Đề tài Công tác quản lý thu bảo hiểm xã hội bắt buộc ở bảo hiểm xã hội huyện Mỹ Hào tỉnh Hưng Yên giai đoạn 2007 – 2010, thực trạng và giải pháp

Tài liệu Đề tài Công tác quản lý thu bảo hiểm xã hội bắt buộc ở bảo hiểm xã hội huyện Mỹ Hào tỉnh Hưng Yên giai đoạn 2007 – 2010, thực trạng và giải pháp: LỜI CAM ĐOAN Em xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của em. Các số liệu, kết quả trong bài khóa luận tốt nghiệp là trung thực và xuất phát từ tình hình thực tế của đơn vị thực tập. Tác giả khóa luận tốt nghiệp SV. Nguyễn Thị Hòa Trang DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT ASXH An sinh xã hội BHXH Bảo hiểm xã hội BHTN Bảo hiểm thất nghiệp BHYT Bảo hiểm y tế BNN Bệnh nghề nghiệp CNTT Công nghệ thông tin DN Doanh nghiệp DNNN Doanh nghiệp nhà nước DNNQD Doanh nghiệp ngoài quốc doanh ĐTNN Đầu tư nước ngoài ĐV Đơn vị HCSN Hành chính sự nghiệp HTX Hợp tác xã KD Kinh doanh LĐ Lao động NLĐ Người lao động SDLĐ Sử dụng lao động TG Tham gia TNHH Trách nhiệm hữu hạn TNLĐ Tai nạn lao động UBND Ủy ban nhân dân MỤC LỤC DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU Sơ đồ 1: Hệ thống bộ máy tổ chức BHXH huyện Mỹ Hào 25 Bảng 1: Đơn vị SDLĐ tham gia BHXH bắt buộc giai đoạn 2007 – 2010 27 Bảng 2: NLĐ tham gia BHXH bắt buộc giai đoạn 2007 – 2010 30 Bảng 3: Bảng lương tối thiểu...

doc72 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1010 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Công tác quản lý thu bảo hiểm xã hội bắt buộc ở bảo hiểm xã hội huyện Mỹ Hào tỉnh Hưng Yên giai đoạn 2007 – 2010, thực trạng và giải pháp, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI CAM ĐOAN Em xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của em. Các số liệu, kết quả trong bài khóa luận tốt nghiệp là trung thực và xuất phát từ tình hình thực tế của đơn vị thực tập. Tác giả khóa luận tốt nghiệp SV. Nguyễn Thị Hòa Trang DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT ASXH An sinh xã hội BHXH Bảo hiểm xã hội BHTN Bảo hiểm thất nghiệp BHYT Bảo hiểm y tế BNN Bệnh nghề nghiệp CNTT Công nghệ thông tin DN Doanh nghiệp DNNN Doanh nghiệp nhà nước DNNQD Doanh nghiệp ngoài quốc doanh ĐTNN Đầu tư nước ngoài ĐV Đơn vị HCSN Hành chính sự nghiệp HTX Hợp tác xã KD Kinh doanh LĐ Lao động NLĐ Người lao động SDLĐ Sử dụng lao động TG Tham gia TNHH Trách nhiệm hữu hạn TNLĐ Tai nạn lao động UBND Ủy ban nhân dân MỤC LỤC DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU Sơ đồ 1: Hệ thống bộ máy tổ chức BHXH huyện Mỹ Hào 25 Bảng 1: Đơn vị SDLĐ tham gia BHXH bắt buộc giai đoạn 2007 – 2010 27 Bảng 2: NLĐ tham gia BHXH bắt buộc giai đoạn 2007 – 2010 30 Bảng 3: Bảng lương tối thiểu chung giai đoạn 2007 – 2010 33 Bảng 4: Tổng quỹ lương làm căn cứ thu BHXH bắt buộc giai đoạn 2007 – 2010 36 Bảng 5: Quỹ tiền lương BHXH bắt buộc phân theo khối loại hình quản lý giai đoạn 2007 – 2010 38 Bảng 6: Kết quả thu BHXH bắt buộc giai đoạn 2007 – 2010 40 Bảng 7: Tình hình nợ đọng BHXH bắt buộc giai đoạn 2007 – 2010 42 Bảng 8: Dự báo kết quả thu BHXH bắt buộc giai đoạn 2011 – 2013 44 Bảng 9: Tình hình tham gia BHXH bắt buộc tại DNNQD giai đoạn 2007 – 2010 46 TÓM TẮT KHÓA LUẬN Qua thời gian ra đời, tồn tại và phát triển, công tác quản lý thu BHXH ở cơ quan BHXH huyện Mỹ Hào tỉnh Hưng yên đã đạt được nhiều thành tựu như: thu phí ngày càng nhiều, số người tham gia BHXH ngày càng tăng, tình trạng nợ đọng giảm thiểu…. Tuy nhiên trên thực tế, việc triển khai hoạt động thu của BHXH huyện Mỹ Hào tỉnh Hưng Yên vẫn còn nhiểu điểm tồn tại, bất cập như: chưa khai thác hết lực lượng lao động, tình trạng trốn đóng, nợ đóng vẫn còn tồn tại….Điều này đã làm cho hoạt động thu của BHXH huyện Mỹ Hào tỉnh Hưng Yên vẫn chưa đạt kết quả cao ảnh hưởng đến quyền lợi của người lao động và làm giảm nguồn thu cho quỹ BHXH. Do vậy, để công tác quản lý thu ngày càng hiệu quả cao thì cần giải quyết những vấn đề còn tồn tại này. Xuất phát từ những lý do trên em đã lựa chọn đề tài: “Công tác quản lý thu BHXH bắt buộc ở BHXH huyện Mỹ Hào tỉnh Hưng Yên giai đoạn 2007 – 2010, thực trạng và giải pháp” làm đề tài nghiên cứu trong khóa luận tốt nghiệp. Kết cấu của chuyên đề bao gồm ba chương. Chương 1. Lý luận chung về công tác quản lý thu BHXH Ở chương này em xin trình bày về khái niệm BHXH, vai trò của BHXH đối với đời sống kinh tế xã hội, quỹ BHXH, vai trò của công tác quản lý thu BHXH, nội dung công tác quản lý thu và các yếu tố ảnh hưởng đến công tác quản lý thu BHXH Chương 2. Thực trạng công tác quản lý thu BHXH bắt buộc ở BHXH huyện Mỹ Hào tỉnh Hưng Yên giai đoạn 2007 – 2010. Trong chương 2 em xin trình bày về một số kết quả ở đơn vị. Từ đó, để thấy được thực trạng công tác quản lý thu BHXH bắt buộc ở BHXH huyện Mỹ Hào, một số thành tựu đã đạt được, khó khăn còn tồn tại và một số nguyên nhân của những khó khăn đó. Chương 3. Một số biện pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý thu BHXH bắt buộc ở BHXH huyện Mỹ Hào. Chương 3 em xin trình bày về định hướng phát triển chung của BHXH huyện Mỹ Hào, một số biện pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý thu BHXH và đưa ra một số khuyến nghị nhằm hoàn thiện hơn nữa công tác quản lý thu BHXH LỜI MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Ở Việt Nam nay, hoạt động BHXH là một hoạt động do nhà nước tổ chức thực hiện và quản lý, không vì mục đích sinh lợi. Vì vậy yếu tố quản lý luôn được xem là vấn đề quan trọng khi thực hiện thu bảo hiểm xã hội (BHXH). Nó không chỉ quyết định đến sự hình thành, sử dụng quỹ BHXH như thế nào mà còn đảm bảo quyền lợi thụ hưởng cho người lao động (NLĐ) khi tham gia vào hệ thống BHXH . Thực tiễn công tác thu BHXH của BHXH Việt Nam nói chung và BHXH các tỉnh, địa phương nói riêng, trong tham gia qua cho thấy, mặc dù chính sách BHXH đã được nhiều sửa đổi, bổ sung nhiều, quy trình tổ chức thực hiện thu BHXH đã có nhiều cải cách, cải tiến rõ rệt, song hiệu quả thu BHXH chưa thực sự tương xứng với tiềm năng, cần phải có sự nỗ lực hơn nữa. Với vai trò là một bộ phận trong BHXH Việt Nam, BHXH huyện Mỹ Hào (trực thuộc BHXH tỉnh Hưng Yên) đang từng bước cố gắng làm tốt chức năng, nhiệm vụ của mình để góp phần vào sự nghiệp chung của ngành BHXH Việt Nam. Trước tình hình kinh tế trong tỉnh còn gặp nhiều biến động, hội nhập kinh tế ngày càng sâu rộng, đặc biệt với lợi thế về địa lí, huyện Mỹ Hào đã và đang thu hút một lượng lớn các nhà đầu tư vào huyện đặt trụ sở, mở công ty. Do đó, công tác quản lý thu BHXH ở BHXH Mỹ Hào gặp không ít khó khăn, thách thức. Tình trạng tìm mọi cách trốn đóng, nợ đọng BHXH của đơn vị SDLĐ ngày càng gia tăng, đòi hỏi phải có biện pháp hợp lý để giải quyết triệt để. Vì vậy, việc nghiên cứu công tác quản lý thu BHXH ở BHXH Mỹ Hào trên cơ sở đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý thu ở BHXH huyện trong thời gian tới là vô cùng cần thiết. Với vốn kiến thức còn nhiều hạn chế, em xin mạnh dạn đưa ra một số hiểu biết của mình về vấn đề quản lý thu BHXH bắt buộc tại BHXH huyện Mỹ Hào qua đề tài khoá luận: “Công tác quản lý thu BHXH bắt buộc ở BHXH huyện Mỹ Hào tỉnh Hưng Yên giai đoạn 2007 – 2010, thực trạng và giải pháp” 2. Mục đích nghiên cứu của khoá luận Việc nghiên cứu đề tài này khoá luận này sẽ nhằm mục đích làm rõ hơn vai trò của công tác quản lý thu đối với hoạt động thu BHXH bắt buộc, đánh giá một cách tổng quát và có hệ thống thực trạng quản lý thu BHXH bắt buộc ở BHXH huyện Mỹ Hào trong giai đoạn vừa qua. Đồng thời, qua đó đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý thu BHXH bắt buộc ở địa phương. 3. Đối tượng nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu của đề tài: nghiên cứu các vấn đề về thu, nộp BHXH bắt buộc của NLĐ, người SDLĐ và cơ quan BHXH Mỹ Hào tại huyện Mỹ Hào giai đoạn 2007 - 2010. Đối tượng nghiên cứu: thực trạng công tác quản lý thu BHXH bắt buộc tại BHXH huyện Mỹ Hào 4. Ý nghĩa của đề tài nghiên cứu Đề tài này sẽ phản ánh, phân tích một cách chi tiết và tổng hợp về thực trạng công tác thực hiện chính sách BHXH nói chung và quản lý thu BHXH bắt buộc nói riêng. Thông qua việc phân tích thực trạng công tác quản lý thu BHXH bắt buộc tại BHXH huyện Mỹ Hào có thể đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện hơn công tác nghiệp vụ này. 5. Kết cấu của khoá luận Ngoài phần mở đầu và kết luận, bố cục bài khoá luận tốt nghiệp của em được kết cấu thành ba chương chính. Cụ thể đó là: Chương 1: Lý luận chung về công tác quản lý thu BHXH Chương 2: Thực trạng công tác quản lý thu BHXH bắt buộc ở BHXH huyện Mỹ Hào giai đoạn 2007 - 2010 Chương 3: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý thu BHXH bắt buộc ở BHXH huyện Mỹ Hào Trong quá trình nghiên cứu mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng bài khóa luận không thể tránh khỏi những thiếu sót, kính mong nhận được sự góp ý của các thầy cô giáo giúp bài khóa luận của em được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn! Chương 1 LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ THU BHXH 1.1. Khái quát chung về BHXH 1.1.1. Khái niệm BHXH Nhu cầu của con người là luôn vận động và phát triển theo chiều hướng ngày càng được nâng lên. Khi xã hội phát triển, con người có xu hướng mong muốn đảm bảo an toàn cho cuộc sống của mình trước những rủi ro. Có thể nói nhu cầu an toàn của loài người là nhu cầu vĩnh cửu. Xuất phát từ nhu cầu thiết thực này, bảo hiểm ra đời và phát triển cùng với sự phát triển của xã hội loài người. Trải qua một quá trình phát dài, hiện nay BHXH đã trở thành một chính sách lớn của Đảng và nhà nước ta, được quy định rõ trong Hiến pháp, nhằm góp phần ổn định chính sách cho NLĐ và gia đình của họ khi không may gặp rủi ro. Ở Việt Nam cũng như trên thế giới, BHXH được nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau như: góc độ tài chính, pháp luật,…Vì vậy, có thể có nhiều định nghĩa khác nhau về BHXH. Tuy xuất phát ở nhiều khía cạnh, phương diện khác nhau, nhưng các khái niệm, định nghĩa về BHXH đều xem xét BHXH là một hình thức bảo hiểm mang tính xã hội, hoạt động phi lợi nhuận, có sự hỗ trợ của nhà nước, chủ yếu nhằm mục đích bảo vệ thu nhập cho NLĐ và an toàn xã hội. Một trong những khái niệm về BHXH đáng chú ý hơn cả và được xem là phù hợp với hệ thống BHXH ở nước ta là khái niệm BHXH theo góc độ pháp luật được quy định cụ thể trong Điều 3 Luật BHXH năm 2006 của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam như sau: “BHXH là sự bảo đảm, thay thế, bù đắp một phần thu nhập của NLĐ khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, TNLĐ - BNN, thất nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết, trên cơ sở đóng vào quỹ BHXH”. Như vậy, phát sinh từ những nhu cầu của NLĐ và an toàn xã hội, BHXH đã trở thành phương thức dự phòng để khắc phục hậu quả của các rủi ro xã hội, đảm bảo an toàn cho mọi thành viên trong xã hội, đồng thời tạo động lực hữu hiệu để phát triển kinh tế. 1.1.2. Vai trò của BHXH đối với đời sống kinh tế xã hội Trong điều kiện phát triền nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN hiện nay, BHXH càng trở nên quan trọng trong việc góp phần đảm bảo công tác xã hội và phát triển xã hội một cách bền vững. Nó giữ vai trò quan trọng không chỉ đối với NLĐ mà còn có ý nghĩa to lớn đối với tổ chức SDLĐ và toàn xã hội, cụ thể: 1.1.2.1. Đối với người lao động BHXH được hình thành và phát triển chủ yếu là nhằm đảm bảo chính sách cho NLĐ và người thân của họ khi gặp phải những khó khăn, làm giảm hoặc mất một phần thu nhập. Do đó, BHXH có vai trò vô cùng quan trọng đối với đối tượng này. BHXH không chỉ là quyền lợi cho NLĐ mà nó còn thể hiện trách nhiệm của NLĐ đối với xã hội. Một mặt, BHXH tạo điều kiện cho NLĐ nhận được sự tương trợ của cộng đồng, xã hội khi ốm đau, thai sản,… Mặt khác, cũng là cơ hội để mỗi người thực hiện trách nhiệm tương trợ cho những khó khăn của các thành viên khác trong cộng đồng, khắc phục hậu quả và khống chế rủi ro trong lao động ở mức độ cần thiết. Khi tham gia vào hệ thống BHXH, việc chi dùng cá nhân của NLĐ được nâng cao hiệu quả cho họ tiết kiệm được một khoản tiền nhỏ, đều đặn hàng tháng để chi dùng khi già cả, mất sức lao động… Đây không chỉ là nguồn hỗ trợ về vật chất mà còn là nguồn động viên tinh thần to lớn đối với mỗi cá nhân khi gặp khó khăn, giúp họ ổn định về mặt tâm lý, ổn định chính sách cho bản thân và gia đình khi gặp bất trắc. Khi đã có một chỗ dựa vững chắc, NLĐ sẽ cảm giác yên tâm hơn trong cuộc sống lao động, làm việc hết sức mình để nâng cao năng suất lao động. 1.1.2.2. Đối với tổ chức sử dụng lao động BHXH ngoài việc mang lại các lợi ích thiết thực cho NLĐ, nó còn giúp cho các tổ chức SDLĐ ổn định hoạt động sản xuất kinh doanh. Thông qua việc phân phối các chi phí cho NLĐ một cách hợp lý. Bởi vì, nếu không có BHXH, người SDLĐ sẽ trả tiền BHXH cùng tiền lương hàng tháng cho NLĐ để họ tự quản lý và sử dụng nguồn tiền vào các mục đích khác nhau, không phải lúc nào cũng mang lại hiệu quả như mong đợi. Đặc biệt, khi NLĐ không may bị ốm đau, tai nạn lao động… không có khoản tiền tiết kiệm, dự phòng để chi dùng cuộc sống của họ bị ảnh hưởng dẫn đến chất lượng lao động cũng bị ảnh hưởng theo. Vì vậy, qua việc phân phối chi phí cho NLĐ hợp lý, BHXH góp phần làm cho quá trình sản xuất kinh doanh được ổn định, hoạt động liên tục và hiệu quả, tăng cường mối quan hệ bền chắc giữa các thành viên trong quan hệ lao động. Mặt khác, BHXH tạo điều kiện để người SDLĐ có trách nhiệm với NLĐ trong suốt cuộc đời NLĐ cho những đóng góp của họ đối với doanh nghiệp, làm cho quan hệ lao động giữa chủ SDLĐ với NLĐ có tính nhân văn sâu sắc hơn. Bên cạnh đó, BHXH còn giúp đơn vị SDLĐ ổn định nguồn chi ngay cả khi có rủi ro không đáng có xảy ra. Nhờ đó mà các khoản chi phí được chủ động hạch toán, giúp doanh nghiệp chủ động hơn trong sản xuất kinh doanh mà không bị phụ thuộc quá nhiều vào hoàn cảnh khách quan. Tuy nhiên, chính vì những lợi ích mà BHXH mang lại cho đơn vị SDLĐ không phải là những lợi ích trực tiếp nên nhiều doanh nghiệp, đơn vị SDLĐ chưa thực sự coi trọng và có nhận thức đúng đắn về vai trò của BHXH. 1.1.2.3. Đối với xã hội BHXH là một chính sách xã hội luôn được Đảng và Nhà nước ta coi trọng. Bởi đúng như tên gọi đã phản ánh, BHXH không chỉ có vai trò quan trọng đối với NLĐ và người SDLĐ mà nó còn có những vai trò xã hội to lớn như: Tạo ra một cơ chế chia sẻ rõ ràng, để nâng cao tính cộng đồng xã hội, củng cố truyền thống đoàn kết, gắn bó giữa các thành viên trong xã hội. Tuy không nhằm mục đích sinh lợi, kinh doanh nhưng BHXH được xem như một công cụ phân phối, sử dụng nguồn quỹ dự phòng hiệu quả nhất cho việc giảm hậu quả rủi ro, tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội. Thông qua hoạt động BHXH, những rủi ro trong đời sống NLĐ được dàn trải theo nhiều chiều, tạo ra khả năng giải quyết an toàn nhất, với chi phí thấp nhất. BHXH vốn là trụ cột chính trong bốn trụ cột chính của hệ thống ASXH của nhà nước ta hiện nay. Căn cứ vào mức độ bao phủ của chính sách BHXH mà các nhà hoạch định chính sách xã hội sẽ thiết kế những mạng lưới an sinh khác nhau. Do đó, phát triển BHXH chính là cơ sở để phát triển các bộ phận khác nhau của hệ thống an sinh xã hội. Có thể nói nhìn vào hệ thống BHXH của mỗi quốc gia có thể biết được trình độ phát triển của quốc gia đó. Nếu kinh tế chậm phát triển, xã hội lạc hậu, đời sống nhân dân thấp kém thì hệ thống BHXH cũng chậm phát triển ở mức tương đối. Bởi vì, chỉ khi kinh tế phát triển, những nhu cầu cần thiết nhất được đảm bảo thì người dân mới nghĩ đến nhu cầu cao hơn. Mặt khác, thông qua hệ thống BHXH, trình độ tổ chức, quản lý rủi ro xã hội của nhà nước, trình độ văn hóa của cộng đồng được nâng cao. Ngoài ra, hệ thống BHXH cũng góp phần vào việc huy động vốn đầu tư, làm cho thị trường tài chính phong phú và kinh tế phát triển. Do quỹ BHXH có nguồn tiền nhàn rỗi được đem đi đầu tư đảm bảo an toàn và tăng trưởng quỹ, mang lại lợi ích cho tất cả các chủ thể trong quan hệ BHXH. Như vậy, vai trò của BHXH là rất lớn đối với NLĐ, người SDLĐ và toàn xã hội. Đối với Việt Nam hiện nay, với chức năng của mình, BHXH đang là một khâu không thể thiếu trong việc thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, góp phần vào ổn định và phát triển kinh tế đất nước. 1.1.3. Quỹ BHXH Bất kì một hoạt động kinh tế - xã hội nào muốn thực hiện được đều phải có một nguồn tài chính riêng. Đối với hoạt động BHXH, quỹ BHXH được hiểu là một quỹ tài chính độc lập, tập trung, được tồn tích dần từ sự đóng góp của các bên tham gia BHXH và các nguồn thu hợp pháp khác và được Nhà nước bảo hộ; được sử dụng để chi trả các chế độ BHXH cho NLĐ theo quy định của pháp luật BHXH [4]. Theo đó, quỹ BHXH bắt buộc ở Việt Nam được hình thành từ các nguồn sau: - Người SDLĐ đóng theo quy định hiện hành. - NLĐ đóng theo quy định hiện hành. - Tiền sinh lời của hoạt động đầu tư từ quỹ BHXH. - Hỗ trợ của Nhà nước. - Các nguồn thu hợp pháp khác. Từ các nguồn thu này, quỹ BHXH sẽ được sử dụng vào các mục đích cụ thể như: - Chi trả các khoản trợ cấp BHXH cho NLĐ theo quy định của Luật BHXH. - Chi phí quản lý quỹ BHXH bao gồm: chi phí hành chính, chi lương, khấu hao tài sản cố định và các khoản chi sự nghiệp khác theo quy định hiện hành - Chi khen thưởng người SDLĐ thực hiện tốt công tác bảo hộ lao động, phòng ngừa TNLĐ – BNN, chi dự phòng… theo quy định của Nhà nước. - Đầu tư để bảo toàn và tăng trưởng quỹ theo quy định của Luật BHXH. Hiện nay quỹ BHXH bắt buộc được chia thành ba thành phần đó là: + Quỹ ốm đau, thai sản. + Quỹ hưu trí, tử tuất. + Quỹ TNLĐ - BNN. Quỹ BHXH bắt buộc ở nước ta được tổ chức theo nguyên tắc tập trung, tạo lập một quỹ tiền tệ chung. Do đó, vấn đề quản lý quỹ sao cho đảm bảo quyền lợi của tất cả các thành viên tham gia đóng góp là rất quan trọng. Đặc biệt, công tác quản lý thu BHXH hiện nay còn tồn tại nhiều bất cập cần phải giải quyết, có biện pháp xử lý triệt để. Vì vậy, không chỉ riêng ngành BHXH mà các ban ngành liên quan cần có sự quam tâm đúng mức hơn với những thực trạng này. 1.2. Vai trò của công tác quản lý thu BHXH 1.2.1. Khái niệm quản lý thu BHXH Cũng như các tổ chức kinh tế - chính trị - xã hội khác, tổ chức BHXH muốn tồn tại và phát triển phải có một tài chính riêng để chi dùng cho công tác thực hiện chính sách, chế độ. Do đó, thu BHXH là nhân tố có tính chất quyết định đến sự tồn tại và phát triển của BHXH ở bất kì một quốc gia nào trên thế giới. Thu BHXH là việc nhà nước dùng quyền lực của mình bắt buộc các đối tượng phải đóng BHXH theo mức phí quy định hoặc cho phép một số đối tượng được tự nguyện tham gia, lựa chọn mức đóng và phương thức đóng phù hợp với thu nhập của mình. Trên cơ sở đó hình thành một quỹ tiền tệ tập trung nhằm mục đích bảo đảm cho các hoạt động BHXH.[5] Tuy nhiên, thực tế hiện nay cho thấy hiệu quả thu BHXH nói chung và thu BHXH đối với hình thức bắt buộc nói riêng thường đạt được kết quả không cao. Trong nền kinh tế nhiều thành phần như Việt Nam hiện nay, lợi ích của các bên tham gia BHXH là khác nhau. Đơn vị SDLĐ thì luôn muốn tối đa hóa lợi nhuận, tối thiểu hóa chi phí. Trong khi đó, NLĐ thì lại muốn đóng góp ít nhất mà lại được hưởng nhiều nhất. Qũy BHXH là có hạn, để đảm bảo cho mọi hoạt động được bền vững, cơ quan BHXH phải luôn tiến hành cân đối quỹ sao cho hợp lý nhất. Chính những mâu thuẫn về lợi ích trên và có thể đảm bảo lợi ích hợp pháp cũng như trách nhiệm của các bên tham gia cần phải có người trọng tài là Nhà nước. Với chức năng cai trị, Nhà nước sẽ sử dụng quyền lực của mình xây dựng các cơ chế, chính sách nhằm nâng cao hiệu quả công tác thu và quản lý thu BHXH. Trước khi đi đến khái niệm công tác quản lý thu BHXH cần phải hiểu thế nào là quản lý? Có nhiều cách hiểu khác nhau về quản lý. Nhưng xét về mặt bản chất, quản lý chính là sự tác động có kế hoạch, sắp xếp, tổ chức, chỉ huy, kiểm tra các chủ thể quản lý, các quá trình xã hội và hoạt động của con người để chúng phát triển phù hợp với quy luật, đạt tới mục đích đề ra của tổ chức và đúng với ý chí của nhà nước quản lý với chi phí thấp nhất. Quản lý thu BHXH là sự tác động có tổ chức của chủ thể quản lý để điều chỉnh các hoạt động thu. Sự tác động đó được thực hiện bằng hệ thống các biện pháp hành chính, kinh tế và pháp luật nhằm đạt được mục tiêu thu đúng đối tượng, thu đủ số lượng và không để thất thu tiền đóng BHXH, đảm bảo thời gian theo quy định.[5] 1.2.2. Vai trò công tác quản lý thu BHXH 1.2.2.1 Tạo sự thống nhất trong hoạt động thu BHXH Hoạt động thu BHXH vốn có tính chất đặc thù khác với các hoạt động khác đó là: đối tượng thu BHXH đa dạng, phức tạp, bao gồm nhiều thành phần kinh tế khác nhau, độ tuổi, thu nhập và vị trí địa lý vùng miền cũng không thống nhất. Do đó, nếu không có sự chỉ đạo thống nhất giữ các cấp quản lý thì hoạt động thu BHXH sẽ không đạt được hiệu quả cao. Hiện nay, ngành BHXH của nước ta được quản lý theo ngành dọc, hệ thống đại lý bảo hiểm ở các xã cũng khá lớn. Thông qua công tác quản lý, quá trình tổ chức thực hiện chính sách BHXH giữa các cấp khác nhau được thống nhất. Việc thống nhất giữa những người bị quản lý và người quản lý sẽ làm giảm chi phí, tiền của và công sức cho các cơ quan BHXH. Như vậy, thông qua hoạt động quản lý những nội dung quan trọng của hoạt động thu BHXH được thống nhất về đối tượng thu, biểu mẫu, hồ sơ thu, quy trình thu nộp BHXH… Đồng thời giúp cho cơ quan BHXH nắm chắc được các nguồn thu, từ các đối tượng khác nhau để đưa ra các biện pháp nâng cao hiệu quả các nguồn thu đó. 1.2.2.2. Đảm bảo thu BHXH ổn định, bền vững, hiệu quả Thu BHXH có vai trò rất quan trọng trong việc cân đối quỹ BHXH. Tính ổn định và bền vững, hiệu quả của hoạt động thu BHXH là một mục tiêu mà bất kì một hệ thống BHXH của quốc gia nào cũng mong muốn đạt được. Bởi vì BHXH là một phần quan trọng của hệ thống ASXH. Khi hoạt động thu BHXH ổn định, bền vững và hiệu quả cũng có nghĩa là hệ thống an sinh xã hội được đảm bảo, tạo tiền đề cho sự phát triển kinh tế. Tuy nhiên, để đạt được những mục tiêu quan trọng này trong quá trình thu BHXH đòi hỏi phải đảm bảo một số yếu tố nhất định. Với chức năng của mình, công tác quản lý thu BHXH sẽ đảm bảo hoạt động thu BHXH ổn định, bền vững, hiệu quả thông qua: Thứ nhất, công tác quản lý sẽ giúp định hướng công tác thu BHXH một cách đúng đắn, phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia trong mỗi thời kì trên cơ sở xác định mục tiêu chung của hoạt động thu BHXH đó là: thu đúng, thu đủ, thu không để thất thoát, từ đó hướng mọi nỗ lực cá nhân, tổ chức vào mục tiêu chung đó. Thứ hai, nhờ việc “chỉ huy” liên tục của người quản lý mà quá trình thu BHXH với rất nhiều yếu tố phức tạp đã được tổ chức, điều hòa, phối hợp nhịp nhàng, hướng dẫn hoạt động của các cá nhân trong hệ thống BHXH, giúp tăng cường tính ổn định trong hệ thống nhằm đạt được mục tiêu đề ra. Thứ ba, công tác thu BHXH có thể tạo động lực cho mọi người trong tổ chức BHXH. Do đó, trong vấn đề này, quản lý giữ vai trò đảm nhiệm, thông qua công tác đánh giá sẽ khen thưởng cho các cá nhân, tổ chức thu BHXH có thành tích tốt, đạt kết quả cao, đồng thời uốn nắn những sai lệch hoặc những biểu hiện tiêu cực làm thất thoát quỹ BHXH, làm ảnh hưởng đến lợi ích của người tham gia. 1.2.2.3. Kiểm tra, đánh giá hoạt động thu BHXH Thu BHXH là một nội dung của tài chính BHXH mà thông thường bất kì một hoạt động nào liên quan đến tài chính đều rất dễ mắc phải tình trạng thất thoát, vô ý hoặc cố ý làm sai, ảnh hưởng đến quyền lợi của người tham gia, không thể hiện ý nghĩa, tầm quan trọng của hệ thống BHXH. Mặt khác, quá trình thực hiện thu BHXH được tiến hành theo ba cấp, nếu không có công tác quản lý trong quá trình thu nộp sẽ dẫn đến quỹ BHXH bị thất thoát. Để giải quyết mặt hạn chế này, người quản lý sẽ đảm nhiệm công tác kiểm tra, đánh giá hoạt động thu BHXH một cách kịp thời và toàn diện, sát với thực tế, để có những điều chỉnh kịp thời sau khi đánh giá. Ngoài ra, công tác quản lý thu BHXH còn có vai trò to lớn trong việc tạo ra nguồn tiền tạm thời nhàn rỗi trên thị trường tài chính để đầu tư phát triển kinh tế - xã hội đất nước, mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội. Nếu công tác quản lý thu thực sự được thực hiện tốt. Như vậy, nếu công tác quản lý thu BHXH đạt hiệu quả cao, sẽ có nhiều đối tượng được tham gia vào hệ thống BHXH. Qua đó, số tiền huy động vào quỹ BHXH ngày càng cao, được đảm bảo an toàn. Ngược lại, khi quản lý thu BHXH đạt hiệu quả thấp cũng có nghĩa là số huy động vào quỹ BHXH cũng thấp tương ứng, đây chính là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến sự mất cân đối quỹ BHXH. 1.2.2.4. Tăng thu, bảo đảm cân đối quỹ BHXH Thu BHXH là một trong những nguyên nhân dẫn đến mất cân đối quỹ BHXH. Vì vậy công tác quản lý thu BHXH cũng có ảnh hưởng không nhỏ đến việc cân đối quỹ hiện nay. Cũng như các loại hình bảo hiểm khác, BHXH cũng được hoạt động theo quy luật số đông. Số đông người tham gia đóng BHXH để chi trả cho số ít người đủ điều kiện hưởng trợ cấp. Vì vậy, nếu có ít người tham gia đóng BHXH thì số thu ít, không đảm bảo đủ tiền chi trả cho các chế độ BHXH. Công tác thu BHXH được thực hiện không tốt, khai thác không hết nguồn thu, không đủ số phải thu…chắc chắn sẽ dẫn đến hậu quả thu không đủ chi, quỹ bị mất cân đối. Vì vậy, phải tăng nhanh số người tham gia đóng BHXH thông qua công tác quản lý thu BHXH. Khi vấn đề thu BHXH được quản lý chặt chẽ, đem lại hiệu quả, nguồn thu BHXH sẽ được cải thiện, thu tăng, đảm bảo mối quan hệ giữa các yếu tố cấu thành thu và chi của quỹ BHXH trong một thời kì nhất định bằng nhau hoặc tương đương. 1.3. Nội dung công tác quản lý thu BHXH Mỗi quốc gia trên thế giới có điều kiện kinh tế xã hội khác nhau, do đó việc ban hành chính sách, chế độ BHXH của mỗi nước cũng mang những nét đặc thù riêng. Tuy nhiên, cấu trúc của chính sách BHXH thường giống nhau vì vậy nội dung của công tác quản lý thu BHXH đều gắn chặt với các vấn đề cơ bản, đó là: tổ chức quản lý đối tượng tham gia BHXH, quản lý nguồn tiền đóng góp vào quỹ và quá trình tổ chức thu BHXH. 1.3.1. Quản lý đối tượng tham gia BHXH Một trong những nội dung của công tác quản lý thu BHXH là quản lý đối thượng tham gia, mà cụ thể là NLĐ và người SDLĐ. Đầu tiên về đối tượng tham gia BHXH, việc làm rất cần thiết là phải quản lý được các đơn vị SDLĐ thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc theo các địa bàn hành chính quản lý, kể cả những người buôn bán nhỏ, hộ sản xuất KD trong các làng nghề truyền thống có thuê mướn và SDLĐ thuộc đối tượng bắt buộc tham gia BHXH. Sau khi xác định đầy đủ các đối tượng thuộc diện tham gia BHXH theo luật định, tổ chức BHXH sẽ tiến hành hướng dẫn các chủ SDLĐ đăng kí tham gia BHXH cho NLĐ thuộc phạm vi đơn vị, đồng thời tiến hành quản lý và kiểm tra việc thực hiện đóng đúng quy định của Nhà nước về hoạt động BHXH của các đơn vị SDLĐ này. Quy trình quản lý thu BHXH là tổng thể các công việc cần phải tiến hành để đạt được mục tiêu đã đề ra với hiệu quả cao nhất. Để thực hiện tốt nhất mục tiêu của công tác thu BHXH cần thiết phải tiến hành một quy trình thu kế hoạch tạo điều kiện thuận lợi cho các đơn vị sử dụng lao động tham gia và cán bộ chuyên trách thu của cơ quan BHXH. Hiện nay, căn cứ vào thời gian đơn vị SDLĐ tham gia mà có 02 quy trình thu riêng sau: * Đối với các đơn vị SDLĐ lần đầu tiên tham gia BHXH, quy trình quản lý thu BHXH gồm các bước công việc theo thứ tự sau: - Đơn vị SDLĐ lập hồ sơ đăng kí tham gia BHXH bao gồm: + Công văn gửi BHXH tỉnh, thành phố xin đăng kí tham gia BHXH. + Bảng kê khai danh sách số lao động tham gia BHXH. - Sau khi nhận được hồ sơ của đơn vị SDLĐ, BHXH tỉnh, huyện sẽ thẩm định tính hợp lệ của hồ sơ, tính toán mức đóng, cấp sổ và tổ chức thu. * Đối với đơn vị SDLĐ đang tham gia BHXH, quy trình quản lý thu BHXH bao gồm các công việc sau: - Lâp bảng kê khai danh sach lao động tham gia BHXH; - Lập bảng kê khai tăng giảm lao động và quỹ lương đóng BHXH; - BHXH tỉnh tiến hành thẩm định bảng kê khai và tiến hành thu, cấp sổ BHXH bổ sung cho các đối tượng mới tham gia BHXH. Qua công tác quản lý thu, tổ chức BHXH sẽ nắm bắt được số lượng các đơn vị SDLĐ và số lao động thuộc diện tham gia BHXH trên địa bàn huyện, tỉnh… Đây là việc làm rất cần thiết để tiến hành các nghiệp vụ tiếp theo của công tác thu BHXH. Việc xác định các thành viên tham gia hệ thống BHXH là một trong những nhiệm vụ lớn và quan trọng nhất của công tác quản lý thu BHXH. Căn cứ vào loại hình BHXH, đối tượng tham gia có thể được phân thành hai loại bắt buộc và tự nguyện. Theo điều 2 Luật BHXH quy định về đối tượng NLĐ tham gia BHXH bắt buộc là công dân Việt Nam đó là: + Người làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn, hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ ba tháng trở lên; + Cán bộ, công chức, viên chức; + Công nhân quốc phòng, công nhân an ninh; + Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp quân đội nhân dân, sĩ quan. Hạ sĩ quan chuyên môn kỹ thuật công an nhân dân, người làm công tác cơ yếu hưởng lương như đối với quân đội nhân dân, công an nhân dân; + Hạ sĩ quan, binh sĩ quân đội nhân dân và hạ sĩ quan , chiến sĩ công an nhân dân phục vụ có thời hạn; + Người làm việc có thời hạn ở nước ngoài mà trước đó đã đóng BHXH bắt buộc; Đối với người SDLĐ tham gia BHXH bắt buộc Luật BHXH quy định bao gồm: cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội khác, cơ quan, tổ chức nước ngoài, tổ chức quốc tế hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam, DN, HTX, hộ KD cá thể, tổ hợp tác, tổ chức khác và cá nhân có thuê mướn, sử dụng và trả công cho lao động. Nhiệm vụ của người làm công tác quản lý thu BHXH là phải xác định rõ đối tượng thuộc phạm vi mình quản lý phải tham gia BHXH, từ đó có những biện pháp thực hiện công tác thu BHXH tốt hơn. Để quản lý dễ dàng, cơ quan BHXH thường phối hợp với các cơ quan cấp phép cho DN hoạt động để nắm rõ số lượng đơn vị SDLĐ trên địa bàn. Khi tiến hành quản lý việc đăng kí tham gia vào hệ thống BHXH của chủ SDLĐ, cơ quan BHXH sẽ đưa ra các tiêu thức, yêu cầu bắt buộc chủ SDLĐ có trách nhiệm cung cấp thông tin như: tên đơn vị, loại hình hoạt động KD, số lao động hiện có… đối với NLĐ cần phải cung cấp thông tin về tên, năm sinh, giới tính, … Việc cung cấp những thông tin này sẽ tránh được sự trùng lặp giữa các đối tượng và sẽ được cơ quan BHXH mã hoá bằng dãy kí tự để cho công tác quản lý trở nên dễ dàng, thuận tiện hơn, tiết kiệm thời gian. Danh sách lao động trong từng đơn vị sẽ do mỗi đơn vị tự lập theo mẫu quy định của BHXH Việt Nam, nhằm đảm bảo sự thống nhất trong thủ tục hành chính. Bên cạnh đó sự biến động tăng giảm lao động của đơn vị cũng được cập nhật thường xuyên, liên lạc để bảo vệ quyền lợi của NLĐ. 1.3.2. Quản lý mức thu BHXH Xuất phát từ mục đích của BHXH là nhằm bù đắp hoặc thay thế một phần thu nhập cho NLĐ khi họ không may gặp rủi ro cho nên khi thiết kế khoản đóng góp vào quỹ BHXH hầu hết các quốc gia trên thế giới đều căn cứ vào thu nhập, tiền lương - tiền công của NLĐ, thực hiện khấu trừ tiền lương của NLĐ và các khoản đóng góp của chủ SDLĐ chuyển khoản về đơn vị quản lý thực hiện BHXH. Thông thường mức đóng góp BHXH thường căn cứ vào tiền lương của NLĐ (lương chính, các khoản phục cấp…) và tổng quỹ lương của toàn doanh nghiệp. Ở nước ta tiền lương – tiền công tháng đóng BHXH bắt buộc được quy định cụ thể trong Luật BHXH như sau: - Đối với NLĐ thuộc đối tượng thực hiện chế độ tiền lương do nhà nước quy định thì tiền lương tháng đóng BHXH là tiền lương theo cấp bậc, quân hàm và các khoản phụ chức vụ, phụ cấp thâm niên vượt khung, phụ cấp thâm niên nghề (nếu có). Tiền lương này được tính trên cơ sở mức tiền lương tối thiểu chung. - Đối với NLĐ đóng BHXH theo chế độ tiền lương do người SDLĐ quy định tiền lương, tiền công tháng đóng BHXH là mức tiền lương, tiền công ghi trong hợp đồng lao động cùng với các khoản phụ cấp (nếu có) nhưng không thấp hơn mức lương tối thiểu chung do Nhà nước quy định. Để quản lý được nguồn đóng góp này, cơ quan BHXH cần phải theo dõi chặt chẽ diễn biến thu nhập của từng cá nhân NLĐ trong từng đơn vị SDLĐ. Thường xuyên thực hiện kiểm tra, đối chiếu tổng quỹ lương của đơn vị tham gia hàng tháng, trên cơ sở đó tính số tiền mỗi bên phải nộp vào quỹ BHXH. Bản kê khai tiền lương, tiền công làm căn cứ đóng BHXH của NLĐ và bản kê khai tổng quỹ lương sẽ do mỗi đơn vị lập theo biểu mẫu của BHXH Việt Nam cùng với sự biến động của số người tham gia BHXH, mức lương, tiền lương thay đổi của từng NLĐ. Do đặc thù công tác thu BHXH là phải thu nhiều đối tượng bằng nhiều hình thức khác nhau (tiền mặt, chuyển khoản..) nên với mỗi hình thức chuyển tiền đều phải quản lý chặt chẽ để tránh nhầm lẫn, thất thoát. Thông thường các hệ thống BHXH được tổ hoạt động nghiệp vụ theo mô hình ba cấp (cơ quan cấp Trung ương, cấp vùng và cấp địa phương) hoặc hai cấp (cơ quan cấp Trung ương và cơ quan cấp vùng). Mỗi hệ thống BHXH thực hiện nhiều phương pháp khác nhau để thu các khoản đóng góp (như: trực tiếp bằng tiền mặt, bằng séc hoặc chuyển khoản). Vấn đề quan trọng của công tác quản lý thu BHXH chính là có thủ tục nhận tiền đóng của các chủ thể tham gia một cách an toàn, trách gây thất thoát. Mức đóng BHXH của mỗi nước chịu sự chi phối của rất nhiều yếu tố khác nhau như: đặc điểm dân số, điều kiện kinh tế - xã hội, sự văn minh của người dân, căn cứ đóng và tỷ lệ hưởng của người tham gia như thế nào… Do đó người quản lý phải nắm vững những yếu tố cơ bản này để đưa ra mức đóng phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của quốc gia mình trong mỗi thời kì nhất định để đem lại hiệu quả tốt nhất cho chính sách BHXH. Mặt khác, cơ quan quản lý nhà nước về BHXH phải xây dựng được mức đóng phù hợp với tất cả các đối tượng, tương quan tỷ lệ đóng giữa người SDLĐ và người NLĐ không được quá chêch lệch, không được làm cho chủ SDLĐ muốn trốn tránh trách nhiệm tham gia BHXH cho NLĐ. Sau khi đã thiết kế được mức đóng phù hợp, mức đóng góp của từng đơn vị và từng NLĐ sẽ được quản lý chặt chẽ trên cơ sở danh sách tham gia BHXH của từng đơn vị. Mức lương hoặc tiền công của từng NLĐ và tổng quỹ lương của người tham gia trong từng vùng đơn vị trực thuộc sao cho chỉ tiêu này luôn khớp với nhau. Theo Luật BHXH năm 2006 của Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, mức đóng BHXH bắt buộc hàng tháng là 20% tổng quỹ tiền lương – tiền công của NLĐ. Trong đó, NLĐ đóng 5% mức tiền lương, tiền công vào quỹ hưu trí và tử tuất (từ năm 2010 trở đi, cứ hai năm một lần đóng thêm 1% cho đến khi đạt mức đóng 8%); người SDLĐ đóng 15% trên tổng quỹ tiền lương, tiền công đóng BHXH của NLĐ như sau: + 3% vào quỹ ốm đau và thai sản; trong đó, người SDLĐ giữ lại 2% để chi trả kịp thời cho NLĐ đủ điều kiện hưởng theo quy định và thực hiện quyết toán hàng quý với tổ chức BHXH, + 1% vào quỹ TNLĐ – BNN, + 11% vào quỹ hưu trí, tử tuất (từ năm 2010 trở đi, cứ hai năm một lần đóng thêm 1% cho đến khi đạt mức đóng 14%). 1.3.3. Tổ chức thu BHXH Để thực hiện việc tổ chức thu BHXH, BHXH các cấp cần phải thực hiện một số công việc sau: 1.3.3.1. Phân cấp thu một cách hợp lý Phân cấp thu BHXH hợp lý là một điều kiện quan trọng trong việc tạo nên hiệu quả của công tác thu cũng như công tác quản lý thu. Nó giúp cho bộ máy hoạt động của tổ chức BHXH được thống nhất, không bị chồng chéo. Cụ thể công tác thu BHXH sẽ được phân cấp quản lý như sau: - BHXH cấp tỉnh tổ chức thu BHXH của các đơn vị SDLĐ đóng trên địa bàn tỉnh bao gồm các đơn vị: + Do Trung ương quản lý; + Do Tỉnh trực tiếp quản lý; + DN có vốn đầu tư nước ngoài; + Đơn vị, tổ chức quốc tế; + DN ngoài quốc doanh có sử dụng lao động lớn; + Cơ quan, tổ chức, DN đưa lao động Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài; + Đơn vị mà BHXH huyện không đủ điều kiện thu. - BHXH cấp huyện thu BHXH của các đơn vị có trụ sở và tài khoản tại địa bàn huyện bao gồm: + Đơn vị do huyện trực tiếp quản lý; + Đơn vị ngoài quốc doanh có SDLĐ từ 10 lao động trở lên; + Xã, phường, thị trấn; + Đơn vị khác do BHXH tỉnh giao nhiệm vụ thu. Căn cứ vào sự phân cấp trên BHXH các cấp sẽ tiến hành xác định những đối tượng nào hiện đang hoạt động trên địa bàn thuộc phạm vi mình quản lý. Từ đó xác định số lao động ở từng đơn vị SDLĐ để có kế hoạch tổ chức thu cụ thể. Sau đó phân chia công việc quản lý thu cho từng cán bộ trong đơn vị, mỗi cán bộ quản lý một khu vực khác nhau để công việc không bị chồng chéo lên nhau. 1.3.3.2. Lập và xét duyệt kế hoạch thu BHXH hàng năm Đối với đơn vị SDLĐ, hằng năm đơn vị SDLĐ có trách nhiệm đối chiếu số lao động quỹ tiền lương và mức nộp BHXH thực tế cho cơ quan BHXH trực tiếp quản lý trước ngày 10/10 hàng năm. Đối với cơ quan BHXH huyện, hàng năm BHXH cấp huyện căn cứ tình hình thực hiện năm trước và khả năng mở rộng NLĐ tham gia BHXH trên địa bàn, lập hai bản “Kế hoạch thu BHXH, BHYT bắt buộc” năm sau (theo mẫu số 13 - TBH), gửi BHXH tỉnh một bản trước ngày 05/11 hàng năm. Đối với BHXH tỉnh: hàng năm lập hai bản dự toán thu BHXH, BHYT đối với NLĐ do tỉnh quản lý, đồng thời tổng hợp toàn tỉnh, lập hai bản “Kế hoạch thu BHXH, BHYT bắt buộc” năm sau (theo mẫu số 13 – TBH), gửi BHXH Việt Nam một bản trước ngày 15/11 hàng năm. Đồng thời, bên cạnh đó, căn cứ vào dự toán thu BHXH Việt Nam giao, tiến hành phân bổ dự toán thu cho các đơn vị trực thuộc tỉnh, huyện trước ngày 20/1 hàng năm. Riêng đối với BHXH thuộc Bộ quốc phòng, Bộ công an, Ban cơ yếu Chính phủ lập kế hoạch thu BHXH gửi trực tiếp lên BHXH Việt Nam trước ngày 15/11 hàng năm. Đối với BHXH Việt Nam: BHXH Việt Nam sẽ căn cứ vào tình hình thực hiện kế hoạch năm trước và khả năng phát triển lao động năm sau của các địa phương, tổng hợp, lập và giao dự toán thu BHXH, BHYT cho BHXH tỉnh, BHXH thuộc Bộ quốc phòng, Bộ công an và Ban cơ yếu Chính phủ trước ngày 10/01 hàng năm. Thông qua việc lập và xét kế hoạch thu BHXH, BHXH các cấp sẽ định lượng được khối lượng công việc phải làm trong thời gian tới. Cán bộ quản lý thu sẽ quản lý xem khoảng thời gian lập kế hoạch của đơn vị mình đã đúng với thời gian quy định chưa. Đồng thời dựa vào kế hoạch thu BHXH hàng năm tiến hành công tác quản lý các nguồn thu, triển khai công tác nghiệp vụ chuyên môn. 1.3.3.3. Quản lý tiền thu Theo quy định, BHXH cấp tỉnh, huyện không được sử dụng tiền thu BHXH vào bất cứ mục đích gì. Trong một số trường hợp đặc biệt phải có sự chấp nhận bằng văn bản của Tổng giám đốc BHXH Việt Nam. Hàng quý, BHXH tỉnh và huyện có trách nhiệm quyết toán số tiền 2% đơn vị được giữ lại, xác định số tiền chênh lệch, thừa, thiếu, đồng thời gửi thông báo quyết toán cho phòng thu hoặc bộ phận thu để thực hiện thu kịp thời số tiền người SDLĐ chưa chi hết vào đầu tháng của quý sau. BHXH Việt Nam sẽ thẩm định số thu BHXH tăng theo 06 tháng hoặc hàng năm đối với BHXH tỉnh, BHXH thuộc Bộ quốc phòng, Bộ công an và Ban cơ yếu chính phủ. Mỗi cấp quản lý có những chức năng và nhiệm vụ khác nhau. Do đó việc quản lý và sử dụng tiền thu BHXH cũng có những điểm khác nhau. Hoạt động BHXH là hoạt động không vì mục đích sinh lợi, quỹ BHXH là quỹ tiền tệ tập trung, thống nhất. Chính vì vậy, tiền thu BHXH phải được quản lý chặt chẽ, mọi khoản chi hoặc thu đều phải theo đúng quy định và được quyết toán rõ ràng, đảm bảo quyền lợi cho người tham gia. 1.3.3.4. Thông tin báo cáo Công tác thông tin báo cáo trong quản lý thu là rất cần thiết, đảm bảo mọi thông tin đều được cập nhật thường xuyên, liên tục. Trong công tác thông tin báo cáo, các đơn vị thường sử dụng hệ thống biểu mẫu đã được BHXH Việt Nam quy định sẵn. Vì vậy để thực hiện thông tin báo cáo theo đúng quy định, cán bộ làm công tác chuyên môn phải nắm chắc từng biểu mẫu cũng như trường hợp sử dụng những giấy tờ đó. Bên cạnh đó, cán bộ quản lý thu cũng phải kiểm tra xem những thông tin mà đối tượng tham gia khai báo đã chính xác hay chưa để có điều chỉnh cho phù hơp. Theo quy định, BHXH tỉnh, huyện sẽ mở sổ chi tiết thu BHXH bắt buộc theo mẫu số 07 - TBH định kỳ hàng tháng, quý, năm. BHXH thuộc Bộ quốc phòng, Bộ công an và Ban cơ yếu chính phủ thực hiện báo cáo thu BHXH 6 tháng đầu năm trước ngày 30/07 và báo cáo năm trước ngày 15/02 năm sau. 1.3.3.5. Quản lý hồ sơ, tài liệu Bởi vì các thông tin, dữ liệu của đối tượng tham gia thay đổi thường xuyên và số lượng giấy tờ, văn bản liên quan khá lớn nên BHXH tỉnh, huyện luôn phải cập nhật thông tin, dữ liệu của người tham gia BHXH để phục vụ kịp thời cho công tác nội vụ và quản lý. Đồng thời, BHXH tỉnh cần xây dựng hệ thống mã số đơn vị tham gia BHXH áp dụng trên địa bàn quản lý theo hướng dẫn của BHXH Việt Nam. Mã số tham gia BHXH cấp cho đơn vị để đăng kí tham gia BHXH được sử dụng thống nhất trên hồ sơ, giấy tờ, sổ sách và báo cáo nghiệp vụ. Bên cạnh đó, BHXH các cấp, tổ chức phân loại, lưu trữ và bảo quản hồ sơ, tài liệu, ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý người tham gia. 1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến công tác quản lý thu BHXH Như các hoạt động kinh tế - xã hội khác, hoạt động quản lý thu BHXH cũng chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác nhau. Công tác quản lý thu BHXH thực hiện dễ dàng hay không, đạt được kết quả tốt hay xấu là phụ thuộc vào sự tác động của nhân tố chủ yếu sau: 1.4.1. Trình độ dân trí Có thể nói, một địa phương có trình độ dân trí cao, văn hóa xã hội phát triển, khả năng có thể tiếp cận với thông tin, khoa học - kỹ thuật của người dân dễ dàng sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các chính sách xã hội phát triển, đi sâu vào đời sống người dân hơn so với một địa phương có trình độ dân trí kém phát triển. Đối với chính sách BHXH, trong điều kiện trình độ nhận thức của người dân tiến bộ thì việc đưa chính sách vào thực tiễn cuộc sống cũng trở nên đơn giản hơn rất nhiều. Người dân nhanh chóng nắm bắt được ý nghĩa to lớn của chính sách, chế độ BHXH thông qua công tác thông tin tuyên truyền của tổ chức BHXH. Khi nhận thức của đại bộ phận người dân, đặc biệt là NLĐ và người SDLĐ được nâng lên rõ rệt sẽ tác động tích cực đến công tác quản lý thu BHXH, giảm bớt tình trạng trốn đóng, nợ đọng BHXH đã và đang gây khó khăn cho công tác quản lý thu BHXH. 1.4.2. Điều kiện kinh tế - xã hội Điều kiện kinh tế - xã hội cũng là một trong những nhân tố quan trọng tác động đến công tác quản lý thu BHXH. Theo tháp nhu cầu của Maslow, nhu cầu được bảo hiểm của con người chỉ được nghĩ đến khi những nhu cầu cần thiết về ăn, mặc, ở đã được đảm bảo. Vì vây, chỉ khi nào kinh tế xã hội phát triển, đời sống vật chất của mọi người dân trong xã hội được cải thiện thì chính sách BHXH mới phát huy được vai trò to lớn của mình. Khi kinh tế phát triển, số lượng NLĐ có việc làm sẽ tăng lên do có sự mở rộng về quy mô sản xuất xã hội. Từ đó làm cho đối tượng thuộc diện tham gia BHXH không ngừng được tăng lên. NLĐ và người SDLĐ không vì lợi ích kinh tế trước mắt mà tìm mọi cách né tránh chính sách xã hội thiết thực này. 1.4.3. Chính sách tiền lương - tiền công Căn cứ theo tốc độ phát triển kinh tế trong nước cũng như trên thế giới, chính sách tiền lương tiền công cũng được điều chỉnh liên tục sao cho phù hợp với những thay đổi đó. Trong chế độ BHXH ở nước ta, tiền lương tiền công của NLĐ và tổng quỹ lương của đơn vị SDLĐ được dùng làm căn cứ để tính đóng BHXH. Hàng năm, Chính phủ thường có Nghị định điều chỉnh tiền lương tối thiểu chung. Qua đó tiền lương làm căn cứ đóng BHXH cũng tăng theo. Sự biến động thường xuyên liên tục này làm cho công tác quản lý thu gặp một số khó khăn nhất định. Nếu cán bộ làm công tác quản lý không nhạy bén với tình hình thực tế, chủ động, sáng tạo thì quỹ BHXH khó có thể đảm bảo thu đúng, thu đủ, thu kịp thời, an toàn và tăng trưởng quỹ. 1.4.4. Trình độ của nhà làm công tác quản lý Bên cạnh những nhân tố khách quan trên thì công tác quản lý thu BHXH còn chịu ảnh hưởng của nhân tố chủ quan từ chính các nhà làm công tác quản lý. Để nắm bắt được những thay đổi tăng, giảm của đối tượng tham gia, diễn biến tiền lương làm căn cứ đóng BHXH …cán bộ chuyên quản lý thu phải đảm bảo đủ năng lực về trình độ chuyên môn, khả năng nhận định và phân tích tính hình, có tinh thần trách nhiệm, nhiệt tình trong công việc…Như vậy, công tác quản lý thu mới đạt hiệu quả cao, phát hiện kịp thời những tình huống sai phạm để có biện pháp xử lý triệt để. Ngoài ra, công tác quản lý thu BHXH còn chịu tác động của yếu tố cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ công tác nghiệp vụ chuyên môn hiện đại hay đã lỗi thời lạc hậu, sự quan tâm của các chủ thể liên quan đến chính sách…Vì vậy, để công tác quản lý thu BHXH đạt được kết quả tốt nhất, cán bộ trong ngành BHXH đặc biệt là cán bộ quản lý thu cần phải quan tâm toàn diện đến các nhân tố ảnh hưởng đến quá trình quản lý thu BHXH như đã phân tích ở trên. Chương 2 THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ THU BẢO HIỂM XÃ HỘI BẮT BUỘC Ở BẢO HIỂM XÃ HỘI HUYỆN MỸ HÀO TỈNH HƯNG YÊN GIAI ĐOẠN 2007 – 2010 2.1. Giới thiệu chung về bảo hiểm xã hội huyện Mỹ Hào 2.1.1. Đặc điểm kinh tế - xã hội huyện Mỹ Hào Hưng Yên là một tỉnh thuộc khu vực Bắc Bộ, có vị trí địa lý khá thuận lợi cho sự phát triển kinh tế - xã hội . Vốn nằm trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, xung quanh tiếp giáp với tỉnh Hải Dương, Thái Bình, Bắc Ninh, Hà Nam (là những tỉnh đang có bước tiến mới về kinh tế - xã hội ), lại nằm trọn trong vùng tam giác lưu thông Hà Nội - Hải phòng - Quảng Ninh, Hưng Yên đã và đang tận dụng lợi thế đó từng bước khẳng định mình. Huyện Mỹ Hào được xem như huyện có tốc độ phát triển kinh tế - xã hội khá nhanh vài năm gần đây, trở thành lá cờ đầu trong phong trào phát triển kinh tế - xã hội bền vững của tỉnh. Cùng với vị trí địa lý thuận lợi, huyện Mỹ Hào đang dần hình thành nên các KCN lớn như: KCN Phố Nối A, KCN Phố Nối B, KCN Minh Đức…tập trung một lượng không nhỏ lao động. Có thể nói đây là “mảnh đất tốt” cho chính sách BHXH phát triển. Hiện nay theo địa bàn hành chính quản lý thì huyện Mỹ Hào bao gồm có 12 xã và 01 thị trấn. Huyện Mỹ Hào nằm ở phía Bắc của tỉnh Hưng Yên, phía bắc giáp với huyện Văn Lâm, phía tây giáp với huyện Yên Mỹ, phía nam giáp với huyện Ân Thi (đều của tỉnh Hưng Yên), phía đông giáp với tỉnh Hải Dương. Từ Mỹ Hào có các tuyến đường giao thông lớn nối với các trung tâm công nghiệp, kinh tế - văn hoá như: quốc lộ 5 chạy từ Hà Nội xuyên qua thị trấn Bần, quốc lộ 39 đi thành phố Hưng Yên sang tỉnh Thái Bình, quốc lộ 38 ranh giới với tỉnh Hải Dương. Với tổng diện tích 79,1 km2 dân số ước tính năm 2010 là 91.200 người Mỹ Hào được xem là huyện có mật độ dân số cao trong đồng bằng sông Hồng (1.153 người/km2 ). Đặc biệt dân số trong dộ tuổi lao động chiếm khoảng 46.512 người bằng 51% dân số toàn huyện, chủ yếu hiện nay đã có việc làm. Đây là một yếu tố thuận lợi cho chính sách BHXH đi vào cuộc sống. Sau hơn 10 năm tái lập tỉnh, huyện Mỹ Hào đá có những bước phát triển vượt bậc. Từ một huyện thuần nông (nông nghiệp chiếm 61% tỷ trọng năm 1999) thì hiện nay cơ cấu kinh tế của huyện đã có sự chuyển dịch mạnh mẽ. Năm 2010 cơ cấu kinh tế đạt tỷ lệ: nông nghiệp 8,7% - công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp 63,3% - thương mại, dịch vụ 28%; thu nhập bình quân đầu người đạt 1.800USD/người/năm. Tổng thu ngân sách trên địa bàn huyện Mỹ Hào năm 2010 đạt 240 tỷ đồng. 2.1.2. Vài nét về cơ quan BHXH huyện Mỹ Hào 2.1.2.1. Sơ lược lịch sử hình thành và phát triển của BHXH huyện Mỹ Hào BHXH huyện Mỹ Hào mà tiền thân là BHXH huyện Mỹ Văn được thành lập tháng 10/1995. Căn cứ theo Quyết định số 1995/2000/QĐ – TCCB của Tổng giám đốc BHXH Việt Nam, từ tháng 01/2000 BHXH huyện Mỹ Văn chia tách thành BHXH huyện Mỹ Hào và BHXH huyện Yên Mỹ. Hiện nay, BHXH huyện đã có 13 cán bộ công chức; trong đó, 11 người có trình độ đại học và 2 người có trình độ cao đảng, 12 đảng viên. Đội ngũ cán bộ, công chức luôn phát huy tốt truyền thống đoàn kết thống nhất, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ, luôn chủ động sáng tạo trong công việc và tâm huyết với ngành; có phẩm chất đạo đức trong sáng, có tác phong làm việc và thái độ phục vụ đối tượng đúng mực, đã góp phần có hiệu quả vào thực hiện nhiệm vụ chính trị của Ngành. Liên tục trong mười năm qua, BHXH huyện luôn hoàn thành vượt mức chỉ tiêu kế hoạch mà ngành BHXH và ủy ban nhân dân tỉnh giao, năm sau cao hơn năm trước, đảm bảo ổn định và phát triển bền vững, góp phần quan trọng vào sự phát triển, uy tín, thương hiệu của BHXH nói chung và sự đảm bảo an sinh xã hội trên địa bàn tỉnh nói riêng. Với những thành tích nêu trên, trong mười năm qua, bảo hiểm xã hội huyện Mỹ Hào đã liên tục được Tổng giám đốc BHXH Việt Nam, Chủ tịch UBND huyện Mỹ Hào trao tặng bằng khen … 2.1.2.2. Chức năng, nhiệm vụ của BHXH huyện Mỹ Hào Theo quy định tại quyết định số 1620/2002/QĐ - BHXH - TCCB ngày 17/12/2002 của Tổng giám đốc BHXH Việt Nam thì BHXH các huyện nói chung và BHXH Mỹ Hào nói riêng có chức năng và nhiệm vụ sau: - Về chức năng, BHXH huyện Mỹ Hào là cơ quan trực thuộc BHXH tỉnh Hưng Yên nằm trong hệ thống tổ chức BHXH Việt Nam, có chức năng giúp Giám đốc BHXH tỉnh tổ chức thực hiện chế độ chính sách BHXH, BHYT trên địa bàn huyện; chịu sự quản lý trực tiếp của Giám đốc BHXH tỉnh và chịu sự quản lý hành chính trên địa bàn lãnh thổ của UBND huyện Mỹ Hào. - Về nhiệm vụ, BHXH huyện Mỹ Hào có những nhiệm vụ sau: + Xây dựng chương trình, kế hoạch năm trình Giám đốc BHXH tỉnh phê duyệt và tổ chức thực hiện. + Hướng dẫn đơn vị sử dụng lao động lập danh sách tham gia BHXH, đôn đốc theo dõi việc thu nộp BHXH, BHYT của các đơn vị trên địa bàn huyện hoặc trực thu BHXH theo phân cấp của BHXH tỉnh và BHXH Việt Nam. + Tiếp nhận hồ sơ, danh sách, kinh phí, giải quyết các chế độ BHXH, BHYT; tổ chức chi trả cho các đối tượng hưởng các chế độ BHXH do BHXH tỉnh chuyển đến theo phân cấp. Theo dõi việc thay đổi địa chỉ, danh sách tăng giảm đối tượng hưởng chế độ trong quá trình chi trả. + Tiếp nhận đơn thư khiếu nại, tố cáo về chế độ chính sách BHXH để giải quyết theo thẩm quyền hoặc báo cáo với BHXH tỉnh để xem xét giải quyết. + Tổ chức cấp sổ BHXH, thẻ BHYT cho các đối tượng tham gia theo phân cấp. + Tổ chức thực hiện chương trinh kế hoạch cải cách theo chỉ đạo của BHXH tỉnh, tiếp nhận và trả kết quả giải quyết theo cơ chế một cửa. + Tổ chức ký hợp đồng trách nhiệm và quản lý mạng lưới đại lý chi trả BHXH ở cấp xã, thị trấn. + Quản lý các đối tượng tham gia BHYT tự nguyện và BHYT bắt buộc theo quy định của BHXH tại các cơ sở khám chữa bệnh. + Thực hiện công tác thông tin tuyên truyền, giải thích chính sách, chế độ, pháp luật về BHXH, BHYT cho người lao động trên địa bàn. 2.1.2.3. Hệ thống tổ chức bộ máy hoạt động của BHXH huyện Mỹ Hào Cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội nhanh chóng của huyện Mỹ Hào, BHXH huyện Mỹ Hào cũng như các cơ quan HCSN khác đã tiến hành củng cố bộ máy hoạt động của mình sao cho đảm bảo đủ năng lực thực hiện nhiệm vụ giao phó. Toàn đơn vị có 13 đồng chí, được giao giữ những trọng trách và nhiệm vụ khác nhau. Mỗi cán bộ chuyên trách, đảm nhiệm một nhiệm vụ như: chuyên thực hiện công tác thu, giải quyết chế độ, tiếp nhận hồ sơ… Cơ quan BHXH Mỹ Hào có 11 cán bộ có trình độ đại học (chiếm 84,6%), 2 cán bộ có trình độ cao đẳng (chiếm 15,4%). Cụ thể cơ cấu tổ chức cán bộ của BHXH huyện Mỹ Hào được tổ chức như sau: - Giám đốc: là người đứng đầu cơ quan BHXH huyện, phụ trách công tác tổ chức, chế độ BHXH, kế toán, giám định BHYT, công tác kiểm tra thi đua khen thưởng, bộ phận sổ thẻ. - Phó giám đốc: phụ trách công tác thu, bộ phận tiếp nhận và trả kết quả, tiếp dân. Khi Giám đốc đi vắng, thay mặt giám đốc điều hành toàn bộ hoạt động cơ quan. - Bộ phận thu gồm 3 cán bộ, có nhiệm vụ hướng dẫn các đơn vị sử dụng lao động tham gia BHXH, đôn đốc việc nộp BHXH trên địa bàn theo phân cấp của BHXH tỉnh, lập kế hoạch thu BHXH hàng quý, hang năm, báo cáo kết quả thu BHXH về tỉnh theo quy định. - Bộ phận kế hoạch tài chính gồm 1 cán bộ có nhiệm vụ theo dõi và quản lý hoạt động tài chính của đơn vị, tổ chức hoạch toán, kế toán, hàng tháng tiếp nhận kinh phí và tổ chức chi trả cho đối tượng hưởng các chế độ BHXH, BHYT trên địa bàn huyện. - Bộ phận chế độ chính sách gồm 1 cán bộ, phụ trách chế độ BHXH, chuyên quản chế độ ngắn hạn BHXH, đối tượng hưởng mất sức lao động theo Nghi định 613, bảo hiểm thất nghiệp, thủ quỹ, công tác tuyên truyền. - Bộ phận giám định y tế gồm 2 cán bộ, có nhiệm vụ trực giám định BHYT tại trung tâm y tế Mỹ Hào. Tổng hợp, làm báo cáo tháng, quý giám định BHYT tại trung tâm y tế Mỹ Hào - Bộ phận sổ thẻ gồm 2 cán bộ, phụ trách sổ BHXH và thẻ BHYT. Tổng hợp báo cáo tình hình cấp, quản lý sổ BHXH, thẻ BHYT trên địa bàn theo đúng quy định. - Bộ phận giao dịch một cửa nhận giải quyết hồ sơ gồm 2 cán bộ tổ chức tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả giải quyết, tư vấn chế độ chính sách BHXH, BHYT, bảo hiểm thất nghiệp, quản lý và lưu trữ hồ sơ tài liệu. Sơ đồ 1: Hệ thống bộ máy tổ chức BHXH Mỹ Hào Giám đốc Phó giám đốc Phòng thu Phòng kế toán Phòng chế độ, chính sách Phòng sổ thẻ Phòng tiếp nhận, trả kết quả Phòng giám định BHYT (Nguồn: BHXH huyện Mỹ Hào) Có thể nói trong hệ thống bộ máy hoạt động BHXH thì phòng thực hiện nghiệp vụ thu BHXH là phòng phải đảm nhiệm nhiều công việc nhất. Phòng này có chức năng tổ chức thu BHXH, BHYT, BHXH thất nghiệp theo đúng quy định của pháp luật, tiến hành kiểm tra, đôn đốc, quản lý công tác thu BHXH, BHYT tại các đơn vị tham gia trên địa bàn huyện Mỹ Hào. Căn cứ vào kế hoạch thu hàng năm, sự phát triển đối tượng tham gia trên địa bàn huyện, đồng thời nhằm năng cao hiệu quả công tác quản lý thu, Giám đốc BHXH Mỹ Hào đã thành lập bộ phận thu bao gồm 03 đồng chí. Mỗi đồng chí chuyên trách thu một khối, ngành khác nhau. Cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, cơ sở vật chất kỹ thuật của BHXH huyện Mỹ Hào cũng không ngừng được cải tiến. Hiện nay, với dãy nhà ba tầng khang trang, các phòng ban đã được trang bị hệ thống máy in, máy tính có kết nối mạnh internet, tạo điều kiện cho đội ngũ cán bộ dễ dàng tiếp cận thông tin mới, mở mang vốn kiến thức chuyên môn. Riêng đối với phòng quản lý thu, BHXH huyện cũng đã trang bị 03 máy tính cùng với 01 máy in để phục vụ cho công tác nghiệp vụ được thực hiện nhanh gọn, dễ dàng. 2.2. Thực trạng công tác thu bảo hiểm xã hội ở BHXH huyện Mỹ Hào giai đoạn 2007 – 2010 2.2.1. Đối tượng tham gia BHXH bắt buộc 2.2.1.1. Đơn vị SDLĐ tham gia BHXH bắt buộc Quản lý các đơn vị sử dụng lao động thuộc diện tham gia BHXH, BHYT, BHTN theo địa bàn hành chính huyện là việc làm rất cần thiết. Trên cơ sở đó thì mới tiến hành các nghiệp vụ tiếp theo của công tác thu. Muốn nắm bắt được sự tăng, giảm số lao động tham gia BHXH cần phải xác định được đơn vị SDLĐ nào thuộc diện phải tham gia, đơn vị nào còn đang hoạt động và đơn vị nào đã giải thể… Trên địa bàn huyện Mỹ Hào hiện nay có khá nhiều tổ chức, đơn vị SDLĐ đang hoạt động. Mọi thông tin chủ yếu vẫn do sự tự giác khai báo cáo các đơn vị nộp lên BHXH. Bên cạnh đó, BHXH huyện cũng tiến hành phối hợp chặt chẽ với cơ quan cấp giấy phép hoạt động sản xuất DN cho các đơn vị, DN trên địa bàn quản lý. Chính nhờ những nguồn thông tin này BHXH huyện có thể nắm được cụ thể số đơn vị trong huyện có SDLĐ để tiến hành khai báo và quản lý đối tượng này một cách hiệu quả nhất. Theo đúng quy định của các Nghị định, Thông tư hướng dẫn thực hiện chính sách BHXH tại các cơ sở, mỗi đơn vị SDLĐ tham gia BHXH người SDLĐ đều đã được mã hóa thành những dãy số cụ thể do BHXH tỉnh cấp. Việc này đã tạo điều kiện cho công tác quản lý thu BHXH đối với các đơn vị SDLĐ trở nên đơn giản gọn nhẹ hơn. Đến định kỳ quyết toán, BHXH huyện Mỹ Hào cũng tiến hành gửi thông báo chi tiết, cụ thể theo mẫu số 08 - TBH về tình hình thu nộp BHXH của từng đơn vị đến trụ sở của đơn vị đó. Để mỗi đơn vị SDLĐ nắm được tình hình thu nộp BHXH của đơn vị mình. Thông qua công tác nghiệp vụ này đã tạo nên mối liên kết chặt chẽ giữa tổ chức SDLĐ và cơ quan BHXH. Trong mấy năm gần đây số đơn vị tham gia BHXH không ngừng tăng lên. Số liệu cụ thể được thể hiện chi tiết qua bảng số liệu sau: Bảng 1: Đơn vị SDLĐ tham gia BHXH bắt buộc giai đoạn 2007 – 2010 S T T Loại đơn vị 2007 2008 2009 2010 Số ĐV phải TG Số ĐV đã TG Số ĐV phải TG Số ĐV đã TG Số ĐV phải TG Số ĐV đã TG Số ĐV phải TG Số ĐV đã TG 1 DNNN 7 7 7 7 7 7 7 7 2 DN có vốn ĐTNN 2 2 6 6 11 11 13 13 3 DN NQD 109 64 137 78 168 93 227 111 4 HCSN, Đảng, Đoàn thể 46 46 47 47 47 47 48 48 5 Ngoài công lập 93 14 93 14 92 13 92 13 6 HTX, Quỹ tín dụng 15 15 15 15 15 15 16 16 7 Xã, phường, thị trấn 13 13 13 13 13 13 13 13 8 Tổ chức khác và cá nhân 216 3 223 4 262 5 262 5 9 Tổng 501 164 541 184 615 204 678 226 (Nguồn: BHXH huyện Mỹ Hào) Qua bảng số liệu cho thấy, số đơn vị tham gia đóng BHXH bắt buộc cho NLĐ tăng dần theo từng năm. Năm 2007 có 164 đơn vị tham gia, năm 2008 tăng lên 184 đơn vị (tăng 20 đơn vị so với năm 2007, tương ứng tăng 12,2%) và đến năm 2009 đã tăng lên 204 đơn vị (tăng 40 đơn vị, tương ứng tăng 24,39% so với năm 2007). Năm 2010 có 226 đơn vị tham gia đóng BHXH bắt buộc cho NLĐ (tăng 10,78% so với năm 2009 và tăng 37,8% so với năm 2007). Trong tổng số đơn vị SDLĐ đã tham gia BHXH bắt buộc trên thì số đơn vị SDLĐ thuộc khối DN ngoài quốc doanh luôn chiếm tỷ trọng lớn. Cụ thể, năm 2007 chiếm 39,02 %, năm 2008 chiếm 42,39%, năm 2009 chiếm 45,59%, năm 2010 chiếm 49,12% và trong tương lai con số này còn có thể cao hơn nữa. Bên cạnh đó số đơn vị SDLĐ thuộc DN có vốn đầu tư nước ngoài cũng có sự gia tăng mạnh mẽ (năm 2007 chỉ chiếm 1,22%, năm 2008 tăng lên 3,26%, đến năm 2009 đã tăng lên là 5,39% và năm 2010 tăng lên là 5,75%). Nguyên nhân dẫn đến tình trạng DN ngoài quốc doanh giữ vai trò chủ đạo và DN có vốn đầu tư nước ngoài có sự gia tăng đột biến trong tổng số đơn vị tham gia BHXH bắt buộc là do: Từ năm 2007 Luật BHXH đi vào thực hiện trong đó có quy định bất cứ đợn vị SDLĐ nào có SDLĐ ký hợp đồng lao động từ đủ ba tháng trở lên hoặc hợp đồng không xác định thời hạn (mà không cần căn cứ vào số lượng lao động của đơn vị như trước kia) đều phải tham gia BHXH cho NLĐ. Từ đó làm cho tổng số đơn vị tham gia BHXH của khối này ngày càng phát triển. Năm 2006 Việt Nam gia nhập WTO. Kết quả của sự gia nhập này đã tạo nên hành lang pháp lý thông thoáng, tạo điều kiện thuận lợi cho Việt Nam nói chung và các địa phương trong cả nước nói riêng phát triển kinh tế. Huyện Mỹ Hào vốn có vị trí địa lý, giao thông thuận lợi nên thu hút được khá nhiều nhà đầu tư nước ngoài vào huyện mở DN hoạt động sản xuất kinh doanh. Từ đó làm cho số lượng đơn vị SDLĐ thuộc diện phải tham gia BHXH tăng lên đáng kể. Hiện nay ở huyện Mỹ Hào đang có sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế mạnh mẽ. Từ một huyện thuần nông như trước kia (nông nghiệp chiếm tới 61% tỷ trọng năm 1999), hiện nay ngành công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp đã vượt lên giữ vai trò chủ đạo với 63,3% tỷ trọng, hình thành lên một số KCN lớn như: KCN Phố Nối A, KCN Phố Nối B, KCN Minh Đức… Đặc biệt huyện Mỹ Hào đang phấn đấu trở thành thị xã công nghiệp của tỉnh Hưng Yên. Do đó số lượng DN ngoài quốc doanh và DN có vốn đầu tư nước ngoài tăng lên qua các năm là một tất yếu. Trong khi khối DN ngoài nhà nước có sự gia tăng mạnh mẽ thì khối DN nhà nước lại có xu hướng chững lại và có thể sẽ giảm dần. Bởi vì theo chương trình cải tổ lại, cổ phần hoá DN nhà nước, giảm bớt gánh nặng cho ngân sách Nhà nước thì khối này đang có xu hướng chững lại, dần giảm đi tỷ trọng trong cơ cấu khối ngành kinh tế tham gia. Cụ thể năm 2007 chỉ chiếm 4,27%, năm 2008 giảm xuống 3,80% và năm 2009 còn 3,43% và đến năm 2010 chỉ còn 3,1% mặc dù số lượng không thay đổi qua các năm. Bên cạnh đó, các khối ngành thuộc khu vực mang tính chất HCSN cũng có những biến động không lớn do tính chất khối ngành ít thay đổi, thường là không tăng hoặc có tăng cũng ở mức rất nhỏ và tỷ lệ tham gia đạt 100%. Tuy nhiên số đơn vị có SDLĐ đã tham gia so với số đơn vị thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc cho NLĐ trong các năm vẫn còn thấp. Năm 2007 số đơn vị đã tham gia so với số đơn vị thuộc diện tham gia là 34,82%, năm 2008 là 36,81%, năm 2009 là 35,78%, năm 2010 là 40,84%. Vẫn còn nhiều đơn vị sử dụng lao động chưa tham gia BHXH bắt buộc, còn né tránh không đóng BHXH cho NLĐ, hầu hết tập trung ở các cơ sở kinh tế tư nhân, ngoài công lập và các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Tình trạng này xảy ra chủ yếu do một số nguyên nhân sau đây: Các cơ sơ kinh tế tư nhân chủ yếu hoạt động với quy mô nhỏ, khả năng tài chính có hạn, sử dụng ít lao động và lao động lại không ổn định, thường xuyên biến động. Hơn nữa, nhận thức về BHXH của NLĐ và NSDLĐ thuộc khu vực kinh tế ngoài nhà nước còn nhiều hạn chế, NSDLĐ và NLĐ chưa nhận thức đúng đắn về BHXH, chưa chấp hành nghiêm chỉnh quy định của pháp luật, vẫn cố tình trốn tránh trách nhiệm tham gia BHXH cho NLĐ. Ngoài ra, một số doanh nghiệp làm ăn không đạt kết quả như mong muốn, thậm chí nhiều doanh nghiệp còn làm ăn thua lỗ, lâm vào cảnh nợ nần và tìm cách trốn đóng BHXH cho NLĐ. 2.2.1.2. Người lao động tham gia BHXH bắt buộc Bảng 2: Người lao động tham gia BHXH bắt buộc giai đoạn 2007 – 2010 S T T Loại đơn vị 2007 2008 2009 2010 LĐ phải TG LĐ đã TG LĐ phải TG LĐ đã TG LĐ phải TG LĐ đã TG LĐ phải TG LĐ đã TG 1 DNNN 305 305 323 323 315 315 309 309 2 DN có vốn ĐTNN 31 31 182 182 296 296 737 737 3 DNNQD 13.792 7.820 14.796 8.398 17.756 9.306 18.243 9.393 4 HCSN, Đảng, Đoàn thể 1.242 1.242 1.373 1.373 1.509 1.509 1.599 1.599 5 Ngoài công lập 2.466 137 2.468 133 2.969 149 3.052 157 6 HTX, Quỹ tín dụng 158 158 159 159 163 163 170 170 7 Xã, Phường, thị trấn 205 205 210 210 218 218 218 218 8 Tổ chức khác và cá nhân 867 13 1.134 17 1.334 28 1.339 29 9 Tổng 19.066 9.911 20.645 10.786 24.560 11.984 25.667 12.612 (Nguồn: BHXH huyện Mỹ Hào) Qua bảng số liệu trên ta thấy số lao động tham gia BHXH bắt buộc ở huyện Mỹ Hào đã có những chuyển biến đáng kể và không ngừng tăng lên. Năm 2007 có 9.911 người tham gia BHXH bắt buộc, sang năm 2008 có 10.786 người tham gia (tăng 8,83% so với năm 2007), sang năm 2009 có 11.984 người tham gia (tăng 20,92% so với năm 2007, tương ứng với tăng 2073 người và tăng 11,11% so với năm 2008). Đến năm 2010, số người tham gia đã đạt 12.612 người (tăng 27,25% so với năm 2007, tương ứng với 2.701 người). Trong đó, khu vực DN ngoài quốc doanh chiếm tỷ trọng trong số lao động đã tham gia BHXH lớn nhất. Cụ thể; năm 2007 chiếm 78,9%, năm 2008 chiếm 77,86%, năm 2009 chiếm 77,65% và năm 2010 chiếm 74,48%. Một số trong những nguyên nhân dẫn đến kết quả này là do ảnh hưởng của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong vùng đang diễn ra mạnh mẽ kết hợp với sự cố gắng nỗ lực trong công tác quản lý đối tượng của BHXH huyện, đặc biệt là quản lý đơn vị SDLĐ. Tuy nhiên, hiện nay số lao động đã tham gia so với số lao động thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc vẫn còn chiếm tỷ lệ thấp, chỉ chiếm khoảng 50% tổng lao động thuộc diện phải tham gia BHXH bắt buộc, hầu hết tập trung ở các cơ sở kinh tế tư nhân, các đơn vị ngoài công lập và các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Tình trạng này xảy ra chủ yếu do một số nguyên nhân sau đây: NLĐ làm việc ở khu vực này có tư tưởng không gắn bó lâu dài nên cũng không muốn tham gia đóng BHXH. Hiện nay, các cơ sở ngoài công lập (hay cụ thể hơn là các trường mầm non xã) tiền lương của giáo viên mầm non rất thấp, không đủ chi trả cho cuộc sống thường ngày. Trong khi đó ngân sách Nhà nước hỗ trợ chưa thực sự đến tay NLĐ. Do đó việc đảm bảo đủ kinh tế để tham gia BHXH là rất khó khăn. Số lượng người đã tham gia ở khu vực này chủ yếu là những người đứng đầu các trường mầm non, những người đã làm việc lâu năm hoặc các cá nhân có điều kiện kinh tế tốt, đủ khả năng tham gia. Đây là vấn đề nan giải, gây khó khăn cho BHXH huyện trong việc đảm bảo mục tiêu thu đúng, thu đủ BHXH bắt buộc tại địa bàn quản lý. Mặt khác, một số doanh nghiệp chỉ ký hợp đồng lao động tượng trưng đối với lao động quản lý chủ chốt của doanh nghiệp, khai giảm số lao động hoặc hoàn toàn không ký hợp đồng lao động với NLĐ. Như vậy, xét một cách toàn diện số lao động đã tham gia BHXH bắt buộc so với tổng số người trong độ tuổi lao động của huyện Mỹ Hào vẫn chưa cao. Tỷ lệ tham gia BHXH cao nhất năm 2010 cũng chỉ đạt 27,12%. Thực trạng này phần nào thể hiện công tác quản lý đối tượng tham gia BHXH tại Mỹ Hào còn một số hạn chế cần phải khắc phục trong thời gian tới. Chức năng chính của BHXH Mỹ Hào vốn là một đơn vị tổ chức thực hiện nên khi muốn quản lý chặt chẽ đối tượng tham gia phụ thuộc nhiều vào các ban ngành liên quan. 2.2.2. Quản lý mức thu BHXH Hiện nay, hàng tháng tỷ lệ đóng BHXH bắt buộc là 22% mức tiền lương, tiền công làm căn cứ đóng BHXH của NLĐ (áp dụng trong năm 2010). Cụ thể: người lao động đóng 6% mức tiền lương, tiền công vào quỹ hưu trí và tử tuất; người sử dụng lao động đóng trên quỹ tiền lương, tiền công đóng bảo hiểm xã hội của người lao động như sau: - 3% vào quỹ ốm đau và thai sản; trong đó người sử dụng lao động giữ lại 2% để chi trả kịp thời cho người lao động đủ điều kiện hưởng chế độ theo quy định và thực hiện quyết toán hàng quý với tổ chức bảo hiểm xã hội; - 1% vào quỹ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; - 12% vào quỹ hưu trí và tử tuất. Một trong những căn cứ quan trọng để tổ chức BHXH tiến hành nghiệp vụ thu của mình là tiền lương của NLĐ tham gia BHXH. Để đảm bảo mọi quyền lợi cho đối tượng tham gia cũng như chính sách BHXH được hoạt động thông suốt, có hiệu quả. Nhiệm vụ của nhà làm công tác quản lý phải theo dõi thường xuyên, liên tục, chặt chẽ những diễn biến của tiền lương - tiền công của NLĐ và tổng quỹ tiền lương của từng đơn vị SDLĐ tham gia. Trước mắt cán bộ thu và các cán bộ làm công tác kiêm nhiệm BHXH tại đơn vị SDLĐ cần phải nắm chắc tiền lương tối thiểu chung, vùng do Chính phủ ban hành để tiến hành quản lý mức tiền lương và trích nộp theo đúng quy định. Cụ thể tiền lương tối thiểu chung, vùng áp dụng cho những đối tương làm việc trên địa bàn huyện Mỹ Hào được xác định cụ thể như sau: Bảng 3: Bảng lương tối thiểu chung giai đoạn 2007 – 2010 (đơn vị: triệu đồng) STT Tiền lương tối thiểu Từ 01/01/2007 đến 31/12/2007 Từ 01/01/2008 đến 30/04/2009 Từ 01/05/2009 đến 30/04/2010 Từ 01/05/2010 đến 31/12/2010 1 Đối với NLĐ làm việc theo chế độ tiền lương do Nhà nước quy định 0,45 0,54 0,65 0,73 2 Đối với NLĐ làm việc tại DN hoạt động theo Luật DN, tổ chức của Viêt Nam 0,45 0,54 0,69 0,81 3 Đối với NLĐ làm việc làm việc tại DN, tổ chức có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam 0,45 0,8 0,95 0,104 (Nguồn: BHXH huyện Mỹ Hào) 2.2.3. Quy trình tổ chức thu BHXH Theo sự phân cấp chức năng quản lý của BHXH Việt Nam, BHXH Mỹ Hào cũng đang quản lý các đơn vị tham gia BHXH thuộc các khối ngành kinh tế đó là: - DN nhà nước - DN có vốn đầu tư nước ngoài - DN ngoài quốc doanh - Hộ KD cá thể và tổ hợp tác - HCSN, Đảng, đoàn thể - Ngoài công lập - Quỹ tín dụng, HTX - Xã, phường, thị trấn Dựa vào kế hoạch thu hàng năm do BHXH tỉnh giao, sự phát triển đối tượng tham gia trên địa bàn huyện, Giám đốc BHXH Mỹ Hào đã thành lập bộ phận thu bao gồm 03 đồng chí. Mỗi đồng chí chịu trách thu một khối, ngành khác nhau. Việc này phần nào đã chia sẻ khối lượng công việc cho tất cả các cán bộ trong bộ phận thu, tránh tình trạng né tránh trách nhiệm, chồng chéo công việc lẫn nhau. Tuy nhiên, vì các đơn vị thuộc các khối ngành kinh tế có địa bàn hoạt động tại những địa điểm không đồng nhất nên trong công tác quản lý đơn vị SDLĐ gặp rất nhiều khó khăn, phạm vi trải rộng trên toàn huyện. Căn cứ vào danh sách lao động, quỹ lương trích nộp BHXH của các đơn vị và đối tượng tham gia do BHXH huyện quản lý, thực hiện kiểm tra, đối chiếu, BHXH Mỹ Hào tiến hành tổng hợp và lập 02 bản kế hoạch thu BHXH năm sau. Một bản được lưu lại BHXH huyện, một bản được gửi lên BHXH tỉnh trước ngày 20/10 hàng năm nhằm đảm bảo thời gian để BHXH tỉnh tổng hợp lại và lập kế hoạch gửi lên BHXH Việt Nam. Riêng đối với các đơn vị SDLĐ có NLĐ tham gia BHXH, các cán bộ phụ trách thu BHXH của các đơn vị này cũng lên kế hoạch đối chiếu số lao động, tổng quỹ tiền luơng - tiền công của toàn đơn vị… từ đó có kế hoạch thu cho phù hợp. Thực tế hiện nay, việc lập kế hoạch thu gửi lên BHXH Tỉnh vẫn chưa sát với những diễn biến thực tế, chủ yếu chỉ dựa vào những kết quả thu của năm trước mà chưa dự tính được khả năng phát triển của năm hiện tại. Về vấn đề quản lý tiền thu BHXH, mọi giao dịch thu nộp BHXH đều được thực hiện thông qua tài khoản chuyên thu của cơ quan BHXH huyện tại Kho bạc Nhà nước huyện Mỹ Hào và tài khoản khác mở tại Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh huyên Mỹ Hào. Tiền đóng BHXH do đơn vị SDLĐ nộp lên cũng sẽ được BHXH huyện quyết toán và gửi lên BHXH tỉnh thông qua các giao dịch tại ngân hàng vào ngày mùng 10 và 25 hàng tháng. Riêng tháng cuối năm BHXH sẽ chuyển toàn bộ số tiền thu BHXH của huyện về BHXH tỉnh trong ngày 31/12. Đối với một số trường hợp đơn vị SDLĐ chậm nộp BHXH từ 30 ngày trở lên so với quy định thì ngoài việc phải nộp số tiền chậm nộp và nộp phạt hành chính theo quy định hiện hành, những đơn vị này còn phải nộp tiền vay quá hạn do ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định tại thời điểm truy nộp. Cơ quan BHXH huyện sẽ đảm nhiệm công tác tính tiền lãi chậm đóng này và gửi thông báo nợ đến từng đơn vị thuộc phạm vị quản lý. Tuy nhiên, lãi suất ngân hàng Nhà nước ấn định thường thấp hơn lãi suất mà doanh nghiệp, tổ chức SDLĐ đi vay nên các doanh nghiệp, tổ chức này sẵn sàng chịu nộp phạt để chiếm dụng khoản tiền đó làm vốn kinh doanh nhằm thu lợi nhuận cao hơn. Tuy nhiên, chính vì mọi giao dịch thu nộp đều được thực hiện qua ngân hàng, cán bộ thu chỉ tiến hành kiểm tra lại sau khi có thông báo từ phía ngân hàng nên trong trường hợp đơn vị SDLĐ chưa nắm rõ chính sách, chế độ đóng thừa, thiếu BHXH huyện lại phải yêu cầu đơn vị tham gia trích nộp lại, tạo ra độ trễ trong quá trình thu, nộp BHXH. Bên cạnh đó vấn đề thông tin, lưu trữ hồ sơ thu cũng được BHXH huyện quan tâm. Do mỗi đơn vị SDLĐ khi tham gia BHXH đều đã được mã hoá thành nhưng dãy số khác nhau theo quy định của BHXH tỉnh nên trong qúa trình lưu trữ hồ sơ, cán bộ thu cũng tiến hành sắp xếp theo từng khối khác nhau dựa vào kí hiệu đầu của mã số ví dụ như: khối DN nhà nước là QE, DN ngoài quốc doanh là TE… Hồ sơ thu vốn rất nhiều giấy tờ liên quan trong khi đó việc sắp xếp giấy tờ còn tồn tại một số sai sót, nhầm lẫn. Mặt khác, hiện nay BHXH huyện chưa có phòng lưu trữ hồ sơ chung, giấy tờ thuộc chuyên môn phòng nào phòng đó tự quản lý, chưa có sự tập trung, thống nhất nên khi cần sử dụng phải thông qua các bộ phận quản lý khác 2.2.4. Kết quả thu BHXH ở BHXH huyện Mỹ Hào 2.2.4.1. Quỹ tiền lương làm căn cứ thu BHXH bắt buộc Để đảm bảo cho quá trình khai báo thông tin về tiền công, tiền lương của NLĐ được đầy đủ chính xác, cơ quan BHXH huyện đã thực hiện công tác khai báo, hướng dẫn cụ thể những quy định về tiền lương tối thiểu làm căn cứ đóng BHXH tới từng đơn vị SDLĐ tham gia BHXH bắt buộc thông qua người chịu trách nhiệm trực tiếp thực hiện chính sách của đơn vị đó. Tuy nhiên, trên thực tế hiện nay việc quản lý tiền công, tiền lương là căn cứ đóng BHXH của tổ chức SDLĐ đặc biệt là DN ngoài quốc doanh, DN có vốn đầu tư nước ngoài, tiền lương tiền công của NLĐ do chủ SDLĐ quyết định gặp rất nhiều khó khăn. Bởi các đơn vị này thường không tuân thủ hoặc rất chậm tuân thủ các quy định của pháp luật về hợp đồng lao động. Nhiều DN tiến hành ký hợp đồng với NLĐ thành hai, ba loại hợp đồng khác nhau: hợp đồng ghi chính xác mức lương NLĐ được hưởng, hợp đồng làm căn cứ đóng thuế thu nhập và hợp đồng làm căn cứ đóng BHXH nhằm giảm số tiền phải đóng góp vào quỹ BHXH. Dưới đây là một số kết quả về diễn biến tổng quỹ lương tổng quát của các doanh nghiệp và phân theo khối ngành kinh tế tham gia BHXH ở BHXH huyện Mỹ Hào: Bảng 4: Quỹ tiền lương làm căn cứ thu BHXH bắt buộc giai doạn 2007 – 2010 (đơn vị: triệu đồng) STT Năm Số ĐV đã TG Số LĐ đã TG Quỹ lương 1 2007 164 9.911 93.795 2 2008 184 10.786 132.432 3 2009 204 11.984 166.076 4 2010 226 12.612 211.307 (Nguồn: BHXH huyện Mỹ Hào) Trong đó: ĐV: Đơn vị TG: Tham gia Qua bảng số liệu trên cho thấy, quỹ tiền lương của các đơn vị lấy làm căn cứ trích nộp BHXH bắt buộc cho NLĐ tăng rõ rệt qua các năm. Quỹ tiền lương của năm 2007 là 93.795 triệu đồng lên 132.432 triệu đồng năm 2008 (tăng 41,19% so với 2007) và tăng lên 166.076 triệu đồng năm 2009 (tăng 25,4% so với năm 2008, tương ứng tăng 33.644 triệu đồng và tăng 77,06% so với năm 2007); đến năm 2010, quỹ lương đã là 211.307 triệu đồng (tăng 27,24% so với năm 2009 và tăng 125,29% so với năm 2007). Quỹ tiền lương làm căn cứ trích nộp BHXH bắt buộc tăng là do số đơn vị tham gia BHXH bắt buộc cho NLĐ trên địa bàn huyện Mỹ Hào tăng khá nhanh, từ 164 đơn vị năm 2007 lên 226 đơn vị năm 2010, số đơn vị tăng kéo theo số lao động tham gia cũng tăng nhanh theo các năm. Năm 2007 có 9.911 người tham gia, đến năm 2010 số người tham gia đã đạt 12.612 người. Do tiền lương của người lao động cũng tăng theo do mức lương tối thiểu chung được Chính phủ điều chỉnh tăng qua các năm từ 450.000 đồng/tháng (năm 2007), lên 540.000 đồng/tháng (năm 2008), lên 650.000 đồng/tháng (từ tháng 5/2009) và lên 730.000 đồng/tháng (từ tháng 5/2010). Sự nỗ lực chung của toàn cơ quan BHXH huyện kiên quyết bám sát các đơn vị SDLĐ, nắm bắt diễn biến tiền lương, tiền công của các đơn vị tham gia. Kinh tế huyện Mỹ Hào đang ngày càng phát triển, đời sống người dân đặc biệt là NLĐ không ngừng được cải thiện về nhiều mặt. Cùng với đó, thu nhập của NLĐ tăng mạnh làm cho tiền lương làm căn cứ đóng BHXH của những đối tượng này tăng lên đáng kể. Bảng 5: Quỹ lương BHXH bắt buộc theo khối loại hình quản lý giai đoạn 2007 – 2010 (đơn vị: triệu đồng) Khối loại hình quản lý 2007 2008 2009 2010 TQL TLBQ TQL TLBQ TQL TLBQ TQL TLBQ DNNN 4.365 1,193 6.457 1,666 6.844 1,811 7.849 2,117 DN có vốn ĐTNN 265 0,712 2.213 1,013 6.256 1,761 12.144 1,373 DNNQD 63.822 0,680 91.274 0,906 116.356 1,042 144.305 1,280 HCSN, Đảng, Đoàn 21.243 1,425 27.357 1,660 30.724 1,697 38.975 2,031 Ngoài công lập 739 0,450 970 0,608 1.264 0,707 1.677 0,890 HTX, Quỹ tín dụng 983 0,518 1.204 0,631 1.516 0,775 2.140 1,049 Xã, phường, thị trấn 2.239 0,910 2.770 1,099 2.876 1,099 3.863 1,477 Hộ KD cá thể và tổ hợp tác 139 0,891 187 0,917 240 0,714 354 1,017 Tổng 93.795 6,779 132.432 8,500 166.076 9,606 211.307 11,234 (Nguồn: BHXH huyện Mỹ Hào) Trong đó: TQL: Tổng quỹ lương làm căn cứ thu BHXH bắt buộc TLBQ: Tiền lương bình quân (triệu đồng/người/tháng) Bảng số liệu trên đã thể hiện kết quả của công tác quản lý tiền lương làm căn cứ đóng BHXH bắt buộc. Nhìn chung tổng quỹ lương làm căn cứ thu BHXH bắt buộc của tất cả các khối ngành kinh tế trong huyện đều phát triển theo xu hướng tăng lên. Qua bảng số liệu về diễn biến tiền lương trên có thể nhận thấy khối DN vẫn là khối kinh tế có tổng quỹ lương cùng tiền lương bình quân khá cao (năm 2010 khu vực DN Nhà nước là 2,117 triệu đồng/người/tháng; DN có vốn đầu tư nước ngoài là 1,373 triệu đồng/người/tháng và DN ngoài quốc doanh là 1,28 triệu đồng/người/tháng). Trong khi đó khối ngoài công lập tiền lương bình quân mới chỉ đạt 0,89 triệu đồng/người/tháng năm 2010. Như vậy, tiền lương bình quân giữa các khu vực có sự chênh lệch khá rõ rệt, nhất là khoảng các giữa khu vực phát triển nhất và khu vực kém phát triển nhất. Bên cạnh đó, xét trong tổng thể các khối ngành thì khu vực DN ngoài quốc doanh vẫn giữ vai trò chủ đạo, chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng quỹ lương làm căn cứ thu BHXH của toàn huyện (năm 2007 chiếm 58,01%, năm 2008 chiếm 61,89%, năm 2009 chiếm 59,7% và năm 2010 chiếm 41,8%). Kết quả này được xem là phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của huyện Mỹ Hào hiện nay đã và đang thu hút một lượng không nhỏ vốn đầu tư vào sản xuất KD. Tuy nhiên, bên cạnh số đông các đơn vị, DN tham gia thực hiện tốt BHXH vẫn còn một số DN chưa khai thác hết quỹ lương của mình do khai giảm tiền lương cuả NLĐ, hoặc chỉ tham gia BHXH cho một lượng lao động đã làm việc lâu năm tại đơn vị nhằm trốn tránh nghĩa vụ nộp BHXH cho NLĐ. Mặt khác, hiện nay tại các DN tình trạng làm tăng ca, làm thêm giờ diễn ra rất phổ biến. Vì vậy tiền lương thực tế của NLĐ tương đối cao, trung bình khoảng 2,0 – 3,5 triệu/tháng/người. Trong khi đó, theo kết quả mà BHXH huyện nắm được đã thể hiện qua bảng số liệu trên thì tiền lương bình quân làm căn cứ thu BHXH cao nhất mới chỉ đạt 2,117 triệu đồng/tháng thuộc các doanh nghiệp Nhà nước. Trong khi đó theo đúng quy định về tiền lương tối thiểu chung, vùng của Nhà nước thì khu vực có tiền lương tối thiểu chung cao nhất lại thuộc về khối DN, tổ chức có vốn đầu tư nước ngoài. Có những khu vực tiền lương bình quân làm căn cứ thu BHXH chỉ cao hơn tiền lương tối thiểu một lượng rất nhỏ như: khối ngoài công lập (0,89 triệu đồng/người/tháng năm 2010); quỹ tín dụng, HTX (1,049 triệu đồng/người/tháng năm 2010), tổ chức và cá nhân (1,017 triệu đồng/người/tháng năm 2010). Đây là một bất cập cần phải xem xét và có hướng giải quyết trong thời gian tới. Để khắc phụ tình trạng trên, cơ quan BHXH huyện đã và đang phối hợp cùng các ban ngành chức năng kiểm tra tình hình lao động và khai báo quỹ lương một cách thường xuyên hơn, bên cách đó cũng đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền để mọi người có ý thức hơn với nghĩa vụ và quyền lợi khi tham gia BHXH. 2.2.4.2. Kết quả thu BHXH bắt buộc Bảng 6: Kết quả thu BHXH bắt buộc giai đoạn 2007 – 2010 (đơn vị: triệu đồng) Chỉ tiêu 2007 2008 2009 2010 Quỹ lương 93.795 132.423 166.076 211.307 Kế hoạch thu 13.597 18.600 25.132 48.764 Kết quả thu 19.150 26.921 33.873 50.428 Tỷ lệ % hoàn thành kế hoạch 40,84% 44,74% 34,78% 3,41% (Nguồn: BHXH huyện Mỹ Hào) Qua bảng số liệu trên có thể thấy quỹ lương làm căn cứ trích nộp BHXH bắt buộc cho NLĐ tăng trong các năm qua nên tổng số tiền phải thu trên tổng quỹ lương cũng tăng rõ rệt. Qua 4 năm từ năm 2007 đến năm 2010, BHXH huyện Mỹ Hào đã hoàn thành khá tốt công tác thu BHXH theo kế hoạch của BHXH tỉnh đã giao cho. Cụ thể: Năm 2007, kết quả đã thu BHXH bắt buộc là 19.150 triệu đồng. Trong khi kế hoạch tỉnh giao phải thu cho cả năm là 13.597 triệu đồng. Với kết quả thu được trong năm BHXH huyện đã hoàn thành 40,84% kế hoạch được giao. Năm 2008, kết quả đã thu là 26.921 triệu đồng. Kết quả thu năm 2008 tăng 37,98% so với năm 2007 (tương ứng tăng 7.411 triệu đồng). Trong khi đó kế hoạch tỉnh giao phải thu cho cả năm là 18.600 triệu đồng, với kết quả thu được BHXH huyện Mỹ Hào đã hoàn thành 44,74% kế hoạch được giao. Năm 2009 số đã thu 33.873 triệu đồng. So với năm 2008, số đã thu tăng 25,82% (tương ứng 6.952 triệu đồng); còn so với năm 2007, số đã thu tăng 76,88% (tương ứng 14.723 triệu đồng). Trong khi kế hoạch tỉnh giao cho BHXH huyện Mỹ Hào phải thu BHXH bắt buộc cho cả năm là 25.132 triệu đồng. Với kết quả thu được BHXH huyện Mỹ Hào đã hoàn thành 34,78% kế hoạch được giao. Năm 2010, số đã thu là 50.428 triệu đồng. Kết quả thu BHXH bắt buộc năm 2010 tăng 48,87% so với năm 2009 (tương ứng tăng 16.555 triệu đồng). Trong khi kế hoạch tỉnh giao cho BHXH huyện phải thu cho cả năm là 48.764 triệu đồng. Với kết quả đạt được, BHXH huyện Mỹ Hào đã hoàn thành 3,41% kế hoạch được giao. Như vậy, có thể thấy BHXH huyện Mỹ Hào đã thực hiện rất tốt công tác thu BHXH bắt buộc, luôn đảm bảo tiến độ và hoàn thành vượt mức kế hoạch BHXH tỉnh giao, góp phần đảm bảo quyền lợi cho hàng ngàn người lao động trên địa bàn huyện. Việc đạt số thu BHXH bắt buộc tăng đều hàng năm là do các nguyên nhân chủ yếu sau: Do số đơn vị SDLĐ và NLĐ tham gia BHXH bắt buộc tăng lên, năm sau cao hơn năm trước từ đó tác động đến kết quả thu BHXH của toàn huyện. Do tổng quỹ lương làm căn cứ thu BHXH tăng lên, sự điều chỉnh tiền lương tối thiểu chung, vùng của chính phủ hàng năm đã có những tác động mạnh mẽ đến số thu BHXH. Do cán bộ phận thu của BHXH huyện không ngừng nỗ lực đôn đốc , xúc tiến quá trình thu, nộp BHXH của các đơn vị tham gia, nắm bắt diễn biến tăng giảm hàng tháng về số lao động và tiền lương của từng đơn vị SDLĐ…Bên cạnh đó, công tác thông tin tuyên truyền bước đầu đã thu được một số kết quả tích cực làm cho nhận thức của một số chủ SDLĐ về chính sách BHXH cũng được nâng cao hơn. Đây là một trong những nguyên nhân quan trọng và có ý nghĩa đặc biệt đối với công tác quản lý thu BHXH. 2.2.4.3. Tình hình nợ đọng bảo hiểm xã hội Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả tích cực đã đạt được ở trên vẫn còn tồn tại một số DN hoạt động sản xuất KD trên địa bàn huyện kém tuân thủ quy định trong việc đảm bảo quyền lợi tham gia BHXH của NLĐ.Tình trạng trốn đóng, nợ đọng, né tránh trách nhiệm đối với NLĐ của chủ SDLĐ vẫn là vấn đề nan giải, cần phải có biện pháp xử lí triệt để hơn. Thực trạng của vấn đề này được thể hiện rõ nét thông qua bản số liệu sau: Bảng 7: Kết quả nợ đọng BHXH giai đoạn 2007 – 2010 (đơn vị: triệu đồng) Chỉ tiêu Nợ năm trước Nợ trong năm Nợ đã trả Tiền lãi Tổng 2007 1.256 1.818 1.359 144 1.860 2008 1.860 2.648 2.039 256 2.725 2009 2.725 3.521 2.739 281 3.787 2010 3.787 3.125 3.121 303 4.905 (Nguồn: BHXH huyện Mỹ Hào) Qua bảng số liệu trên ta thấy số tiền nợ đọng BHXH tăng dần qua các năm. Cụ thể: tính hết ngày 31 tháng 12 năm 2007 tổng số tiền nợ BHXH là 1.860 triệu đồng, năm 2008 tăng lên 2.725 triệu đồng, năm 2009 là 3.787 triệu đồng, đến năm 2010 số tiền nợ BHXH tăng lên 4.905 triệu đồng. Tình hình nợ đọng BHXH của các đơn vị sử dụng lao động tăng dần qua các năm là do một số nguyên nhân sau: Ý thức của chủ SDLĐ và NLĐ trong việc tham gia BHXH vẫn còn hạn chế. NLĐ vẫn chưa quan tâm việc đóng BHXH của đơn vị cho họ, chỉ khi nào có sự kiện bảo hiểm xảy ra họ mới quan tâm đến quyền lợi của mình; đơn vị sử dụng lao động cố tình trốn đóng hoặc không đóng BHXH sử dụng số tiền BHXH phải trích nộp vào mục đích riêng của doanh nghiệp. Lãi suất của việc chậm nộp BHXH vẫn còn thấp, một số doanh nghiệp sẵn sàng nộp lãi suất để chậm nộp quỹ BHXH. Các doanh nghiệp chậm nộp BHXH sẽ tính lãi suất theo mức lãi suất của hoạt động đầu tư từ quỹ BHXH trong năm. Cụ thể: - Từ ngày 01/01/2007 đến ngày 31/01/2008 lãi suất chậm nộp BHXH là 8,4%/năm, tương đương 0,7%/tháng; - Từ ngày 01/02/2008 đến ngày 31/5/2008 là 8,67%/năm, tương đương 0,73%/tháng; - Từ ngày 01/6/2008 đến ngày 31/12/2008 là 14%/năm, tương đương 1,167%/tháng; - Từ ngày 01/01/2009 đến ngày 31/12/2009 là 8%/năm, tương đương 0,667%/tháng. - Từ ngày 01/01/2010 đến ngày 31/12/2010 là 8,3%/năm, tương đương 0,692%/tháng. Ngoài ra, số đơn vị tham gia BHXH bắt buộc tăng lên dần qua các năm, từ 164 đơn vị tham gia BHXH bắt buộc năm 2007 tăng lên 226 đơn vị năm 2010 và số lao động trong các doanh nghiệp cũng tăng theo làm số nợ BHXH của các DN cũng tăng theo… Tính đến hết tháng 12 năm 2010, theo thống kê của bảo hiểm xã hội huyện Mỹ Hào, toàn huyện có hơn 100 đơn vị nợ bảo hiểm xã hội trên ba tháng với số tiền 4.905 triệu đồng. Điển hình như công ty TNHH thiết bị điện Việt Á nợ bảo hiểm 16 tháng với số tiền 923 triệu đồng; công ty TNHH cáp điện Việt Á nợ bảo hiểm 12 tháng, số tiền 114 triệu đồng; công ty TNHH bảo vệ Long Hưng nợ 13 tháng, số tiền nợ 45 triệu đồng; công ty TNHH Thiên Phát nợ 6 tháng, số tiền 23 triệu đồng; công ty cổ phần ACP nợ 7 tháng, số tiền 21 triệu đồng,… Tình hình nợ đọng BHXH trên địa bàn huyện ngày một phức tạp đòi hỏi cơ quan BHXH cần đẩy mạnh hơn nữa các biện pháp quan thiệp kịp thời và mạnh mẽ buộc doanh nghiệp phải nộp bổ sung, tiến tới xoá bỏ tình trạng nợ đọng và trốn đóng BHXH, đảm bảo đầy đủ quyền lợi cho đối tượng tham gia và thụ hưởng. 2.2.4.4. Dự báo kết quả thu BHXH bắt buộc trong những năm tới Trong những năm qua, kết quả thu BHXH bắt buộc ở BHXH huyện Mỹ Hào tăng dần qua các năm cùng với các điều kiện thuận lợi về vị trí địa lý, các khu công nghiệp ngày càng hình thành với tốc độ phát triển nhanh thu hút một lượng lớn các doanh nghiệp vào đầu tư và đông đảo lực lượng lao động từ khắp nới đến địa bàn huyện làm việc. Bên cạnh đó, dân số trong độ tuổi lao động của huyện Mỹ Hào ngày càng lớn chiếm khoảng hơn 50% dân số toàn huyện. Xuất phát từ tình hình thực tế trên có thể dự báo kết quả thu BHXH bắt buộc trong những năm tới đây theo phương pháp dự báo dựa vào lượng tăng (giảm) tuyệt đối bình quân. Dự báo dựa trên dãy số thời gian được thực hiện trên cơ sở giả định rằng các hiện tượng, các quá trình bảo hiểm xảy ra trong quá khứ và hiện tại, vẫn được phát triển theo xu hướng trong tương lai. Mô hình dự đoán: Trong đó: : lượng tăng (giảm) tuyệt đối bình quân qua các năm, được tính bằng công thức: = : mức độ cần dự báo ở thời gian n+h yn : mức độ cuối cùng của dãy số y1: mức độ đầu tiên của dãy số n: số năm nghiên cứu h: tầm xa dự báo Bảng 8: Dự báo kết quả thu BHXH bắt buộc giai đoạn 2011 – 2013 (đơn vị: triệu đồng) Chỉ tiêu 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 n 1 2 3 4 5 6 7 h -3 -2 -1 0 1 2 3 yn 19.150 26.921 33.873 50.428 - - - - - - - 60.854 71.280 81.706 2.2.5. Đánh giá chung về công tác quản lý thu BHXH bắt buộc ở BHXH huyện Mỹ Hào 2.2.5.1. Kết quả đạt được Công tác quản lý thu BHXH bắt buộc đã phần nào nâng cao nhận thức và trách nhiệm của các ngành các cấp, đơn vị SDLĐ đặc biệt là khối DN ngoài quốc doanh trong công tác thực hiện chính sách BHXH. Hiệu quả của công tác này được thể hiện qua tổng số người tham gia BHXH, tổng số đơn vị SDLĐ cũng như tổng số thu BHXH không ngừng tăng lên qua các năm. Quy trình quản lý thu và kết quả thu BHXH bắt buộc đã ngày càng đạt kết quả cao, công tác quản lý thu BHXH bắt buộc cũng dần đi vào ổn định. Đến nay, trên địa bàn huyện Mỹ Hào đã có 226 cơ quan, đơn vị, với 12.612 lao động tham gia BHXH bắt buộc, tăng 628 lao động so với năm 2009. Số thu BHXH bắt buộc năm 2010 là 50.428 triệu đồng, đạt 3,4% kế hoạch BHXH tỉnh giao; phần lớn các cơ quan, đơn vị tự giác chấp hành quy định đối chiếu và thu nộp tiền BHXH ngay sau kỳ trả lương và thanh toán kịp thời các chế độ cho người lao động. BHXH huyện Mỹ Hào đã thực hiện cơ chế “một cửa” trong quản lý và thực hiện chính sách BHXH, giảm bớt những thử tục rườm rà khi người SDLĐ làm hồ sơ tham gia BHXH cho NLĐ; phần mềm SMS (phần mềm ứng dụng trong lĩnh vực quản lý thu BHXH, cấp sổ BHXH và cấp thẻ BHYT) đã được sử dụng một cách phổ biến, nhờ đó đã giúp cơ quan BHXH huyện thuận tiện trong việc đối chiếu, quyết toán với các đơn vị tham gia BHXH. Đồng thời xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu tập trung thống nhất và chia sẻ thông tin cho các bộ phận chức năng có liên quan. Trong nội bộ ngành, từ Đảng ủy, Giám đốc cho đến ban chấp hành Công đoàn đều có văn bản chỉ đạo và tạo điều kiện, huy động toàn lực phục vụ công tác thu chủ động triển khai đôn đốc thu, thường xuyên rà soát, phân loại các đơn vị nợ, nợ đọng để đôn đốc, đồng thời, lãnh đạo BHXH huyện trực tiếp đến làm việc với các đơn vị, nhất là những đơn vị có số nợ lớn, nợ đọng kéo dài. Bên cạnh đó, BHXH huyện Mỹ Hào cũng đã có sự giám sát, phối hợp giữa các ban ngành liên quan trên địa bàn huyện trong quản lý các đơn vị, DN, tổ chức SDLĐ và NLĐ, hạn chế phần nào tình trạng trốn đóng, nợ đọng BHXH làm cho hoạt động thu dần đi vào ổn định và phát triển. 2.2.5.2. Một số hạn chế Bên cạnh đó những kết quả đã đạt được ở trên thì công tác quản lý thu BHXH bắt buộc hiện nay ở BHXH huyện Mỹ Hào vẫn còn tồn tại một số hạn chế cần hướng giải quyết đó là: Công tác quản lý thu BHXH tại địa bàn huyện đang gặp nhiều khó khăn, thách thức. Tình trạng lách luật, trốn đóng, nợ đọng BHXH bắt buộc đặc biệt là khối DN hoạt động sản xuất KD diễn ra khá phổ biến. Do đó việc quản lý đối tượng tham gia và tiền lương làm căn cứ đóng BHXH là rất phức tạp. Nhất là trong tình hình hiện nay nhiều DN để đảm bảo lợi ích trước măt cố tình khai báo thông tin lệch lạc, sai sự thật. Theo thống kê năm 2010, số nợ BHXH của các đơn vị doanh nghiệp, cơ quan lên tới 4.905 triệu đồng. Nhiều đơn vị nợ đọng với số tiền lớn, lên tới hàng tỷ đồng, thời gian nợ đọng kéo dài như Công ty TNHH thiết bị điện Việt Á, Công ty TNHH cáp điện Việt Á, Công ty bảo vệ Long Hưng… Việc mở rộng tham gia BHXH thuộc diện bắt buộc còn nhiều bất cập, chưa tương xứng với tiềm năng hiện có về nguồn lao động của huyện, nhất là đối với khối DN ngoài quốc doanh. Nhiều DN thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc nhưng chưa thực hiện đăng ký đóng BHXH cho NLĐ theo đúng quy định trong khi đó BHXH huyện không nắm được. Một số khác thì thiếu thông tin về chính sách BHXH. Cụ thể được thể hiện qua bảng số liệu sau: Bảng 9: Tình hình tham gia BHXH bắt buộc tại DNNQD giai đoạn 2007 – 2010 Năm Diện tham gia Đã tham gia Số ĐV Số LĐ (người) Quỹ lương (trđ) Số phải thu (trđ) Số ĐV Số LĐ (người) Quỹ lương (trđ) Số đã thu (trđ) 2007 109 13.792 112.561 20.281 64 7.820 63.822 12.764 2008 137 14.796 160.810 32.162 78 8.398 91.274 18.255 2009 168 17.756 222.009 44.102 93 9.306 116.356 23.271 2010 227 18.243 280.267 61.568 111 9.393 144.305 31.746 (Nguồn: BHXH huyện Mỹ Hào) Số đơn vị và người lao động tham gia bảo hiểm xã hội trên địa bàn huyện tăng nhanh qua các năm, trong khi đó điều kiện cơ sở vật chất và biên chế gần như không tăng; điều này tạo ra một áp lực rất lớn trong công việc của bảo hiểm xã hội thành phố, số lượng cán bộ phòng thu bảo hiểm xã hội còn hạn chế. Việc phân công cán bộ thu còn chưa hợp lý, số cán bộ phụ trách thu còn ít so với yêu cầu công việc, tác phong làm việc mang còn mang nặng tính chất hành chính. Các doanh nghiệp tư nhân phát triển mạnh nhưng nhỏ về quy mô và thiếu ổn định. Nhiều hộ cá thể thành lập và hoạt động trên mối quan hệ gia đình không ký hợp đồng lao động, không đăng ký sử dụng lao động; tình trạng mượn tên, thuê trụ sở tạm thời để đứng tên thành lập công ty... nên nhiều đơn vị trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ đóng bảo hiểm xã hội. Địa bàn huyện rộng, doanh nghiệp đông, lực lượng lao động lớn và lao động thực tế luôn biến động, nhất là ở các ngành dệt may, da giày, không được ký kết hợp đồng lao động, khó nắm bắt kịp thời... tác động không ít đến quá trình quản lý thu BHXH. 2.2.5.3. Nguyên nhân của hạn chế Có thực trạng trên, trước hết là phải đề cập đến một số nguyên nhân dưới đây: Do nhận thức về chính sách BHXH của NLĐ và người SDLĐ chưa cao. Người SDLĐ luôn chỉ quan tâm đến mục tiêu lớn nhất là lợi nhuận. Việc đóng BHXH cho NLĐ sẽ ảnh hưởng đến nguồn chi phí của DN. Mặt khác, hoạt động sản xuất KD cũng biến động liên tục, khó kiểm soát, doanh thu và lợi nhuận thu được lúc thấp lúc cao. Để đảm bảo lợi ích của mình, họ sẵn sàng tìm mọi cách tối đa hoá lợi nhuận, tối thiểu hoá chi phí, cố ý gây khó khăn, cản trở công tác quản lý thu của BHXH huyện. Nhiều doanh nghiệp tìm mọi cách né tránh trách nhiệm tham gia BHXH cho NLĐ nhằm chiếm dụng vốn để kinh doanh hoặc sử dụng vào mục đích khác. Phần đông các doanh nghiệp chỉ lo lợi ích trước mắt, hoặc do hạn chế thông tin, chưa thấy hết quyền lợi và trách nhiệm của mình đối với người lao động; Các chế tài pháp luật của mình chưa đủ mạnh để răn đe các doanh nghiệp. Điển hình như có nhiều doanh nghiệp nợ hàng tỷ đồng, khi thanh tra xuống thanh tra và xử phạt doanh nghiệp sẵn sàng nộp phạt. Bởi mức phạt chỉ vài chục triệu đồng, trong khi đó nợ đóng bảo hiểm xã hội hàng tỷ đồng. Rõ ràng vấn đề này là bất cập trong việc thực thi pháp luật lao động ở nước ta  hiện nay. Mức xử phạt cao nhất hiện nay đối với doanh nghiệp cố tình chiếm dụng quỹ bảo hiểm xã hội chỉ ba mươi triệu đồng thì không đủ sức răn đe, doanh nghiệp sẵn sàng nộp phạt để chiếm dụng. Và bất hợp lý còn nằm ở chỗ, doanh nghiệp nợ thuế thì bị xử lý hình sự, còn nợ bảo hiểm xã hội thì chỉ là vấn đề dân sự, chỉ có thể khởi kiện. Ngoài ra, tình trạng đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động ở các doanh nghiệp còn quá thấp so với thu nhập thực tế của họ. Hầu hết các doanh nghiệp chỉ đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động theo mức lương cơ bản trong hợp đồng lao động. Trong các đơn vị ngoài quốc doanh, hoạt động của tổ chức công đoàn chưa thật sự hiệu quả, chưa đủ khả năng đại diện, nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng cho người lao động, mặt khác do nhu cầu việc làm và thu nhập, nhiều người lao động không dám đấu tranh với chủ doanh nghiệp về quyền được hưởng chế độ BHXH. Cán bộ trực tiếp quản lý thu chưa thường xuyên đến với cơ sở để thu thập, nắm bắt tình hình hoạt động của đơn vị, tình hình biến động về lao động, tiền lương... Tác phong làm việc của một bộ phận cán bộ còn mang tính hành chính, thiếu tính phục vụ; trình độ chuyên môn chưa thật sự đáp ứng yêu cầu đổi mới của ngành. Việc ứng dụng công nghệ thông tin vào lĩnh vực quản lý thu BHXH còn nhiều hạn chế, chủ yếu làm thủ công, dẫn đến xử lý thông tin, số liệu chậm, nhầm lẫn, sai sót, ảnh hưởng đến việc chỉ đạo kịp thời công tác thu... Chương 3 MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN CÔNG TÁC QUẢN LÝ THU BHXH Ở BHXH HUYỆN MỸ HÀO 3.1. Định hướng phát triển chung của BHXH huyện Mỹ Hào năm 2011 3.1.1. Định hướng công tác thực hiện chính sách BHXH Trong tiến trình đổi mới, hướng đến mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, trước yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, để thực hiện tốt hơn nữa công tác BHXH, BHYT, đáp ứng những yêu cầu của đời sống xã hội, BHXH Mỹ Hào đã xác định rõ định hướng phát triển BHXH và một số nhiệm vụ trọng tâm cho năm 2011 như sau: Tiếp tục phát huy những kết quả đã đạt được trong công tác thực hiện chính sách BHXH các năm trước đó, đưa chính sách BHXH gần với cuộc sống NLĐ. Tích cực tìm ra biện pháp tháo gỡ những khó khăn, hạn chế đang tồn tại. Hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ của ngành, địa phương giao cho. Không ngừng nâng cao hiệu quả công tác quản lý, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện công tác nghiệp vụ, đề xuất với ngành bổ sung nguồn nhân lực cũng như trang thiết bị để không ngừng đáp ứng nhu cầu công việc và khối lượng người tham gia ngày càng gia tăng. Tranh thủ sự lãnh đạo của BHXH tỉnh Hưng Yên, của Tỉnh ủy, Thường trực UBND tỉnh, sự phối hợp của các ban, ngành, đoàn thể trên địa bàn huyện trong quản lý và mở rộng đối tượng tham gia, chú trọng công tác thông tin tuyên truyền, tăng cường hơn nữa công tác kiểm tra, phối hợp thanh tra về BHXH, BHYT; giám sát, giám định công tác khám chữa bệnh BHYT theo quy định, đảm bảo quyền lợi của người tham gia BHYT Nâng cao chất lượng hoạt động của bộ máy quản lý, năng lực và trách nhiệm nghề nghiệp của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức toàn đơn vị với bản lĩnh chính trị vững vàng, có năng lực chuyên môn giỏi để thật sự là những công chức mẫu mực, tận tâm, tận tụy phục vụ nhân dân chuyển đổi tác phong làm việc hành chính sang phục vụ, tiến hành cải cách thủ tục hành chính rườm rà gây phiền nhiễu cho người tham gia. Đẩy mạnh công tác thi đua khen thưởng để động viên đội ngũ cán bộ công nhân viên trong đơn vị nâng cao hiệu quả công tác chuyên môn. Kiểm tra, theo dõi, quản lý chặt chẽ đối tượng, chính sách chính xác, báo tăng giảm kịp thời, đầy đủ, đảm bảo quyền lợi của đối tượng tham gia. Ứng dụng có hiệu quả công nghệ thông tin vào công tác quản lý của ngành; đảm bảo thu đúng, thu đủ và chi trả kịp thời, an toàn các chế độ BHXH, BHYT... nhằm hướng đến mục tiêu BHXH cho mọi người lao động, BHYT cho toàn dân, góp phần đảm bảo an sinh xã hội trên địa bàn huyện Mỹ Hào nói riêng và của cả nước nói chung. 3.1.2. Định hướng công tác quản lý thu BHXH Trước xu hướng phát triển kinh tế xã hội của toàn tỉnh Hưng Yên nói chung và của huyện Mỹ Hào nói riêng cùng với nhưng kết quả đã đạt được trong thời gian qua, BHXH huyện Mỹ Hào quyết tâm năm 2011 hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ của ngành và địa phương giao cho. Cụ thể qua các nhiệm vụ trọng tâm sau đối với hoạt động quản lý thu BHXH như sau: BHXH huyện Mỹ Hào cần tích cực hơn nữa mở rộng đối tượng tham gia theo đúng luật BHXH, phấn đấu sang năm 2011 hoàn thành kế hoạch tỉnh giao từ 1 – 5%. Hàng quý đối chiếu, thanh quyết toán kịp thời. Mở đầy đủ và vào các sổ theo dõi đối tượng tham gia BHXH theo đúng quy định của BHXH. Cuối năm không để nợ đọng BHXH. Xây dựng chiến lược phát triển BHXH, mở rộng đối tượng tham gia, đặc biệt là đối tượng làm công ăn lương trong khu vực doanh nghiệp tư nhân để đạt 90% đối tượng thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc vào năm 2015. Việc thu BHXH bắt buộc phải đúng quy định của pháp luật, đảm bảo thu đúng, thu đủ; chống thất thu, nợ đọng để đảm bảo quyền lợi người lao động và khả năng cân đối quỹ bảo hiểm xã hội trong tương lai. Quản lý tốt và tiến hành theo dõi thường xuyên, liên tục từng loại đối tượng tham gia trên địa bàn huyện. Thực hiện kiểm tra, đối chiếu diễn biến tổng quỹ lương, tiền lương của các đơn vị tham gia, mở đầy đủ và vào sổ theo dõi kịp thời đối tượng tham gia theo đúng quy định của BHXH tỉnh và BHXH Việt Nam. 3.2. Một số biện pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý thu bảo hiểm xã hội ở huyện Mỹ Hào 3.2.1. Tăng cường quản lý và mở rộng đối tượng tham gia BHXH Tăng cường công tác quản lý đối tượng tham gia BHXH được xem là giải pháp hữu hiệu nhằm nâng cao hiệu qủa công tác quản lý thu BHXH, đảm bảo thu đúng, thu đủ, thu kịp thời các đối tượng. Vì trên địa bàn huyện hiện nay vẫn còn một lượng không nhỏ lao động thuộc đối tượng tham gia BHXH bắt buộc nhưng chưa đăng kí tham gia, công tác quản lý đối tượng tham gia còn lỏng lẻo, hiệu quả mang lại chưa cao. Đặc biệt trong thời gian tới, số lượng NLĐ thuộc diện phải tham gia BHXH bắt buộc sẽ tăng lên đáng kể, đòi hỏi phải có sự quản lý chặt chẽ, thường xuyên, liên tục. Mặt khác, những kết quả mà BHXH huyện thu được chưa thực sự tương xứng với tiềm năng có thể phát triển đối tượng tham gia của huyện Mỹ Hào. Do đó cần phải tăng cường công tác quản lý đối tượng tham gia BHXH trên địa bàn quản lý để đưa các đối tượng thuộc diện phải tham gia nhưng chưa tham gia BHXH vào hệ thống BHXH, đảm bảo quyền lợi hợp pháp của NLĐ. Đây được xem là mục tiêu chiến lược, cơ bản, cả trước mắt và về lâu dài nên BHXH huyện cần phải đề ra những biện pháp cụ thể, phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của huyện, cụ thể: * Quản lý chặt chẽ NLĐ và người SDLĐ - Thực hiện báo tăng, giảm kịp thời, chính xác, quản lý chặt chẽ mọi nguồn thu. Chú trọng công tác kiểm tra, giám sát, bám sát các đơn vị SDLĐ và NLĐ thuộc các khối ngành kinh tế khác nhau trên địa bàn chịu trách nhiệm quản lý, đặc biệt là khu vực ngoài quốc doanh để tham mưu với Huyện ủy, UBND kịp thời triển khai việc tham gia BHXH cho các đối tượng thuộc diện phải tham gia, hạn chế và tiến đến chấm dứt tình trạng né tránh tham gia BHXH của các đơn vị SDLĐ làm ảnh hưởng đến quyền lợi của NLĐ. - Thực hiện hiệu quả sự phối hợp chặt chẽ với các cơ quan ban ngành liên quan như: Thanh tra lao động, Ban quản lý các KCN… để nắm đầy đủ số lượng đơn vị SDLĐ và số lao động trên địa bàn, phát hiện những đơn vị khai báo thiếu số lao động thực tế tại đơn vị hoặc chưa khai báo đăng kí tham gia để bắt đưa vào diện đóng BHXH bắt buộc, đồng thời có chương trình xúc tiến thông tin tuyên truyền phổ biến chính sách đến từng cơ sở chưa tham gia BHXH đầy đủ cho NLĐ. - Tăng cường, mở rộng phạm vi, hình thức và nội dung tuyên truyền đến mọi tầng lớp nhân dân, đặc biệt là NLĐ và người SDLĐ trong huyện. Để họ có sự hiểu biết hơn về những lợi ích thiết thực mà BHXH mang lại, nhằm nâng cao nhận thức, thay đổi thái độ của người SDLĐ và NLĐ. Từ đó, người SDLĐ có hành vi chấp hành pháp luật hơn, tự giác tham gia đóng BHXH cho NLĐ, hạn chế tình trạng trốn đóng, nợ đọng BHXH. Đặc biệt, giữ mối liên hệ mật thiết với tổ chức Công đoàn tại các DN, tổ chức kinh tế - xã hội. Thông qua tổ chức Công đoàn, tiến hành các buổi giao lưu, tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật về BHXH sâu rộng vào quần chúng NLĐ. - Làm tốt công tác cải cách thủ tục hành chính ở tất cả các bộ phận trong đơn vị theo phương châm nhanh gọn, thuận tiện để tạo niềm tin của đơn vị SDLĐ và NLĐ đối với cơ quan BHXH, tránh tâm lý ngần ngại của người tham gia khi đến cơ quan BHXH thực hiện nghĩa vụ, tạo mối liên kết chặt chẽ giữa cơ quan BHXH với đối tượng tham gia trên địa bàn quản lý. * Quản lý tiền lương làm căn cứ thu BHXH. Bởi vì tiền lương - tiền công của NLĐ chính là căn cứ quan trọng để tiến hành thu BHXH của NLĐ và người SDLĐ nên trong công tác quản lý đối tượng tham gia cũng cần phải quan tâm đến vấn đề quản lý tiền lương làm căn cứ thu BHXH. Để quản lý tốt vấn đề này, BHXH huyện Mỹ Hào cần thực hiện một số công tác sau: - Theo dõi thường xuyên diễn biến tiền lương - tiền công của đơn vị SDLĐ và NLĐ. Nếu phát hiện những dấu hiệu bất thường, biểu hiện của tiêu cực cần tiến hành công tác kiểm tra kịp thời để xác minh lại thông tin mà đơn vị SDLĐ đã khai báo cho cơ quan BHXH, tránh thất thu cho BHXH. - Tích cực vận động, khuyến khích các chủ SDLĐ thực hiện chi trả tiền lương - tiền công cho NLĐ thông qua thẻ ATM nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho cơ quan BHXH dễ dàng nắm được diễn biến tiền lương, tiền công tại từng đơn vị tham gia BHXH. - Khi có sự thay đổi, điều chỉnh về tiền lương tối thiểu chung, vùng của chính phủ, BHXH huyện đặc biệt là các cán bộ làm công tác quản lý thu cần có thông báo cụ thể, hướng dẫn các cán bộ làm công tác chuyên trách BHXH tại đơn vị SDLĐ về sự thay đổi này để tiến hành trích nộp theo đúng quy định hiện hành. - Cán bộ làm công tác quản lý thu của BHXH Mỹ Hào cần chủ động, sáng tạo, nhạy bén trước những biến động về tổng quỹ tiền lương tiền công của đơn vị SDLĐ. Không ngừng học hỏi, nâng cao trình độ chuyên môn để đảm bảo đủ năng lực quản lý. Để làm tốt công tác quản lý đối tượng tham gia, nâng cao hiệu quả công tác quản lý thu, BHXH huyện Mỹ Hào cẩn phải tiến hành đồng bộ các nhiệm vụ trên. Kết hợp những nội lực hiện có của cơ quan cùng với sự giúp đỡ từ các yếu tốt bên ngoài để đạt được kết quả mở rộng đối tượng tham gia, quản lý thu tốt nhất. 3.2.2. Đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền, phổ biến pháp luật BHXH Hiện nay, tình trạng trốn tránh trách nhiệm tham gia BHXH vẫn còn khá phổ biến, nguyên nhân chủ yếu là do chủ SDLĐ và NLĐ chưa hiểu hết về quyền lợi, ý nghĩa của việc tham gia BHXH nên họ cố tình tìm cách trốn đóng BHXH. Việc tuyên truyền, giải thích nhằm nâng cao nhận thức về BHXH của NLĐ và NSDLĐ có ý nghĩa hết sức quan trọng và cấp bách trong giai đoạn hiện nay. Đây không chỉ là công việc của ngành BHXH mà là nhiệm vụ chung của các ngành, các cấp, của toàn thể xã hội. Nó bao gồm những nội dung sau: Trước hết phải xác định rõ nội dung của chính sách BHXH. Từ đó giúp NLĐ hiểu được bả

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • dockhoa luan tot nghiep1.doc
Tài liệu liên quan