công giá rẻ,khéo léo và có khả năng tiếp thu nhanh công nghệ tiên tiến.Theo đánh giá của các chuyên gia ngành dệt may thế giới,hiện nay,giá công lao động trong ngành dệt may Việt Nam chỉ khoảng 0,24 USD/h,trong khi đó của Inđônêxia là 0,32USD/h, Malaixia là 1,13U/hUSD, Thái lan là 1,18USD/h và Xingapo là 3,16USD/h…. Trong suốt gần 100 năm phát triển, ngành dệt may Việt Nam đã từng bước tạo dựng cho mình một chỗ đứng vững chắc trên thị trường thế giới và là sản phẩm ưa chuộng của người tiêu dùng tại nhiều thị trường khó tính như Nhật Bản EU,Canada….Điều này có thể chứng minh bằng những ghi nhận thực tế. Theo đó, trong thời kì Pháp thuộc, các nghệ nhân may ở Hà Nội có thể sánh cùng thời trang Paris như áo đầm-Lucie tailleur, veston-complet-Tân Tân, chemise-pyjama-Bùi Huy Nhượng…Trong giai đoạn 1945-1975, hàng năm, Việt Nam đã xuất khẩu hàng trăm triệu sản phẩm may mặc sang các nước Đông Âu dưới dạng vỏ chăn, áo gối, quần áo bảo hộ lao động, áo choàng y tế…theo hiệp định hàng đổi hàng được kí kết giữa Chính Phủ hai nước. Đặc biệt trong 20 năm đổi mới, hàng dệt may Việt Nam đã chinh phục thị trường EU, Mỹ, châu á bằng rất nhiều chủng loại hàng khác nhau với kim ngạch hàng năm lên tới hàng tỉ USD. 2.2.Khó khăn và thách thức của ngành dệt may Việt Nam. Thách thức đầu tiên mà các doanh nghiệp dệt may Việt Nam gặp phải là tình trạng thiếu nguồn nguyên liệu sản xuất.Hiện nay, nguồn nguyên liệu này chỉ đáp ứng được từ 10-30% nhu cầu của các doanh nghiệp trong nước, phần còn lại đều do các đối tác nước ngoài cung cấp. Đây được xem là hậu quả tất yếu tất yếu của việc lệ thuộc quá nhiều vào các phía đối tác trong việc cung cấp nguyên phụ liệu. Đặc biệt là bông xơ-nguyên liệu chủ yếu của ngành dệt. Bên cạnh đó, các phụ liệu cho ngành may như vải, dây khoá, cúc áo,…đều không đáp ứng được yêu cầu của các doanh nghiệp may xuất khẩu.Vì thế các doanh nghiệp dệt may Việt Nam đang ngày càng bị động và lệ thuộc vào nguồn nguyên liệu nước ngoài. Bên cạnh đó,một điều dễ nhận thấy là các doanh nghiệp dệt may đang hoạt động dưới hình thức may gia công.Theo đó, phía đối tác nước ngoài sẽ chịu trách nhiệm thực hiện toàn bộ các công việc từ lo nguyên vật liệu đến tiếp thị sản phẩm.Dĩ nhiên, với hình thức này, lợi nhuận mà các doanh nghiệp Việt Nam thu được sau mỗi một hợp đồng là rấ thấp - đúng nghĩa người đi làm thuê. Do lựa chọn hình thức gia công theo các đơn đặt hàng nên việc tích luỹ lợi nhuận, tái đầu tư đổi mới trang thiết bị, công nghệ kỹ thuật gặp nhiều khó khăn.Vì thế, trình độ trang thiết bị và công nghệ ngành dệt may còn lạc hậu. Nguồn lao động cũng là một khó khăn mà hiện nay ngành dệt may đang phảI đối mặt. Lao động trong ngành dệt may chủ yếu đào tạo theo hình thức một kèm một.Số lượng công nhân có tay nghề cao tại các doanh nghiệp còn thấp, số cán bộ kỹ thuật đúng với thực tiễn lại càng khan hiếm hơn.Trong khi, các cơ sở đào tạo lại chưa đáp ứng được yêu cầu của các doanh nghiệp. Một điểm yếu khá lớn của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam là mẫu mã không đa dạng, nghèo nàn, chưa có sự thay đổi kịp thời để nhanh chóng nắm bắt thị hiếu người tiêu dùng. Vấn đề này được xem là một trong những khó khăn rất lớn của các sản phẩm may mặc Việt Nam trên thị trường trong nước và quốc tế. Nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng trên là do ngành dệt may Việt Nam chưa tực sự quan tâm đúng mức đến công tác thiết kế mẫu mốt. Nếu có chăng cũng chỉ là thời trang sàn diễn nên khả năng ứng dụng các mẫu mốt này vào thực tế cuộc sống còn rất hạn chế. Thêm một khó khăn nữa cho ngành dệt may Việt Nam là khả năng xâm nhập vào thị trường mới để quảng bá sản phẩm của chính mình còn rất hạn chế.Vậy mà việc khẳng định lại chỗ đứng cho thương hiệu hàng Việt Nam ngay tại thị trường nội địa dường như chưa nhận được sự quan tâm cần thiết của các doanh nghiệp lớn. Gia nhập WTO, ngành dệt may Việt Nam còn phải đối mặt với rất nhiều khó khăn và thử thách mới.Bởi vậy, với vai trò là một ngành mũi nhọn của đất nước, dệt may cần được các nhà đầu tư, các nhà hoạch định chính sách, các cấp, các ngành quan tâm hơn nữa. Phần III: Thực trạng phát triển bông tự nhiên trong những năm qua- Giải pháp và kiến nghị 1. Thực trạng của ngành bông trong những năm vừa qua. Sản xuất bông trong năm năm đầu thực hiện kế hoạch (2001 – 2005) diễn ra trong bối cảnh có nhiều bất lợi, giá bông thế giới không ổn định, có lúc xuống thấp nhất trong vòng 30 năm qua (2002- 2003). Giá vật tư nông nghiệp và giá nhiều loại sản phẩm nông nghiệp tăng cao, làm giảm sức cạnh tranh của cây bông so với các cây trồng khác. Biến động khí hậu thời tiết với các hiện tượng Enino và Lanina đã gây hạn hán và lụt lội cho nhiều vùng trong cả nước, không chỉ gây thiệt hại cho các cây trồng đang sản xuất mà còn ảnh hưởng đến sức sản xuất của nhiều năm tiếp theo. Từ những đặc điểm tình hình nêu trên, trong những năm qua Công ty Bông đã có nhiều nỗ lực, cố gắng để phát triển sản xuất. Tốc độ tăng trưởng trung bình về sản lượng trên 15%, tuy nhiên mức ổn định không cao, chưa thực hiện được các chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước giao. 1.1.Diện tích không ổn định và luôn biến động mặc dù năng suất và sản lượng tăng qua các năm. Bảng 1: Diện tích, năng suất và sản lượng bông qua các năm Chỉ tiêu/năm 99/2000 2000/01 2001/02 2002/03 2003/04 2004/05 Diện tích(ha) 17.750 23.250 26.766 32.265 24.706 22.409 N.suất(tạ/ha) 9,9 8,7 10,9 10,1 13,4 8,2 SL bông hạt(tấn) 17.578 20.340 29.190 32.627 33.153 18.500 SL bông xơ(tấn) 6.240 7.322 10.509 11.844 12.084 6.770 %tăng trưởng SL 10,0 17,0 44,0 13,0 2,0 (44,0) - Năm 2004/2005 : Do hạn hán, ước tính vụ khô chỉ gieo trồng được 3.800 ha, với sản lượng 5.500 tấn, vụ mưa bị thiên tai chỉ cho thu hoạch khoảng 13.000 tấn/18.627 ha. Ngoại trừ năm 2004/2005 bị hạn hán nặng có khoảng 5.000 ha bị mất trắng và 5.000 ha cho năng suất thấp nên năng suất và sản lượng đều giảm. Các năm khác nâg suất và sản lượng đều tăng, năm 2002/2003 đạt diện tích cao nhất (32.265 ha) với sản lượng xấp xỉ 12.000 tấn bông xơ. Tuy nhiên 2 năm gần đây diện tích đều bị giảm và chưa có dấu hiệu phục hồi, nhất là vùng bông thuộc tỉnh Đắc Nông và Đắc Lắc. 1.2. Xu hướng phát triển cây bông ở các vùng bông chính biến chuyển theo nhiều chiều hướng khác nhau. Vùng Đông Nam Bộ: Phát triển mạnh trong thập kỉ 90, diện tích cao nhất có lúc đạt 8.000 ha sau đó giảm mạnh (1999- 2001) còn khoảng 2.000 ha và hiện nay đang có dấu hiệu phục hồi tốt. Phân tích các tác động trong từng thời kì cho thấy: - Thời kì đầu (91-99) : Do các cây trồng chủ yếu của vùng chủ yếu là các giống bắp đậu địa phương năng suất thấp, trong khi đó mặc dù cũng chỉ trồng giống bông thường (M450.10) với năng suất 8-10 tạ /ha, nhưng nhờ giá mua bông hạt cao (tương đương 0,5 USD/kg). Hơn nữa cây bông được sự quan tâm của Nhà Nước và các cấp, nên có sức hấp dẫn và cạnh tranh cao hơn. Có thể nói diện tích bông tăng ở thời kì này là kêt quả tự nhiên của một loại cây trồng mới có sự ưu tiên chỉ đạo của Nhà Nước. - Trong những năm 2000: Diện tích bông bị suy giảm trậm trọng do nhiều nguyên nhân. Trong đó, ảnh hưởng liên tục của mưa bão cuối vụ trong 2 năm 1998 và 1999 đã gây thiệt hại nặng cho sản xuất bông vải ở vùng Bình Thuận, Đồng Nai, Bà Rịa và Bình Phước. Bông bị thối không thu hoạch được hoặc thu hoạch được nhưng không có điều kiện phơi sấy, phải bán với giá thấp (loại 2, loại phế phẩm), việc này gây tác động xấu đến sản xuất của những năm tiếp theo. Mặt khác diện tích bắp lai phát triển mạnh, năng suất cao, dễ trồng, thu hoạch bắp bằng máy công cụ nên rất tiện lợi cho người nông dân. trong khi đó mặc dù trồng giống bông lai L18 có năng suất cao hơn, nhưng do cây bông cần nhiều chi phí lao động cho chăm sóc và thu hoạch trong bối cảnh thiếu hụt lao động trong công nghiệp cũng như lao động nông thôn thì mặc dù có hiệu quả kinh tế nhưng vẫn không là sự lựa chọn của nông dân. - Thời kì phục hồi ( 2002 đến nay ) : Mặc dù giá bắp, đậu tăng cao nhưng sản suất bông có nhiều tiến bộ mới, bằng việc sử dụng giống bông kháng sâu, kháng cỏ ( VN 15, VN 2.2 ) trồng dày, trồng trễ, điều khiển sinh trưởng cho cây bông ra hoa và thu hoạch tập trung nên năng suất bông đã tăng vọt từ 10-11 tạ/ha lên 18-20 tạ/ha, chỉ sau 2-3 năm áp dụng tạo ra thế tương quan mới cho cây bông về lợi thế so sánh.Hơn nữa với việc áp dụng đồng bộ các giải pháp kĩ thuật,cây bông tổ ra ổn định và chịu đựng tốt các điều kiện thời tiết khắc nghiệt so với cây trồng khác nên đã được nông dân chấp nhận và có khả năng phục hồi phát triển mạnh trong những năm tới. Vùng Tây Nguyên: Gia Lai tăng trưởng chậm, Đắc Lắc, Đắc Nông giảm mạnh. - Cây bông được trồng ở Gia Lai từ năm 2001, ban đầu chỉ vài trăm ha, 2 năm qua đạt 5.000-6.000 ha ,đã xuất hiện nhiều vùng bông thâm canh năng suất cao như Krongchổ, Chư Sê với năng suất bình quân 15-16tạ/ha.Việc áp dụng tốt các tiến bộ kỹ thuật cho thấy vùng này sẽ tiếp tục phát triển cvề cả diện tích va năng suất bông trong thời gian tới. - Vùng bông Đắc Lắc- Đắc Nông :phát triển mạnh trong thời kỳ (99-2002) và suy giảm mạnh trong 2 năm gần đây ,năm 2002 đạt diện tích trên 15.000 ha giảm còn 10.000 ha(2003) va năm 2004 còn trên 5.000 ha.Những nghuyên nhân cơ bản sau đay đã làm giảm diên tích và sản lượng bông: +Nguyên nhân chủ quan: Năng suất bông không tăng: theo thông kê các vùng bông trọng điểm như CưJut , Dảmil,Cue M’nga, Buôn đôn, Krongbuk năng suất bông không được cải thiện đáng kể so với 4-5 năm trước đây . Năng suất bình quân chỉ đạt 13-14 tạ/ha trong khi đó giá vật tư nông nghiệp , chi phí sản xuất đều tăng đã đẩy giá thành sản xuất lên cao, thu nhập và lợi nhuận thấp. Đội ngũ cán bộ khuyến nông , chuyển giao kĩ thuật chưa đổi mới ,nhiều nơi vẫn làm theo kiểu cũ là phát giống ,vật tư và thu mua.Việc nắm bắt kỹ thuật mới còn chậm và áp dụng không đồng bộ nên hiệu quả thấp ,thu mua bán bông còn nhiều điểm bất cập, chưa khuyến khích người sản xuất. + Nguyên nhân khách quan: Điều kiện khí hậu: Sản xuất cây bông chủ yếu dựa vào nước trời nên năng suất thấp và không ổn định.Theo thống kê trong 7 năm gần đây thì chỉ có 2 năm gặp thời tiết thuận lợi, những năm khác đều bị thiên tai hoặc lũ quét. Từ năm 2002, 2003 và 2004 đều có tình trạng chung là mưa đến muộn, gieo cây vụ 1 bị chậm kéo theo trễ cây trồng vụ 2 và gặp hạn cuối vụ, mức độ năm sau cao hơn năm trước và cao điểm là năm 2004 ( vụ 1 trễ 20-30 ngày, vụ mưa ngừng sớm hơn hàng năm 45-60 ngày ). + Cạnh tranh cây trồng: Giá 2 loại nông sản chính trong vùng cạnh trnh trực tiếp với cây bông đều tăng mạnh ( dậu nành từ 3.500 tăng lên 5.500 đồng, bắp tăng tư 1.100 lên trên 2.000đ/kg ). Trong khi đó giá mua bông hạt chỉ ở mức 5.000-5.500đ/kg. Mặt khác đây là 2 cây trồng ngắn ngày dễ trồng, năng suất cao, có nhiều tiến bộ kỹ thuật mới trong sản xuất và thu hoạch. So sánh hiệu quả kinh tế cho thấy: trồng 1 ha đậu nành có khả năng cho tổng thu 9-10 triệu đồng, bắp 8-9 triệu đồng, đều cho hiệu quả cao hơn so với trồng bông với mức năng suất 14-15 tạ/ha. Sự tác động đồng thời của thời tiết khí hậu không thuận lợi cho gieo trồng cây bông ở vụ 2, cùng với ảnh hưởng của giá nông sản khác tăng cao, trong khi đó cơ sở vật chất kỹ thuật với năng suất 1,3-1,4 tấn/ha đứng lại không tăng nữa đã hết tác dụng thúc đẩy sản xuất. Trong khi chưa có mặt bằng kỹ thuật mới thay thế đã làm mất khả năng cạnh tranh của cây bông, dẫn tới diện tích suy giảm nhanh chóng. Vùng trồng bông đa số là nông dân nghèo, thiếu vốn, trình độ dân trí thấp nên việc áp dụng các tiến bộ kỹ thuật mới còn chậm và không đồng bộ, nên năng suất thực tế còn rất thấp so với tiềm năng. Việc nhân nhanh các mô hình, điển hình thâm canh năng suất cao ra sản xuất đại trà còn gặp nhiều khó khăn. Vì thế chưa có sức bật về năng suất và hiệu quả kinh tế, sức cạnh trnh của cây bông chưa cao. Cần lưu ý một vấn đề là khi nông dân còn nghèo, thiếu vốn, hệ thống giao thông nông thôn kém thì cây bông khs hấp dẫn với người nông dân. Nhưng khi người nông dân đã tíc luỹ được một số vốn, giao thông nông thôn phát triển, dễ dàng cho vận chuyển sản phẩm thì người nông dân có xu hướng chuyển sang loại cây trồng lâu năm, cây ăn trái hoặc một số cây trồng khác có khối lượng vận chuyển cao ( bắp ). Hiện tượng này khá phổ biến tại một số nước trong vùng. Vì vậy cây bông còn được gọi là cây trồng chuyển tiếp. Vùng Duyên Hải miền Trung: Đây là vùng khá thích hợp cho cây bông và có khả năng phát triển - Vùng Ninh Bình Thuận: Gồm cả hai vụ bông nước trời và có tưới. Đối với cây bông nước trời mặc dù năng suất không cao ( trung bình 9-10 tạ/ha ), nhưng cây bông vẫn là lụa chọn số 1 vì có khả năng chống chịu tốt và cho hiệu quả kinh tế cao, ổn định so với các cây trồng sẵn có ở địa phương. Vùng bông có tưới nước tuy có nhiều dự án về thuỷ lợi và dự án phát triển bông, nhưng đa số chưa khởi động hoặc đang ở giai đoạnm khảo sát, thi công, năng lực tưới hạn chế đã không cho phép mở nhanh diện tích trồng bông. - Vùng duyên hải miền Trung ( Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên ): Cây bông đã khẳng định được vị thế và đang có cơ hội phát triển. Tuy nhiên công tác thuỷ lợi trên đất màu và điện lưới nông thôn cung cấp cho sản xuất, tưới tiêu kém đã hạn chế khả năng mở rộng diện tích bông tưới. Ngoài vần đề về thuỷ lợi thì chính sách chuyển đổi cơ cấu cây trông cần phải có sự hỗ trợ của Nhà Nước, các cấp từ Trung Ương đến địa phương. Hiện nay phát triểm bông chủ yếu dựa vào tự thân vận động của các doanh nghiệp sản xuất bông, để vận động khuyến cáo nông dân chuyển đổi cơ cấu, tập quán canh tác nên việc chuyển đổi trồng bông trên đất lúa chư đem lại hiệu quả như mong muốn. 1.3. Năng suất bông tại Việt Nam được đánh giá là khá so với các nước trồng bông trong khu vực, nhưng còn thấp so với năng suất trung bình của thế giới, giá thành sản xuất bông còn cao, khả năng cạnh tranh kém. Tính đến niên vụ 2003/2004 năng suất bông nước trời là 409kg xơ/ha, năng suất trung bình của cả 2 vụ nước trời và có nước tưới là 489kh xơ/ha; cao hơn các nước trồng bông trong khu vực ( Thái Lan 400kg/ha, Myanma 206kh/ha, ấn độ 339kg/ha ); nhưng thấp hơn so với mức bình quân của thế giới là 620kg/ha và rất thấp so với các nước trồng bông lớn với kỹ thuật tiên tiến như Trung Quốc, Braxin, Mỹ, Thổ Nhĩ Kỳ ( năng suất trung bình 900-1100kg/ha ) ( Nguồn ICAC tháng 4/2004). Theo báo cáo điều tra chi phí sản xuất, giá thành bông hạt và giá vốn bông xơ của Ban vật giá Chính Phủ năm 2002 cho thấy giá thành bông hạt biến động theo từng vùng, dao động từ 3000-3.600đ/kg. Với giá thành này người nông dân sẽ có lãi khoảng 35-40% giá thành sản xuất. Tuy nhiên thu nhập ròng của cây bông không cao, và đặc biệt trong thời gian gần đây giá vật tư nông nghiệp tăng cao chắc chắn sẽ làm giảm thu nhập và lợi nhuận cho người dân trồn bông. Hiện tại với giá mua bông hạt là 5.500đ/kg, chi phí chế biến, quản lý và một số chi phí khác thì giá thành 1kg bông xơ khoảng 18.000 đồng, tương đương 1,1-1,15 USD/kg. Đây là giá thành có thể chấp nhận được, nhưng khó có cơ hội để tăng giá mua cho nông dân và cạnh tranh với giá bông thế giới. 1.4. Sản xuất bông phân tán trong các hộ nông dân, diện tích bông chủ yếu nhờ nước trời đã hạn chế việc áp dụng các tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất để năng cao năng suất và giá thành sản phẩm. Số hộ nông dân ký hợp đồng trồng bông biến động từ 30.000- 40.000 hộ qua các năm. Trên thực tế diện tích năm cao nhất là 32.000 ha, thì mức bình quân mỗi hộ nông dân là 0,8ha/hộ. Với quy mô diện tích nhỏ, số hộ nhiều và trình độ không đồng đều thì việc áp dụng các tiến bộ kỹ thuật mới sẽ rất khó khăn. Mức đôngf đều thấp không chỉ giới hạn việc thâm canh tăng năng suất mà còn ảnh hưởng đến việc thu hoạch, chế biến và chất lượng xơ bông. 2. Những khó khăn mà ngành bông hiện nay đang phải đối mặt. Những khó khăn, tồn tại cần phải tiếp tục nghiên cứu, tháo gỡ để củng cố vị thế của cây bông . - Năng suất bông thực tế còn rất thấp so với tiềm năng. Thực tế sản xuất cho thấy có nhiều điển hình trồng bông thâm canh áp dụng tốt quy trình kỹ thuật cho năng suất 3-4 tấn/ha. Hiện nay có nhiều vùng với quy mô vài trăm đến ngàn ha cho năng suất 2-2,5 tấn/ha ( vụ mưa ) như Nam Dong, Eapo ( Cưjut ), Xuân Lộc, Thống Nhất, Long Thành ( Đồng Nai ), Châu Đức ( Bà Rịa), Kông Chro ( Gia Lai); và trên 3 tấn/ha ( vụ khô) như Đại Lộc( Quảng Nam), Bắc Bình ( Bình Thuận). Tuy nhiên diện tích này mới chỉ chiếm 20-25% tổng số diện tích. Vì thế trong thời gian tới cần chú trọng việc nâng cao độ đồng đều của các ruộng bông mà chủ yếu là tiếp tục nghiên cứu cải tiến về các mặt : Công tác quản lý kỹ thuật của cán bộ trạm và cán bộ khuyến nông, chính sách đầu tư và khuyến khích nông dân đầu tư thâm canh, phương pháp chuyển giao kỹ thuật và nhân rộng các mô hình, điển hình năng suất cao…. - Cần phải đầu tư thâm canh tăng năng suất đôi với việc tiết kiệm giảm chi phí đầu vào, tăng giá mua vật tư cho nông dân để nâng cao hiệu quả kinh tế và sức cạnh tranh của cây bông. Việc tiết kiệm giảm chi phí đầu vào cần tập trung vào việc đơn giản hoá quy trình trồng bông để giảm thiếu chi phí lao động trong chăm sóc và thu hoạch, nhanh chóng nhanh chân các giống bông thuần kháng sâu để hạ giá giống cho nông dân thay cho các giống bông lai hiện nay. Việc cung ứng vật tư kỹ thuật tập trung theo hướng trực tuyến giảm thiểu các khâu trung gian để cung cấp giá rẻ cho nông dân. Trên hết, Công Ty Bông Việt Nam đang thực hiện chính sách tiết kiệm, tiết giảm chi phí từ khâu quản lý, sản xuất, chế biến nhằm đem lại hiệu quả và tạo cơ hội tăng giá mua bông hạt cho nông dân. - Đẩy mạnh công tác cổ phần hoá tạo đòn bẩy cạnh tranh trong cùng ngành để phát triển sản xuất . Việc khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia sản xuất bông chắc chắn sẽ tạo động lực cạnh tranh cho sản xuất phát triển . Tuy nhiên bông là cây trồng mới chưa có tính phổ biến sản xuất hàng hoá trong nông nghiệp, nếu không có sự quản lý điều phối của Nhà Nước về việc phân vùng quy hoạch cho các doanh nghiệp đầu tư sản xuất và thu mua bông, có các quy định, chế tài nhằm thực hiện đầy đủ Quyết định 80 của Thủ tướng Chính Phủ chắc chắn các doanh nghiệp không yên tâm bỏ vốn đầu tư cho sản xuất. Vì đầu tư cho sản xuất nông nghiệp rủi ro cao, tư thương tranh mua bán sẽ gây ra thất thoát lớn trong thu hồi đầu tư, chưa có cơ chế xử lý rủi ro cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh bông . Đây cũng là khó khăn cần có sự hỗ trợ của các cấp chính quyền địa phương nhằm thu hút các doanh nghiệp mạnh dạn đầu tư cho phát triển vùng nguyên liệu. - Các chủ trương chính sách phát triển bông của Nhà Nước cần phảI có những văn bản hướng dẫn của các cấp Bộ- Ngành để các địa phương và các doanh nghiệp dễ thực hiện. + Chính sách cho nông dân nghèo vay vốn sản xuất: Hiện nay tỷ lệ nông dân được vay vốn ngân hàng cho sản xuất bông là rất thấp, khoảng 5% tổng đầu tư cho sản xuất, phần còn lại chủ yếu qua kênh đầu tư của Tổng công ty bông Việt Nam. + Nghị định 80/CP chưa có những cơ chế chế tài. Nghị định này mới chỉ đem lại lợi ích cho nông dân nhưng chưa bảo hộ cho nhà đầu tư. + Quyết định 17/CP về hỗ trợ giống bông cho sản xuất nhưng nhiều địa phương chưa thực hiện. + Quỹ hỗ trợ sản xuất bông trích 2% nguyên liệu nhập khẩu được trích từ các công ty Dệt làm ăn có lãi đã được phê duyệt nhưng chưa thực hiện. +Chính sách VAT chưa bảo hộ và khuyến khích sản xuất bông trong nước thay thế nhập khẩu. - Sản xuất bông trong nước là thay thế nhập khẩu nhưng phải cạnh tranh trực tiếp với các nước xuất khẩu có chính sách trợ giá nông nghiệp, nên sản xuất trong nước đã gặp khó khăn lại mất lợi thế cạnh tranh, vốn Nhà nước cung cấp cho ngành sản xuất bông quá ít, đa số phảI đI vay ngân hàng rồi cho nông dân vay lại nên chịu nhiều rủi ro và thất thoát cao. Doanh nghiệp rất khó trong đầu tư kinh doanh. 3. Những giải pháp cần thực hiện để phát triển ngành bông. - Công tác tổ chức ý: Tinh giản và nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy công ty ( kể cả Hội đồng quản trị và Ban kiểm soát các Công ty cổ phần ma Công ty Bông giữ cổ phần chi phối ), nhằm đạt tăng trưởng sản xuất theo kế hoạch, hợp tác hữu hiệu giữa các đơn vị trong hoạt động sản xuất kinh doanh và điều hành vốn, nâng cao thu nhập cho người lao động - Hợp tác chặt chẽ với Viện Nghiên cứu phát triển bông, các tổ choc và cơ quan nghiên cứu khoa học trong và ngoài nước để giảI quyết các vấn đề về kỹ thuật trồng bông theo hướn kỹ thuật công nghệ cao - Chính sách với nông dân trồng bông : + Chuyển giao nhanh và hiệu quả các tiến bộ kỹ thuật. + Phân loại và phân vùng đầu tư thâm canh, xây dung các chính sách khuyến khích nông dân thâm canh tăng năng suất nhằm tạo ra bước đột phá về năng suất và hiệu quả kinh tế. Tập trung đầu tư tối đa cho những vùng có tiềm năng năng suất đối với bông nước trời> 2tấn/ha; bông có tưới 2,5-3 tấn/ha. Diện tích này phảI chiếm 60% diện tích bông nước trời và 80% diện tích bông có tưới. + Tiếp tục thực hiện ổn định giá sàn mua bông hật và nâng giá khi có điều kiện. + Thực hiện tốt hơn việc kí hợp đồng dịch vụ sản xuất, bao tiêu sản phẩm với nông dân trồng bông theo quyết định số: 80/2002/QĐ/TTg của Thủ Tướng Chính Phủ về chính sách khuyến khích tiêu thụ nông sản hàng hoá thông qua hợp đồng. - Nâng cao hơn nữa hiệu quả tổ chức, quản lý chế biến, nâng cao chất lượng và tỷ lệ xơ lên để giảm giá thành sản phẩm. Các nhà máy chế biến bông tiếp tục hoàn chỉnh chương trình chất lượng sản phẩm để cải thiện hơn nữa chất lượng bông xơ sản xuất nước. - Về công tác nghiên cứu quản lý dịch hại: Tiếp tục xây dung và hoàn thiện hơn nữa hệ thống quản lý dịch hại tổng hợp ( IPM ) trên bông và trong hệ thống trồng trọt có bông, đặc biệt là hệ thống IPM cho bông Đông Xuân và cho các giống bông kháng sâu. Bên cạnh đó cần phải đẩy mạnh công tác nghiên cứu ở các lĩnh vực sau: + Quản lý tính kháng thuốc, kháng giống của các đối tượng dịch hại. Đề ra chiến lược sử dụng thuốc và giống kháng hợp lý. áp dụng cấc biện pháp kỹ thuật canh tác nhằm làm tăng tính kháng của giống. Hạn chế tối đa việc hình thành và tăng tính kháng của dịch hại. + Nghiên cứu xây dựng hệ thống dự tính dự báo dịch hại một cách toàn diện cho từng vùng, từng hệ thống canh tác bông. + Nghiên cứu biện pháp phòng trừ sâu chích hút đầu vụ, đặc biệt là dệp bông trong quan hệ chặt chẽ với các biện pháp quản lý bệnh xanh lùn, một bệnh có nguy cơ cao cho vùng trồng bông. + Nghiên cứu phòng trừ sâu bệnh hại cuối vụ có hiệu quả cao hơn nhằm nâng cao năng suất và chất lượng xơ bông. - Trong công tác nghiên cứu kỹ thuật canh tác bông: + Nghiên cứu cơ bản về sinh lý cây bông, đặc biệt là các giống kháng sâu, để làm cơ sở cho việc xây dung các biện pháp canh tác, bảo vệ thực vật phù hợp,… để tăng năng suất và chất lượng bông. + Nghiên cứu chuyển dịch cơ cấu cây trồng, đưa cây bông vào hệ thống luân xen canh, hệ thống cây trồng vụ Đông Xuân có tưới ở những vùng có khả năng tưới nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất, tăng sản lượng bông. + Nghiên cứu các biện pháp nâng cao năng suất và phẩm chất xơ bông bằng chế độ dinh dưỡng, canh tác thích hợp cho từng vùng trồng bông, từng giống bông, áp dụng chất điều tiết sinh trưởng để trồng bông thâm canh mật độ cao…. + Nghiên cứu các biện pháp đảm bảo mật độ, chế độ canh tác, đặc biệt là canh tác hữu cơ, nhằm đảm bảo phát triển nông nghiệp bền vững. 4. Những kiến nghị: - Nhà nước đảm bảo kinh phí cho các chương trình nghiên cứu khoa học, khuyến nông để phát triển bông, có chính sách cụ thể về giống cây trồng chuyển gien và hỗ trợ kinh phí để mua công nghệ, tiếp tục đầu tư nghiên cứu chiều sâu về công nghệ sinh học cho Viện nghiên cứu và phát triển bông, nhằm tạo ra bứoc đột phá về kỹ thuật trồng bông công nghệ cao. - Xây dung các chính sách và công cụ hỗ trợ sản xuất bông trong nước: + Hoàn thiện các cơ sở pháp lý, biện pháp chế tài để bảo vệ các doanh nghiệp đầu tư sản xuất nguyên liệu thực hiện tốt chính sách khuyến khích tiêu thụ nông sản hàng hoá, thông qua hợp đồng của Quyết định 80/TTg. + Cho phép các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh bông thực hiện hợp đồng sản xuất và tiêu thụ sản phẩm theo Quyết định 80/TTg được khấu trừ thuế VAT đầu vào bằng mức khấu trừ VAT đầu ra giữa bông xơ và sợi là 5%, toàn bộ tiền khấu trừ VAT đầu vào được trích vào Quỹ hỗ trợ sản xuất bông nội địa. + Thành lập Quỹ hỗ trợ sản xuất bông dựa trên các nguồn thu từ: Khấu trừ VAT đầu vào, quỹ do chính các doanh nghiệp sản xuất khinh doanh bông và trích từ 2% giá trị nguyên liệu bông xơ đầu vào của các công ty dệt để hỗ trợ phát triển bông trong nước. + Đề nghị xin hỗ trợ 3 năm đầu tư nguồn đầu tư của Chính phủ cho nông dân trồng bông với mức hỗ trợ 500đ/kg bông hạt, đồng thời có cơ chế chính sách hỗ trợ nông dân, hỗ trợ doanh nghiệp sản xuất bông xử lý rủi ro do thiên tai, hạn hán gây ra. - Nhà nước cần sớm có các dự án khả thi đầu tư xây dung thuỷ lợi, đồng ruộng, giao thông nông thôn để phát triển các vùng bông có tưới tập trung, trước mắt tập trung cho các vùng trọng điểm: Ninh- Bình Thuận, các tỉnh duyên hải miền Trung. Lời kết Đối với một nước nông nghiệp như nước ta thì việc phát triển cây bông vải nhằm đảm bảo nguồn nguyên liệu cho ngành công nghiệp dệt may mang lại nhiều lợi ích. Phát triển vùng nguyên liệu bông đã góp phần xoá đói giảm nghèo cho nhiều hộ nông dân trong những năm qua, tạo ra công ăn việc làm cho hàng ngàn lao động, góp phần chuyển dịch cơ cấu cây trồng, đóng góp to lớn vào ngân sách quốc gia… Có thể nói những thành tựu mà ngành bông đạt được trong thời gian qua là rất lớn, tuy nhiên với một nước có tiềm năng phát triển cây bông như nước ta như việc mới đảm bảo được 11% nguồn nguyên liệu nội địa cho ngành công nghiệp dệt may thì quả là một nghịch lý. Bởi vậy để tiến tới đảm bảo nguồn nguyên liệu nội địa cho ngành công nghiệp dệt may, đòi hỏi trách nhiệm không chỉ của các doanh nghiệp dệt may mà còn là trách nhiệm của các cấp, các ngành từ trung ưong đến địa phương. Đây vừa là yêu cầu, vừa là nhiệm vụ mà ngành bông cần đạt đựơc trong chiến lược đến năm 2010 của mình. Do điều kiện hạn chế về mặt thời gian nên đề án của em còn thiếu sót, bởi vậy em rất mong nhận được sự góp ý của thầy. Em xin trân thành cảm ơn. Danh mục tài liệu tham khảo: Trang web Dệt may Việt Nam - Cơ hội và thách thức(nhà xuất bản chính trị quốc gia Hà Nội - 2003) Báo cáo “Thực trạng sản xuất bông tại Việt Nam, kế hoạch và giải pháp phát triển” - tổng công ty bông Việt Nam. Thông tin kinh tế - kĩ thuật ngành bông (số 3 quí III năm 2002). Công nghiệp dệt may: Giá trị gia tăng và chiến lược phát triển (thạc sĩ Đặng thị Đông). Tiềm năng to lớn và hiệu quả kinh tế của cây bông vải nước ta (PGS .TS.Nguyễn Hữu Bình và KS.Đinh Hữu Vinh). Một số bài viết và tài liệu khác. Mục lục Lời mở đầu 1 Phần 1:Sơ lược về cây bông với vai trò là nguyên liệu quan trọng cho ngành dệt may 2 1.Vài nét về cây bông 2 2.Cây bông nguyên liệu quan trọng cho ngành dệt may 6 3.Tiềm năng của cây bông 7 Phần 2: Những nhân tố ảnh hưởng đến ngành trồng bông 10 1. Đầu vào của sản xuất 10 2.Ngành dệt may 14 Phần 3: Thực trạng của việc phát triển bông tự nhiên trong nước 18 1. Thực trạng của ngành bông trong những năm vừa qua 18 2. Những khó khăn mà ngành bông hiện nay đang phải đối mặt 23 3. Những giải pháp cần thực hiện để phát triển ngành bông 25 4. Những kiến nghị 27 Kết luận 29

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc74502.DOC