Đề tài Các giải pháp phát triển bảo hiểm tiền gửi ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long

Tài liệu Đề tài Các giải pháp phát triển bảo hiểm tiền gửi ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long: LÊ VĂN ÚT HIỀN BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH CÁC GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN BẢO HIỂM TIỀN GỬI Ở KHU VỰC ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ TP. Hồ Chí Minh Năm 2009 LÊ VĂN ÚT HIỀN BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH CÁC GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN BẢO HIỂM TIỀN GỬI Ở KHU VỰC ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG Chuyên ngành: Kinh tế tài chính - ngân hàng Mã số: 60.31.12 LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: GSTS. NGUYỄN THANH TUYỀN TP. Hồ Chí Minh Năm 2009 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận án này là công trình nghiên cứu của tôi. Các số liệu, kết quả trình bày trong luận văn này là trung thực và có nguồn gốc trích dẫn rõ ràng. Tp. Hồ Chí Minh, ngày 08 tháng 02 năm 2009 Tác giả LỜI CẢM ƠN Trước hết tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Thầy GSTS Nguyễn Thanh Tuyền, người Thầy đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ, động viên tôi trong suốt thời gian thực hiện luận văn tốt nghiệp. Xin chân thành cảm ơn q...

doc95 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1100 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Các giải pháp phát triển bảo hiểm tiền gửi ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LÊ VĂN ÚT HIỀN BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH CÁC GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN BẢO HIỂM TIỀN GỬI Ở KHU VỰC ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ TP. Hồ Chí Minh Năm 2009 LÊ VĂN ÚT HIỀN BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH CÁC GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN BẢO HIỂM TIỀN GỬI Ở KHU VỰC ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG Chuyên ngành: Kinh tế tài chính - ngân hàng Mã số: 60.31.12 LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: GSTS. NGUYỄN THANH TUYỀN TP. Hồ Chí Minh Năm 2009 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận án này là công trình nghiên cứu của tôi. Các số liệu, kết quả trình bày trong luận văn này là trung thực và có nguồn gốc trích dẫn rõ ràng. Tp. Hồ Chí Minh, ngày 08 tháng 02 năm 2009 Tác giả LỜI CẢM ƠN Trước hết tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Thầy GSTS Nguyễn Thanh Tuyền, người Thầy đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ, động viên tôi trong suốt thời gian thực hiện luận văn tốt nghiệp. Xin chân thành cảm ơn quý Thầy, Cô Trường Đại học kinh tế TP.Hồ Chí Minh; Khoa Kinh tế - QTKD Trường Đại học Cần Thơ, đã truyền đạt những kiến thức quý báu trong suốt khóa học. Xin cảm ơn Ban Giám đốc Chi nhánh Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam Khu vực Đồng Bằng Sông Cửu Long, các bạn đồng nghiệp đã hỗ trợ, chia sẻ nhiều thông tin quý báu giúp tôi hoàn thành luận văn này. Tác giả MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Lời cảm ơn Mục lục Danh mục các chữ viết tắt Danh mục hình, bảng biểu Mở đầu 1 Chương 1 : CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BẢO HIỂM TIỀN GỬI 5 1. 1. Bảo hiểm tiền gửi 5 1.1.1. Khái nệm về Bảo hiểm tiền gửi 5 1.1.2. Đặc điểm của Bảo hiểm tiền gửi 6 1.1.3. Chức năng của Bảo hiểm tiền gửi 7 1.1.4. Vai trò của Bảo hiểm tiền gửi 8 1.2. Kinh nghiệm BHTG ở một số nước trên thế giới 17 1.2.1. Bảo hiểm tiền Mỹ 17 1.2.2. Bảo hiểm tiền gửi Nhật Bản 19 1.2.3. Bảo hiểm tiền gửi Đài Loan 23 Chương 2 : THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG BẢO HIỂM TIỀN GỬI Ở ĐBSCL 25 2.1. Sự cần thiết khách quan hình thành BHTG Việt Nam 25 2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển 25 2.1.2. Cơ cấu tổ chức của BHTG Việt Nam 26 2.2. Những thành tựu của BHTG Việt Nam (từ năm 1999 – 2008) 29 2.2.1. Đối với hệ thống NHTM và tổ chức phi ngân hàng 29 2.2.2. Đối với hệ thống Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở 32 2.3. Những hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế 33 2.3.1. Những hạn chế 34 2.3.2. Nguyên nhân của những hạn chế 47 2.4. Thực trạng hoạt động của BHTG Việt Nam ở khu vực ĐBSCL 49 2.4.1. Quá trình thành lập 49 2.4.2. Những thành tựu của Chi nhánh khu vực ĐBSCL 50 2.4.3. Những tồn tại trong hoạt động của Chi nhánh 53 2.4.4. Nguyên nhân của những tồn tại 55 Chương 3 : NHỮNG GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN BHTG VIỆT NAM Ở ĐBSCL 57 3.1. Những định hướng chủ yếu về phát triển BHTG ở ĐBSCL 57 3.1.1. Chiến lược phát triển của BHTGVN giai đoạn 2006 – 2015 57 3.1.2. Chiến lược phát triển của BHTGVN Khu vực ĐBSCL 58 3.2. Dự báo về phát triển BHTG ở ĐBSCL 59 3.2.1. Yêu cầu phát triển kinh tế và lành mạnh hóa hoạt động ngân hàng. 59 3.2.2. Đối với quản lý rủi ro 60 3.3. Các giải pháp phát triển Bảo hiểm tiền gửi ở ĐBSCL 61 3.3.1. Hoàn thiện qui trình cho vay hỗ trợ tài chính đối với các QTDND tạo chỗ dựa vững chắc cho tín dụng ở nông thôn 61 3.3.2. Xây dựng quỹ hỗ trợ tiền gửi ngân hàng, từ nguồn vốn của NHTM nhằm hỗ trợ rủi ro tiền gửi 66 3.3.3. Đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ BHTG ở ĐBSCL 66 3.3.4. Các biện pháp phòng ngừa rủi ro tiền gửi 67 3.3.5. Tái cơ cấu bộ máy quản lý của hệ thống BHTG ở ĐBSCL 68 3.3.6. Xây dựng mô hình BHTGVN trong điều kiện hội nhập 68 3.4. Các giải pháp hỗ trợ 75 3.4.1. Của Chính phủ 75 3.4.2. Của ngân hàng Nhà nước Việt Nam 76 3.4.3. Môi trường pháp lý 78 3.4.4. Đào tạo nguồn nhân lực 79 Kết luận 81 Danh mục tài liệu tham khảo Các phụ lục, mô hình DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT Chữ viết tắt Nguyên văn IADI Hiệp hội bảo hiểm tiền gửi quốc tế BHTG Bảo hiểm tiền gửi BHTGVN Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam CDIC Công ty Bảo hiểm tiền gửi Đài Loan FDIC Công ty Bảo hiểm tiền gửi Hoa Kỳ DICJ Công ty Bảo hiểm tiền gửi Nhật Bản ĐBSCL Đồng Bằng Sông Cửu Long NHNN Ngân hàng Nhà nước TCTD Tổ chức tín dụng NHTM Ngân hàng thương mại NHTMNN Ngân hàng thương mại nhà nước NHTMCP Ngân hàng thương mại cổ phần QTDND Quỹ tín dụng nhân dân QTDTW Quỹ tín dụng Trung ương HTX Hợp tác xã WTO Tổ chức thương mại thế giới DANH MỤC HÌNH BẢNG BIỂU Số TT Tên hình Trang Hình 1.1 Sơ đồ Ngân hàng làm trung gian tín dụng 10 Hình 1.2 Tiền gửi tiết kiệm qua các năm 16 Hình 2.1 Sơ đồ bộ máy tổ chức của BHTG Việt Nam 27 Hình 2.2 Đồ thị minh hoạ thu hồi tiền gửi được bảo hiểm tại khu vực ĐBSCL 37 Hình 2.3 Mức độ hiểu biết của công chúng về BHTG 45 Hình 3.1 Mô hình chiến lược phát triển bền vững của BHTGVN 57 Hình 3.2 Mô hình cho vay theo phương thức tín dụng dự phòng 65 Bảng 1.1 Sự khác nhau giữa BHTG với các loại bảo hiểm khác 6 Bảng 2.1 Phân chia mẫu điều tra theo đối tượng có gửi tiền 44 Bảng 2.2 Mức độ hiểu biết của công chúng về BHTG 45 Bảng 3.1 Khách hàng hiện tại của BHTGVN 67 MỞ ĐẦU Sự cần thiết của vấn đề nghiên cứu Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động trong lĩnh vực tiền tệ luôn chứa đựng những yếu tố rủi ro tiềm ẩn, trong những nền kinh tế đang phát triển mà đặc biệt là Việt Nam. Trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ, việc mất khả năng thanh toán dẫn đến phá sản, tạo ra những phản ứng dây chuyền trong hệ thống các tổ chức tín dụng làm suy yếu hệ thống tài chính quốc gia, do việc công chúng rút tiền gửi tiết kiệm hàng loạt tại các Ngân hàng thương mại, là nguồn gốc dẫn đến khủng hoảng nền tài chính quốc gia. Trong khi đó người gửi tiền chưa được pháp luật bảo vệ quyền lợi một cách chính đáng, sự tổn thất của công chúng không những làm cho chính sách tiền tệ quốc gia suy yếu mà còn làm bất ổn về chính trị. Lĩnh vực tín dụng tiền tệ là lĩnh vực đặc biệt nhạy cảm, nó đòi hỏi những yêu cầu về tính an toàn và phòng ngừa rủi ro là rất lớn, vì vậy việc ra đời tổ chức Bảo hiểm tiền gửi là hết sức cần thiết trong nền kinh tế phát triển. Nhiều quốc gia trên thế giới, đã thiết lập những cơ chế khác nhau nhằm bảo vệ người gửi tiền và duy trì sự ổn định của hệ thống ngân hàng. Để kiến tạo niềm tin cho công chúng và sự ổn định của hệ thống ngân hàng, Chính phủ của nhiều nước đã chọn là hình thức bảo hiểm tiền gửi nhằm góp phần thực thi chính sách tiền tệ quốc gia mà điều chủ yếu là bảo vệ người gửi tiền. Ở Việt Nam trong những thập niên 80 việc đổ vỡ hàng loạt các Hợp tác xã tín dụng, là hệ quả của một chính sách quản lý trong lĩnh vực tiền tệ yếu kém đã dẫn đến khủng hoảng tài chính mà kết quả là người gửi tiền không được bảo vệ khi gửi tiền vào các HTX tín dụng, nó tác động nghiêm trọng đến đời sống của công chúng, khi mà người gửi tiền vào các TCTD bị mất khả năng chi trả dẫn đến phá sản làm cho họ phải trắng tay, dẫn đến hoảng loạn rút tiền hàng loạt. Sự mất lòng tin của công chúng vào hệ thống ngân hàng quốc gia, mà hệ quả là sự bất ổn về chính trị. Nhận thức tầm quan trọng đó vào năm 1999 tổ chức Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam ra đời, là một tổ chức bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của người gửi tiền đây là một chính sách quan trọng của Chính phủ trong việc đều hành chính sách tiền tệ quốc gia. Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam từ khi ra đời đến nay đã được 9 năm, có vài ý kiến cho rằng hoạt động của BHTG Việt Nam hiện nay thuần túy là thu phí mà ít chú ý đến chức năng hỗ trợ cho các TCTD. Qua nghiên cứu về chức năng nhiệm vụ và những thành quả mà BHTG Việt Nam đã đạt được ở Việt Nam mà đặc biệt là tại khu vực ĐBSCL, Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam đã thể hiện được vai trò tích cực của mình là bảo vệ lợi ích người gửi tiền. Tuy nhiên nhằm phát huy vai trò của BHTG Việt Nam đối với đặc thù của khu vực cần phải có những giải pháp phù hợp đó chính là lý do mà tôi chọn đề tài “Các giải pháp phát triển Bảo hiểm tiền gửi ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long” Mục tiêu nghiên cứu Nghiên cứu những giải pháp của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam một định chế tài chính của Chính phủ hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận đối với hoạt động ngân hàng ở Việt Nam nói chung và tại khu vực ĐBSCL nói riêng có một ý nghĩa to lớn, nó khẳng định sự cần thiết đối với hoạt động ngân hàng trong việc bảo vệ người gửi tiền thông qua hoạt động của mình, từng bước khẳng định vai trò của tổ chức BHTG đối với hoạt động kinh doanh tiền tệ. Chính sách BHTG ngoài việc bảo vệ những người gửi tiền cũng có tác động nhất định đến người nghèo một cách trực tiếp lẫn gián tiếp bằng cách cung cấp cho người nghèo những lợi ích thông qua việc phân phối lại từ khu vực tài chính. Qua việc phân tích thực trạng hoạt động của BHTG Việt Nam, chỉ ra những tồn tại, vướng mắc về cơ chế, chính sách cũng như những nguyên nhân chủ quan, khách quan, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn hiện và nâng cao chất lượng hoạt động BHTG Việt Nam tại Chi nhánh BHTG Việt Nam khu vực ĐBSCL. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu Nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của BHTG Việt Nam. Nghiên cứu về mối quan hệ của BHTG Việt Nam đối với các TCTD Phạm vi nghiên cứu - Hoạt động của BHTG ở Việt Nam - Hoạt động của BHTG tại Chi nhánh khu vực ĐBSCL . Giới hạn vùng nghiên cứu - Các tỉnh thành khu vực ĐBSCL và tham khảo KV Tp.Hồ Chí Minh. - Hoạt động của BHTG ở Việt Nam và khu vực ĐBSCL. Phương pháp nghiên cứu - Sử dụng phương pháp phân tích - Phương pháp phân tích đánh giá - Phương pháp thu thập số liệu thứ cấp kết hợp với điều tra chọn mẫu. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn - Cho thấy mối quan hệ cần thiết giữa tổ chức BHTG Việt Nam và các định chế tài chính trung gian, nguyên nhân và kết quả trong hoạt động ngân hàng với tổ chức BHTG Việt Nam. - Cho chúng ta một cách nhìn bao quát về thực trạng hoạt động của BHTG Việt Nam tại Chi nhánh BHTG Việt Nam khu vực ĐBSCL, cũng như những vướng mắc về cơ chế, chính sách trong hoạt động của BHTG Việt Nam trong thời gian qua, đồng thời đề xuất một số giải pháp phát triển BHTG Việt Nam tại Chi nhánh ĐBSCL, những đề xuất nhằm hoàn thiện về cơ chế, chính sách cho hoạt động của BHTG Việt Nam theo hướng phù hợp với thông lệ quốc tế trong tiến trình Việt Nam hội nhập. Cấu trúc đề tài: Luận văn gồm có 3 chương, bố cục như sau: Chương 1: Cơ sở lý luận về Bảo hiểm tiền gửi . Chương 2: Thực trạng hoạt động Bảo hiểm tiền gửi ở Đồng bằng sông Cửu long. Chương 3: Những giải pháp phát triển BHTG Việt Nam ở Đồng bằng sông Cửu long. Chương 1 : CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BẢO HIỂM TIỀN GỬI 1. 1. Bảo hiểm tiền gửi . 1.1.1. Khái niệm về Bảo hiểm tiền gửi Bảo hiểm tiền gửi là cam kết công khai của tổ chức bảo hiểm tiền gửi đối với tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi về việc tổ chức BHTG cam kết trả tiền gửi cho người gửi tiền tại các tổ chức tham gia BHTG bao gồm phần gốc và lãi, trong trường hợp tổ chức tham gia BHTG bị chấm dứt hoạt động hoặc mất khả năng thanh toán cho người gửi tiền. Cam kết công khai này được thể hiện dưới hình thức một hợp đồng bảo hiểm gồm có ba đối tượng: tổ chức BHTG, tổ chức tham gia BHTG (các định chế trung gian tài chính có huy động tiền gửi) và người gửi tiền. Việc phát triển hoạt động BHTG về qui mô nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động tài chính tiền tệ của quốc gia trong nền kinh tế phát triển và hội nhập là một tất yếu khách quan. Khi các TCTD có huy động tiền gửi đề nghị tham gia BHTG và được tổ chức BHTG chấp thuận, điều này sẽ hình thành một hợp đồng giữa ba đối tác nói trên được hình thành. Mỗi quốc gia có những chính sách khác nhau trong việc xác định loại tiền gửi nào thuộc đối tượng được bảo hiểm. Trách nhiệm và quyền lợi tài chính của ba đối tác được thể hiện như sau: - Tổ chức bảo hiểm tiền gửi: Là đối tác nhận đóng góp tài chính từ các tổ chức tham gia BHTG và có trách nhiệm chi trả tiền gửi cho người có tiền gửi tại các tổ chức huy động tiền, trong trường hợp có sự đổ vỡ từ các tổ chức tham gia BHTG. - Tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi (Tổ chức huy động tiền gửi): Là các định chế trung gian tài chính bao gồm: các ngân hàng thương mại các tổ chức phi ngân hàng có hoạt động huy động tiền gửi. Các tổ chức này khi tham gia đóng góp tài chính cho tổ chức BHTG và được quyền yêu cầu tổ chức BHTG phải chi trả tiền gửi cho công chúng tại các tổ chức này, trong trường hợp các tổ chức này mất khả năng thanh toán hoặc bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền chấm dứt hoạt động. - Người gửi tiền thuộc đối tượng được bảo hiểm: Là khách hàng của những tổ chức tham gia BHTG, những người gửi tiền này không phải đóng góp tài chính trực tiếp cho tổ chức BHTG, họ được thanh toán tiền gửi trong hạn mức chi trả theo qui định pháp luật. 1.1.2. Đặc điểm của Bảo hiểm tiền gửi Sản phẩm bảo hiểm tiền gửi cũng như các sản phẩm bảo hiểm khác (bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm phi nhân thọ, bảo hiểm y tế …) đều dựa vào nguyên tắc chung là lấy số đông bù số ít nhằm mục đích phòng ngừa rủi ro cho khách hàng. Nhưng BHTG khác với các loại bảo hiểm khác ở một số điểm cơ bản (bảng 1.1). Bảng 1.1: Sự khác nhau giữa BHTG với các loại bảo hiểm khác Bảo hiểm tiền gửi Bảo hiểm khác ] Người gửi tiền được bảo hiểm mà không phải ký hợp đồng với tổ chức bảo hiểm ] Chỉ thực hiện bảo hiểm theo từng hợp đồng riêng lẻ ] Số tiền đền bù khi có tổn thất được quy định bởi các văn bản luật, người gửi tiền không thể tăng mức đền bù bằng cách tăng phí đóng góp ] Số tiền đền bù có thể thỏa thuận với tổ chức bảo hiểm, người được bảo hiểm có thể tăng mức đền bù bằng cách tăng mức đóng góp ] Người được bảo hiểm không trực tiếp điều hành hoạt động rủi ro của mình, hoạt động rủi ro do tổ chức tham gia BHTG kiểm soát. ] Người mua hợp đồng là người trực tiếp điều hành các hoạt động rủi ro ] Bắt buộc cung cấp cho khách hàng mà không cần có sự đồng ý hay hiểu biết của khách hàng ] Chỉ có thể cung cấp khi có sự đồng ý của khách hàng 1.1.3. Chức năng của Bảo hiểm tiền gửi Hoạt động BHTG là một dịch vụ cung cấp hàng hóa công mang tính xã hội cao, theo cách phân loại của các nhà kinh tế học sản phẩm dịch vụ của BHTG là loại hàng hóa công không thuần túy. Dựa vào tính chất không loại trừ hưởng thụ một cách tuyệt đối, do mục đích của dịch vụ BHTG là góp phần ổn định hoạt động của hệ thống tài chính quốc gia, người thụ hưởng dịch vụ BHTG là toàn xã hội. Người gửi tiền thuộc đối tượng được bảo hiểm sẽ được hưởng lợi trực tiếp từ chính sách BHTG bằng việc tổ chức BHTG sẽ chi trả tiền khi mà ngân hàng nhận tiền gửi bị phá sản hay mất khả năng chi trả cho người gửi tiền thuộc đối tượng bảo hiểm. Như vậy tổ chức BHTG thực hiện hai chức năng cơ bản là: bảo vệ người gửi tiền và góp phần ổn định hệ thống tài chính hoạt động từ đó tạo hiệu ứng cho các ngành kinh tế phát triển thông qua các định chế trung gian tài chính cung cấp. Tóm lại, chức năng hoạt động của bảo hiểm tiền gửi thực hiện các chức năng cơ bản như sau: Bảo vệ người gửi tiền nhỏ là những đối tượng có những hạn chế trong việc tiếp cận thông tin về hoạt động của tổ chức nhận tiền gửi. Chức năng phòng ngừa đổ vỡ ngân hàng, góp phần bảo vệ hệ thống tài chính ổn định tạo điều kiện cho các giao dịch tài chính. Góp phần xây dựng một thị trường tài chính có tính cạnh tranh và bình đẳng giữa các tổ chức tài chính có qui mô và trình độ khác nhau. Giảm thiểu gánh nặng cho Chính phủ, thông qua việc qui định những quyền lợi của người gửi tiền và của các tổ chức nhận tiền gửi. Những nghiên cứu của các nhà kinh tế cũng như qua thực tiễn, người có tiền gửi nhỏ là được tổ chức BHTG quan tâm nhất và là cơ sở xuất phát điểm cho mục đích hoạt động của BHTG, đây là tầng lớp dân cư có những hạn chế nhất định trong việc tiếp cận những thông tin về hoạt động của tổ chức nhận tiền gửi, đời sống của tầng lớp công chúng có thu nhập thấp thường bị tác động nhiều hơn các đối tượng khách hàng khác, những người này thường quan tâm đến lãi suất tiền gửi và họ có được khoản tiền lãi từ nguồn tiền gửi ít ỏi của mình là hết sức quan trọng, do đó sự nhạy cảm trong những thông tin xấu của các tổ chức nhận tiền gửi là cực kỳ quan trọng, do hạn chế khả năng phân tích cũng nhưng tầm nhận thức, tâm lý bất ổn với những thông tin về đổ vỡ ngân hàng làm cho họ có những ứng xử theo tâm lý, từ đó rút tiền ồ ạt. Ở Việt Nam ta bằng chứng là sự kiện của Ngân hàng TMCP Á Châu vào tháng 10/2003 là một minh chứng, các hiện tượng trên nếu không xử lý một cách khoa học có thể là nguyên nhân dẫn đến phản ứng dây chuyền làm hàng loạt ngân hàng bị phá sản, đây là một trong những nghiệp vụ mà tổ chức BHTG cần phải quán triệt. 1.1.4. Vai trò của Bảo hiểm tiền gửi. Vai trò của hoạt động BHTG đối với quốc gia có thể biểu hiện trên nhiều góc độ do xuất phát từ bản chất của hàng hóa mà dịch vụ BHTG cung cấp là loại “hàng hóa công không thuần túy”. Theo lý thuyết kinh tế học về hàng hóa công bao hàm hai đặc tính: - Tính không thể loại trừ: Đặc tính này cũng được hiểu trên giác độ tiêu dùng, hàng hóa công cộng một khi đã cung cấp tại một địa phương nhất định thì không thể hoặc rất tốn kém nếu muốn loại trừ những cá nhân không trả tiền cho việc họ sử dụng hàng hóa này. - Tính không cạnh tranh: Tính chất không cạnh tranh được hiểu trên góc độ tiêu dùng, việc một cá nhân này đang sử dụng hàng hóa đó thì không ngăn cản những người khác đồng thời cũng sử dụng nó. Bản chất của dịch vụ BHTG cung cấp tiện tích cho tất cả các thành viên trong cộng đồng một cách trực tiếp hoặc gián tiếp. Vai trò chính của BHTG là thúc đẩy sự kết hợp hài hòa giữa nỗ lực nâng cao chất lượng hoạt động ngân hàng hướng tới thu hút được tối đa nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong cộng đồng và sự cộng tác tích cực của các thành viên trong xã hội trên cơ sở các bên cùng có lợi. Từ đó tạo điều kiện thúc đẩy phát triển kinh tế vững chắc. Như vậy vai trò hoạt động của BHTG đối với quốc gia được phản ánh gián tiếp qua vai trò của hệ thống ngân hàng của chính quốc gia đó. Vai trò của hoạt động của BHTG đối với một quốc gia được thể hiện ở ba mặt cơ bản: - Tạo niềm tin của công chúng đối với hệ thống ngân hàng thương mại. - Góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho hệ thống ngân hàng quốc gia phát triển lành mạnh. - Huy động tiền gửi tại NHTM được tăng trưởng ổn định, tạo nguồn lực cho đầu tư quốc gia. 1.1.4.1. Hoạt động BHTG tạo niềm tin của công chúng đối với hệ thống ngân hàng thương mại. - Tạo niềm tin của công chúng vào các NHTM. Các ngân hàng thương mại trong hệ thống của một quốc gia muốn có được uy tín đối với công chúng cần có khả năng thực hiện có hiệu quả các chức năng của họ, bao gồm ba chức năng cơ bản như sau: chức năng trung gian tín dụng, chức năng thanh toán và chức năng tạo tiền . Chức năng trung gian tín dụng: thực hiện chức năng này các NHTM làm cầu nối giữa người cần vốn và nơi có vốn. Thông qua việc huy động các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế, các NHTM hình thành quỹ cho vay và cung cấp tín dụng cho toàn bộ nền kinh tế, quá trình này diễn ra liên tục làm tiền đề và điều kiện cho nhau, với chức năng này các NHTM là người đi vay để cho vay, từ đó mà phân bổ các nguồn vốn một cách hợp lý làm cho nền kinh tế vận hành một cách thông suốt theo những quy luật của nó. (Hình 1.1) Gửi tiền NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Cá nhân Cá nhân Cho vay Doanh nghiệp Đầu tư Ủy thác đầu Tư Doanh nghiệp Hình 1.1 - Sơ đồ: Ngân hàng làm trung gian tín dụng Chức năng trung gian thanh toán: khi họ thực hiện thanh toán theo yêu cầu của khách hàng, bằng những nghiệp vụ của mình với chức năng này NHTM đóng vai trò là người thanh toán thay cho các doanh nghiệp và cá nhân trong nền kinh tế. Khi nền kinh tế phát triển cao, chức năng này càng được phát huy, hoạt động này có ý nghĩa to lớn trong bất kỳ nền kinh tế nào, nó thúc đẩy quá trình lưu thông hàng hóa, đẩy nhanh tốc độ luân chuyển vốn, làm tăng trưởng kinh tế. Chức năng tạo tiền: chức năng trung gian tín dụng và trung gian thanh toán, các NHTM có khả năng tạo ra tiền tín dụng (hay tiền ghi sổ) thể hiện trên các tài khoản tiền gửi của khách hàng. Khi Ngân hàng Trung ương phát hành tiền ra lưu thông qua thị trường tiền tệ (cấp vốn, tái cấp vốn), thị trường mở (mua bán chứng khoán nợ), hoặc qua thị trường ngoại hối (mua bán ngoại tệ)... thì lượng tiền này sẽ nằm trong lưu thông chủ yếu dưới dạng tiền gửi của các tổ chức, cá nhân tại các NHTM và tiền mặt trong lưu thông. Từ khoản tiền vốn (tiền gửi, tiền vay) ban đầu này, thông qua hành vi cho vay bằng chuyển khoản, hệ thống NHTM có khả năng tạo nên số tiền gửi gấp nhiều lần so với số vốn tăng thêm ban đầu. Các chức năng của các NHTM có mối quan hệ chặc chẽ với nhau, bổ sung và hỗ trợ lẫn nhau, trong đó chức năng trung gian tín dụng là cơ bản nhất nó tạo điều kiện để thực hiện hai chức năng còn lại. Trong khi đó, chức năng thanh toán thể hiện niềm tin của công chúng đối với hệ thống ngân hàng. - Hoạt động BHTG góp phần thúc đẩy chức năng hoạt động của NHTM. Hoạt động BHTG là nhằm bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền, góp phần đảm bảo sự duy trì hoạt động lành mạnh trong hệ thống ngân hàng của một quốc gia, thông qua các hoạt động chuyên môn của tổ chức BHTG nhằm thực hiện mục tiêu bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền, tổ chức BHTG tập trung vào các hoạt động sau: Cung cấp cho công chúng về hoạt động của các NHTM thông qua hoạt động của mình. Hỗ trợ tài chính cho các tổ chức tham gia BHTG khi gặp khó khăn nhằm duy trì hoạt động có hiệu quả. Chi trả tiền gửi được bảo hiểm cho người gửi tiền trong trường hợp tổ chức nhận tiền gửi mất khả năng thanh toán. Tham gia vào quá trình thanh lý tài sản sau khi chi trả, nhằm bảo vệ quyền lợi cho người gửi tiền chưa được thanh toán hết số tiền gửi vượt mức chi trả ban đầu, duy trì quỹ BHTG để bảo vệ người gửi tiền tại tổ chức tham gia BHTG khác. Như vậy về thực chất, tổ chức BHTG là cầu nối cho các NHTM mất khả năng thanh toán tiếp tục thực hiện chức năng thanh toán cho người gửi tiền. Qua đó chúng ta thấy rằng việc duy trì niềm tin của các ngân hàng đang hoạt động đối với công chúng là hết sức quan trọng, việc chi trả tiền gửi được bảo hiểm tạo nên sự ổn định tránh sự đổ vỡ dây chuyền, trong đó sự bảo đảm can thiệp kịp thời và có hiệu quả của tổ chức BHTG. Ngoài ra nhằm góp phần duy trì tính ổn định của hệ thống ngân hàng, tổ chức BHTG còn thực hiện chức năng giám sát và kiểm tra các hoạt động của các NHTM tham gia BHTG nhằm ngăn chặn kịp thời những biểu hiện thiếu lành mạnh và thiếu an toàn trong hoạt động ngân hàng, những hoạt động đó góp phần cho các NHTM tham gia BHTG thực hiện có hiệu quả ba chức năng của mình. 1.1.4.2. Hoạt động BHTG tạo điều kiện thuận lợi cho hệ thống NHTM phát triển Hoạt động của tổ chức BHTG làm tăng cường niềm tin của công chúng đối với hệ thống ngân hàng quốc gia, cũng từ đó tạo động lực để các NHTM phát triển tốt hơn. Với những cải thiện và nâng cao uy tín trong cộng đồng, các NHTM huy động vốn dễ dàng hơn từ đó phát triển được mạng lưới rộng hơn và đa dạng hóa các dịch vụ ngân hàng nhằm phục vụ ngày càng tốt hơn cho công chúng những sản phẩm tài chính mà các tổ chức này cung cấp cho toàn xã hội. Nhìn chung hoạt động của tổ chức BHTG đối với các NHTM được biểu hiện qua ba tác dụng chính : + Tác dụng tạo điều kiện thuận lợi cho các NHTM mới ra đời và các ngân hàng có qui mô nhỏ phát triển tốt hơn: trong kinh tế thị trường, nhìn ở góc độ huy động vốn thì các NHTM lớn có bề dày lịch sử hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ thì có nhiều ưu thế hơn những ngân hàng nhỏ, các QTDND cơ sở và các ngân hàng mới thành lập, việc quảng bá thương hiệu cần phải trải qua một quá trình hoạt động, thì các ngân hàng này mới tạo được niềm tin cho công chúng, mặc khác những sản phẩm dịch vụ của ngân hàng mang tính xã hội cao cần phải được khẳng định qua thời gian hoạt động, đặc biệt trong lĩnh vực huy động vốn, họ phải tạo cho công chúng niềm tin khi gửi tiền vào các định chế tài chính trung gian này. Trong khi đó ngân hàng nhỏ và những ngân hàng mới thành lập chưa khẳng định được thương hiệu trên thị trường, thì người gửi tiền thông thường nghi ngờ vào năng lực tài chính và tâm ý e ngại khi gửi tiền vào những tổ chức này là điều không tránh khỏi. Khi hoạt động BHTG với chính sách là bắt buộc, tất cả các NHTM và các tổ chức phi ngân hàng đều phải tham gia, từ đó tiền gửi của công chúng được bảo vệ dù gửi bất kỳ nơi đâu không phân biệt qui mô hay thương hiệu của bất kỳ tổ chức tín dụng nào. Từ đó tâm lý lo ngại của người gửi tiền không còn nữa, chính yếu tố này làm cho các ngân hàng mới thành lập và các ngân hàng có qui mô nhỏ huy động vốn một cách dễ dàng hơn, làm cho hoạt động của NHTM thuận lợi hơn, hỗ trợ các ngân hàng triển khai nhiều sản phẩm dịch vụ tài chính đáp ứng nhu cầu của xã hội. + Hoạt động của BHTG giúp cho toàn hệ thống ngân hàng hoạt động một cách ổn định: qua hoạt động của mình tổ chức BHTG đánh giá kịp thời những khả năng hoạt động của các NHTM và nhất là tổ chức tín dụng nhỏ (ở Việt Nam là các QTDND cơ sở), từ đó giúp cho hệ thống ngân hàng thương mại không bị phản ứng dây chuyền một khi xảy ra đổ vỡ ngân hàng, bằng cách đưa các ngân hàng yếu kém rút khỏi lĩnh vực kinh doanh tiền tệ một cách có trật tự mà không làm ảnh hưởng đến các ngân hàng khác. Đối với các ngân hàng không thể duy trì được, tổ chức BHTG sẽ đưa ra các giải pháp như: chi trả tiền gửi được bảo hiểm và tiến hành thanh lý tài sản, sáp nhập với các ngân hàng có tiềm lực mạnh hơn. Đối với trường hợp nếu một ngân hàng bị mất khả năng thanh toán nhưng chưa đến mức phá sản thì tổ chức BHTG sẽ cho vay hỗ trợ tài chính nhằm cứu các ngân hàng này vượt qua được giai đoạn khó khăn trong quá trình hoạt động ngân hàng. Nhìn chung những hoạt động của BHTG là tạo niềm tin cho công chúng là yếu tố hàng đầu, thông qua việc xử lý các trường hợp sau khi thanh lý tiếp tục chi trả tiền cho công chúng có ý nghĩa rất lớn trong việc duy trì niềm tin ở người gửi tiền, tránh những tin đồn gây ra bất lợi cho các ngân hàng khác . + Hoạt động BHTG tạo động lực để các ngân hàng giám sát lẫn nhau, thúc đẩy nhau nâng cao chất lượng hoạt động: Tổ chức BHTG hoạt động trên cơ sở thúc đẩy cơ chế hỗ trợ lẫn nhau trong cộng đồng các tổ chức huy động tiền gửi để giải quyết khó khăn, nhất là trong tình trạng ngân hàng bị mất khả năng thanh toán dẫn đến phá sản. Bằng chính nguồn lực huy động từ các tổ chức tham gia BHTG sẽ hỗ trợ cho các thành viên. Ở những quốc gia có hình thức đóng góp sau, khi một ngân hàng thành viên bị phá sản thì tổ chức BHTG yêu cầu các thành viên sẽ phải đóng góp một khoản phí theo một tỷ lệ căn cứ vào mức thiệt hại của ngân hàng bị đổ vỡ. Chính theo hình thức đóng góp sau này sẽ làm cho các ngân hàng tự giám sát lẫn nhau nhằm tránh tình trạng ngân hàng hoạt động an toàn phải đóng góp để hổ trợ những ngân hàng có mức độ rủi ro cao hơn họ. 1.1.4.3. Hoạt động BHTG góp phần tăng trưởng huy động tiền gửi cho các NHTM. Tiền gửi tiết kiệm dân cư trong bất kỳ quốc gia nào là một trong những nguồn vốn mà có chi phí rẻ nhằm đầu tư cho phát triển kinh tế đất nước, nguồn vốn tiết kiệm của một quốc gia bao gồm: tiết kiệm dân cư và của Chính phủ là nguồn vốn quyết định đối với đầu tư phát triển kinh tế bền vững. đặc điểm của nguồn vốn huy động trong dân cư là nguồn vốn ổn định và có thời hạn ổn định. Đối với những NHTM lớn, ngoài nguồn tiền gửi của dân cư các ngân hàng này còn thu hút một lượng lớn tiền gửi từ các tổ chức xã hội, các doanh nghiệp, so sánh hai loại tiền gửi của cá nhân và tổ chức, thông thường tiền gửi từ cá nhân có tính ổn định cao hơn so với các tổ chức, nếu như tiền gửi tiết kiệm dân cư có thời hạn dài thì tiền gửi của các tổ chức có thời hạn rất ngắn và không thể xem là nguồn ổn định cho đầu tư phát triển. Sự biến động lớn về tiền gửi dân cư còn tùy thuộc nhiều vào tính ổn định của hệ thống ngân hàng, trong đó vai trò của BHTG là nền tảng của niềm tin công chúng vào hệ thống NHTM của quốc gia. Nhìn chung, bản chất cơ bản nhất của hoạt động BHTG là bảo vệ người gửi tiền, thông qua những nghiệp vụ của mình cung cấp cho các tổ chức tham gia BHTG những sản phẩm dịch vụ làm tăng uy tín cho ngành ngân hàng, làm cho niềm tin của công chúng tăng lên. Như vậy hoạt động BHTG là nhân tố gián tiếp tạo điều kiện thuận lợi cho các TCTD huy động tiền gửi dân cư. Nghiên cứu về vai trò của tổ chức BHTG nhiều nước trên thế giới, nếu mô hình hoạt động BHTG theo cơ chế bảo hiểm theo loại tiền gửi, thì tốc độ huy động tiền gửi thuộc đối tượng bảo hiểm có xu hướng tăng, còn tiền gửi không thuộc đối tượng bảo hiệm có xu hướng giảm. Nếu chính sách BHTG không phân biệt loại tiền gửi được bảo hiểm thì tổng số tiền gửi tại các NHTM sẽ tăng lên. Vai trò của hoạt động BHTG đối với huy động tiền gửi tiết kiệm tăng qua hệ thống ngân hàng có ý nghĩa quan trọng, nhất là những quốc gia có nhu cầu tăng cao về đầu tư phát triển (hình 1.2) ĐVT: Triệu đồng Hình 1.2 -Tiền gửi tiết kiệm qua các năm (Nguồn: NHNN TP.HCM) Qua số liệu tiền gửi tiết kiệm tại khu vực TP. Hồ Chí Minh từ năm 2005 đến tháng 5/2008, chúng ta nhận thấy rằng do chính sách bảo hiểm tiền gửi tại Việt Nam là có phân biệt đối tượng tiền gửi được bảo hiểm, mà Việt Nam đang áp dụng mô hình bảo hiểm tiền gửi bắt buộc và đối tượng chính được bảo hiểm là người gửi tiền tiết kiệm nhỏ, qua số liệu trên chứng tỏ tiền gửi tiết kiệm ở khu vực này năm 2005 là 280.890.000.000 đồng, so với năm này tăng trưởng qua các năm như sau: năm 2006 tăng 69% năm 2007 đạt 658.881.000.000 đồng tăng 43%, đến tháng 05/2008 tăng 33,3% với số tiền gửi tiết kiệm đạt 842.682.000.000 đồng. Sự tăng trưởng tiền gửi thuộc đối tượng bảo hiểm qua các năm đã chứng minh rằng chính sách BHTG đã góp phần đáng kể trong việc huy động vốn của các tổ chức tham gia BHTG. 1.2. Kinh nghiệm Bảo hiểm tiền gửi ở một số nước trên thế giới 1.2.1. Bảo hiểm tiền ở Mỹ Công ty BHTG liên bang Mỹ (FDIC), ra đời ngày 1/1/1934, nơi triển khai hoạt động BHTG đầu tiên, là tổ chức điển hình trong triển khai đồng bộ ba loại nghiệp vụ và phát huy tối đa hiệu quả của chính sách BHTG trong bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền, kiểm soát rủi ro trong hoạt động ngân hàng, là mô hình được nhiều nước trên thế giới tham khảo để thành lập và cải tiến hoạt động BHTG. Thành công của chính sách BHTG ở Mỹ có thể được tóm tắt ở một số điểm nổi bật như sau: Thứ nhất, sự ra đời và triển khai chính sách BHTG ở Mỹ đã khẳng định năng lực kiểm soát rủi ro ngân hàng của chính sách BHTG theo mô hình chức năng đầy đủ là rất lớn: Tính từ tháng 10 năm 1929 đến cuối năm 1933, thời điểm ra đời của FDIC, ở Mỹ đã có 4.000 ngân hàng đổ vỡ. Một phần nhờ có sự triển khai chính sách BHTG của tổ chức FDIC, trong năm 1934 ở Mỹ chỉ có 9 ngân hàng đổ vỡ. Trong giai đoạn 1934-1941 mặc dầu ở Mỹ đã có 370 ngân hàng đóng cửa, nhưng FDIC đã tạo điều kiện để các ngân hàng này rút khỏi lĩnh vực hoạt động ngân hàng mà không ảnh hưởng đến các ngân hàng khác. Trong giai đoạn có khủng hoảng tiết kiệm và cho vay ở Mỹ trong những năm 1980, FDIC đã đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp kịp thời sản phẩm hỗ trợ tài chính để giảm đi phần nào sự đổ vỡ không đáng có của nhiều ngân hàng. Trong giai đoạn 1982-1991 ở Mỹ có hơn 1.400 ngân hàng lâm vào tình trạng nguy kịch, có thể dẫn đến đóng cửa, nhờ sự hỗ trợ tài chính của FDIC, 131 ngân hàng trong số các ngân hàng đó đã vượt qua được khó khăn và duy trì được hoạt động. Thứ hai, quyền lợi của người gửi tiền được bảo vệ kịp thời, giảm tổn thất cho người gửi tiền, ngân hàng và nền kinh tế: Năm 1934 đến 1997, ở Mỹ có 2.192 ngân hàng đổ vỡ, đã được FDIC giải quyết nhanh gọn, giảm thiểu tối đa ảnh hưởng tới hệ thống ngân hàng Mỹ. Người gửi tiền ở các ngân hàng bị phá sản trong thời gian này đã nhận được tiền chi trả bảo hiểm với tổng số tiền là 106.560 triệu USD. Mới đây, FDIC đã đóng vai trò tích cực trong việc tiếp nhận xử lý ngân hàng gặp vấn đề. Từ đầu năm 2008 tới nay, FDIC đã tiếp nhận và xử lý 16 ngân hàng đổ vỡ. Ngoài ra, trong bản kế hoạch giải cứu ngành tài chính trị giá 700 tỉ USD được quốc hội thông qua ngày 1.10.2008, FDIC đã nâng hạn mức bảo hiểm tiền gửi từ 100.000 USD lên 250.000 USD (hạn mức này duy trì đến hết năm 2009) để củng cố niềm tin của người gửi tiền vào hệ thống tài chính. Thứ ba, Mỹ dành nhiều quan tâm tới giám sát hoạt động ngân hàng: Ngay sau khi thành lập, FDIC đã cử 4.000 kiểm tra viên thực hiện công tác kiểm tra, giám sát các ngân hàng nhằm đánh giá tiêu chí là thành viên của FDIC. Nguồn nhân lực thực hiện công tác giám sát hoạt động ngân hàng ở Mỹ được đầu tư đáng kể so với nhiều quốc gia khác, số lượng thanh tra viên của Hệ thống ngân hàng Nhật Bản vào thời điểm năm 1995 là 400 người, trong khi đó số thanh tra viên của Hệ thống ngân hàng Mỹ năm 1995 là 8.000 người. Thứ tư, nguồn lực để triển khai chính sách BHTG ở Mỹ được đầu tư rất lớn: có cơ sở pháp lý cao (Luật BHTG) ngay từ đầu và được điều chỉnh kịp thời trong quá trình triển khai; có nguồn tài chính lớn và có cơ chế huy động tài chính thích ứng với đặc thù và vai trò quan trọng của chính sách BHTG trong giải quyết rủi ro của lĩnh vực tài chính- ngân hàng; có nguồn nhân lực lớn đáp ứng yêu cầu triển khai của chính sách (nhân lực của FDIC vào thời điểm tháng 3/2005 là 4.993 người) 1.2.2. Bảo hiểm tiền gửi ở Nhật Bản Công ty Bảo hiểm tiền gửi Nhật Bản (DICJ) được thành lập năm 1971, với bề dày hoạt động sau 37 năm đã và đang ngày càng khẳng định vị trí và vai trò của mình trong mạng an toàn tài chính Nhật Bản. Mục tiêu chính của hệ thống BHTG Nhật Bản là bảo vệ những người gửi tiền và các bên liên quan trong trường hợp tổ chức tài chính không có khả năng chi trả tiền gửi, và góp phần duy trì sự ổn định của hệ thống tài chính thông qua nhiều công cụ nghiệp vụ trong đó có nghiệp vụ tiếp nhận và xử lý Thực tế trong quá trình hoạt động, DICJ đã thực hiện tốt vai trò, chức năng, nhiệm vụ đối với việc tiếp nhận và xử lý các tổ chức tài chính bị đổ vỡ. Trong cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á năm 1997, cùng với các thành viên khác trong mạng an toàn tài chính Nhật Bản, DICJ đã thực hiện tốt vai trò xử lý khủng hoảng, giảm thiểu tác động của khủng hoảng tài chính đối với nền kinh tế. Để thực hiện được mục tiêu đặt ra là ổn định hệ thống tài chính ngân hàng, cơ chế xử lý tổ chức tài chính bị đổ vỡ tại Nhật Bản quy định rõ quyền hạn, trách nhiệm và thời điểm can thiệp của các cơ quan có thẩm quyền liên quan trên nguyên tắc xử lý kịp thời, chi phí tổi thiểu. Cơ chế xử lý tổ chức tài chính bị đổ vỡ tại Nhật Bản Ban đầu, khi hệ thống bảo hiểm tiền gửi mới được thành lập, chỉ có phương pháp chi trả bảo hiểm tiền gửi được áp dụng như là một cơ chế bảo vệ người gửi tiền khi xử lý tổ chức bị đổ vỡ ở Nhật Bản. Tuy nhiên, phương pháp hỗ trợ tài chính đã được bổ sung và quy định trong Luật Bảo hiểm tiền gửi sửa đổi năm 1986. Phương pháp chi trả bảo hiểm Khi một tổ chức tài chính bị đổ vỡ, Công ty BHTG Nhật Bản sẽ tiến hành chi trả bảo hiểm cho người gửi tiền được bảo hiểm tại tổ chức đó dựa trên yêu cầu thanh toán của người gửi tiền. Nguồn chi trả sẽ được lấy từ nguồn thu phí bảo hiểm hàng năm từ các tổ chức tín dụng theo quy định của pháp luật. Hiện nay mức bảo hiểm tối đa mà Công ty áp dụng là 10 triệu yên tổng số tiền gốc của người gửi tiền và tiền lãi của nó.   Phương pháp hỗ trợ tài chính Xử lý đổ vỡ bằng phương pháp hỗ trợ tài chính là việc dùng một tổ chức tài chính vững mạnh (tổ chức tiếp nhận) tiếp quản các chức năng tài chính của tổ chức tài chính bị đổ vỡ.  Việc tiếp nhận này phải đảm bảo rằng tổ chức tài chính tiếp nhận phải được tiếp nhận các tài sản có tương ứng với trách nhiệm nợ phải tiếp nhận. Nhưng trên thực tế thì hầu như trong mọi trường hợp, tài sản có và tài sản nợ của tổ chức tài chính bị đổ là không cân bằng. Vì thế, DICJ sẽ tạo điều kiện thuận lợi để tổ chức tài chính tiếp nhận có thể tiếp quản tổ chức tài chính bị đổ vỡ với điều kiện tài sản có cân bằng với tài sản nợ bằng cách cấp số tiền tương ứng với khoản tài sản nợ vượt quá tài sản có của tổ chức tài chính bị đổ vỡ cho tổ chức tài chính tiếp nhận. Ngoài ra, đối với các khoản nợ xấu của tài sản có của tổ chức tài chính bị đổ vỡ, thủ tục bán các khoản nợ này sẽ được DICJ đảm nhận bằng cách mua lại tài sản như một phần của hoạt động hỗ trợ tài chính. Theo các chuyên gia bảo hiểm tiền gửi của Nhật Bản, thì trong chừng mực có thể cần ưu tiên phương pháp hỗ trợ tài chính để tránh việc gây ra những tác động xấu nghiêm trọng của đổ vỡ đối với các hoạt động tài chính liên quan. Khi áp dụng phương pháp hỗ trợ tài chính, những chủ nợ thông thường bao gồm cả người gửi tiền sẽ hy vọng được thanh toán dựa trên giá trị của tài sản có tính đến các hoạt động tài chính, chứ không phải là giá trị thanh lý. Như vậy, sẽ giúp tránh được các tổn thất về kinh tế phát sinh do sự giải thể hoàn toàn của tổ chức tài chính bị đổ vỡ. Ngoài ra, người gửi tiền cũng sẽ có lợi vì họ được tiếp tục bảo vệ tại tổ chức tài chính tiếp nhận và tiếp tục được hưởng lãi. Hơn nữa, khi áp dụng phương pháp hỗ trợ tài chính, DICJ cũng giảm được chi phí hơn so với trường hợp phải chi trả bảo hiểm. Đối với các hoạt động chuyển giao toàn phần hoặc một phần hoạt động của tổ chức tài chính bị đổ vỡ sang tổ chức tài chính tiếp nhận, DICJ sẽ cung cấp hỗ trợ tài chính để thực hiện việc chuyển giao đó. Trong trường hợp chuyển giao một phần hoạt động, những tài sản có và tài sản nợ không được chuyển giao sẽ vẫn thuộc về tổ chức tài chính bị đổ vỡ. Để đối xử công bằng đối với tất cả các chủ nợ của tổ chức tài chính bị đổ vỡ, DICJ sẽ cung cấp hỗ trợ tài chính (không hoàn lại) cho tổ chức tài chính bị đổ vỡ sau khi đã thực hiện chuyển giao nhằm đảm bảo tiền lãi cổ tức thanh lý của các chủ nợ của tổ chức tài chính bị đổ vỡ. Ngoài ra, sau khi thực hiện hỗ trợ tài chính cho việc chuyển giao, DICJ có thể tiếp tục hỗ trợ tổ chức tài chính tiếp nhận. DICJ có thể đăng ký mua cổ phiếu ưu đãi của tổ chức tài chính tiếp nhận và các tổ chức liên quan khác khi được Hội đồng Cơ quan dịch vụ tài chính và Bộ tài chính chấp thuận. Mục đích của hoạt động này là nhằm ngăn chặn việc giảm mức độ an toàn vốn của tổ chức tiếp nhận sau do thực hiện chuyển giao. Sau khi chuyển giao, nếu các khoản vay được tiếp nhận từ tổ chức tài chính bị độ vỡ bị suy giảm giá trị vì không thể thu hồi hoàn toàn, thì tổ chức tài chính tiếp nhận sẽ phải chịu tổn thất này. DICJ sẽ có thể ký kết một thỏa thuận bồi thường một phần các tổn thất này trong một thời gian nhất định cho tổ chức tài chính tiếp nhận. Ngược lại, nếu những khoản vay này làm tăng lợi nhuận sau khi chuyển giao, thì một phần lợi nhuận đó sẽ được trả cho DICJ. Cơ quan quản lý tài chính Khi một tổ chức tài chính bị đổ vỡ, nhưng chưa thể thực hiện việc sáp nhập, chuyển giao toàn bộ hoạt động kinh doanh hoặc việc giải thể tổ chức tài chính đó có thể gây nhiều trở ngại đến sự luân chuyển của luồng tiền và sự thuận tiện của người sử dụng trong lĩnh vực liên quan đến hoạt động của tổ chức tài chính đó, Hội đồng Cơ quan dịch vụ tài chính Nhật Bản có thể ban hành lệnh chuyển giao việc quản lý hoạt động và tài sản của tổ chức tài chính đó cho một cơ quan quản lý tài chính.   Cơ quan quản lý tài chính sẽ do Hội đồng cơ quan dịch vụ tài chính bổ nhiệm, và thuộc sự giám sát của Hội đồng. Cơ quan quản lý tài chính có trách nhiệm thực hiện một cách phù hợp việc quản lý công việc kinh doanh của tổ chức tổ chức tài chính bị đổ vỡ, thực hiện những công việc theo yêu cầu để chuyển giao lại công việc kinh doanh của tổ chức tài chính bị đổ vỡ cho tổ chức tiếp nhận. Cơ quan quản lý tài chính còn có trách nhiệm thực hiện điều tra cần thiết để làm rõ trách nhiệm gây ra đổ vỡ theo quy định của pháp luật. Việc chuyển giao công việc kinh doanh cho tổ chức tiếp nhận trong vòng một năm kể từ ngày có quyết định quản lý và có thể được gia hạn thêm một năm khi cần thiết. Ngân hàng bắc cầu Theo quy định của Luật bảo hiểm tiền gửi, khi xử lý đổ vỡ, DICJ cũng có thể thành lập Ngân hàng bắc cầu với 100% vốn của DICJ. Ngân hàng bắc cầu có nhiệm vụ chính là tiếp tục công việc kinh doanh của tổ chức tài chính bị đổ vỡ khi chưa có tổ chức tài chính tiếp nhận, thực hiện hỗ trợ tài chính để duy trì và tiếp tục các hoạt động kinh doanh của tổ chức tài chính bị đổ vỡ. Tổ chức tài chính bị đổ vỡ sẽ ký kết thỏa thuận cơ sở về việc tiếp tục kinh doanh và các thoả thuận kèm theo với ngân hàng bắc cầu trước khi gửi đơn yêu cầu bắt đầu thực hiện thủ tục phục hồi dân sự sau khi xảy ra đổ vỡ. Sau đó, ngân hàng bắc cầu cung cấp hỗ trợ tài chính dưới hình thức thực hiện các nghĩa vụ, cấp tiền hoặc cho vay để duy trì và tiếp tục các giá trị kinh doanh của tổ chức tài chính bị đổ vỡ. 1.2.3. Bảo hiểm tiền gửi ở Đài Loan Ngày 9/1/1985 Luật BHTG Đài Loan được thông qua và ngày 27/9/1985 Tổng công ty bảo hiểm tiền gửi Trung ương Đài Loan (CDIC) khai trương hoạt động. Mặc dầu triển khai chậm hơn nhiều nước trên thế giới, chính sách BHTG ở Đài Loan đã khẳng định được vai trò to lớn trong kiểm soát rủi ro trong hoạt động ngân hàng, đặt biệt có tác dụng kiểm soát hiện tượng hoảng loạn và đột biến rút tiền gửi ở quốc gia này. Thành công của chính sách BHTG Đài Loan có thể được thể hiện ở các khía cạnh sau: - Thứ nhất: nghiên cứu có hiệu quả kinh nghiệm của các quốc gia đi trước về lĩnh vực BHTG, nhờ vậy đã đạt được kết quả cao trong xây dựng các nội dung của chính sách BHTG trong thời gian ngắn và phát huy hiệu quả cao, nhờ học tập một cách sáng tạo kinh nghiệm của Mỹ, Canada v.v.., sau 5 năm hoạt động, CDIC là quốc gia đầu tiên ở châu Á áp dụng thành công phí BHTG theo mức độ rủi ro CDIC đã xây dựng hệ thống cảnh báo sớm tình hình tài chính của các tổ chức tham gia BHTG một cách xuất sắc và được Bộ Tài chính Đài Loan ủy quyền phát triển và xây dựng thành công Hệ thống cảnh báo sớm tài chính quốc gia. - Thứ hai: hoạt động nghiệp vụ BHTG (giám sát, kiểm tra, xử lý ngân hàng có vấn đề, quan hệ công chúng…) được triển khai bài bản, có hiệu quả cao, có đóng góp to lớn trong đảm bảo an toàn và ổn định hoạt động ngân hàng ở đất nước này. Mặc dầu cho tới nay, ở Đài Loan chưa có tổ chức tham gia BHTG nào bị đóng cửa và phải chi trả từ quỹ BHTG của CDIC, từ tháng 6/1990 đến tháng 4/2004, CDIC đã hỗ trợ giải quyết thành công khó khăn của 54 tổ chức huy động tiền gửi bị hoảng loạn và đột biến rút tiền CDIC đã làm nổi bật vai trò quan trọng của chính sách BHTG theo mô hình chức năng đầy đủ đối với hoảng loạn ngân hàng. Kết luận Chương 1: Qua nghiên cứu một số lý luận cơ bản về bảo hiểm tiền gửi, giúp chúng ta có cái nhìn khái quát về hoạt động của bảo hiểm tiền gửi, những đặc điểm riêng biệt của loại hình BHTG là một loại hình BHTG đặc biệt, thông qua vai trò, chức năng của BHTG cho chúng ta thấy đây là một loại hình bảo hiểm mang tính đặc thù của ngành tài chính ngân hàng. Chương này cũng tham khảo kinh nghiệm của một số nước trên thế giới về hoạt động BHTG trong việc tiếp nhận và xử lý đổ vỡ ngân hàng, là những kinh nghiệm quý báu cho BHTG Việt Nam chúng ta cần nghiên cứu ứng dụng. Chương 2 : THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG BẢO HIỂM TIỀN GỬI Ở KHU VỰC ĐBSCL 2.1. Sự cần thiết khách quan hình thành BHTG Việt Nam 2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển Trong công cuộc đổi mới đất nước, hòa cùng với công cuộc trọng đại lịch sử đất nước, hệ thống ngân hàng nhà nước đã tiến hành đổi mới từ những năm 1988. Trong giai đoạn này, ngành tài chính ngân hàng gặp rất nhiều khó khăn, trong bối cảnh lạm phát tăng phi mã, nhiều Hợp tác xã (HTX) tín dụng đã bị phá sản, dẫn đến mất lòng tin của công chúng vào hệ thống ngân hàng hết sức nghiêm trọng, khắp nơi trên toàn quốc, người dân gửi tiền vào các HTX tín dụng bị đóng cửa do phản ứng dây chuyền, không có khả năng thanh toán tiền gửi cho công chúng được. Trong bối cảnh này nhiệm vụ của Ngân hàng nhà nước là cấp thiết, trước mắt phải kìm chế lạm phát, củng cố niềm tin của công chúng đối với hệ thống ngân hàng quốc gia. Qua những vụ đổ vỡ tín dụng, mang tính hệ thống dây chuyền trong thập niên 80, Ngân hàng nhà nước Việt Nam nhận ra rằng cần phải có một tổ chức đứng ra nhằm thực hiện chức năng bảo vệ người gửi tiền vì những quyền lợi hợp pháp của họ và giúp những TCTD rút lui khỏi thị trường kinh doanh tiền tệ một cách an toàn mà không làm ảnh hưởng đến sự hoạt động lành mạnh của các ngân hàng khác, đó chính là lý do mà tổ chức Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (Deposit Insurance of VietNam) ra đời, là tổ chức tài chính nhà nước được thành lập theo Quyết định số 218/1999/QĐ-TTg ngày 09 tháng 11 năm 1999 của Thủ tướng Chính phủ, hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, góp phần duy trì sự ổn định của các tổ chức tham gia Bảo hiểm tiền gửi và sự phát triển an toàn lành mạnh hoạt động ngân hàng, đánh dấu một bước tiến trong quá trình cải cách cũng như hội nhập quốc tế đối với ngành tiền tệ quốc gia. Ngành bảo hiểm tiền gửi trước đây đã có Công ty Bảo Việt đã triển khai nghiệp vụ này theo Quyết định số 390/QĐ-TTg, ngày 27/07/1993 của Thủ tướng Chính phủ ban hành về Quy tắc bảo hiểm trách nhiệm của QTDND đối với khoản tiền gửi có kỳ hạn, được ban hành. Theo quyết định này Bảo Việt đã triển khai nghiệp vụ đầu tiên đánh dấu bước đầu của ngành BHTG đầu tiên tại Việt Nam. Tuy nhiên, hoạt động BHTG của Bảo Việt là loại hình bảo hiểm theo nguyên tắc tự nguyện, mục tiêu của Bảo Việt xem hoạt động tiền tệ như một sản phẩm thông thường chứ không quan tâm đến tính chất đặc biệt của loại hình kinh doanh tiền tệ, cái mà Bảo Việt quan tâm là mục tiêu lợi nhuận, không có cơ chế hỗ trợ tổ chức tham gia BHTG, chính từ đó mà BHTG của Bảo Việt không được sự quan tâm của các NHTM mà chỉ có một số ít QTDND cơ sở tham gia. Tính đến năm 1995 chỉ có 162 QTDND tham gia BHTG, năm 1996 có 300 đơn vị tham gia, đầu năm 1997 có 370 đơn vị, với số tiền thuộc đối tượng bảo hiểm là 322 tỷ đồng, trong giai đoạn này cả nước có 918 QTDND, hoạt động trên 52 tỉnh thành phố. 2.1.2. Cơ cấu tổ chức của BHTG Việt Nam. Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam là một tổ chức tài chính Nhà nước, hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, góp phần duy trì sự ổn định của các tổ chức tín dụng, bảo đảm sự phát triển an toàn, lành mạnh trong hoạt động ngân hàng, thực hiện các nhiệm vụ trên BHTG Việt Nam có cơ cấu tổ chức bộ máy bao gồm: Hội đồng quản trị, ban điều hành, các phòng ban, bộ phận tại Hội sở chính và có sáu chi nhánh cấp khu vực. (xem hình 2.1) Hình 2.1 – SƠ ĐỒ BỘ MÁY TỔ CHỨC CỦA BHTG VIỆT NAM Phòng kiểm tra tại chỗ Phòng giám sát Phòng tư vấn luật Phòng công nghệ TT Phòng tài chính KT Phòng xử lý nợ và chi trả Văn Phòng Phòng kiểm soát nội bộ Phòng TC&PTNNL Phòng nguồn vốn & ĐT Phòng hỗ trợ tài chính Chi nhánh khu vực tại TP. HCM Chi nhánh khu vực ĐBSCL tại TP. Cần Thơ Chi nhánh khu vực Nam trung bộ & TN tại Khánh Hòa Chi nhánh khu vực Đông Bắc bộ tại Hải Phòng Chi nhánh khu vực Hà Nội Chi nhánh khu vực Bắc trung bộ tại Nghệ An HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ BAN ĐIỀU HÀNH BAN KIỂM SOÁT BAN THƯ KÝ HĐQT Nhiệm vụ chính của BHTG Việt Nam là: Nghiên cứu tình hình kinh tế, chính trị, xã hội liên quan đến hoạt động ngân hàng. Giám sát, kiểm tra việc chấp hành những qui định về BHTG, các hoạt động ngân hàng của các tổ chức tham gia BHTG. Hỗ trợ tài chính cho các tổ chức tham gia BHTG. Bảo toàn và phát triển vốn của BHTG Việt Nam. Chi trả tiền gửi được bảo hiểm, tham gia hội đồng thanh lý tài sản tại các tổ chức được BHTG chi trả. Tuyên truyền hoạt động BHTG đến công chúng. 2.1.2.1. Bảo hiểm tiền gửi Trung ương Cơ quan trung ương của BHTG Việt Nam là Hội sở chính đặt trụ sở tại Hà Nội bao gồm nơi làm việc của Ban Tổng giám đốc, và các Phòng, ban chức năng. Hoạt động của Hội sở chính là hoạch định các chính sách ở tầm vĩ mô, triển khai hoạt động của BHTG Việt Nam, ban hành các chính sách quy định và giám sát kiểm tra các chính sách được ban hành. 2.1.2.2. Các chi nhánh Bảo hiểm tiền gửi khu vực Mạng lưới chi nhánh được tổ chức theo khu vực: bao gồm Chi nhánh khu vực Hà Nội, Chi nhánh khu vực Đông bắc bộ tại Hải Phòng, Chi nhánh Bắc trung bộ tại Nghệ An, Chi nhánh Nam trung bộ và Tây nguyên tại Khánh Hòa, Chi nhánh khu vực TP. Hồ Chí Minh và Chi nhánh khu vực ĐBSCL tại Cần Thơ , các chi nhánh khu vực chịu trách nhiệm triển khai các nhiệm vụ cụ thể đến tổ chức tham gia BHTG. Hiện nay các chi nhánh của BHTG Việt Nam thực hiện các nghiệp vụ đối với khách hàng như sau: nhận phí BHTG đối với các QTDND cơ sở, các NHTMCP nơi có Hội sở đóng trên địa bàn của chi nhánh quản lý, nghiệp vụ kiểm tra, giám sát, chi trả tiền gửi được bảo hiểm, tham gia hội đồng thanh lý tại các tổ chức nhận tiền gửi có BHTG chi trả, quan hệ công chúng, tư vấn hỗ trợ khách hàng. 2.1.2.3. Mối quan hệ giữa Bảo hiểm tiền gửi Trung ương với các Chi nhánh khu vực. Quan hệ theo mô hình trực tuyến chức năng, tạo nên sự thống nhất tập trung từ Tổng giám đốc, các Giám đốc các chi nhánh khu vực chịu sự lãnh đạo trực tuyến không có sự phân quyền trong lãnh đạo, kể cả nhân sự, các chi nhánh không được tuyển dụng nhân viên. Về mặt nghiệp vụ, các chi nhánh khu vực thực hiện các nghiệp vụ nêu trên đối với tổ chức tham gia BHTG trên địa bàn của chi nhánh quản lý, các NHTM có Hội sở chính đặt tại chi nhánh nào do chi nhánh phụ trách. Nhìn chung theo cơ cấu quản trị, mô hình này chỉ phù hợp đối với những công ty nhỏ, đối với BHTG Việt Nam hoạt động không theo mô hình công ty mẹ - con, việc áp dụng mô hình này làm thiếu tính linh hoạt. 2.2. Những thành tựu của BHTG Việt Nam (từ năm 1999 – 2008) 2.2.1. Đối với NHTM và các tổ chức phi ngân hàng - Hoạt động của BHTG Việt Nam góp phần củng cố và tăng cường uy tín của các NHTM và các tổ chức phi ngân hàng.. Thời gian qua nhiều hoạt động của BHTG Việt Nam đã thực sự góp phần củng cố niềm tin của khách hàng đối với hệ thống NHTM và các tổ chức phi ngân hàng, hoạt động kiểm tra tại các tổ chức này, bằng những kiến nghị nhằm ngăn ngừa rủi ro trong hoạt động ngân hàng mà đặc biệt là các QTDND cơ sở. Công tác chi trả tiền gửi được bảo hiểm tại các tổ chức bị chấm dứt hoạt động làm củng cố niềm tin cho công chúng đối với hệ thống ngân hàng là hết sức quan trọng, từ khi ra đời đến nay BHTG Việt Nam đã tiến hành chi trả tiền gửi được bảo hiểm tại các QTDND cơ sở, những người gửi tiền đã thực sự tin tưởng vào chính sách của Đảng và điều họ quan tâm nhất là tiền gửi được Chính phủ trả lại tiền của họ. Như chúng ta đã biết, dư âm của sự đổ vỡ hàng loạt các HTX tín dụng hồi thập niên 80 với hơn 8.000 HTX tín dụng bị đổ vỡ hàng loạt người gửi tiền đã không được nhận lại tiền hoặc không nhận đủ được số tiền của mình gửi tại các HTX tín dụng do các tổ chức này bị mất khả năng chi trả. Khi đó, không một tổ chức nào đứng ra bảo vệ họ nên niềm tin của người gửi tiền vào hệ thống ngân hàng bị suy giảm nghiêm trọng, vẫn còn để lại nhiều bài học cay đắng. Ngày nay nhờ có chính sách chi trả tiền gửi kịp thời của BHTG Việt Nam, đã làm cho hiện tượng rút tiền gửi ồ ạt từ các tổ chức nhận tiền gửi khác đã không xảy ra. Tính đến nay, BHTG Việt Nam đã thực hiện chi trả tiền gửi được bảo hiểm cho 1.517 người gửi tiền tại 35 QTDND cơ sở ở 12 tỉnh, thành phố với số tiền là gần 18 tỷ đồng, với thời gian hoạt động vừa qua con số chi trả tiền gửi được bảo hiểm còn khiêm tốn nhưng tác dụng của nó đối với sự ổn định về mặt chính trị cũng như tạo niềm tin thật vững chắc vào hệ thống NHTM là rất lớn, trong đó có phần đóng góp của BHTG Việt Nam. - Hoạt động BHTG Việt Nam góp phần củng cố hoạt động ngân hàng ở Việt Nam. Theo nguyên lý chung hoạt động của ngành bảo hiểm là lấy thu từ số đông để bù đắp rủi ro cho số ít, trong thời gian qua BHTG Việt Nam đã tạo điều kiện thuận lợi cho các ngân hàng có qui mô nhỏ và hệ thống QTDND hoạt động dễ dàng hơn. Bên cạnh đó giúp cho các tổ chức tín dụng rút tên ra khỏi lĩnh vực kinh doanh tiền tệ mà không hề làm ảnh hưởng đến hoạt động ngân hàng, hoạt động của BHTG thực sự góp phần thúc đẩy tiến trình củng cố ngân hàng ở Việt Nam đang được tích cực triển khai. Qua 8 năm hoạt động, với nguồn lực là quỹ bảo hiểm tiền gửi đủ khả năng can thiệp kịp thời khi tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi lâm vào tình trạng khó khăn, bảo hiểm tiền gửi đã giúp ngăn chặn và cô lập kịp thời hiệu ứng rút tiền hàng loạt và sụp đổ của hệ thống ngân hàng khi một vài tổ chức ngân hàng gặp rắc rối, BHTG Việt Nam đã giải quyết chi trả tiền gửi cho người gửi tiền thuộc đối tượng bảo hiểm một cách nhanh chóng, kịp thời bằng chính nguồn vốn của các tổ chức tham gia BHTG đóng góp, cơ chế chi trả vừa qua không gây ảnh hưởng đến các hoạt động của các ngân hàng khác. Bảo hiểm tiền gửi là nhân tố cực trong việc duy trì niềm tin của công chúng vào hệ thống NHTM. Đối với Việt Nam ngày nay BHTG là một lĩnh vực còn mới mẻ trong hệ thống tài chính ngân hàng, vai trò của BHTG Việt Nam hết sức khiêm tốn trong nền kinh tế thị trường có sự can thiệp của Chính phủ vào nền kinh tế nói chung và của ngành ngân hàng nói riêng. Trong điều kiện tình hình tài chính thế giới hiện nay nhiều bất ổn tác dụng của nó đối với các TCTD ở Việt Nam là không tránh khỏi, trong điều kiện mà Việt Nam gia nhập WTO và những cam kết mở cửa ngành tài chính ngân hàng trong những năm sắp tới đã tác động đến hoạt động của ngành ngân hàng Việt Nam, từ những tháng cuối năm 2007 đến nay, do lạm phát trong nước đã làm cho chính sách điều hành tiền tệ của chính phủ Việt Nam làm cho lãi suất không còn hấp dẫn đối với công chúng, mặt khác trong những năm đầu thành lập thị trường chứng khoán Việt Nam, nhiều nhà đầu tư đã đổ vào đầu tư cổ phiếu trên thị trường này và thị trường bất động sản, trong khi đó trong một thời gian dài do lãi suất chưa hấp dẫn nên kênh huy động tiền gửi của các NHTM là rất khiêm tốn. Mặt khác, do tình hình lạm phát nên một phần lớn tiền nhàn rỗi được công chúng dự trữ dưới dạng vàng hoặc hàng hóa, điều này gây tác động xấu cho ngành ngân hàng khi một lượng tiền mặt tạm thời rút khỏi lưu thông, từ đó cũng làm giảm giá trị của tổ chức BHTG Việt Nam. 2.2.2. Đối với hệ thống Quỹ tín dụng nhân dân Trong giai đoạn phát triển đất nước hiện nay hòa cùng sự chuyển biến chung của nền kinh tế trong giai đoạn hội nhập, nông thôn Việt Nam chuyển biến mạnh mẽ trong việc phát triển một nền nông nghiệp bảo đảm an ninh lương thực và xuất khẩu, lượng vốn chu chuyển trong lĩnh vực này đòi hỏi ngày một lớn. Thực tế hiện nay Tổ chức tín dụng ở đây cụ thể là các Ngân hàng thương mại chưa thể đáp ứng đủ nhu cầu về vốn cho phát triển sản xuất, do chiến lược kinh doanh của họ đã bỏ qua những phân khúc của thị trường này, việc khai thác và đầu tư tín dụng cho sản xuất chủ yếu do Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn (Agribank) đảm trách, nhưng không đáp ứng được nhu cầu của xã hội. Từ đó việc thành lập hệ thống Quỹ tín dụng nhân dân là một trong những giải pháp nhằm đáp ứng với yêu cầu đòi hỏi thực tiễn ở nông thôn. Là loại hình tín dụng hợp tác hoạt động trong lĩnh vực Tiền tệ – Tín dụng, dịch vụ Ngân hàng chủ yếu ở nông thôn nhưng mục tiêu hoạt động của QTDND là nhằm huy động nguồn vốn tại chỗ để cho vay tại chỗ, tương trợ cộng đồng, vì sự phát triển bền vững của các thành viên là chủ yếu. Có thể nói do quy mô tổ chức, địa bàn hoạt động gắn liền với dân cư, giao dịch thuận tiện nên chỉ trong thời gian ngắn mô hình QTDND được cấp uỷ Đảng, Chính quyền và nhân dân ở nhiều địa phương ủng hộ và quan tâm phát triển, vì vậy đã mở ra một kênh chuyển tải vốn mới, đa dạng hoá các hình thức hoạt động tín dụng, từng bước góp phần xóa bỏ hụi, tệ cho vay nặng lãi ở địa bàn nông thôn. Xuất phát điểm tài chính của các QTDND là rất nhỏ, mô hình hoạt động QTDND ở Việt Nam non trẻ nhưng đã thể hiện được tính tích cực của loại hình ngân hàng “mini” này, vai trò của QTDND không những tương trợ cộng đồng mà còn góp phần tích cực phát triển kinh tế xã hội đối với địa phương. Theo thống kê hiện nay cả nước có 913 QTDND (chưa tính Quỹ Trung ương và 24 Chi nhánh) hoạt động với tổng nguồn vốn gần 7.000 tỷ đồng, tính trung bình là 7,6 tỷ đồng/Quỹ, thu hút trên 1 triệu thành viên. Theo tính toán ở thị trường nông thôn với địa bàn của 1 xã thì lượng vốn như vậy sẽ có ý nghĩa hết sức to lớn, tạo thêm nguồn lực mạnh mẽ hỗ trợ, thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội ở địa phương. Tuy nhiên hoạt động của hệ thống QTDND thiếu tính liên kết, vốn nhỏ, địa bàn hẹp, trình độ quản lý yếu, chưa ứng dụng công nghệ thông tin, không có các sản phẩm dịch vụ chủ yếu là huy động tiền gửi và cấp tín dụng, nên chứa đựng nhiều rủi ro. Mặt khác, hệ thống QTDND có cùng một tên gọi và biểu tượng trên cả nước, đều này làm cho việc tổn thương một QTDND cơ sở ở địa phương này, sẽ làm cho tâm lý lây lan đến những QTDND khác, tạo hiệu ứng rút tiền hàng loạt một khi có một QTDND bị đổ vỡ. Hoạt động của BHTG Việt Nam đã góp phần duy trì sự hoạt động ổn định của các tổ chức này và đã nhận được sự ủng hộ và được đánh giá cao từ phía các QTDND cơ sở khi làm việc với BHTG Việt Nam. Tính đến 31/12/2007. BHTG Việt Nam đã tiến hành kiểm tra toàn diện về hoạt động của hệ thống QTDTW, 236 QTDND cơ sở trên cả nước, trong quá trình kiểm tra tổ chức BHTG Việt Nam đã kịp thời kiến nghị với các đơn vị những yếu kém trong hoạt động ngân hàng nhằm ngăn chặn và đưa ra cảnh báo kịp thời, làm cho các đơn vị hoạt động hiệu quả hơn. 2.3. Những hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế. 2.3.1. Những hạn chế. Từ những năm được thành lập và đi vào hoạt động đến nay, BHTG Việt Nam có những hạn chế thể hiện trên những vấn đề như sau: 2.3.1.1.Về tính pháp lý: Các quốc gia trên thế giới, khi tổ chức bảo hiểm tiền gửi được thành lập và đi vào hoạt động thì đã có luật điều chỉnh ngay, trong khi đó, văn bản pháp lý cao nhất điều chỉnh lĩnh vực hoạt động BHTG ở Việt Nam mới ở mức nghị định (Nghị định 89 và Nghị định 109 của Chính phủ). Vì thiếu một khung pháp lý vững chắc điều chỉnh lĩnh vực hoạt động BHTG nên phần nào đã làm hạn chế BHTG Việt Nam thực hiện các chức năng, nhiệm vụ vốn có của một tổ chức BHTG theo thông lệ quốc tế. Như chúng ta đã biết, mục tiêu chính của BHTG là bảo vệ người gửi tiền và góp phần duy trì an toàn cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng, nhằm thực hiện mục tiêu này BHTG Việt Nam cần có các cơ sở pháp lý được thể hiện ở ba vấn đề được qui định tại Nghị định của Chính phủ như sau: - Tư cách là chủ nợ khi chi trả tiền gửi được bảo hiểm; - Quy định phải tham gia thanh lý tài sản tại đơn vị được BHTG Việt Nam chi trả tiền gửi được bảo hiểm; - Quy định được nhận lại tiền chi trả từ nguồn thanh lý tài sản của đơn vị được BHTG Việt Nam chi trả theo trật tự ưu tiên được qui định; Trong thực tế ba vấn đề nói trên chưa được các văn bản pháp qui thể hiện một cách rõ ràng và thống nhất. Vấn đề qui định tư cách chủ nợ khi BHTG Việt Nam chi trả tiền gửi: tại Nghị định 89/1999/NĐ-CP qui định “khi tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền có văn bản chấm dứt hoạt động và tổ chức đó mất khả năng thanh toán, tổ chức bảo hiểm tiền gửi có trách nhiệm chi trả tiền gửi được bảo hiểm của người gửi tiền tại tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi...”. Tại điều 20 của Nghị định này qui định “trường hợp tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi bị phá sản, thì tổ chức bảo hiểm tiền gửi trở thành chủ nợ đối với tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi đó với số tiền mà tổ chức bảo hiểm tiền gửi đã chi trả cho người gửi tiền”. Thực tế trong lĩnh vực ngân hàng có nhiều đơn vị bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền ra quyết định chấm dứt hoạt động, do mất khả năng thanh toán, thì không có nghĩa là tổ chức đó bị phá sản. Tính đến 30/01/2008, BHTG Việt Nam đã chi trả tiền gửi được bảo hiểm cho 35 đơn vị bị mất khả năng chi trả và bị chấm dứt hoạt động nhưng việc xác định tư cách chủ nợ của BHTG Việt Nam thật sự không rõ ràng, mặt khác các đơn vị này vẫn không phải là tổ chức tuyên bố bị phá sản. Vấn đề qui định vị trí của BHTG Việt Nam trong hội đồng thanh lý: Trong thời gian mới đi vào hoạt động, đến ngày 31/03/2003, BHTG Việt Nam đã chi trả tiền gửi được bảo hiểm cho 30 tổ chức tham gia BHTG, tuy nhiên ở giai đoạn này thì BHTG Việt Nam không hề tham gia vào quá trình thanh lý của những tổ chức này. Trong khi đó theo qui định tại Nghị định 89/1999/NĐ-CP và Thông tư số 03/2000/TT-NHNN5, khi BHTG Việt Nam chi trả tiền gửi cho tổ chức tham gia BHTG bị mất khả năng chi trả thì BHTG Việt Nam sẽ trở thành chủ nợ và được quyền tham gia quá trình thanh lý tài sản của tổ chức tham gia BHTG theo qui định của Luật phá sản, điều này trái với cách thức và thông lệ BHTG trên thế giới. Đến ngày 21/10/2003, Ngân hàng nhà nước Việt Nam ra chỉ thị số 06/2003/CT-NHNN, theo tinh thần chỉ thị này thì BHTG Việt Nam được tham gia vào Hội đồng thanh lý của các tổ chức tham gia BHTG, tuy nhiên trên thực tế vai trò là thành viên Hội đồng thanh lý của BHTG Việt Nam chỉ mang tính hình thức, bởi vì mọi hoạt động của hội đồng này do tổ giám sát của Ngân hàng nhà nước trên địa bàn có tổ chức tín dụng bị phá sản trực tiếp điều hành, điều này cũng làm cho hiệu quả hoạt động của các hội đồng thanh lý rất kém, thời gian kéo dài. Sự không tách bạch rõ ràng giữa công cụ tài chính và công cụ quản lý Nhà nước nên hoạt động bảo hiểm tiền gửi chưa đáp ứng được nhu cầu của các tổ chức tín dụng và người gửi tiền, vì lẽ đó đã làm cho tính chất của Bảo hiểm tiền gửi là làm giảm thiểu rủi ro cho các TCTD chỉ mang tính hình thức, chưa đáp ứng được yêu cầu bảo vệ của người gửi tiền một cách tích cực, bảo đảm sự phát triển bền vững của các tổ chức nhận tiền gửi. Vấn đề quy định cho phép BHTG Việt Nam có quyền nhận lại số tiền đã chi trả cho tổ chức tham gia BHTG, từ nguồn thanh lý tài sản: BHTG Việt Nam đã thực hiện trách nhiệm chi trả tiền gửi được bảo hiểm tại các tổ chức tham gia BHTG bị chấm dứt hoạt động và mất khả năng thanh toán. Tuy nhiên theo trật tự ưu tiên được qui định bởi văn bản pháp lý chưa hề nhắc đến tổ chức BHTG, điều này được thể hiện trong nội dung quy chế thu hồi giấy phép và hoạt động của QTDND và việc thanh lý QTDND dưới sự giám sát của Ngân hàng nhà nước ban hành kèm theo quyết định số 101/2000/QĐ-NHNN17, ngày 23/03/2000 qui định thanh toán cho các chủ nợ theo trật tự ưu tiên như sau: 1). Các khoản lệ phí, chi phí cho việc giải thể QTDND; 2). Các khoản tiền của Nhà nước và các TCTD khác cho vay đặc biệt dưới các hình thức cho vay, gửi tiền có mục đích nhằm hỗ trợ chi trả tiền gửi dân chúng (nếu có). 3). Các khoản tiền gửi của khách hàng; 4). Các khoản vay của QTDND khu vực, QTDND trung ương và vay của các tổ chức và cá nhân khác; 5). Các khoản nợ thuế (nếu có); 6). Trả vốn góp cho thành viên theo khả năng tài chính hiện có trên tinh thần ưu tiên trả vốn xác lập trước và bảo đảm công bằng giữa các thành viên. Như vậy, theo những qui định trên, việc qui định chủ nợ của BHTG Việt Nam tại những qui định này là phủ định vai trò chủ nợ của BHTG Việt Nam được qui định theo Nghị định 89/1999 của Chính phủ, trong thanh toán tiền thanh lý tài sản không có qui định vị trí của BHTG Việt Nam, điều này cũng gây nên khó khăn cho BHTG Việt Nam trong việc thu hồi sau thanh lý, số tiền mà BHTG Việt Nam đã chi trả (xem hình 2.2) Hình 2.2 - Đồ thị minh hoạ thu hồi tiền gửi được bảo hiểm tại khu vực ĐBSCL ĐVT: nghìn đồng Nguồn: BHTG Việt Nam CN khu vực ĐBSCL (năm 2008) Qua số liệu trên chúng ta nhận thấy BHTG Việt Nam chi trả tiền gửi được bảo hiểm tại tỉnh Kiên Giang từ những năm 2000 số tiền là 8.703.989.000 đồng, đến tháng 06/2008 chỉ thu hồi được 1.947.074.000 đồng, việc thu hồi tiền gửi được bảo hiểm hoàn toàn không được chủ động, việc thu hồi chậm làm ảnh hưởng đến việc chi trả tiền gửi cho người gửi tiền sau thanh lý, làm cho người dân mất lòng tin vào tổ chức BHTG. 2.3.1.2. Nguồn nhân lực hạn chế Nguồn nhân lực là một thách thức lớn của tổ chức BHTG Việt Nam, trong những ngày mới thành lập BHTG Việt Nam được cơ cấu nguồn cán bộ từ Ngân hàng nhà nước, với một nguồn lực có hạn chưa đáp ứng đủ nhiệm vụ và vai trò của BHTG Việt Nam đối với ngành tài chính ngân hàng. Mặt khác, việc chuẩn hóa đội ngũ cho BHTG Việt Nam do chưa có một trung tâm đào tạo mang tính chuyên nghiệp, từ đó việc tác nghiệp cho ngành chưa thực sự có chất lượng. Theo cơ cấu tổ chức bộ máy của BHTG Việt Nam, mạng lưới hoạt động của các chi nhánh mang tính khu vực. Cả nước hiện nay có 6 chi nhánh khu vực, mỗi chi nhánh khu vực trung bình quản lý từ 10 tỉnh thành phố, với nguồn nhân lực có hạn về số lượng phải đảm trách một khối lượng công việc rất lớn, chính điều này đã làm cho bộ máy hoạt động của BHTG Việt Nam kém chất lượng, tính đến cuối năm 2007, toàn hệ thống BHTG Việt Nam chỉ có 600 CBNV là một con số quá ít để thực hiện một nhiệm vụ quan trọng mà vai trò và chức năng của BHTG Việt Nam phải đảm trách. 2.3.1.3. Sự nhận thức chưa đúng về chức năng nhiệm vụ của BHTG Việt Nam của các chi nhánh Ngân hàng nhà nước và các tổ chức tham gia BHTG. Nhiều cơ quan quản lý nhà nước về hoạt động ngân hàng, đặc biệt là các chi nhánh của một số ngân hàng Nhà nước ở một số tỉnh, thành phố, các tổ chức tín dụng chưa thực sự am hiểu về hoạt động của BHTG Việt Nam, nhiều ý kiến thể hiện sự bất hợp tác với BHTG Việt Nam trong lĩnh vực như sau: - Kiểm tra hoạt động an toàn của các tổ chức tham gia BHTG mà BHTG Việt Nam cần thực hiện: Ngân hàng nhà nước và các tổ chức tham gia BHTG cho rằng việc BHTG Việt Nam thực hiện các hoạt động kiểm tra, giám sát đối với tổ chức tham gia BHTG là không cần thiết, mặc dù trong văn bản pháp luật có qui định bởi vì hoạt động này dễ bị chồng chéo vì chức năng thanh tra của Ngân hàng nhà nước đã thực hiện rồi. Quan điểm trên hoàn toàn không phù hợp với thông lệ quốc tế, thực tiển hoạt động ngân hàng trên thế giới cho thấy có tính phức tạp và rủi ro rất cao, nếu có xảy ra những bất ổn sẽ làm ảnh hưởng nghiệm trọng đến các ngành kinh tế khác, đến chế độ chính trị của quốc gia. Chính vì vậy, công tác kiểm tra giám sát ngân hàng thương mại là một việc vô cùng quan trọng, nó làm cho hoạt động ngân hàng được duy trì hoạt động lành mạnh và hiệu quả. Thông thường ở các nước trên thế giới, ngoài ngân hàng Trung ương ra, tổ chức BHTG còn tham gia kiểm soát hoạt động ngân hàng là tất nhiên theo luật định, việc giám sát hoạt động ngân hàng bằng nhiều kênh khác nhau giúp cho các ngân hàng thương mại kiểm soát rủi ro, kịp thời khắc phục và ngăn chặn những sai phạm, từ đó làm cho hệ thống ngân hàng hoạt động một cách an toàn và hiệu quả. Hiện nay ở Việt Nam các tổ chức tín dụng được đặt dưới sự kiểm soát trực tiếp của Ngân hàng nhà nước. Các TCTD hàng năm được thanh tra ngân hàng Nhà nước tỉnh thành phố thực hiện công tác này một lần, nhưng do nguồn lực tại các chi nhánh thường rất hạn chế, việc các NHTM ngày càng lớn mạnh trong khi đó qui mô của NHNN chưa đáp ứng đủ yêu cầu về nhân lực cho đội ngũ thanh tra viên làm công tác thanh tra tại các TCTD, điều này làm cho công tác thanh tra tại chỗ chưa thực sự đáp ứng được, nhiều tỉnh thành có số lượng NHTM hoạt động thì các QTDND cơ sở thường bị bỏ ngõ, có nhiều đơn vị từ khi thành lập, đến nay chưa có bất kỳ một lần nào thanh tra của NHNN đến làm việc (các QTDND tỉnh Kiên Giang). Như vậy khi BHTG Việt Nam thực hiện công tác kiểm tra tại các QTDND sẽ góp phần cho các tổ chức này hoạt động có hiệu quả hơn cũng như kịp thời khắc phục được những sai sót trong hoạt động ngân hàng, từ đó nâng cao hiệu quả hoạt động giảm thiểu rủi ro. 2.3.1.4. Thiếu động lực cạnh tranh: Hoạt động của BHTG Việt Nam là không vì mục tiêu lợi nhuận, chính là tổ chức của Chính phủ không có đối thủ cạnh tranh dễ dẫn đến tính độc quyền cung cấp dịch vụ sản phẩm mà không có bất kỳ một tổ chức nào có quyền tham gia, từ đó làm giảm sút động lực cạnh tranh để phát triển 2.3.1.5. Các sản phẩm dịch vụ nghèo nàn. - Nghiệp vụ chi trả tiền gửi được bảo hiểm: đây là một trong những nghiệp vụ cơ bản của BHTG Việt Nam, từ khi được thành lập đến nay, BHTG Việt Nam đã thực hiện chi trả tiền gửi được bảo hiểm cho 1517 người gửi tiền tại 35 QTDND cơ sở ở 12 tỉnh, thành phố với số tiền là gần 18 tỷ đồng, việc chi trả tiền gửi là một biện pháp cuối cùng khi không còn biện pháp nào nhằm khôi phục sự hoạt động của một tổ chức tham gia BHTG, nhưng đây cũng chính là một nghiệp vụ mà tạo ra niềm tin cho công chúng khi BHTG chi trả tiền gửi một cách kịp thời tránh đổ vỡ dây chuyền cho các TCTD khác còn đang hoạt động. Qua thực tế kiểm chứng, việc chi trả tiền gửi vừa qua đối với các QTDND tại tỉnh Kiên Giang còn quá chậm, nguyên nhân này bắt nguồn từ việc quản lý của Chi nhánh NHNN sở tại thiếu sự chặc chẽ, nguồn nhân lực rất hạn chế, tại tỉnh này vào những năm 1993-1996 có đến 43 QTDND cơ sở được thành lập và hoạt động, trong khi đó chỉ có duy nhất một Phòng quản lý các TCTD của chi nhánh NHNN giám sát, điều này làm cho việc giám sát hoạt động của các QTDND không thường xuyên, từ đó thiếu sự chấn chỉnh kịp thời của cơ quan quản lý nhà nước từ đó dễ dàng dẫn đến các QTDND lâm vào tình trạng hoạt động yếu kém, mất khả năng thanh toán dẫn đến phá sản phải chi trả tiền gửi. Khi BHTG Việt Nam tiến hành chi trả, việc tiếp nhận hồ sơ và công tác kiểm tra xác nhận số dư tiền gửi thuộc đối tượng bảo hiểm để tiến hành chi trả cho người gửi tiền, thời gian này kéo dài quá lâu, trong khi đó chưa có một qui trình thống nhất cho công tác này. Mặt khác cán bộ nghiệp vụ của BHTG Việt Nam cũng còn hạn chế về mặt chuyên môn trong công tác chi trả làm cho người gửi tiền phải chờ đợi quá lâu khi nhận được tiền gửi được bảo hiểm. - Đối với nghiệp vụ kiểm tra: Đây là nghiệp vụ then chốt, hàng đầu quyết định mục tiêu hoạt động của BHTG có đạt được mục tiêu đề ra hay không, tuy nhiên trong thời gian qua công tác kiểm tra các tồ chức tham gia BHTG còn nhiều vấn đề được thể hiện qua những nội dung chính: chất lượng kiểm tra chưa cao; về phương pháp kiểm tra thiếu khoa học; số lượng kiểm tra còn ít, thời gian qua chủ yếu tập trung ở hệ thống QTDND. Đối với các NHTM thì BHTG Việt Nam chỉ mới kiểm tra việc tính nộp phí, kiểm tra tiền gửi thuộc đối tượng được bảo hiểm. Mặt khác, công tác kiểm tra là một nghiệp vụ khó, đòi hỏi kiến thức và kinh nghiệm tổng hợp, nhiều cán bộ trong hệ thống BHTG và nhất là ở các chi nhánh khu vực, chưa đáp ứng được nhu cầu của công tác kiểm tra tại các tổ chức tham gia BHTG. Hiệu quả công tác kiểm tra chưa ca, do hạn chế bởi trình độ cán bộ nghiệp vụ. Trong những năm năm khi mới thành lập nguồn cán bộ chủ yếu được điều chuyển từ ngân hàng nhà nước các tỉnh thành phố sang nhưng số lượng này cũng rất là hạn chế, chủ yếu tập trung ở cán bộ khung, còn nhân viên tác nghiệp thì thiếu và chưa có kinh nghiệm. Bên cạnh đó công tác kiểm tra thời gian qua vẫn gặp phải nhiều ý kiến bất đồng từ phía các chi nhánh NHNN một số tỉnh, thành phố, từ đó làm ảnh hưởng đến việc triển khai công tác kiểm tra của BHTG Việt Nam. Về phương pháp kiểm tra chưa khoa học bởi vì BHTG Việt Nam chưa chuẩn hóa được qui trình và nội dung công tác kiểm tra. Từ khi ra đời và đi vào hoạt động đến tháng 08/2001, BHTG Việt Nam mới ban hành quyết định số 64/2001/QĐ-HĐQT ban hành qui định kiểm tra tổ chức tham gia BHTG. Quy định này đánh dấu một bước tiến về việc chuẩn hóa công tác kiểm tra, nhằm thúc đẩy công tác kiểm tra đi vào chiều sâu. Tuy nhiên trong văn bản này còn nhiều tiêu chí khi kiểm tra trùng lắp với công tác thanh tra của NHNN từ đó làm cho nhiều tổ chức tham gia BHTG không mặn mà lắm với cách làm của BHTG Việt Nam. - Công tác giám sát từ xa: công tác này được BHTG Việt Nam đưa vào từ năm 2002, thực chất công tác này ban đầu lấy từ số liệu báo cáo của NHNN chứ không phải từ báo cáo của các tổ chức tham gia BHTG, có ba nguyên nhân chưa thực hiện được đó là : chưa có mô hình công tác giám sát, phần mền quản lý và các điều kiện về thông tin của tổ chức tham gia BHTG nhất là đối với QTDND cơ sở. Về thực chất, công tác giám sát từ xa là xử lý những số liệu báo cáo từ tổ chức tham gia BHTG là công việc tác nghiệp thông qua những tiêu chí nào cần thiết mà BHTG cần khai thác nhằm phục vụ cho chuyên môn. Việc cần thiết có một mô hình khung chuẩn hóa hoạt động này là cần thiết. Bên cạnh đó việc cần thiết phải có hệ thống công nghệ thông tin hiện đại kết nối với hệ thống của các tổ chức tham gia BHTG truyền dữ liệu theo quy định của BHTG Việt Nam. Thực chất công tác giám sát từ xa là rất quan trọng, hiện nay trên thế giới các tổ chức BHTG xem công tác này là trọng tâm, nếu thực hiện tốt quy trình giám sát việc kiểm soát rủi ro góp phần cảnh báo sớm cho tổ chức tham gia BHTG sớm khắc phục làm hạn chế rủi ro trong hoạt động ngân hàng, công tác này cũng như một giải pháp hữu hiệu cho việc phòng ngừa những “căn bệnh” từ bên trong của hoạt động ngân hàng. - Công tác tuyên truyền quảng cáo: công tác tuyên truyền quảng cáo của BHTG Việt Nam trong thời gian qua chưa được quan tâm đúng mức. Việc hạn chế quảng cáo phần lớn do ý chí chủ quan do cơ chế điều hành hoạt động BHTG. Như chúng ta biết mục tiêu của BHTG Việt Nam theo tinh thần Nghị định 89 của Chính phủ là không vì lợi nhuận, hoạt động BHTG là một định chế tài chính của Chính phủ hoạt động nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, góp phần lành mạnh hóa hoạt động ngân hàng và ổn định chính trị, đây là một tổ chức độc nhất tại Việt Nam không hoạt động theo Luật kinh doanh bảo hiểm, không bị chi phối bởi Luật doanh nghiệp, không phải nộp thuế, những sản phẩm dịch vụ của BHTG Việt Nam là loại hàng hóa công không thuần tuý và do đó việc có quảng cáo hay không quảng cáo thì tất cả các tổ chức tham gia BHTG phải sử dụng dịch vụ này bởi vì đây là loại hình bảo hiểm bắt buộc được pháp luật qui định. Trong nền kinh tế thị trường, những hàng hóa dịch vụ mà công chúng tiêu dùng mang tính thực tiễn rất cao, nó đánh giá sản phẩm dịch vụ đó mang lại cho họ những giá trị tiêu dùng nào có lợi ích thiết thực, việc BHTG Việt Nam bán sản phẩm dịch vụ một cách bắt buộc cho các TCTD mà người tiêu dùng nhận biết một cách gián tiếp, đó chính là một điểm rất khó việc quảng bá hình ảnh, thương hiệu của BHTG Việt Nam đến với công chúng. Tuy nhiên nói như thế cũng cần phải có những hình thức quảng bá thương hiệu BHTG Việt Nam qua các phương tiện thông tin đại chúng hơn nữa nhằm tạo ra sự hiểu biết của công chúng về một tổ chức mà bảo vệ người gửi tiền khi có sự đổ vỡ ngân hàng xảy ra. Vừa qua, phương thức quảng cáo chưa phong phú, chỉ rãi rác trên một vài tạp chí tài chính ngân hàng, những hội nghị quảng bá về BHTG Việt Nam trong thời gian đầu được các chi nhánh khu vực tổ chức trên địa bàn quản lý, mục tiêu chính quảng cáo tuyên truyền của tổ chức BHTG Việt Nam nhằm để cho công chúng nhận biết được còn rất hạn chế. Tại các QTDND cơ sở được BHTG Việt Nam chi trả tại tỉnh Kiên Giang vừa qua, rất nhiều người khi nhận được tiền gửi được bảo hiểm mới biết rằng số tiền còn lại họ sẽ được nhận sau quá trình thanh lý tài sản của QTDND bị phá sản. Đây chính là một sự thiếu thông tin từ công tác tuyên truyền về trách nhiệm bồi thường của tổ chức BHTG. Qua điều tra thực tế tại khu vực ĐBSCL, với cở mẩu là 102 người gồm 60 người gửi tiền, 36 người không gửi tiền, bằng phương pháp pháp phỏng vấn trực tiếp cho kết quả như sau: Tần suất Tỷ lệ % Không gửi tiền 36 35,3 Có gửi tiền 60 58,8 Từ chối cho biết 6 5,9 Tổng số 102 100,0 Bảng 2.1: Phân chia mẫu điều tra theo đối tượng có gửi tiền Để đánh giá mức độ hiểu biết của công chúng và người gửi tiền, từng đối tượng được phỏng vấn theo mức độ hiểu biết của họ về BHTG và các loại hình bảo hiểm khác. Kết quả cho thấy qua bảng 2.2. Tần suất Tỷ lệ % Không biết đến BHTG 89 87,3 Có biết đến BHTG 13 12,7 Tổng số 102 100,0 Bảng 2.2- Mức độ hiểu biết của công chúng về BHTG Kết quả trên, chúng ta nhận thấy đa số các đáp viên biết rất ít về BHTG, thể hiện ở tỷ lệ 87,3% đáp viên chưa từng được biết đến BHTG. Chỉ có 12,7% đáp viên là biết đến BHTG. Để đánh giá mức độ gợi nhớ BHTG, có 7 tổ chức hoạt động trong lĩnh vực bảo hiểm được đưa ra để đáp viên xếp hạng theo mức độ giảm dần từ 1 - 7, kết quả có 85 đáp viên xếp BHTGVN ở hạng từ 5 đến 7, chỉ có 6 đáp viên (5,9%) xếp BHTGVN ở hạng 1 đến 3. Chứng tỏ BHTGVN ít được sự quan tâm của công chúng (xem hình 2.3). Hình 2.3: Mức độ hiểu biết của công chúng về BHTG (Nguồn: Kết quả phỏng vấn trực tiếp của Chi nhánh KV ĐBSCL) Nhận thức của công chúng về BHTG và vai trò của tổ chức BHTG đối với người gửi tiền và hệ thống tài chính còn hạn chế. Điều này sẽ tiềm ẩn rủi ro do sự cố rút tiền hàng loạt khi có những thông tin không chính xác gây hoảng loạn ngân hàng làm mất an toàn hệ thống - Nghiệp vụ hỗ trợ tài chính: Đây là một sản phẩm mới của BHTG Việt Nam được thực hiện theo đề án thí điểm thực hiện nghiệp vụ hỗ trợ tài chính được phê duyệt theo quyết định số 17/NQ-HĐQT-BHTG, ngày 18/05/2005. Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam ban hành nghiệp vụ hỗ trợ tài chính cho Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở tại quyết định số 199/QĐ-BHTG11, ngày 20/07/2005, “Ban hành qui định tạm thời cho vay hỗ trợ đối với QTDND cơ sở”. Thời gian thực hiện được chia thành 2 giai đoạn mỗi giai đoạn 6 tháng, giai đoạn I bắt đầu từ 01/09/2005 đến hết tháng 02/2006, được thử nghiệm ở 3 Chi nhánh đại diện cho 3 miền Bắc, Trung Nam đó là các chi nhánh khu vực Đông bắc bộ, Bắc Trung bộ và Chi nhánh khu vực Tp. Hồ Chí Minh, giai đoạn II bắt đầu từ tháng 03/2006 đến hết tháng 08/2006. Sau một năm triển khai nghiệp vụ này đến nay, cả nước chỉ mới giải ngân được 2,6 tỷ đồng cho duy nhất một QTDND Lộc Sơn, tại tỉnh Lâm Đồng và món vay này được thu nợ hồi 03/2006. Có tất cả 36 đề nghị vay vốn nhưng tất cả đều không đáp ứng điều kiện của Bảo hiền gửi Việt Nam, Như vậy với nghiệp vụ cho vay hỗ trợ tài chính mà BHTG Việt Nam triển khai với một qui trình và điều kiện như vừa qua thì nghiệp vụ này được Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam thực hiện một cách thận trọng vì sự an toàn của đồng vốn, và chính điều này làm hạn chế việc đa dạng hóa sản phẩm dịch vụ của BHTG Việt Nam, trong khi đó việc cho vay hỗ trợ tài chính đối với hệ thống QTDND cơ sở là một trong những giải pháp phòng ngừa rủi ro hữu hiệu. - Nghiệp vụ bảo lãnh của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam: Nghiệp vụ này được triển khai sớm hơn, sau hai năm đi vào hoạt động, BHTG Việt Nam ban hành Quyết định số 106/2002/QĐ-HĐQT ngày 24 tháng 06 năm 2002 của Hội đồng quản trị BHTG Việt Nam. Theo đó các tổ chức tham gia BHTG được BHTG Việt Nam bảo lãnh vay vốn tại các TCTD trong trường hợp tổ chức tham gia BHTG gặp khó khăn trong vấn đề thanh toán tiền gửi. Tuy nhiên văn bản này đã ban hành qua tám năm mà chưa có tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi nào được sử dụng sản phẩm này, về góc độ của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam thì hầu như không nghe nói đến nghiệp vụ này và vì thế sản phẩm này đã bị quên lãng theo thời gian. - Mua lại nợ: tại khoản c, Điều 14, Nghị định 89 qui định việc mua lại nợ là một trong những nghiệp vụ hỗ trợ của BHTG Việt Nam, nhưng hiện nay BHTG Việt Nam chưa đủ năng lực tài chính và nhân lực để thực hiện nghiệp vụ này. 2.3.2. Nguyên nhân của những hạn chế. 2.3.2.1. Do tính độc quyền: Theo lý thuyết kinh tế học, độc quyền (monopoly) là trạng thái thị trường chỉ có duy nhất một người bán và sản xuất ra sản phẩm không có sản phẩm thay thế. Đây là một trong những dạng của thất bại thị trường, là trường hợp cực đoan của thị trường thiếu tính cạnh tranh. BHTG Việt Nam là một định chế tài chính thuộc Chính Phủ, hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, không phải nộp thuế, đổi lại tổ chức này cung cấp cho xã hội những sản phẩm dịch vụ tài chính mà không có đối thủ cạnh tranh. Xét trên góc độ thị trường, BHTG Việt Nam do Chính phủ cho quyền khai thác một thị trường bảo hiểm tiền gửi mà không có bất kỳ tổ chức nào tham gia vào, đây chính là trường hợp nhà nước đã tạo ra cơ chế độc quyền cho tổ chức này, chính tính độc quyền này là nguyên nhân làm cho sản phẩm dịch vụ của BHTG Việt Nam kém chất lượng. Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam hoạt động trong môi trường kinh doanh không có đối thủ cạnh tranh, mà cạnh tranh chính là nguồn gốc và động lực của sự phát triển, Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam thiếu đi cái động lực mà làm cho bộ máy hoạt động yếu kém là điều không thể tránh khỏi. Nhìn lại những gì mà Bảo hiểm tiền gửi đã đóng góp cho hệ thống tài chính tiền tệ quốc gia trong thời gian qua chưa tương xứng với kỳ vọng mà Chính Phủ giao phó. 2.3.2.2. Bộ máy quản lý kém hiệu quả Hiện nay BHTG Việt Nam có một hội sở chính và sáu chi nhánh khu vực, trung bình mỗi khu vực quản lý vào khoảng 11 tỉnh. Về mặt nhân sự, trung bình mỗi chi nhánh khu vực có 40 nhân viên, đảm nhiệm một địa bàn rộng lớn, với những nhiệm vụ đặt ra cho BHTG Việt Nam là khó có thể thực hiện được, đó là chưa nói đến năng lực và trình độ cán bộ của BHTG Việt Nam còn hạn chế. 2.3.2.2. Công nghệ quản lý Đến nay, kể từ ra đời đến nay hoạt động của BHTG chưa áp dụng công nghệ quản lý khách hàng trong cả hệ thống (chỉ nối mạng nội bộ trong hệ thống BHTG từ Chi nhánh khu vực đến Hội sở). Trong xu thế hội nhập, nền kinh tế nhất là lĩnh vực ngân hàng, việc lựa chọn phần mềm quản lý cho BHTG Việt Nam là hết sức quan trọng, trong khi đó những tổ chức tham gia BHTG đã liên tục thay đổi và ứng dụng các phần mền quản lý ngân hàng lõi (core-bank) hiện đại nhằm tăng tính cạnh tranh trong việc sử dụng sản phẩm dịch vụ của ngân hàng. BHTG Việt Nam là tổ chức bảo hiểm tiền tệ duy nhất tại Việt Nam, do thiếu tính cạnh tranh đã làm cho việc thay đổi công nghệ quản lý quá chậm, từ đó khó hoàn thiện những sản phẩm dịch vụ của mình cho đối tượng là các tổ chức tham gia BHTG. Hiện nay tại các chi nhánh khu vực, điển hình là chi nhánh khu vực ĐBSCL tại Cần Thơ, chi nhánh này quản lý 12 tỉnh và 01 thành phố trực thuộc trung ương, hầu hết các máy tính ở đây đều sử dụng mạng nội bộ của Chi nhánh với Hội sở, chưa chưa có phầm mềm chung cho việc khai thác mạng lưới khách hàng là các tổ chức tham gia BHTG, trong khi đó chỉ riêng tại thành phố Cần Thơ, hiện nay có trên 39 các chi nhánh các ngân hàng thương mại hều hết trang bị công nghệ ngân hàng hiện đại, điều này làm hạn chế khả năng tiếp cận thông tin khi làm việc tại các đơn vị này. 2.4. Thực trạng hoạt động của BHTG Việt Nam ở khu vực ĐBSCL 2.4.1. Quá trình thành lập BHTG Việt Nam Chi nhánh khu vực Đồng bằng sông Cửu long (gọi tắt là chi nhánh khu vực ĐBSCL), được thành lập theo quyết định số 13/2001/QĐ-HĐQT, ngày 02/04/2001, của Hội đồng quản trị BHTG Việt Nam. Chức năng nhiệm vụ chính của chi nhánh là nhằm tổ chức, triển khai thực hiện chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của BHTG Việt Nam đối với các tổ chức tham gia BHTG hoạt động trên địa bàn bao gồm các tỉnh sau: Cà Mau, Bạc Liêu, Sóc Trăng, Trà Vinh, Cần Thơ, Vĩnh Long, Đồng Tháp, An Giang và Kiên Giang. Trụ sở chính của Chi nhánh đặt tại TP. Cần Thơ tỉnh Cần Thơ (nay là TP. Cần Thơ). Đến năm 2005 Chi nhánh tiếp nhận thêm 2 tỉnh Tiền Giang, Bến Tre, và tỉnh Hậu Giang (mới thành lập) nâng mức quản lý toàn khu vực lên đến 12 tỉnh và một thành phố. Hiện nay trên toàn địa bàn khu vực có 122 QTDND cơ sở 7 Ngân hàng TMCP (xem phụ lục 2.1) Chi nhánh khu vực ĐBSCL là một trong hai chi nhánh được thành lập sớm nhất trong hệ thống BHTG Việt Nam (được thành lập sau Chi nhánh TP. Hồ Chí Minh một năm), từ khi BHTG Việt Nam ra đời, do tính đặc thù và tính cấp thiết của hoạt động ngân hàng trong khu vực, nhận thức được tầm quan trọng của khu vực này nhằm trấn an dư luận và ổn định chính trị, đó chính là lý do mà chi nhánh này được ra đời rất sớm. Chi nhánh khu vực ĐBSCL là đơn vị trực thuộc BHTG Việt Nam, có tư cách pháp nhân, có bảng cân đối kế toán, có con dấu riêng, được mở tài khoản tại kho bạc Nhà nước và các ngân hàng thương mại trên địa bàn. - Bộ máy tổ chức của Chi nhánh khu vực ĐBSCL hiện nay bao gồm: + Ban giám đốc: có 2 người + Các phòng ban: Phòng kiểm tra; Phòng kế toán; Phòng tổ chức hành chánh; Phòng giám sát chi trả; Phòng tổng hợp. + Số lượng cán bộ nhân viên toàn chi nhánh : có 40 người 2.4.2. Những thành tựu của Chi nhánh khu vực ĐBSCL Chi nhánh khu vực ĐBSCL được thành lập và chính thức đi vào hoạt động từ ngày 02/04/2001. Đến nay, qua chặng đường 8 năm hoạt động, Chi nhánh đã từng bước trưởng thành và khẳng định được vai trò cần thiết của mình đối với hệ thống NHTM và các QTDND cơ sở trên địa bàn. Những thành tựu đã đạt được trong công cuộc củng cố chấn chỉnh hệ thống QTDND cơ sở cũng như góp phần ổn định trong hoạt động ngân hàng trong khu vực, thực hiện các nghiệp vụ và đặc biệt là chi trả tiền gửi được bảo hiểm trong thời gian qua không thể không kể đến sự đóng góp quan trọng của Chi nhánh khu vực ĐBSCL, cụ thể những nghiệp vụ cụ thể như sau: - Nghiệp vụ tuyên truyền quảng cáo: ngay từ khi ra đời chi nhánh đã thực hiện công tác tuyên truyền quảng bá về loại hình BHTG đến với các tổ chức tham gia BHTG và công chúng biết rằng hiện nay có một tổ chức tài chính thuộc Chính phủ đứng ra bảo vệ người gửi tiền. tính đến ngày 31/12/2003 Chi nhánh đã tổ chức thành công 10 Hội nghị về BHTG tại các tỉnh thành phố trên địa bàn quản lý, qua đó làm cho các tổ chức tham gia BHTG nhận biết được vai trò và chức năng nhiệm vụ của tổ chức BHTG. Ngoài ra chi nhánh còn tổ chức nói chuyện chuyên đề qua hệ thống báo đài truyền hình địa phương nhằm giúp công chúng hiểu rõ về hoạt động của BHTG trong khu vực. Bên cạnh đó Chi nhánh cũng thường xuyên mời các chuyên gia kinh tế nói chuyện chuyên đề về loại hình bảo hiểm mới mẽ này, kết quả bước đầu đã đạt được những thành công nhất định trong công tác quảng bá hình ảnh của BHTG. - Nghiệp vụ chi trả tiền gửi được bảo hiểm: Chi nhánh khu vực ĐBSCL có thể nói làm nổi bật nhất là việc chi trả tiền gửi được bảo hiểm tại khu vực này. Từ khi mới thành lập đến 31/12/2008, chi nhánh đã chi trả tiền gửi được bảo hiểm cho 7 QTDND cơ sở tại tỉnh Kiên Giang, với số tiền lên đến 8,7 tỷ đồng cho hơn 500 người gửi tiền, góp phần ngăn chận hiệu ứng rút tiền hàng loạt tại các tổ chức đang hoạt động lành mạnh. - Nghiệp vụ kiểm tra tại chỗ: Đây là công tác quan trọng được BHTG Việt Nam chú trọng và đã xây dựng đề cương kiểm tra chung cho toàn hệ thống, qua công tác kiểm tra trong toàn khu vực, chi nhánh kiểm tra các QTDND cơ sở và các NHTMCP có hội sở chính đóng trên địa bàn. Đối với hệ thống QTDND chi nhánh kiểm tra toàn diện hoạt động ngân hàng của các đơn vị này, còn các NHTMCP thì chủ yếu tập trung vào phần kiểm tra phần tính và nộp phí BHTG. Nhìn chung thời gian qua chính công tác kiểm tra tại chỗ của Chi nhánh đã góp phần ổn định hoạt động ngân hàng trong khu vực vốn là địa bàn có nhiều QTDND cơ sở bị mất khả năng thanh toán dẫn đến phá sản, điều này góp phần chấn chỉnh hoạt động của các TCTD kịp thời tránh trường hợp đổ vỡ dân chuyền. Thông qua công tác kiểm tra chi nhánh đã đề nghị những trường hợp vi phạm đã được các đơn vị ủng hộ và các tổ chức này nhận thấy rằng BHTG thực sự là một kênh giám sát giúp họ hoạt động tốt hơn trong việc phòng ngừa rủi ro. Tính đến nay chi nhánh đã thực hiện kiểm tra tại chổ 100% các tổ chức tham gia BHTG trên địa bàn phụ trách và kế hoạch cứ một đơn vị sẽ được kiểm tra trong một lần trong năm và đặc biệt là hai tỉnh mà chi nhánh mới tiếp nhận là Tiền Giang và Bến Tre. - Nghiệp vụ giám sát từ xa: nghiệp vụ này cũng góp phần đánh giá chất lượng hoạt động của các TCTD thông qua bản báo cáo tình hình hoạt động của các đơn vị gửi cho Chi nhánh hàng tháng theo qui định, thông qua nghiệp vụ này chi nhánh đưa ra những cảnh báo sớm giúp cho các tổ chức tham gia BHTG chấn chỉnh hoạt động của mình để hoạt động ngày càng có hiệu quả, công tác này đã nhận được sự đồng tình cao từ phía các TCTD. Qua công tác giám sát từ xa, các TCTD trên địa bàn chi nhánh quản lý như TP. Cần Thơ, An Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, Trà Vinh, Tiền Giang, Bến Tre là những đơn vị hoạt động tốt, trong khi đó địa bàn Kiên Giang và một số QTDND tại Đồng Tháp hoạt động yếu, gặp rất nhiều khó khăn nhất là khó khăn thanh khoản. - Nghiệp vụ thu phí tiền gửi được bảo hiểm: chi nhánh đôn đốc các tổ chức tham gia BHTG nộp phí đúng và đủ nhằm góp phần ổn định quỹ tiền gửi để dự phòng cho hệ thống phục vụ cho công tác chi trả tiền gửi. Trính trung bình mỗi năm chi nhánh thu phí vào khoảng 2 tỷ đồng đến 2,5 tỷ đồng . - Các nghiệp vụ hỗ trợ: Công tác tài chính kế toán, thời gian qua cũng đã góp phần hỗ trợ cho Chi nhánh nhất là trong công tác chi trả tiền gửi được bảo hiểm tại các TCTD bị giải thế bắt buộc, đã làm cho các nghiệp vụ của chi nhánh được vận hành tốt trong thời gian qua. 2.4.3. Những tồn tại trong hoạt động của Chi nhánh Qua chặng đường hoạt động 8 năm những thành tựu mà chi nhánh đạt được không tránh khỏi những thiếu sót, những tồn tại này đã làm cho vai trò và chức năng của BHTG không thể hiện đúng mức trong hệ thống tài chính ngân hàng trong khu vực. - Đối với nghiệp vụ tuyên truyền quảng cáo: vừa qua Chi nhánh thực hiện được việc tổ chức Hội nghị về BHTG tại các tỉnh, thành phố nhằm tuyên truyền quảng bá hình ảnh về tổ chức BHTG của chi nhánh, nhưng hầu hết chất lượng hội nghị còn dừng lại ở mức hình thức, chưa có chiều sâu, BHTG Việt Nam chưa có chiến lược marketing hay khái niệm về quan hệ công chúng (Public relation), các khách hàng được mời đến dự hội nghị nhiều khi thiếu các tổ chức tham gia BHTG, do nhận thức của các tổ chức này vì đây là hình thức bảo hiểm bắt buộc nên họ cũng ít quan tâm. Một vài chương trình của Đài PTTH Cần Thơ trong khu vực cũng chưa tạo ra được hình ảnh của chi nhánh. - Đối với nghiệp vụ chi trả tiền gửi được bảo hiểm: chưa thực sự mang tính chuyên nghiệp, còn nhiều phát sinh trong công tác chi trả tiền gửi được bảo hiểm và công tác quản lý sau khi thanh lý đơn vị bị phá sản, thời gian qua công tác chi trả ban đầu do chi nhánh thực hiện, từ khâu kiểm tra xác định số dư tiền gửi đến chi trả tiền gửi mất quá nhiều thời gian, từ đó ảnh hưởng đến tâm lý người gửi tiền và cũng làm mất đi hình ảnh người bảo vệ người gửi tiền của tổ chức BHTG. Nhằm chấn chỉnh việc này BHTG Việt Nam gần đây đã liên kết với Ngân hàng Đầu tư phát triển Việt Nam để chi trả tiền gửi tại các tổ chức tín dụng bị phá sản. Việc cử cán bộ tham gia hội đồng thanh lý cũng không thực hiện được vai trò giám sát Hội đồng thanh lý, vì tổ chức này do đại diện NHNN trên địa bàn quản lý. - Đối với nghiệp vụ kiểm tra tại chỗ: Thực sự với một bộ máy thiếu và yếu chi nhánh ĐBSCL không thể đảm đương được nhiệm vụ được giao, trong quá trình kiểm tra chưa nhận được sự đồng tình từ phía các chi nhánh NHNN, cụ thể Chi nhánh NHNN tỉnh Bạc Liêu, Sóc Trăng, từ đó cũng gây khó khăn cho Chi nhánh, bên cạnh đó còn nhiều QTDND cơ sở hoạt động mạnh trên địa bàn tỉnh An Giang, Trà Vinh, Tiền Giang, Bạc Liêu có thái độ bất cần tổ chức BHTG. Hiện nay chi nhánh chỉ thực hiện kiểm tra tại chổ đối với hệ thống QTDND còn các chi nhánh NHTM thì chỉ dừng lại ở mức kiểm tra số tiền gửi thuộc đối tượng bảo hiểm và cách tính nộp phí của các đơn vị, điều này nằm ngoài năng lực của cấp chi nhánh và nó cũng là cái hạn chế chung của toàn hệ thống. - Đối với nghiệp vụ giám sát từ xa: Do chi nhánh chưa trang bị phần mềm chung cho hệ thống giám sát xếp hạng, nên rất khó khăn trong việc thu thập va xử lý dữ liệu, hiện nay chi nhánh ĐBSCL tự sử dụng phần mềm ứng dụng cho riêng chi nhánh để xử lý số liệu giám sát. Tuy nhiên việc chấp hành gửi báo cáo thông từ phía các TCTD không tốt đã làm cho việc giám sát thiếu tính khách quan, việc cảnh báo sớm đối với các TCTD còn mang tính hình thức, chưa có ý nghĩa thực tiễn. - Đối với công tác kiểm tra nội bộ: đây là một công tác lớn nhưng hiện nay các chi nhánh khu vực không có Bộ phận kiểm tra nội bộ (trước đây trong cơ cấu tổ chức cấp chi nhánh thì có), điều này đã làm ảnh hưởng lớn đến việc chấn chỉnh trong nội bộ những sai sót trong vận hành bộ máy của Chi nhánh khu vực. - Đối với nghiệp vụ hỗ trợ tài chính: là một trong những sản phẩm có ý nghĩa chiến lược nhưng chi nhánh ĐBSCL không thực hiện được, có thể nói không có công tác marketing nào có sức thuyết phục bằng chính sản phẩm dịch vụ mà chúng ta mang lại cho khách hàng, phía sau công tác quảng bá hình ảnh phải là sản phẩm của chi nhánh nhưng sản phẩm này không đến được khách hàng (tổ chức tham gia BHTG) thì làm sao BHTG Chi nhánh khu vực ĐBSCL có một chổ đứng trong lòng khách hàng. 2.4.4. Nguyên nhân của những tồn tại - Nguyên nhân khách quan: + Do cơ cấu tổ chức của BHTG Việt Nam theo mô hình trực tuyến chức năng, mọi quyền lực tập trung về Hội sở chính, mọi hoạt động của chi nhánh mang tính thực hiện chỉ tiêu kế hoạch từ trung ương xuống chi nhánh, chứ không xuất phát từ phía cơ sở. + Các chính sách tầm vĩ mô: do bị hạn chế từ phía trung ương nên chi nhánh khu vực bị chi phối bởi các chính sách này, như chưa có Luật điều chỉnh hoạt động BHTG. - Nguyên nhân chủ quan: Do trình độ của chi nhánh còn hạn chế, nguồn nhân lực thiếu và không được đào tạo, nhiều cán bộ tác nghiệp không phải từ ngành ngân hàng do đó sự hiểu biết về lĩnh vực tài chính ngân hàng còn hạn chế, chính sách sử dụng con người chưa được quan tâm, nhiều cán bộ có tâm huyết có nghiệp vụ ngân hàng bỏ đi về các NHTM. Được biết hiện nay BHTG Việt Nam đang trong quá trình đào tạo lại nguồn nhân lực cho các chi nhánh trong đó có chi nhánh ĐBSCL và đang hoàn thiện trong việc cơ cấu lại bộ máy các chi nhánh khu vực. Tất cả các nhân tố trên đã làm cho Chi nhánh khu vực ĐBSCL hoạt động chưa xứng với tầm cỡ mà BHTG Việt Nam giao phó. Kết luận chương 2: Chương này chúng ta đã phân tích sự cần thiết của việc thành lập BHTG Việt Nam, qua đó nhận biết được những mặt tích cực của BHTG Việt Nam đối với các định chế trung gian tài chính, đồng thời nêu lên những mặt hạn chế của chính sách BHTG của Việt Nam đối với tổ chức tham gia BHTG. Chúng ta cũng phân tích thực trạng hoạt động của BHT Việt Nam chi nhánh Khu vực ĐBSCL, những thành tựu và những hạn chế, những nguyên nhân của nó. Từ đó tạo tiền đề đưa ra những giải pháp cho Chương 3. Chương 3 : NHỮNG GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN BHTG VN Ở ĐBSCL 3.1. Những định hướng chủ yếu về phát triển BHTG ở ĐBSCL 3.1.1. Chiến lược phát triển của BHTGVN giai đoạn 2006 – 2015 Là một chi nhánh trực thuộc BHTG Việt Nam, do đó khi xây dựng chiến lược cho khu vực phải dựa trên nền tảng chung của chiến lược phát triển BHTG Việt Nam giai đoạn 2006 - 2015 và tầm nhìn đến năm 2020 là: xây dựng BHTGVN trở thành một định chế tài chính lớn mạnh, phát triển bền vững, hoạt động hiệu quả phù hợp với thông lệ quốc tế, bảo vệ tốt nhất quyền lợi của người gửi tiền, nâng cao niềm tin đối với công chúng và sự ổn định của hệ thống tài chính quốc gia. Chiến lược dựa trên 5 trụ cột như sau: (xem Hình 3.1). Phát triển bền vững của BHTGVN Chiến lược Trụ cột 1 Xây dựng, củng cố cơ sở hạ tầng pháp lý Trụ cột 2 Củng cố, tăng cường năng lực tài chính và đảm bảo tính minh bạch hệ thống Trụ cột 5 Xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin Trụ cột 4 Tái cấu trúc bộ máy, phát triển nguồn nhân lực và nâng cao năng lực quản lý Trụ cột 3 Đa dạng hoá sản phẩm, nâng cao chất lượng dịch vụ và hội nhập quốc tế Hình 31: Mô hình chiến lược phát triển bền vững của BHTGVN - Thứ nhất: xây dựng, củng cố cơ sở hạ tầng pháp lý - Thứ hai: củng cố, tăng cường năng lực tài chính và đảm bảo tính minh bạch hệ thống - Thứ ba: đa dạng hoá sản phẩm, nâng cao chất lượng, hội nhập quốc tế - Thứ tư: tái cấu trúc hệ thống BHTG và phát triển nguồn nhân lực - Thứ năm: xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin 3.1.2. Chiến lược phát triển của BHTGVN Khu vực ĐBSCL Theo mô hình tổ chức hiện nay của BHTG Việt Nam, các chi nhánh khu vực hoàn toàn thụ động trong việc hoạch định chiến lược hoạt động cũng như phát triển các sản phẩm dịch vụ. Trong chiến lược tổng thể của BHTG Việt Nam (phần thứ 4) đưa ra việc tái cấu trúc hệ thống BHTG và phát triển nguồn nhân lực. Trong xu thế hội nhập ngành tài chính ngày càng đặt ra cho BHTG Việt Nam nhiều thách thức, việc cần thiết thay đổi mô hình hoạt động là hết sức cần thiết. Qua nghiên cứu hoạt động BHTG một số quốc gia trong khu vực và các nước khác việc cần thiết xây dựng mô hình hoạt động của BHTG Việt Nam theo mô hình công ty cổ phần trong đó nhà nước nắm quyền quản trị, khi đó các chi nhánh khu vực trở thành công ty con và được phân cấp quản lý theo từng khu vực. Mặt khác cần xác định mục tiêu lợi nhuận mới có thể tiến tới xây dựng mô hình bảo hiểm tiền gửi theo mức độ rủi ro, bên cạnh đó cần phải có cơ chế giám sát quyền hạn của BHTG Việt Nam khi được khai thác mảng bảo hiểm tiền gửi, tránh rơi vào thế độc quyền. Đồng bằng sông Cửu long với một địa bàn rộng, cạnh tranh trong hoạt động ngân hàng là rất lớn giữa các TCTD, việc cần thiết phải xây dựng chi nhánh BHTGVN khu vực này như sau: Mô hình hoạt động như một công ty con. Được phân quyền quyết định chính sách BHTG trong khu vực phụ trách, tự chịu trách nhiệm về kết quả của chi nhánh. Quyết định về việc tuyển dụng nhân sự theo phân cấp quản lý. 3.2. Dự báo về phát triển BHTG ở ĐBSCL. 3.2.1. Yêu cầu phát triển kinh tế và lành mạnh hóa hoạt động ngân hàng. Khu vực ĐBSCL bao gồm 12 tỉnh và một thành phố trực thuộc trung ương, dân số hơn 17 triệu, trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt của lĩnh vực tài chính ngân hàng. Hiện nay cả khu vực này có 122 QTDND cơ sở và 6 ngân hàng TMCP có Hội sở chính đặt trong khu vực, còn các chi nhánh của các NHTM lớn có hội sở chính tại Hà Nội và TP. HCM thì có mặt hầu hết tại các tỉnh trong khu vực này. Trong điều kiện đó các TCTD ngày càng mở rộng mạng lưới nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế của khu vực, hoạt động ngân hàng luôn luôn tiềm ẩn những rủi ro mà nhất là rủi ro trong hoạt động tín dụng. Đặc thù các NHTM hoạt động trong vùng ĐBSCL chủ yếu là nguồn thu từ tín dụng, các sản phẩm dịch vụ ngân hàng còn nghèo nàn, tỷ lệ thu từ các sản phẩm dịch vụ còn rất khiêm tốn chiếm vào khoảng 10% - 15% đối với các ngân hàng có tầm cỡ lớn, đặc thù có những ngân hàng nhỏ 100% nguồn thu từ hoạt động tín dụng, do đó rủi ro là rất cao. Trong khi đó tại khu vực này BHTG Việt Nam chỉ có 01 chi nhánh khu vực ĐBSCL đặt tại TP. Cần Thơ, với nhân sự vào khoảng 40 cán bộ nhân viên thì việc đảm nhiệm cho cả một khu vực, về công nghệ chưa được ứng dụng công nghệ hiện đại, thì việc giám sát rủi ro trong hoạt động ngân hàng của các tổ chức tham gia BHTG theo chức năng của BHTG Việt Nam là hết sức khó khăn, theo báo cáo của Chi nhánh BHTG Việt Nam khu vực ĐBSCL, đến tháng 06/2008 chi nhánh chỉ kiểm tra được 12 đơn vị, trong đó gồm 9 QTDND cơ sở và 03 NHTMCP trên địa bàn, điều này làm hạn chế việc phát hiện những khó khăn của các TCTD nhằm có biện pháp sớm khắc phục và cảnh báo những tiềm ẩn rủi ro trong hoạt động ngân hàng Tính 31/12/ 2008 chi nhánh khu vực ĐBSCL mới kiểm tra được 47/128 đơn vị trên địa bàn quản lý (xem phụ lục 3.1). Trong thời gian qua những biểu hiện cạnh tranh thiếu lành mạnh của nhiều chi nhánh các NHTMCP trên địa bàn là một là một thực tế đáng quan ngại, việc nâng hạn mức cho vay kéo khách hàng về các chi nhánh của mình, do áp lực mở rộng mạng lưới chi nhánh của các NHTMCP ồ ạt tại các trung tâm đô thị lớn như TP. Cần Thơ, Long Xuyên, Cà Mau, Vĩnh Long, Kiên Giang … đã làm cho tình hình tín dụng tại khu vực tăng trưởng nóng. Trong tình hình này đòi hỏi BHTG Việt Nam cần có những giải pháp quản lý các TCTD nhằm hạn chế những rủi ro có thể phát sinh trong trường hợp đổ vở các ngân hàng có thể xảy ra và nhất là các QTDND cơ sở. 3.2.2. Đối với quản lý rủi ro Mục tiêu chung của tất cả các ngành bảo hiểm là muốn tối thiểu mức độ rủi ro, mà hạn chế rủi ro cũng có nghĩa là tăng lợi nhuận. Bảo hiểm tiền gửi cũng không nằm ngoài tiêu chí đó, mặc dù mục tiêu không vì lợi nhuận, BHTG Việt Nam hoạt động trong lĩnh vực tiền tệ, việc quản lý rủi ro được đặt ra hàng đầu, góp phần cho các tổ chức tham gia BHTG hoạt động một cách an toàn và hiệu quả, việc chi trả tiền gửi được bảo hiểm chỉ là giải pháp sau cùng khi tổ chức tham gia BHTG mất khả chi trả dẫn đến phá sản. Mục tiêu chính của BHTG là sự ổn định về mặt chính trị, góp phần làm lành mạnh hoá hoạt động ngân hàng. Trong tương lai hoạt động BHTG cần thiết có một thể chế giám sát từ xa các TCTD mà không cần thiết phải kiểm tra tại chỗ như hiện nay đang làm, việc kiểm tra của BHTG không làm cho các TCTD lành mạnh hơn, do năng lực về vốn cũng như nguồn nhân lực của BHTG Việt Nam chưa đủ khả năng để có thể kiểm soát rủi ro trong hoạt động ngân hàng, việc kiểm soát này đòi hỏi phải có sự phối hợp một cách đồng bộ giữa Chi nhánh NHNN các tỉnh trên địa bàn, các tổ chức kiểm toán, qua sự phối hợp đó nhằm làm lành mạnh hóa hoạt động ngân hàng thông qua kênh giám sát của tổ chức BHTG, góp phần duy trì sự ổn định của các TCTD mà nhất là các ngân hàng nhỏ và hệ thống QTDND cơ sở. Trong giai đoạn hiện nay, việc xuấ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLE VAN UT HIEN.doc
Tài liệu liên quan