Đề tài Biện pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh của trạm đón tiếp khách nhà khách bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn

Tài liệu Đề tài Biện pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh của trạm đón tiếp khách nhà khách bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn: Lời mở đầu Kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, lợi nhuận luôn là mục tiêu trước mắt lâu dài và thường xuyên của hoạt động kinh doanh, là nguồn động lực quan trọng của các doanh nghiệp. Muốn có lợi nhuận lớn, các doanh nghiệp phải tăng doanh thu bán, giảm chi phí, nâng cao hiệu quả kinh doanh. Đặc biệt, từ khi nền kinh tế được chuyển đổi sang cơ chế thị trường, vấn đề nâng cao hiệu quả kinh doanh thực sự là mối quan tâm hàng đầu của các doanh nghiệp, giữ một vị trí quan trọng quyết định sự thành bại của mỗi Công ty. Do đó, muốn tồn tại và phát triển vững chắc, tạo thế cạnh tranh mạnh mẽ với các doanh nghiệp khác, mỗi doanh nghiệp phải chủ động làm tốt công tác sản xuất kinh doanh, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của mình, nâng cao chất lượng dịch vụ hàng hoá mà Công ty cung cấp cho khách hàng, từ đó tăng doanh thu, tăng lợi nhuận, đảm bảo uy tín của Công ty với khách hàng. Muốn vậy, các doanh nghiệp phải đi sâu nghiên cứu hiệu quả kinh doanh, hiểu rõ vấn đề và đưa ra những biện...

doc99 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 884 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Biện pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh của trạm đón tiếp khách nhà khách bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu Kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, lợi nhuận luôn là mục tiêu trước mắt lâu dài và thường xuyên của hoạt động kinh doanh, là nguồn động lực quan trọng của các doanh nghiệp. Muốn có lợi nhuận lớn, các doanh nghiệp phải tăng doanh thu bán, giảm chi phí, nâng cao hiệu quả kinh doanh. Đặc biệt, từ khi nền kinh tế được chuyển đổi sang cơ chế thị trường, vấn đề nâng cao hiệu quả kinh doanh thực sự là mối quan tâm hàng đầu của các doanh nghiệp, giữ một vị trí quan trọng quyết định sự thành bại của mỗi Công ty. Do đó, muốn tồn tại và phát triển vững chắc, tạo thế cạnh tranh mạnh mẽ với các doanh nghiệp khác, mỗi doanh nghiệp phải chủ động làm tốt công tác sản xuất kinh doanh, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của mình, nâng cao chất lượng dịch vụ hàng hoá mà Công ty cung cấp cho khách hàng, từ đó tăng doanh thu, tăng lợi nhuận, đảm bảo uy tín của Công ty với khách hàng. Muốn vậy, các doanh nghiệp phải đi sâu nghiên cứu hiệu quả kinh doanh, hiểu rõ vấn đề và đưa ra những biện pháp kinh doanh phù hợp với tình hình thực tế và khả năng của doanh nghiệp nhằm tổ chức tốt hoạt động sản xuất kinh doanh, góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh. Trạm đón tiếp khách nhà khách Bộ NN & PTNT là đơn vị hành chính sự nghiệp có thu, lấy thu bù chi, tự trang trải về kinh tế được thành lập và hoạt động trên 10 năm nay. Hiện tại, Trạm được sắp xếp vào loại đơn vị sự nghiệp tự bảo đảm toàn bộ chi phí hoạt động, ngân sách Nhà nước không phải cấp kinh phí để bảo đảm hoạt động thường xuyên cho đơn vị. Doanh thu và lợi nhuận của Trạm năm sau luôn cao hơn năm trước, thu nhập của cán bộ công nhân viên được cải thiện rất nhiều nhưng để có thể kết luận Trạm có đạt được hiệu quả kinh doanh hay không thì phải tiến hành phân tích, đánh giá thực trạng kinh doanh của Trạm trong những năm qua. Từ đó, phát hiện những ưu nhược điểm cũng như những thuận lợi và khó khăn của Trạm để đề ra các biện pháp kinh doanh phù hợp. Sau một thời gian dài học tập, nghiên cứu những kiến thức căn bản và cơ sở lý luận về Quản trị kinh doanh, em đã được các thày cô giáo khoa Thương mại Trường Đại học Kinh tế Quốc dân giới thiệu tới thực tập tại Trạm đón tiếp khách nhà khách Bộ NN & PTNT nhằm bổ sung những kiến thức thực tế để hoàn thành khoá học của mình. Được sự đồng ý và giúp đỡ nhiệt tình của Ban giám đốc nhà khách Bộ NN & PTNT, sau một thời gian thực tập nghiên cứu thực trạng hoạt động kinh doanh của nhà khách, em đã rút ra được những kiến thức bổ ích và hoàn thành bài viết chuyên đề tốt nghiệp với đề tài : “ Biện pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh của Trạm đón tiếp khách nhà khách Bộ NN & PTNT “. Bố cục bài viết gồm 3 phần : Phần I : Lý luận chung về hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Phần II : Thực trạng kinh doanh và hiệu quả kinh doanh của Trạm đón tiếp khách nhà khách Bộ NN & PTNT. Phần III : Biện pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh của Trạm đón tiếp khách nhà khách Bộ NN & PTNT trong những năm tới. Bài viết này được hoàn thành với sự hướng dẫn chỉ bảo và góp ý sửa đổi của PGS.TS Hoàng Đức Thân, em xin trân trọng cảm ơn thày đã tận tình giúp đỡ để em hoàn thành bài viết theo đúng yêu cầu. Đồng thời, em cũng xin chân thành cảm ơn Ban lãnh đạo Nhà khách Bộ NN & PTNT cũng như tập thể cán bộ công nhân viên đã tạo điều kiện thuận lợi giúp đỡ em trong suốt quá trình thực tập. Vì kiến thức còn nhiều hạn chế nên không tránh khỏi một số sai sót. Em rất mong sự Agóp ý sửa đổi của các thày cô giáo và Ban lãnh đạo Nhà khách để bài viết được hoàn thiện hơn. Mặc dù vậy, em cũng hy vọng rằng bài viết này của em sẽ đóng góp được phần nào ý kiến nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh của Nhà khách. Em xin trân trọng cảm ơn. Hà Nội 10 - 5 - 2002 Sinh viên thực hiện Nguyễn Hồng Trang Phần một Lý luận chung về hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường I. Kinh doanh thương mại dịch vụ trong nền kinh tế thị trường 1. Khái niệm 1.1. Khái niệm về kinh doanh Để tồn tại và phát triển, con người cần nhiều nhu cầu khác nhau như: ăn, mặc, ở ,đi lại, chữa bệnh, học tập, giải trí... Muốn thoả mãn nhu cầu đó, con người phải thông qua sản xuất và trao đổi sản phẩm với nhau. Sự phân công lao động xã hội và chuyên môn hoá sản xuất đã làm tăng thêm lực lượng sản xuất xã hội và là một trong những động lực chủ yếu của tăng trưởng kinh tế và tiến bộ khoa học kỹ thuật. Chính yếu tố cách mạng hoá sản xuất đã đặt ra sự cần thiết phải trao đổi trong xã hội các sản phẩm giữa người sản xuất và người tiêu dùng. Khi trao đổi hàng hoá phát triển đến trình độ xuất hiện tiền tệ làm chức năng phương tiện lưu thông thì trao đổi hàng hoá được gọi là lưu thông hàng hoá. Trong lĩnh vực lưu thông hàng hoá, có một loại người chuyên dùng tiền để mua hàng hoá rồi đem bán. Kinh doanh thương mại xuất hiện. Kinh doanh thương mại là dùng tiền của, công sức vào việc mua bán hàng hoá nhằm mục đích kiếm lời. Kinh doanh thương mại, trước hết, đòi hỏi phải có vốn kinh doanh. Vốn kinh doanh là các khoản vốn bằng tiền và bằng các tài sản khác (nhà cửa, kho tàng, cửa hàng, vv...), có vốn mới thực hiện được các chức năng lưu thông hàng hoá. Thứ hai, kinh doanh thương mại đòi hỏi phải thực hiện hành vi mua để bán. Xét trên toàn bộ và cả quá trình thì hoạt động kinh doanh thương mại phải thực hiện hành vi mua hàng, nhưng mua hàng không để mình dùng mà mua hàng để bán cho người khác. Đó là hoạt động buôn bán. Thứ ba, kinh doanh thương mại dùng vốn (tiền của, công sức) vào hoạt động kinh doanh cũng đòi hỏi sau mỗi chu kỳ kinh doanh phải bảo toàn được vốn và có lãi. Có như vậy mới có thể mở rộng và phát triển kinh doanh. Ngược lại, thua lỗ dẫn tới doanh nghiệp phải phá sản. Như vậy, mục đích lợi nhuận là mục tiêu trước mắt, lâu dài và thường xuyên của hoạt động kinh doanh và nó cũng là nguồn động lực của kinh doanh. Muốn có lợi nhuận thì doanh thu bán hàng hoá và dịch vụ phải lớn hơn chi phí kinh doanh. Muốn có doanh thu lớn phải chiếm được khách hàng, phải bán được nhiều hàng hoá và dịch vụ, phải giảm chi phí kinh doanh. Trong điều kiện cạnh tranh trên thị thường, việc thu hút được khách hàng đòi hỏi doanh nghiệp phải kinh doanh loại hàng hoá phù hợp với nhu cầu của khách, được khách hàng chấp nhận, hàng hoá của doanh nghiệp phải đảm bảo chất lượng và luôn luôn đổi mới. Thế lực cũng là một mục đích của kinh doanh thương mại. Trong nền kinh tế nhiều thành phần, trên thị trường có nhiều người cung ứng hàng hoá, cạnh tranh trên thị trường đòi hỏi kinh doanh thương mại phải thu hút được ngày càng nhiều khách hàng, phải không ngừng tăng doanh số bán hàng, phải không ngừng mở rộng và phát triển thị trường, tức là tăng được thị phần của mình trên thị trường. Mục đích thế lực là mục tiêu phát triển cả về qui mô kinh doanh, cả về thị phần trên thị trường. Từ qui mô nhỏ tiến lên qui mô lớn, từ chỗ chen được chân vào thị trường tiến tới chiếm lĩnh thị trường và làm chủ thị trường. An toàn cũng là một mục đích của kinh doanh thương mại. Trong thị trường cạnh tranh đầy biến động, có nhiều rủi ro, trong hoạt động kinh doanh, vấn đề bảo toàn vốn và phát triển vốn để kinh doanh liên tục phát triển đòi hỏi phải đặt ra mục tiêu an toàn trong kinh doanh thương mại. Với mục đích an toàn cần phải đa dạng hoá kinh doanh, phải có biện pháp bảo hiểm trong kinh doanh... Mỗi doanh nghiệp một lúc thường có rất nhiều nhu cầu và không phải lúc nào cũng thoả mãn được ngay tất cả các nhu cầu đó nên đòi hỏi phải có sự phân loại các nhu cầu, nghĩa là có sự lựa chọn mục tiêu. Những mục tiêu nào gần gũi nhất, có khả năng thực hiện lớn nhất sẽ được đặt lên hàng đầu. Đối với doanh nghiệp thương mại hoạt động trong lĩnh vực phân phối và lưu thông hàng hoá thường có 5 mục tiêu cơ bản như: khách hàng, chất lượng, đổi mới, lợi nhuận và cạnh tranh. Để có thể thực hiện thắng lợi mục tiêu kinh doanh, các doanh nghiệp thương mại hoạt động trên thị trường đòi hỏi phải tuân thủ những qui tắc sau: - Sản xuất và kinh doanh những hàng hoá dịch vụ có chất lượng tốt, đáp ứng nhu cầu của khách hàng. - Trong kinh doanh trước hết phải lôi cuốn khách hàng rồi sau đó mới nghĩ đến cạnh tranh. - Trong kinh doanh, khi làm lợi cho mình đồng thời phải làm lợi cho khách hàng. - Tìm kiếm thị trường đang lên và chiếm lĩnh thị trường nhanh chóng. - Đầu tư vào tài năng và nguồn lực để tạo ra được nhiều giá trị sản phẩm. - Nhận thức và nắm bắt được nhu cầu của thị trường để đáp ứng đầy đủ 1.2. Dịch vụ và sản phẩm dịch vụ Trên thế giới ngày nay, nền kinh tế không chỉ đơn thuần với những sản phẩm vật chất cụ thể, mà bên cạnh đó còn tồn tại các sản phẩm dịch vụ. Tổng thu nhập của một quốc gia cũng như doanh thu của một doanh nghiệp không thể không tính đến sự đóng góp của lĩnh vực dịch vụ, đặc biệt là những ngành dịch vụ có giá trị cao. Vậy dịch vụ là gì? Bằng cách tiếp cận dưới góc độ kinh tế, Các Mác cho rằng: dịch vụ là con đẻ của nền kinh tế sản xuất hàng hoá. Khi mà kinh tế hàng hoá phát triển mạnh, đòi hỏi một sự lưu thông trôi chảy, thông suốt, liên tục để thoả mãn nhu cầu ngày càng cao của con người thì dịch vụ phát triển Vào những năm cuối thế kỉ 20, dịch vụ đã trở thành một ngành kinh tế quan trọng của các quốc gia và trở thành đối tượng nghiên cứu của các nhà khoa học. Theo lý thuyết kinh tế học, dịch vụ là một loại sản phẩm kinh tế không phải là vật phẩm mà là công việc của con người dưới hình thái lao động thể lực, kiến thức, kĩ năng chuyên nghiệp, khả năng tổ chức và thương mại. Do vậy có nhiều quan niệm khác nhau về dịch vụ. Theo cách chung nhất có 2 kiểu như sau: - Theo nghĩa rộng, dịch vụ được coi là ngành kinh tế thứ 3 trong nền kinh tế quốc doanh. Theo cách hiểu này, các hoạt động kinh tế nằm ngoài hai ngành công nghiệp và nông nghiệp đều thuộc ngành dịch vụ. - Theo nghĩa hẹp, dịch vụ là những hoạt động hỗ trợ cho quá trình kinh doanh, bao gồm hỗ trợ trước, trong và sau khi bán, là phần mềm của sản phẩm được cung ứng cho khách hàng. Về bản chất, dịch vụ và sản phẩm vật chất có những nét rất khác biệt: - Là sản phẩm vô hình, chất lượng dịch vụ rất khó đánh giá, không thể xác định một cách cụ thể bằng tiêu chuẩn kỹ thuật, bằng các chỉ tiêu chất lượng một cách rõ ràng vì nó chịu nhiều yếu tố tác động như người bán, người mua và cả thời điểm mua bán dịch vụ đó, người được phục vụ chỉ có thể đánh giá bằng các giác quan của mình như nhìn, ngửi.... - Là sản phẩm vô hình, dịch vụ có sự khác biệt về chi phí so với các sản phẩm vật chất. Hoạt động sản xuất vật chất tạo ra sản phẩm hàng hoá, sản phẩm có chất lượng cao, thấp tạo ra uy tín cho hãng sản xuất và kinh doanh. “Sản phẩm” của hoạt động dịch vụ phụ thuộc rất cao vào chất lượng tiếp xúc, sự tương tác giữa người làm dịch vụ và được phục vụ. - Sản xuất và tiêu dùng dịch vụ diễn ra đồng thời, nên cung cầu dịch vụ không tách rời nhau mà phải tiến hành cùng lúc. Hoạt động dịch vụ thường xuất hiện ở các địa điểm và thời điểm có nhu cầu cần phải đáp ứng. - Dịch vụ không thể cất giữ trong kho, làm phần đệm điều chỉnh sự thay đổi nhu cầu thị trường như các sản phẩm vật chất khác. Những đặc điểm này tạo ra những nét đặc thù cho các doanh nghiệp dịch vụ. Nếu các doanh nghiệp sản xuất cần 4Ps (product, price, place, promotion) cho hoạt động marketing của mình thì các nhà kinh doanh dịch vụ cần 5Ps với 4Ps trên và con người. Dịnh vụ trong hoạt động kinh doanh thương mại có vị trí quan trọng đối với hoạt động kinh doanh. Nó có quan hệ chặt chẽ từ khi sản phẩm hàng hoá được sản xuất ra đến khi sản phẩm được đưa vào tiêu dùng. Dịch vụ là các loại hình hoạt động có mục đích phục vụ cho các nhu cầu của đời sống dân cư hoặc trợ giúp, hoàn thiện, tiếp tục quá trình sản xuất kinh doanh. Mục đích của dịch vụ là để thu lợi nhuận cao qua thoả mãn yêu cầu của khách hàng. Dịch vụ có vai trò to lớn, phát triển hoạt động dịch vụ trong kinh doanh thương mại nhằm mục tiêu phục vụ khách hàng tốt hơn, tạo ra sự tín nhiệm, sự chung thuỷ, sự gắn bó của khách hàng đối với doanh nghiệp, từ đó doanh nghiệp thu hút được khách hàng, bán được nhiều hàng, thu được nhiều lợi nhuận, rút ngắn thời gian ra quyết định mua hàng của người tiêu dùng, đẩy nhanh tốc độ lưu chuyển hàng hoá, tiền tệ. Dịch vụ lập nên hàng rào chắn, ngăn chặn sự xâm nhập của đối thủ cạnh tranh. Dịch vụ giúp cho việc phát triển thị trường và giữ thị trường ổn định, phát triển được thế và lực của doanh nghiệp, cạnh tranh thắng lợi. Đối với nền kinh tế quốc dân, dịch vụ làm thay đổi căn bản cơ cấu của nền kinh tế. Doanh thu của các ngành dịch vụ trong tổng thu nhập quốc dân có tỷ trọng ngày càng tăng. ở các nước phát triển, dịch vụ chiếm 50 - 60% lực lượng lao động, 60 - 70% thu nhập quốc dân, chi cho hoạt động dịch vụ chiếm 60 - 65% thu nhập của cá nhân. ở các nước đang phát triển, dịch vụ tuy không phát triển được như ở các nước phát triển nhưng cũng đang có những chuyển biến tích cực. Vai trò của kinh doanh thương mại dịch vụ Kinh doanh thương mại dịch vụ là lĩnh vực hoạt động chuyên nghiệp trong lưu thông hàng hoá, vì vậy nó có vị trí trung gian cần thiết giữa sản xuất và tiêu dùng, là tiền đề của sản xuất, là hậu cần của sản xuất và là khâu không thể thiếu được trong quá trình sản xuất và tái sản xuất xã hội. Kinh doanh thương mại dịch vụ có tác dụng nhiều mặt đối với lĩnh vực vật chất và lĩnh vực tiêu dùng của xã hội. Nó cung ứng những vật tư, hàng hoá dịch vụ cần thiết một cách đầy đủ kịp thời, đồng bộ, đúng số lượng, chất lượng một cách thuận lợi với qui mô ngày càng mở rộng. Thứ hai, kinh doanh thương mại thúc đẩy việc áp dụng các tiến bộ khoa học - kỹ thuật - công nghệ vào sản xuất. Đồng thời thúc đẩy nhu cầu, gợi mở nhu cầu, bảo đảm cho người tiêu dùng những hàng hoá tốt, văn minh và hiện đại. Thông qua việc bảo đảm những loại máy móc, thiết bị, nguyên nhiên liệu mới, hiện đại, kinh doanh thương mại dịch vụ thúc đẩy doanh nghiệp sản xuất sử dụng các loại máy móc, thiết bị mới và hiện đại. Đối với hàng hoá tiêu dùng, nhờ tiếp xúc với thị trường trong và ngoài nước, kinh doanh thương mại đưa các loại hàng hoá tốt, thuận tiện, văn minh và hiện đại cho người tiêu dùng. Từ đó kích thích nhu cầu, hướng giới tiêu dùng vào những hàng hoá chất lượng cao. Thứ ba, kinh doanh thương mại thực hiện việc dự trữ các yếu tố của sản xuất và hàng tiêu dùng, đảm bảo cho doanh nghiệp sản xuất kinh doanh và người tiêu dùng giảm bớt dự trữ lớn ở nơi sản xuất và dự trữ tiêu dùng cá nhân. Dự trữ hàng hoá trong khâu lưu thông tăng lên, bảo đảm sự linh hoạt và lưu chuyển nhanh, tránh được ứ đọng nhiều ở các khâu dự trữ “chết”. Thứ tư, kinh doanh thương mại dịch vụ bảo đảm điều hoà cung cầu. Nó làm đắt ở những nơi có nguồn hàng rẻ, nhiều, phong phú và làm rẻ hàng hoá ở những nơi đắt, ít, nghèo nàn. Trong phạm vi toàn nền kinh tế quốc dân, thương mại dịch vụ có tác dụng lớn trong việc thúc đẩy sử dụng nguồn lực và phân bổ các nguồn lực một cách có hiệu quả và hợp lý. Thứ năm, nhờ việc áp dụng ngày càng nhiều các dịch vụ trong kinh doang hàng hoá, các vật tư kỹ thuật được đảm bảo cung ứng ngày càng kịp thời, thuận tiện và văn minh cho các doanh nghiệp sản xuất; bảo đảm ngày càng nhiều hàng hoá tốt, chất lượng cao với dịch vụ thuận lợi cho người tiêu dùng. II. Hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp thương mại – dịch vụ 1. Khái niệm và thực chất của hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp thương mại – dịch vụ 1.1. Khái niệm Trong cơ chế thị trường hiện nay, các doanh nghiệp đều có mục tiêu bao trùm là tối đa hoá lợi nhuận. Để đạt được mục tiêu này, mỗi doanh nghiệp phải xây dựng chiến lược kinh doanh trước mắt và lâu dài phù hợp với sự biến động liên tục của cơ chế thị trường. Mặt khác, trong quá trình tổ chức xây dựng và thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp phải luôn kiểm tra đánh giá tính hiệu quả của chúng. Muốn kiểm tra đánh giá các hoạt đông sản xuất kinh doanh chung của toàn doanh nghiệp cũng như từng bộ phận, từng lĩnh vực bên trong doanh nghiệp thì doanh nghiệp không thể không thực hiện các tính toán hiệu quả kinh tế cuả hoạt động sản xuất kinh doanh. Vậy thì hiệu quả kinh doanh là gì? Hiệu quả kinh doanh là một phạm trù kinh tế, phản ánh trình độ sử dụng các yếu tố của quá trình kinh doanh ở doanh nghiệp nhằm đạt kết quả cao nhất trong hoạt động kinh doanh với chi phí ít nhất. Nó không chỉ là thước đo trình độ tổ chức quản lý kinh doanh mà còn là vấn đề sống còn của doanh nghiệp. Hiện nay, có rất nhiều quan điểm khác nhau về hiệu quả kinh doanh. Điều này do điều kiện lịch sử và góc độ nghiên cứu khác nhau về vấn đề hiệu quả kinh doanh. Nhà kinh tế học người Anh Adam Smith cho rằng “Hiệu quả là kết quả đạt được trong hoạt động kinh tế, là doanh thu tiêu thụ hàng hoá”. ở đây, hiệu quả được đồng nhất với chỉ tiêu phản ánh kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, nó khó giải thích việc kết quả sản xuất kinh doanh có thể tăng do tăng chi phí, mở rộng sử dụng các nguồn sản xuất. Theo quan điểm này, với hai mức chi phí khác nhau mà đem lại cùng một kết quả thì chúng có cùng một hiệu quả như nhau. Quan niệm thứ hai cho rằng: “Hiệu quả kinh doanh là quan niệm tỉ lệ giữa phần tăng lên của kết quả và phần tăng thêm của chi phí”. Quan niệm này đã biểu hiện được quan hệ so sánh tương đối giữa kết quả đạt được và chi phí bỏ ra. Tuy nhiên, sản xuất kinh doanh là một quá trình trong đó, các yếu tố tăng thêm có sự liên hệ mật thiết với các yếu tố sẵn có. Chúng trực tiếp hoặc gián tiếp tác động làm kết quả sản xuất kinh doanh thay đổi. Vì vậy, theo quan điểm này, tính hiệu quả kinh doanh chỉ được xét tới phần chi phí bổ sung và kết quả bổ sung. Quan niệm thứ ba cho rằng: “Hiệu quả kinh doanh được đo bằng hiệu số giữa kết quả và chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó”. Ưu điểm của quan điểm này là phản ánh được mối quan hệ bản chất của hiệu quả kinh tế. Nó đã gắn được kết quả với toàn bộ chi phí, coi hiệu quả kinh doanh là sự phản ánh trình độ sử dụng các chi phí. Tuy nhiên, quan điểm này chưa biểu hiện được tương quan về lượng và chất giữa kết quả và chi phí, chưa phản ánh hết mức độ chặt chẽ của mối liên hệ này. Quan điểm thứ tư coi hiệu quả kinh doanh là mức độ thoả mãn yêu cầu của qui luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa xã hội, cho rằng tiêu dùng với tính cách là chỉ tiêu đại diện cho mức sống của mọi người trong các doanh nghiệp, là chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh doanh. Quan điểm này đã bám sát mục tiêu của nền sản xuất xã hội chủ nghĩa là không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Song đời sống nhân dân nói chung và mức sống nói riêng rất đa dạng phong phú, nhiều hình, nhiều vẻ. Do đó, rất khó khăn trong việc xác định các chỉ tiêu đo mức độ thoả mãn nhu cầu hay mức độ nâng cao đời sống. Nhìn chung, để làm sáng tỏ bản chất và đi đến một khái niệm hiệu quả kinh doanh hoàn chỉnh thì vẫn chưa có cách giải quyết triệt để. Thật khó mà đánh giá mức độ đạt được hiệu quả kinh doanh của hoạt động thương mại hay doanh nghiệp kinh doanh thương mại khi mà bản thân phạm trù này chưa được định rõ những bản chất và biểu hiện của nó. Tuy nhiên, thông qua những khái niệm trên, ta có thể hiểu: Hiệu quả kinh doanh là một phạm trù kinh tế biểu hiện ở mức độ chiều sâu. Nó là thước đo ngày càng trở nên quan trọng, tạo đà tăng trưởng kinh tế, phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực, tài lực, tiền vốn của doanh nghiệp để đạt được kết quả cao nhất trong quá trình sản xuất kinh doanh nhằm thực hiện mục tiêu sản xuất kinh doanh mà doanh nghiệp đã xác định. 1.2. Phân loại hiệu quả kinh doanh Trong công tác quản lý, phạm trù hiệu quả kinh doanh biểu hiện ở những dạng khác nhau, mỗi dạng thể hiện những đặc trưng, ý nghĩa cụ thể của hiệu quả. Việc phân loại hiệu quả kinh doanh theo những tiêu thức khác nhau có tác dụng thiết thực cho công tác quản lý thương mại. Nó là cơ sở để xác định các chỉ tiêu và mức hiệu quả kinh doanh, từ đó đề ra những biện pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp thương mại. 1.2.1. Hiệu quả kinh doanh cá biệt và hiệu quả kinh tế xã hội của nền kinh tế quốc dân Hiệu quả kinh doanh cá biệt là hiệu quả thu được từ hoạt động thương mại của từng doanh nghiệp kinh doanh. Biểu hiện chung của hiệu quả cá biệt là lợi nhuận mà mỗi doanh nghiệp đạt được. Hiệu quả kinh tế xã hội mà thương mại đem lại cho nền kinh tế quốc dân là sự đóng góp của hoạt động thương mại vào việc phát triển sản xuất, đổi mới cơ cấu kinh tế, tăng năng suất lao động xã hội, tích luỹ ngoại tệ, tăng thu cho ngân sách, giải quyết việc làm, cải thiện đời sống nhân dân.v.v... Trong quản lý kinh doanh thương mại không những cần tính toán và đạt được hiệu quả trong hoạt động của từng người, từng doanh nghiệp mà còn phải tính toán và quan trọng hơn, phải đạt được hiệu quả kinh tế xã hội đối với nền kinh tế quốc dân. Giữa hiệu quả kinh doanh cá biệt và hiệu quả kinh tế xã hội có mối quan hệ nhân quả và tác động qua lại với nhau. Hiệu quả kinh tế quốc dân chỉ có thể đạt được trên cơ sở hoạt động có hiệu quả của các doanh nghiệp thương mại. Tuy vậy, có những doanh nghiệp thương mại không đảm bảo được hiệu quả nhưng nền kinh tế vẫn thu được hiệu quả. Tuy nhiên, tình hình thua lỗ của doanh nghiệp nào đó chỉ có thể chấp nhận được trong những thời điểm nhất định do những nguyên nhân khách quan mang lại. Các doanh nghiệp thương mại cần phải quan tâm đến hiệu quả kinh tế xã hội vì đó chính là tiền đề và điều kiện cho doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả. Bên cạnh đó, Nhà nước cần có những chính sách đảm bảo kết hợp hài hoà lợi ích của xã hội với lợi ích của doanh nghiệp và cá nhân người lao động mới khiến doanh nghiệp quan tâm đến hiệu quả kinh tế xã hội chung. 1.2.2. Hiệu quả của chi phí bộ phận và chi phí tổng hợp Hoạt động của bất kì doanh nghiệp nào cũng gắn liền với môi trường và thị trường của nó. Doanh nghiệp thương mại phải căn cứ vào thị trường để giải quyết những vấn đề cơ bản: Kinh doanh cái gì, kinh doanh như thế nào, kinh doanh cho ai và chi phí bao nhiêu? Mỗi nhà cung cấp tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh của mình trong những điều kiện cụ thể về nguồn tài nguyên, trình độ trang thiết bị kỹ thuật, trình độ tổ chức và quản lý lao động, quản lý kinh doanh. Họ đưa ra thị trường sản phẩm của mình đối với một chi phí cá biệt nhất định và người nào cũng muốn tiêu thụ được hàng hoá của mình với giá cao nhất, Tuy vậy, khi đưa hàng hoá của mình ra bán trên thị trường, họ chỉ có thể bán ra theo mức giá cả thị trường nếu sản phẩm của họ có chất lượng tương đương. Bởi vì thị trường chỉ thừa nhận mức trung bình xã hội cần thiết về hao phí để sản xuất ra đơn vị hàng hoá. Qui luật giá trị đã đặt tất cả các doanh nghiệp với mức chi phí cá biệt khác nhau trên cùng một mặt bằng trao đổi, thông qua một mức giá cả thị trường. Tại mỗi doanh nghiệp, chi phí lao động xã hội được thể hiện dưới các dạng chi phí cụ thể như giá thành sản phẩm và chi phí ngoài sản xuất. Bản thân mỗi loại chi phí trên lại có thể được phân chia thành các chi phí tỉ mỉ hơn. Đánh giá hiệu quả kinh doanh thương mại không thể không đánh giá hiệu quả tổng hợp của các loại chi phí trên và cũng lại cần thiết phải đánh giá hiệu quả của từng loại chi phí. Hiệu quả của chi phí tổng hợp thể hiện mối tương quan giữa kết quả thu được và tổng chi phí bỏ ra để thực hiện nhiệm vụ sản xuất kinh doanh. Hiệu quả của chi phí bộ phận cho thấy mối tương quan giữa kết quả thu được và chi phí của từng yếu tố cần thiết để đạt được kết quả đó. Việc đánh giá hiệu quả của các loại chi phí trên giúp cho hoạt động kinh doanh tìm được hướng giảm chi phí cá biệt của doanh nghiệp nhằm tăng hiệu quả kinh doanh. Như vật, hiệu quả kinh doanh nói chung được tạo thành trên cơ sở hiệu quả của các loại chi phí cấu thành. Các đơn vị kinh doanh thương mại là nơi trực tiếp sử dụng các yếu tố của quá trình kinh doanh. Vì vậy, bản thân các đơn vị kinh doanh thương mại phải quan tâm xác định những biện pháp đồng bộ để thu được hiệu quả toàn diện trên các yếu tố của quá trình đó. 1.2.3. Hiệu quả tuyệt đối và hiệu quả so sánh Trong công tác quản lý hoạt động kinh doanh, việc xác định hiệu quả nhằm hai mục đích: Một là, để thực hiện và đánh giá trình độ sử dụng các dạng chi phí trong hoạt động kinh doanh. Hai là, để phân tích luận chứng kinh tế của các phương án khác nhau trong việc thực hiện một nhiệm vụ cụ thể nào đó, từ đó lựa chọn lấy một phương án có lợi nhất. Hiệu quả tuyệt đối là lượng hiệu quả được tính toán cho từng phương án cụ thể bằng cách xác định mức lợi ích thu được với lượng chi phí bỏ ra. Người ta xác định hiệu quả tuyệt đối khi phải bỏ chi phí ra để thực hiện một thương vụ nào đó, để biết được với những chi phí bỏ ra sẽ thu được những lợi ích cụ thể và mục tiêu cụ thể gì, từ đó đi đến quyết định có nên bỏ ra chi phí hay không cho thương vụ đó. Vì vậy trong công tác quản lý kinh doanh, bất kì công việc gì đòi hỏi phải bỏ ra chi phí dù với một lượng lớn hay nhỏ cũng đều phải tính toán hiệu quả tuyệt đối. Hiệu quả so sánh được xác định bằng cách so sánh các chỉ tiêu hiệu quả tuyệt đối của các phương án với nhau. Nói cách khác, hiệu quả so sánh chính là mức chênh lệch về hiệu quả tuyệt đối của các phương án. Mục đích chủ yếu của việc tính toán này là so sánh mức độ hiệu quả của các phương án, từ đó cho phép lựa chọn một cách làm có hiệu quả nhất. Hiệu quả tuyệt đối và hiệu quả so sánh trong thương mại có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, song chúng lại có tính độc lập tương đối. Trước hết, xác định hiệu quả tuyệt đối là cơ sở để xác định hiệu quả so sánh. Nghĩa là, trên cơ sở những chỉ tiêu tuyệt đối của từng phương án, người ta so sánh mức hiệu quả ấy của các phương án với nhau. Mức chênh lệch chính là hiệu quả của so sánh. Tuy vậy, có những chỉ tiêu hiệu quả so sánh được xác định không phụ thuộc vào việc xác định hiệu quả tuyệt đối. Chẳng hạn việc so sánh giữa mức chi phí của các phương án với nhau để chọn ra phương án có chi phí thấp, thực chất chỉ là sự so sánh mức chi phí của các phương án chứ không phải là việc so sánh mức hiệu quả tuyệt đối của các phương án. 1.3. Sự cần thiết của việc nâng cao hiệu quả kinh doanh Một doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển được trong điều kiện cạnh tranh gay gắt như hiện nay thì điều cần thiết là phải đánh giá được hiệu quả kinh doanh và kinh doanh có hiệu quả. Việc không ngừng nâng cao hiệu quả kinh doanh không chỉ là mối quan tâm hàng đầu của xã hội mà còn là mối quan tâm của bất kỳ doanh nghiệp nào, nhất là trong cơ chế thị trường. Đó là vấn đề xuyên suốt thể hiện chất lượng của toàn bộ công tác quản lý kinh tế, đảm bảo tạo ra kết quả và hiệu quả cao nhất trong quá trình sản xuất kinh doanh. Trong điều kiện nền kinh tế mở như hiện nay, doanh nghiệp phải luôn gắn mình với thị trường để giải quyết 3 vấn đề kinh tế cơ bản: sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào và sản xuất cho ai, trên cơ sở xem xét cung cầu và giá cả thị trường. Không còn là nền kinh tế kế hoạch hoá, nền kinh tế thị trường đòi hỏi các doanh nghiệp phải tự ra các quyết định kinh doanh, tự hoạch toán lỗ lãi theo kết quả kinh doanh của mình. Đối với doanh nghiệp, hiệu quả sản xuất kinh doanh không những là thước đo chất lượng tổ chức quản lý kinh doanh mà còn là cơ sở để đảm bảo sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Sự phát triển của doanh nghiệp là nhân tố trực tiếp đảm bảo sự có mặt của doanh nghiệp trên thị trường với mục tiêu là luôn tồn tại và phát triển vững chắc. Muốn vậy lợi nhuận của doanh nghiệp phải không ngừng tăng lên và trở thành mục tiêu quan trọng nhất. Vậy để tăng lợi nhuận thì bắt buộc các doanh nghiệp phải nâng cao hiệu quả kinh doanh. Nhưng nâng cao hiệu quả kinh doanh bằng cách nào mới là vẫn đề đặt ra mà không phải doanh nghiệp nào cũng có thể làm được. Điều đó đòi hỏi các doanh nghiệp phải luôn vận động và lựa chọn cơ cấu sản xuất kinh doanh tối ưu nhất. Sự lựa chọn đúng đắn sẽ mang lại hiệu quả kinh doanh cao nhất, thu được nhiều lợi ích nhất. Kết quả đó sẽ tạo đà cho sự phát triển kinh tế theo chiều sâu nhờ việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Mặt khác, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh là nhân tố thúc đẩy sự cạnh tranh trong cơ chế thị trường, các doanh nghiệp luôn phải cạnh tranh để tồn tại và phát triển. Sự cạnh tranh đó không chỉ về các mặt hàng thông thường mà cả về uy tín, chất lượng, giá cả... Trong hoàn cảnh đó, nếu doanh nghiệp không chiến thắng trong cạnh tranh tất yếu sẽ bị loại khỏi thị trường. Bởi vậy, để tồn tại và phát triển, doanh nghiệp phải nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hoá dịch vụ, giá cả hợ lý, mẫu mã đẹp, phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng. Từ đó, nâng cao được uy tín và hình ảnh của doanh nghiệp trên thị trường. Muốn thực hiện được điều đó thì việc giảm chi phí, nâng cao hiệu quả kinh doanh là nhân tố cơ bản dẫn đến thắng lợi trong cạnh tranh. Như vậy, đối với mọi doanh nghiệp việc không ngừng nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh là điều kiện cần thiết để doanh nghiệp tồn tại và phát triển trong điều kiện cạnh tranh gay gắt của nền kinh tế thị trường như hiện nay. Còn đối với người lao động, nâng cao hiệu quả kinh doanh sẽ đảm bảo cho họ một công việc ổn định, tăng mức thu nhập, cải thiện đời sống và tinh thần lao động. Đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân, hiệu quả sản xuất kinh doanh được xem là một phạm trù kinh tế quan trọng, phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực, trình độ của lực lượng sản xuất, là động lực thúc đẩy toàn bộ nền kinh tế phát triển. Với ý nghĩa quan trọng như vậy, việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh ở các doanh nghiệp phải đảm bảo các yêu cầu sau: - Thứ nhất, hiệu quả mà doanh nghiệp đạt được trong từng thời kỳ kinh doanh không làm giảm sút, ảnh hưởng tới hiệu quả của các thời kỳ sau. Điều đó đòi hỏi bản thân mỗi doanh nghiệp không vì lợi ích trước mắt mà quên đi lợi ích lâu dài, ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh sau này. Ngoài ra, các doanh nghiệp không thể quan niệm một cách cứng nhắc cứ tăng thu giảm chi là luôn đạt hiệu quả mà phải biết tăng thu giảm chi một cách toàn diện, khái quát, có nghĩa là có thể tăng thu và chi một cách đồng thời những tốc độ tăng của thu phải cao hơn tốc độ tăng của chi phí. Có vậy mới đem lại hiệu quả cao trong kinh doanh. - Thứ hai, hiệu quả sản xuất kinh doanh chỉ đạt được một cách toàn diện khi toàn bộ hoạt động của các bộ phận, các khâu mang lại hiệu quả mà không làm giảm hiệu quả chung. Mỗi kết quả tính được từ một giải pháp kinh tế hoặc hoạt động kinh doanh nào đó trong từng bộ phận hoặc toàn bộ doanh nghiệp không làm ảnh hưởng đến hiệu quả chung thì được coi là có hiệu quả, trở thành mục tiêu phấn đấu của toàn doanh nghiệp. 2. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh Các doanh nghiệp không tồn tại độc lập và hoạt động đơn lẻ mà chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố thuộc môi trường xung quanh và ngay trong bản thân mỗi doanh nghiệp. Hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực của doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất kinh doanh thể hiện ở việc tận dụng tiết kiệm các nguồn lực đó trong mối quan hệ đầu ra của doanh nghiệp. Kết quả đạt được và chi phí bỏ ra cũng như trình độ lợi dụng các nguồn lực chịu tác động trực tiếp hoặc gián tiếp của nhiều nhân tố khác nhau ở các mức độ khác nhau. Do đó, nó ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Nâng cao hiệu quả kinh doanh là yêu cầu quan trọng và bao trùm trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Muốn vậy phải nâng cao hiệu quả của tất cả các hoạt động trong quá trình sản xuất kinh doanh. Do đó, việc nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến quá trình sản xuất kinh doanh cũng chính là việc nghiên cứu sự ảnh hưởng của nó tới hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Các nhân tố đó được chia làm hai nhóm cơ bản: + Các nhân tố thuộc bản thân doanh nghiệp (nhân tố chủ quan). + Các nhân tố từ môi trường bên ngoài (nhân tố khách quan). Hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp chỉ thực sự thành công nếu doanh nghiệp nắm rõ sự ảnh hưởng của các nhân tố tới hoạt động kinh doanh và biết kết hợp hài hoà các nhân tố bên trong với các nhân tố bên ngoài. 2.1. Các nhân tố khách quan 2.1.1. Môi trường văn hoá xã hội Yếu tố văn hoá xã hội luôn bao quanh doanh nghiệp và khách hàng, có ảnh hưởng lớn đến sự hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Môi trường này bao gồm: tập quán, phong tục, dân cư, thu nhập, tình trạng việc làm, điều kiện xã hội, lối sống, trình độ văn hoá... Tất cả những yếu tố đó đều tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp theo cả hai hướng tích cực và tiêu cực. Tập quán, lối sống, thu nhập, điều kiện xã hội quyết định mức độ chất lượng, chủng loại, gam hàng, sự ưa thích của khách hàng đối với sản phẩm của doanh nghiệp. Do vậy, doanh nghiệp cần phải nghiên cứu và nắm bắt để lựa chọn các sản phẩm hàng hoá dịch vụ kinh doanh cho phù hợp với thị hiếu và thói quen tiêu dùng của khách hàng. Điều này phụ thuộc vào công tác nghiên cứu thị trường, các hoạt động marketing phải bám sát khách hàng, nắm bắt nhanh chóng nhu cầu và sở thích của khách để đưa ra chiến lược kinh doanh phù hợp đem lại hiệu quả tích cực trong hoạt động kinh doanh. 2.1.2. Môi trường chính trị - pháp luật Các yếu tố thuộc lĩnh vực chính trị và pháp luật chi phối mạnh mẽ sự hình thành cơ hội thương mại và khả năng thực hiện mục tiêu của bất kì doanh nghiệp nào. Sự ổn định của môi trường chính trị đã được xác định là một trong những điều kiện tiền đề quan trọng cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Để thành công trong kinh doanh, các doanh nghiệp phải nắm rõ tình hình chính trị và luật pháp, phải luôn theo sát phân tích, dự đoán về chính trị và pháp luật cùng xu hướng vận động của nó. Sự thay đổi điều kiện chính trị có thể ảnh hưởng có lợi cho nhóm doanh nghiệp này, kìm hãm sự phát triển của doanh nghiệp khác hoặc ngược lại. Hệ thống pháp luật hoàn thiện, không thiên vị là một trong những điều kiện tiền đề ngoài kinh tế của kinh doanh. Mức độ hoàn thiện, sự thay đổi và thực thi pháp luậtt trong nền kinh tế có ảnh hưởng lớn đến việc hoạch định và tổ chức thực hiện chiến lược kinh doanh của doanh nghiêp. Từ đó, tác động tới hiệu quả kinh doanh của từng doanh nghiệp cũng như của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. 2.1.3. Môi trường kinh tế và công nghệ ảnh hưởng của các yếu tố thuộc môi trường kinh tế và công nghệ đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp là rất lớn. Các yếu tố thuộc môi trường này qui định cách thức doanh nghiệp và toàn bộ nền kinh tế trong việc sử dụng tiềm năng của mình. Qua đó, tạo ra cơ hội kinh doanh cho từng doanh nghiệp. Xu hướng vận động và bất cứ thay đổi nào của các yếu tố thuộc môi trường này đều tạo ra hoặc thu hẹp điều kiện kinh doanh, cơ hội kinh doanh của doanh nghiệp ở những mức độ khác nhau, thậm chí, dẫn đến yêu cầu thay đổi mục tiêu và chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp. Trạng thái của nền kinh tế như tốc độ tăng trưởng, tình hình lạm phát, tỉ giá hối đoái, xu hướng mở cửa... Luôn tác động mạnh tới hoạt động sản xuất kinh doanh, khả năng mở rộng hoặc thu hẹp quy mô kinh doanh của doanh nghiệp, cơ hội phát triển cũng như điều kiện cạnh tranh của từng doanh nghiệp. Các yếu tố đó luôn ở trạng thái động đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phải có chiến lược kinh doanh linh hoạt, luôn thay đổi để phù hợp với sự biến đổi liên tục của môi trường kinh doanh. Cơ sở hạ tầng, trình độ trang thiết bị kỹ thuật công nghệ của nền kinh tế liên quan đến các điều kiện phục vụ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Một mặt tạo cơ sở cho kinh doanh thuận lợi khi khai thác cơ sở hạ tầng sẵn có của nền kinh tế. Mặt khác, ảnh hưởng trực tiếp đến yêu cầu đổi mới công nghệ trang thiết bị, khả năng sản xuất sản phẩm với các cấp chất lượng, năng suất lao động của mỗi doanh nghiệp. 2.1.4. Môi trường cạnh tranh Cạnh tranh được xác định là động lực thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế thị trường với nguyên tắc ai hoàn thiện hơn, thoả mãn nhu cầu tốt hơn và đạt hiệu quả cao hơn người đó sẽ thắng, sẽ tồn tại. Điều kiện cạnh tranh gay gắt vừa tạo ra các cơ hội để doanh nghiệp kiến tạo hoạt động của mình, vừa yêu cầu các doanh nghiệp phải luôn vươn lên phía trước vượt qua đối thủ. Điều kiện để cạnh tranh và các thành phần tham gia vào quá trình hoạt động kinh doanh tạo ra môi trường cạnh tranh trong nền kinh tế. Các doanh nghiệp cần xác định cho mình một chiến lược kinh doanh hoàn hảo để có thể đối phó với môi trường cạnh tranh bao quanh doanh nghiệp. Mỗi doanh nghiệp trên thị trường luôn có các đối thủ cạnh tranh. Nếu doanh nghiệp có đối thủ cạnh tranh mạnh thì việc nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp trở nên khó khăn hơn nhiều. Vì lúc đó, doanh nghiệp phải quan tâm tới nâng cao chất lượng sản phẩm hơn nữa để đẩy mạnh tiêu thụ với giá cả hợp lý, tổ chức sắp xếp lại bộ máy hoạt động và quá trình sản xuất kinh doanh một cách tối ưu hơn để bù đắp lại những chi phí mất mát do cạnh tranh về giá cả, chất lượng, mẫu mã. Như vậy, đối thủ cạnh tranh có ảnh hưởng rất lớn đến việc nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp vì nó vừa tạo ra những trở ngại khó khăn, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. 2.1.5. Môi trường địa lý - sinh thái Các yếu tố thuộc môi trường địa lý - sinh thái không chỉ liên quan đến vấn đề phát triển bền vững của một quốc gia mà còn liên quan lớn đến khả năng phát triển bền vững của từng doanh nghiệp. Các yếu tố địa lý từ lâu đã được nghiên cứu và xem xét để có kết luận về cách thức và hiệu quả kinh doanh. Ngày nay, các yếu tố này rất được xem trọng và ảnh hưởng rất lớn đến khả năng kinh doanh của doanh nghiệp. Nhân tố tài nguyên thiên nhiên: nhân tố này chủ yếu tác động tới việc cung cấp các yếu tố đầu vào cho doanh nghiệp và có ảnh hưởng lớn đến qui trình, tiến độ thực hiện các hoạt động kinh doanh của hầu hết các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực khai thác tài nguyên thiên nhiên. Nguồn tài nguyên dồi dào, phong phú sẽ có ảnh hưởng tích cực đến việc kinh doanh của doanh nghiệp, tạo hiệu quả cao trong quá trình kinh doanh và ngược lại nếu nguồn tài nguyên cạn kiệt sẽ gây khó khăn cho doanh nghiệp trong quá trình khai thác, cản trở hoạt động kinh doanh. Nhân tố khí hậu, thời tiết, mùa vụ: nhân tố này có ảnh hưởng trực tiếp tới các doanh nghiệp kinh doanh các mặt hàng có tính chất thời vụ. Với mỗi điều kiện thời tiết, khí hậu ổn định, doanh nghiệp có chính sách cụ thể, phù hợp với điều kiện đó. Do đó, khi các yếu tố này thay đổi thất thường sẽ làm cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp không ổn định, ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả kinh doanh. Nhân tố vị trí địa lý: đây là nhân tố không chỉ tác động đến chi phí sản xuất, chi phí vận chuyển, giao dịch mà còn tác động đến các mặt văn hoá - xã hội, ảnh hưởng đến khả năng tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. Doanh nghiệp càng gần nơi tiêu thụ sản phẩm, gần đầu mối cung cấp hàng hoá đầu vào sẽ giảm được chi phí sản xuất kinh doanh và do đó góp phần quan trọng vào việc nâng cao hiệu quả kinh doanh. 2.2. Các nhân tố chủ quan Chiến lược kinh doanh và hiệu quả của chiến lược đó không chỉ bị ảnh hưởng bởi các yếu tố khách quan thuộc môi trường kinh doanh mà còn phụ thuộc chặt chẽ vào các yếu tố phản ánh tiềm lực của doanh nghiệp cụ thể. Với các yếu tố thuộc môi trường kinh doanh là các yếu tố nằm ngoài tầm kiểm soát của doanh nghiệp, các doanh nghiệp dường như chỉ còn cách thụ động chịu ảnh hưởng của nó. Còn đối với các yếu tố thuộc tiềm lực của doanh nghiệp là các yếu tố mang tính chủ quan, có thể kiểm soát được ở một mức độ nào đó mà doanh nghiệp sử dụng để khai thác cơ hội kinh doanh và thu lợi nhuận. Trong thực tế, các yếu tố tiềm lực bên trong doanh nghiệp thay đổi chậm hơn so với sự thay đổi liên tục của môi trường kinh doanh và có thể hạn chế khả năng phản ứng linh hoạt của doanh nghiệp trước sự thay đổi của môi trường. Mỗi doanh nghiệp cần có sự đánh giá đúng tiềm lực thực tại và có chiến lược xây dựng và phát triển tiềm lực của mình để mang lại hiệu quả trong kinh doanh. 2.2.1. Tình hình tài chính của doanh nghiệp Là một yếu tố tổng hợp phản ánh sức mạnh của doanh nghiệp thông qua khối lượng vốn mà doanh nghiệp có thể huy động vào kinh doanh, khả năng phân phối có hiệu quả các nguồn vốn, khả năng quản lý các nguồn vốn trong kinh doanh của mỗi doanh nghiệp. Một doanh nghiệp có khả năng tài chính mạnh thì không những làm cho quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh diễn ra ổn định, có hiệu quả mà còn giúp cho doanh nghiệp đầu tư tái sản xuất mở rộng, đầu tư đổi mới cơ sở vật chất kỹ thuật cần thiết và hiện đại vào sản xuất nhằm tăng doanh thu, giảm chi phí không cần thiết, từ đó nâng cao hiệu quả kinh doanh. Khả năng tài chính vững mạnh là yếu tố quyết định qui mô sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, khả năng huy động vốn tham gia vào việc hình thành và khai thác các cơ hội kinh doanh của doanh nghiệp, tạo uy tín cho doanh nghiệp trên thị trường. Đồng thời giúp doanh nghiệp chủ động trong hoạt động sản xuất kinh doanh, tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường. Ngược lại, một doanh nghiệp không có đủ tiềm lực tài chính vững mạnh thì doanh nghiệp đó không những không đảm bảo được hoạt động sản xuất kinh doanh diễn ra bình thường mà còn mất thế chủ động, không phát huy được các phương án kinh doanh một cách kịp thời, nhất là trong điều kiện cạnh tranh gay gắt của thị trường sẽ dẫn đến hiệu quả kinh doanh không cao. 2.2.2. Tiềm năng con người Trong kinh doanh, đặc biệt trong lĩnh vực thương mại - dịch vụ, con người là yếu tố quan trọng hàng đầu để đảm bảo thành công. Chính con người với năng lực thực chất của họ mới lựa chọn đúng được cơ hội và sử dụng các sức mạnh khác như: vốn, cơ sở vật chất kỹ thuật... một cách có hiệu quả để khai thác các cơ hội kinh doanh. Mặc dù khoa học - kỹ thuật - công nghệ ngày nay trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, nhưng áp dụng kỹ thuật máy móc không chưa đủ mà còn cần phải có trình độ năng lực của người lao động tác động tới mới mang lại hiệu quả kinh doanh cao. Thực tế cho thấy, máy móc thiết bị dù tối tân hiện đại đến đâu vẫn là do con người tạo ra, vẫn cần phải có bàn tay và trí óc của con người để khai thác và sử dụng nó có hiệu quả. Đánh giá và phát triển tiềm năng con người trở thành một nhiệm vụ ưu tiên mang tính chiến lược trong kinh doanh. Một doanh nghiệp có sức mạnh về con người là doanh nghiệp có khả năng lựa chọn đúng và đủ số lượng lao động cho từng vị trí công tác và sản xuất trong một hệ thống thống nhất theo nhu cầu của công việc. Bên cạnh đó, mỗi doanh nghiệp phải có chiến lược con người và phát triển nguồn nhân lực, cho thấy khả năng chủ động phát triển sức mạnh con người của doanh nghiệp nhằm đáp ứng yêu cầu tăng trưởng và đổi mới thường xuyên, khả năng cạnh tranh và thích nghi của kinh tế thị trường. Chiến lược này liên quan không chỉ đến những vấn đề về đội ngũ lao động hiện tại mà còn tạo khả năng thu hút nguồn lao động xã hội nhằm kiến tạo cho doanh nghiệp một đội ngũ lao động trung thành, có trình độ chuyên môn, lao động giỏi tạo ra năng suất và sáng tạo mang lại hiệu quả cao trong kinh doanh. Doanh nghiệp phải tổ chức lao động hợp lý, phân công quyền lợi rõ ràng, lao động có kỷ luật, chấp hành đúng qui định của công ty. Đồng thời để sản xuất kinh doanh có hiệu quả, doanh nghiệp phải sử dụng đúng người, đúng việc sao cho người lao động phát huy được năng lực sở trường của mình. Bởi vậy, vấn đề đặt ra cho mỗi doanh nghiệp là cùng với sự phát triển của khoa học - kỹ thuật, người lao động trong doanh nghiệp cần có ý thức kỷ luật, có tinh thần trách nhiệm, năng động, sáng tạo trong cơ chế thị trường. 2.2.3. Trình độ phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật và khả năng ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ vào sản xuất kinh doanh Quá trình phát triển của sản xuất luôn gắn liền với sự phát triển của tư liệu lao động. Sự phát triển của công cụ lao động gắn bó chặt chẽ với quá trình tăng năng suất lao động, tăng chất lượng sản phẩm và hạ giá thành sản phẩm. Do vậy, cơ sở vật chất kỹ thuật của doanh nghiệp được coi là một yếu tố vật chất hữu hình rất quan trọng trong việc tăng chất lượng sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh tế phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Cơ sở vật chất của doanh nghiệp sẽ đem lại sức mạnh kinh doanh cho doanh nghiệp đồng thời tạo ra những cơ hội nắm bắt thông tin trong quá trình hoạch định chiến lược kinh doanh hoặc chuyển hướng kinh doanh. Chất lượng hoạt động của doanh nghiệp chịu tác động mạnh mẽ của trình độ kỹ thuật, tính đồng bộ của máy móc thiết bị phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường, việc đổi mới công nghệ, nâng cao khả năng ứng dụng khoa học - kỹ thuật là vấn đề sống còn đối với mỗi doanh nghiệp. Các doanh nghiệp thuộc nhiều thành phần khác nhau đang cạnh tranh gay gắt trên thị trường. Trong cuộc cạnh tranh đó tất yếu sẽ không có chỗ cho các doanh nghiệp nào mà hàng hoá không có sức cạnh tranh, kém phẩm chất, mẫu mã không phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng. Vì thế, việc đổi mới máy móc thiết bị, cải tiến qui trình công nghệ, ứng dụng những thành tựu tiến tiến của khoa học - kỹ thuật là một đòi hỏi tất yếu khách quan giúp cho quá trình sản xuất đạt được năng suất cao, tạo ra được những sản phẩm có chất lượng tốt, giá thành hạ, nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường. Do đó, các doanh nghiệp muốn đạt được hiệu quả sản xuất kinh doanh cao đòi hỏi phải luôn chú tâm phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật, ứng dụng tiến bộ khoa học vào sản xuất, đổi mới trang thiết bị tân tiến đồng bộ. Nó là cơ sở để giảm chi phí kinh doanh, giảm mức sử dụng lao động sống và các chi phí khác, từ đó nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. 2.2.4. Trình độ tổ chức quản lý, nhân tố quản trị trong doanh nghiệp Nhân tố quản trị trong doanh nghiệp đóng vai trò quan trọng đến thành công hoặc thất bại của mỗi doanh nghiệp. Quản trị kinh doanh hiện tại luôn chú trọng đến việc xác định cho doanh nghiệp một hướng đi đúng đắn, tức là phải nghiên cứu kĩ các yếu tố ngoại cảnh có ảnh hưởng tới hiệu quả kinh doanh. Xác định đúng chiến lược kinh doanh là cơ sở đầu tiên đem lại hiệu quả hoặc phi hiệu quả, thành công hoặc thất bại của doanh nghiệp trên thị trường. Muốn tồn tại và phát triển, doanh nghiệp phải chiến thắng trong cạnh tranh, điều đó phụ thuộc vào nhãn quan và khả năng nắm bắt thông tin, hoạch định chiến lược của các nhà quản trị doanh nghiệp. Ban giám đốc là cấp quản lý cao nhất trong doanh nghiệp. Vai trò của Ban giám đốc trong hoạt động sản xuất kinh doanh là rất quan trọng, thể hiện sự kết hợp tối ưu hài hoà các yếu tố trong quá trình sản xuất kinh doanh đem lại kết quả kinh doanh cao, giảm những chi phí không cần thiết. Có thể nói, sự thành công hoặc thất bại của một doanh nghiệp chịu ảnh hưởng rất lớn bởi quyết định của Ban lãnh đạo. Với vai trò quan trọng như vậy nên khả năng và trình độ hiểu biết của các thành viên trong Ban lãnh đạo doanh nghiệp là rất cần thiết. Ban giám đốc có năng lực trình độ và kinh nghiệm sẽ tổ chức doanh nghiệp một cách khoa học và hiệu quả. Sự năng động, sáng tạo của cấp quản lý sẽ giúp doanh nghiệp nắm bắt và tận dụng triệt để các cơ hội kinh doanh. Người quản lý giỏi là người biết chớp thời cơ và quyết đoán trong mọi trường hợp, đồng thời phải biết tổ chức phân công hiệp tác lao động hợp lý giữa các bộ phận, các cá nhân, sử dụng đúng người, đúng việc để tận dụng được tối đa năng lực của đội ngũ cán bộ công nhân viên, nhằm tạo ra sự hợp lý, thông suốt trong tiến trình thực hiện nhiệm vụ chung của doanh nghiệp. 2.2.5. Trình độ tổ chức quản lý và tiêu thụ hàng hoá Đối với mỗi doanh nghiệp, tiêu thụ hàng hoá là quá trình đưa hàng hoá tới tay người tiêu dùng. Trong nền kinh tế thị trường mỗi doanh nghiệp cần phải thiết lập được một mạng lưới kinh doanh phù hợp nhằm tiêu thụ sản phẩm của mình. Một mạng lưới kinh doanh rộng khắp cho phép doanh nghiệp mở rộng qui mô kinh doanh, tăng doanh số bán và thu nhiều lợi nhuận. Do đó doanh nghiệp phải không ngừng tìm kiếm và mở rộng thị trường, nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá. Tuy nhiên để nâng cao hiệu quả trong kinh doanh thì doanh nghiệp cần phải xác định được thị trường mục tiêu và thị trường tiềm năng của mình, để từ đó có những chính sách, biện pháp quản lý nguồn lực, bố trí hệ thống kho bãi, cửa hàng thích hợp. Ngày nay, trước tình hình biến động nhanh chóng phức tạp của thị trường cũng như sự cạnh tranh gay gắt giữa các doanh nghiệp trên thương trường, các doanh nghiệp cần phải năng động sáng tạo tìm ra thị trường mới và không ngừng hoàn thiện mạng lưới kinh doanh để thích nghi với cơ chế thị trường, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh đưa doanh nghiệp vững bước đi lên. Ngoài ra, dự trữ là khâu cần thiết khách quan để đảm bảo cho quá trình tiêu thụ hàng hoá được thường xuyên và liên tục, giúp cho quá trình kinh doanh không bị đứt đoạn. Song dự trữ có ảnh hưởng trực tiếp đến chi phí kinh doanh và do đó ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Vấn đề là doanh nghiệp phải xác định được mức dữ trữ tối ưu, vừa đảm bảo cung cấp hàng hoá kịp thời cả về số lượng, cơ cấu và chủng loại, vừa không gây ra tình trạng ứ đọng mặt hàng, chậm phát triển, ảnh hưởng đến tốc độ chu chuyển vốn, tăng chi phí lưu thông và giảm hiệu quả kinh doanh. 2.2.6. Hệ thống trao đổi và xử lý thông tin Trong xu thế toàn cầu hoá như hiện nay, thông tin được coi là hàng hoá, là đối tượng kinh doanh và nền kinh tế thị trường được coi là nền kinh tế thông tin hoá. Để hoạt động sản xuất diễn ra thành công trong điều kiện cạnh tranh quyết liệt, các doanh nghiệp cần rất nhiều thông tin chính xác về thị trường, về kỹ thuật công nghệ, về sản phẩm, về đối thủ cạnh tranh về người mua, người bán, giá cả, về kinh nghiệm của các doanh nghiệp trong và ngoài nước, các chính sách kinh tế của Nhà nước và các nước khác. Hơn thế nữa, những thông tin kịp thời chính xác sẽ là cơ sở vững chắc để doanh nghiệp xây dựng mục tiêu kinh doanh, xác định chiến lược kinh doanh và phát triển của doanh nghiệp, hoạch định các kế hoạch dài hạn cũng như các chương trình sản xuất ngắn hạn. Nếu doanh nghiệp không nắm bắt được các thông tin thường xuyên liên tục thì dễ đi đến thất bại trong kinh doanh. Muốn vậy, doanh nghiệp cần phải có một hệ thống cung cấp và xử lý thông tin một cách chính xác. Đối với môi trường nội bộ doanh nghiệp, hệ thống trao đổi thông tin trong doanh nghiệp ngày càng trở nên quan trọng bao gồm tất cả các thông tin có liên quan đến từng phòng ban, bộ phận cho đến người lao động. Để thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh một cách trôi chảy và ổn định thì giữa các bộ phận các phòng ban, những người lao động luôn phải trao đổi thông tin liên lạc thông suôt liền mạch. Do đó, mà hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cũng phụ thuộc rất lớn vào hệ thống trao đổi thông tin của doanh nghiệp. Nó làm cho quá trình chuyển thông tin từ bộ phận này sang bộ phận khác, từ cấp trên xuống cấp dưới, từ Ban lãnh đạo đến từng người lao động đạt được sự trôi chảy, nhanh chóng, tạo một sự phối hợp hiệu quả trong công việc. Có thể nói, mỗi doanh nghiệp là một guồng máy, nếu có được thông tin tổng hợp kịp thời, chính xác sẽ làm cho việc điều hành hoạt động của doanh nghiệp được dễ dàng, khả năng cung ứng cũng như bán hàng được nâng cao góp phần tăng doanh số bán và nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Do đó mỗi doanh nghiệp cần phải xây dựng một hệ thống trao đổi và xử lý thông tin rộng khắp đảm bảo cung cấp thông tin kịp thời, liên tục và chính xác. Tóm lại, trong thực tế, hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp chịu tác động tổng hợp của rất nhiều yếu tố và đó chỉ là một vài yếu tố cơ bản nhất ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Để có thể thành công trong kinh doanh, các doanh nghiệp cần phải phân tích, đánh giá và tìm hiểu kĩ các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của mình để đưa ra được những chiến lược kinh doanh hợp lý nhằm không ngừng nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp và phát triển doanh nghiệop ngày càng vững mạnh III. Hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh thương mại - dịch vụ 1. Nhóm chỉ tiêu định tính xác định hiệu quả kinh doanh thương mại - dịch vụ Hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp thương mại là một vấn đề phức tạp, có quan hệ đến toàn bộ các yếu tố của quá trình kinh doanh. Trong phạm vi rộng, hiệu quả kinh doanh thương mại thể hiện việc thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội của nền kinh tế bao gồm: - Tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế tăng. - Nâng cao thu nhập quốc dân. - Tạo công ăn việc làm cho người lao động. - Cải thiện vị thế của nước ta trên trường quốc tế. - Giảm sự chênh lệch của cán cân thanh toán. - Khai thác tối đa tiềm năng sản xuất của nền kinh tế. - Sử dụng có hiệu quả các nguồn lực kinh tế. ..................... Những chỉ tiêu này mang tích chất định tính khá nhiều do đó, xác định bằng con số cụ thể là một công việc khó khăn và phức tạp. Tuy nhiên, một nền kinh tế quốc dân đạt được hiệu quả kinh doanh sẽ tác động trực tiếp tới các yếu tố trên, góp phần phát triển nền kinh tế. 2. Nhóm các chỉ tiêu định lượng 2.1. Các chỉ tiêu hiệu quả tổng hợp 2.1.1 Chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng các nguồn lực của doanh nghiệp Chỉ tiêu này phản ánh hiệu quả của doanh nghiệp trong một thời gian nhất định thu được bao nhiêu đồng doanh thu trên một đồng chi phí bỏ ra để thu được doanh thu đó. ồ doanh thu HQ = ồ chi phí HQ : Hiệu quả kinh tế Chỉ tiêu này càng lớn, trình độ sử dụng các nguồn lực tham gia vào quá trình hoạt động kinh doanh càng tốt và ngược lại, chỉ tiêu này càng nhỏ thì việc sử dụng các yếu tố chi phí càng kém hiệu quả. 2.1.2. Chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận ồ P P’ = DTT Trong đó : P’ : Tỷ suất lợi nhuận ồ P: Tổng lợi nhuận đạt dược trong kỳ DTT: Doanh thu thuần Chỉ tiêu này phản ánh trong một thời kỳ nhất định, doanh nghiệp thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận trên một đồng doanh thu. Chỉ tiêu này càng cao, hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp càng cao. 2.1.3. Chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận trên tổng chi phí ồ P P’ = ồ CP Chỉ tiêu này phản ánh mức lợi nhuận mà doanh nghiệp thu được trên một đồng chi phí bỏ ra. Trong đó: P’ : Tỷ suất lợi nhuận ồ P : Tổng lợi nhuận đạt được trong kỳ ồ CP : Tổng chi phí bỏ ra Chỉ tiêu này càng cao cho thấy mức lợi nhuận thu được trên một đồng chi phí càng lớn, kinh doanh càng có hiệu quả. 2.2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh bộ phận 2.2.1. Hiệu quả sử dụng các loại vốn Vốn kinh doanh của doanh nghiệp là số tiền ứng trước về các tài sản cần thiết nhằm thực hiện các nhiệm vụ cơ bản của kinh doanh trong kỳ bao gồm vốn lưu động và vốn cố định. Thông thường, hiệu quả sử dụng vốn được đánh giá qua hai bước: Bước một: đánh giá hiệu quả sử dụng vốn nói chung, hiệu quả sử dụng toàn bộ vốn của doanh nghiệp được đánh giá bằng hai chỉ tiêu: Doanh thu thuần Tổng lợi nhuận HQ = hoặc HQ = Tổng vốn kinh doanh Tổng vốn kinh doanh Bước hai: đánh giá hiệu quả sử dụng các loại vốn - Hiệu quả sử dụng vốn lưu động : được đánh giá bằng chỉ tiêu tốc độ chu chuyển vốn lưu động DTT L = VLĐ T N = L Trong đó: L : Số lần chu chuyển vốn lưu động trong kỳ DTT : Doanh thu thuần thu được trong kỳ VLĐ : Vốn lưu động trong kỳ N : Số ngày chu chuyển vốn lưu động T : Thời gian theo lịch trong kỳ - Hiệu quả sử dụng vốn cố định: được đánh giá bằng chỉ tiêu sức sản xuất của vốn cố định ồ DT = VCĐ Trong đó: Ssx : Sức sản xuất của vốn cố định trong kỳ ồ DT : Tổng doanh thu thu được trong kỳ VCĐ : Vốn cố định trong kỳ Chỉ tiêu này phản ánh một đồng vốn cố định bỏ ra thu được bao nhiêu đồng doanh thu. - Sức sinh lời của vốn cố định: Tỷ suất lợi nhuận của vốn cố định. ồ P P’VCĐ = x 100 VCĐ Trong đó: P’VCĐ : Tỷ suất lợi nhuận của vốn cố định ồ P : Tổng lợi nhuận thu được trong kỳ VCĐ : Vốn cố định trong kỳ Chỉ tiêu này cho biết bao nhiêu đồng lợi nhuận được tạo ra từ một đồng vốn cố định. 2.2.2. Hiệu quả sử dụng lao động Số lượng và chất lượng của lao động giữ một vai trò quan trọng trong hoạt động sản xuất của doanh nghiệp. Hiệu quả sử dụng lao động được biểu hiện ở năng suất lao động, mức sinh lời của một lao động và hiệu suất tiền lương. - Năng suất lao động. DT W = LĐBQ Trong đó: W : Năng suất lao động bình quân của một lao động trong kỳ DT : Doanh thu thực hiện trong kỳ LĐBQ : Tổng số lao động bình quan của doanh nghiệp trong kỳ - Mức sinh lời của một lao động: ồP P = LĐBQ Trong đó: P : Lợi nhuận bình quân của một người lao động ồ P : Tổng lợi nhuận thu được trong kỳ LĐBQ : Tổng số lao động bình quân của một doanh nghiệp trong kỳ Hai chỉ tiêu này phản ánh hiệu quả có ích của một lao động trong quá trình hoạt động kinh doanh. Nó được biểu hiện bằng doanh thu bình quân của một lao động và mức lợi nhuận mà một lao động làm ra trong kỳ. Chỉ tiêu này cho phép chúng ta đánh giá một cách chung nhất hiệu quả sử dụng lao động trong toàn đơn vị. - Hiệu quả sử dụng chi phí tiền lương: ồ P P’ = QL Trong đó: P’ : Hiệu suất tiền lương ồ P : Tổng lợi nhuận trong kỳ QL : Tổng quĩ lương của doanh nghiệp trong một thời kỳ kinh doanh Chỉ tiêu này cho biết trong một thời kỳ nhất định, doanh nghiệp bỏ ra một đồng chi phí tiền lương thì thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Chỉ tiêu này càng cao thì hiệu quả sử dụng lao động càng cao. - Ngoài ra còn sử dụng chỉ tiêu tỷ suất tiền lương để đánh giá hiệu quả sử dụng lao động sống: QL P’ = x 100 ồ DT Trong đó: P’ : Tỷ suất tiền lương QL : Tổng quĩ lương của doanh nghiệp trong kỳ ồ DT : Tổng doanh thu thực hiện trong kỳ Chỉ tiêu này cho biết, để thực hiện được 100đ doanh thu thì phải chi ra bao nhiêu đồng để trả lương. Chỉ tiêu này càng nhỏ hiệu quả sử dụng lao động càng tốt. 2.2.3. Hiệu quả sử dụng các cơ sở vật chất kỹ thuật Với các doanh nghiệp kinh doanh thương mại - dịch vụ, cơ sở vật chất kỹ thuật đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng dịch vụ của doanh nghiệp. Hiệu quả sử dụng cơ sở vật chất kỹ thuật cho biết khả năng một đơn vị vật chất kỹ thuật mang lại bao nhiêu đồng doanh thu hoặc tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận. Chỉ tiêu này càng lớn, khả năng sử dụng có hiệu quả cơ sở vật chất kỹ thuật của doanh nghiệp càng cao, doanh nghiệp càng đạt được hiệu quả trong kinh doanh. Tóm lại, để đánh giá hiệu quả kinh doanh đảm bảo tính đúng đắn và thông nhất, người ta đưa ra một hệ thống các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả. Hệ thống chỉ tiêu phải đảm bảo các yêu cầu sau: - Việc nâng cao hiệu quả kinh doanh phải kết hợp hài hoà giữa các chỉ tiêu bộ phận với hiệu quả kinh doanh của toàn doanh nghiệp. Do đó, hệ thống chỉ tiêu phải có các chỉ tiêu tổng hợp và các chỉ tiêu bộ phận. Các chỉ tiêu tổng hợp cho ta biết tình hình kinh doanh chung của toàn doanh nghiệp và có thể đưa ra những kết luận tương đối chính xác về tính hiệu quả của doanh nghiệp. Còn các chỉ tiêu bộ phận chỉ phản ánh tình hình sản xuất kinh doanh của từng bộ phận chức năng và nó chỉ có thể đưa ra những nguyên nhân và phân tích tác động của từng nhân tố đến hiệu quả sản xuất kinh doanh. Hệ thống chỉ tiêu đầy đủ phải kết hợp hài hoà giữa chỉ tiêu bộ phận và chỉ tiêu tổng hợp trong việc đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh. - Hệ thống chỉ tiêu đánh giá phải đảm bảo tính chính xác và thực tiễn nghĩa là phải dựa trên cơ sở số liệu thực tiễn, đơn giản và dễ hiểu, không nên sử dụng phương pháp quá phức tạp khi chưa có điều kiện sử dụng. - Hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả phải phản ánh được trình độ sử dụng lao động vật hoá thông qua việc so sánh giữa kết quả và chi phí. - Hệ thống chỉ tiêu phải gắn với mục tiêu của doanh nghiệp trong từng giai đoạn, điều kiện kinh doanh, sự biến động của môi trường... mới có thể đánh giá được chính xác hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Việc đánh giá chính xác hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp sẽ góp phần tìm ra những nguyên nhân làm ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh và tìm ra các giải pháp khắc phục những ảnh hưởng không tốt đó, nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. phần hai thực trạng kinh doanh và hiệu quả kinh doanh của trạm đón tiếp khách nhà khách bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn I. Khái quát về trạm đón tiếp khách nhà khách bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn 1. Quá trình hình thành và phát triển Nhà khách Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn là đơn vị thuộc Văn phòng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn được thành lập theo quyết định số 307 NN - TCCB / QĐ ngày 12/ 12 /1992 của Bộ trưởng Bộ nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Nhà khách là đơn vị hoạch toán kinh doanh độc lập có trụ sở tại 16 Thuỵ Khê - Quận Tây Hồ - Hà Nội. Trước năm 1945, địa điểm Nhà khách hiện giờ là doanh trại của sĩ quan Pháp. Từ năm 1945 - 1954 là khu vườn ươm thuộc Bộ canh nông thời Pháp thuộc. Từ năm 1959, địa điểm này được giao cho Bộ nông nghiệp quản lý. Tới tháng 4 / 1987, Chính phủ có quyết định thành lập Bộ Nông nghiệp và Công nghiệp thực phẩm trên cơ sở hợp nhất 2 Bộ là Bộ Nông nghiệp và Bộ Công nghiệp thực phẩm. Vì vậy, với quyết định số 207 NN - CNTP / TCBB ngày 15 / 7 / 1987, Bộ Nông nghiệp và Công nghiệp thực phẩm quyết định thành lập nhà khách trực thuộc văn phòng Bộ Nông nghiệp và Công nghiệp thực phẩm có trụ sở I tại 16 Thuỵ Khê, trụ sở II tại 28 Cát Linh (trước khi hợp nhất là Nhà khách của Bộ công nghiệp thực phẩm) và lấy tên là nhà khách Bộ Nông nghiệp và Công nghiệp thực phẩm. Cuối năm 1992, Chính phủ lại có quyết định thành lập Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (Bộ NN & PTNT) trên cơ sở hợp nhất Bộ Nông nghiệp và Công nghiệp thực phẩm, Bộ Thuỷ lợi, Bộ Lâm nghiệp. Vì vậy, với quyết định số 307 NN -TCCB / QĐ ngày 12 / 12 / 1992, nhà khách Bộ nông nghiệp và Công nghiệp thực phẩm được đổi tên thành Nhà khách Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Tới tháng 9 / 1993, Bộ NN & PTNT cho công ty VMEP của Đài Loan thuê dài hạn trụ sở II tại 28 Cát Linh. Do đó, hiện nay Nhà khách Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chỉ có 1 trụ sở đặt tại 16 Thuỵ Khê - Quận Tây Hồ - Hà Nội. 2. Chức năng, nhiệm vụ của Trạm đón tiếp khách Nhà khách Bộ nông nghiệp và Phát triển nông thôn Nhà khách Bộ NN & PTNT là đơn vị hoạch toán kinh doanh độc lập có nhiệm vụ khai thác, tổ chức hoạt động kinh doanh dịch vụ lưu trú phòng nghỉ ăn uống, vui chơi giải trí và một số dịch vụ bổ sung khác. Nhà khách tự cân đối tài chính và chăm lo đời sống vật chất tinh thần, thường xuyên bồi dưỡng cán bộ công nhân viên, phát triển toàn diện về kiến thức, năng lực chuyên môn, nếp sống văn hoá. Nhà khách có trách nhiệm giữ gìn tài sản và từng bước nâng cấp, cải tạo đổi mới cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật. Căn cứ vào nhiệm vụ được Văn phòng Bộ giao vào kế hoạch phát triển của nhà khách và tình hình cụ thể của từng thời điểm về thị trường, Nhà khách chủ động xác định phương án kinh doanh dịch vụ, phương thức kinh doanh và cơ cấu tổ chức của các phòng ban cho phù hợp với nhiệm vụ được giao và kinh doanh có hiệu quả. Nhà khách lấy sự ổn định chính trị nội bộ để phát triển kinh tế, không ngừng vươn lên chiếm lĩnh thị trường khu vực. Thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ được giao, đồng thời xác định nhiệm vụ lâu dài, tạo nền móng vững chắc cho sự nghiệp phát triển của đơn vị hành chính - sự nghiệp sang kinh doanh dịch vụ du lịch khách sạn, thương mại. 3. Cơ cấu tổ chức của Trạm đón tiếp khách Nhà khách Bộ nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hiện nay, Nhà khách có 36 cán bộ - công nhân viên và được phân bổ vào các phòng ban, các bộ phận với số lượng phù hợp với nhiệm vụ của từng bộ phận. Đứng đầu nhà khách là Giám đốc điều hành do Bộ bổ nhiệm, miễn nhiệm và chịu trách nhiệm về các hoạt động của nhà khách trước Bộ, Văn phòng Bộ và pháp luật. Giúp việc cho Giám đốc là một Phó giám đốc điều hành các hoạt động theo từng lĩnh vực do Giám đốc phân công. Ngoài ra còn có kế toán trưởng và tổ trưởng các bộ phận giúp Giám đốc điều hành mọi hoạt động của Nhà khách. 3.1. Giám đốc Giám đốc nhà khách là người đại diện cho nhà khách về đối nội, đối ngoại. Giám đốc do Bộ bổ nhiệm, miễn nhiệm và chịu trách nhiệm về các hoạt động của nhà khách trước Bộ, Văn phòng Bộ và pháp luật của Nhà nước. Giám đốc điều hành nhà khách theo chế độ thủ trưởng, có nhiệm vụ quản lý, sử dụng vốn và các nguồn lực khác được Văn phòng, Bộ và Nhà nước giao theo mục tiêu và nhiệm vụ của đơn vị. Giám đốc có trách nhiệm xác định chiến lược phát triển, kế hoạch dài hạn và hàng năm của nhà khách, các phương án, dự án đầu tư, liên doanh và các đề án tổ chức quản lý nhà khách trình Chánh văn phòng phê duyệt. Giám đốc nhà khách tổ chức điều hành mọi hoạt động của nhà khách và chịu sự kiểm tra giám sát của các cấp uỷ Đảng và cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đối với nhiệm vụ được giao. 3.2. Phó giám đốc Phó giám đốc nhà khách là người giúp giám đốc điều hành hoạt động theo từng lĩnh vực hoặc khối công việc được Giám đốc phân công phụ trách hoặc uỷ quyền và phải chịu trách nhiệm trước Giám đốc và pháp luật về các lĩnh vực được phân công hoặc uỷ quyền. Trước kia, Nhà khách Bộ NN & PTNT có 2 Phó giám đốc những bây giờ, do nhà khách chỉ còn một trụ sở, khối lượng công việc không nhiều nên đã bớt xuống chỉ còn một Phó giám đốc, được Giám đốc giao trách nhiệm quản lý điều hành hoạt động của bộ phận nhà buồng, nhà ăn và tổ bảo vệ điện nước. 3.3. Kế toán trưởng Kế toán trưởng giúp Giám đốc chỉ đạo, tổ chức thực hiện công tác kế toán thống kê của nhà khách và có nhiệm vụ, quyền hạn theo qui định của pháp luật hiện hành về kế toán thống kê. 3.4. Bộ phận tài vụ - kế toán Bộ phận tài vụ kế toán có 4 người gồm: 1 kế toán trưởng, 1 thủ quĩ và 2 kế toán viên. Bộ phận này có nhiệm vụ tổ chức hoạch toán và theo dõi toàn bộ hoạt động tổ chức của nhà khách, than mưu cho Giám đốc về mặt quản lý tổ chức, đề xuất các phương án về việc phân phối có hiệu quả vật tư, tài sản của nhà khách. Bộ phận tài vụ có trách nhiệm thực hiện công tác kế toán, thống kê theo các mô hình hoạch toán, đảm bảo hợp lý, hợp lệ do Bộ tài chính đề ra. Đồng thời, phải thực hiện chế độ báo cáo theo đúng qui định, xây dựng qui trình và kiểm tra thực hiện việc lưu trữ chứng từ theo qui định. 3.5. Bộ phận lễ tân Đây thực sự là bộ mặt của nhà khách, thay mặt nhà khách đón tiếp khách, hướng dẫn sắp xếp chỗ ăn nghỉ và giải quyết các yêu cầu của khách được thuận tiện, kịp thời. Bộ phận lễ tân có 5 người gồm: 1 tổ trưởng, 1 tổ phó và 3 nhân viên với 3 ca làm việc trong một ngày (ca sáng, ca chiều và ca đêm) Để nhanh chóng làm thủ tục giao nhận buồng và đáp ứng yêu cầu của khách kịp thời, nhân viên lễ tân phải nắm rõ qui trình nghiệp vụ, thao tác sổ sách chính xác, rõ ràng. Đồng thời nhân viên lễ tân phải có sự kết nối chặt chẽ với bộ phận nhà buồng, bộ phận ăn uống và các dịch vụ khác để nắm rõ tình hình buồng nghỉ, đáp ứng nhanh chóng các yêu cầu của khách. 3.6. Bộ phận nhà buồng Cùng với bộ phận lễ tân, bộ phận nhà buồng cũng là khâu then chốt, là xương sống trong hoạt động của nhà khách. Hai bộ phận này có mối quan hệ hữu cơ với nhau, hợp tác hai chiều chặt chẽ cùng phục vụ nhu cầu lưu trú, nghỉ ngơi của khách. Đây là bộ phận có đông nhân viên nhất của nhà khách với 14 người , trong đó có 1 tổ trưởng trực tiếp phụ trách hệ thống buồng ngủ, hướng dẫn khách nhận phòng, sử dụng trang thiết bị trong phòng và chịu trách nhiệm dưới sự điều hành của Phó giám đốc. Nhân viên nhà buồng phải tổ chức quản lý giữ gìn đồ vật, tư trang, tài sản của khách, ghi chép đầy đủ chính xác tình hình khách đến và đi trong ngày, tình hình sử dụng buồng để đối chiếu với sổ sách hoá đơn trong phòng lễ tân, tránh nhầm lẫn làm phiền lòng khách. Nhân viên nhà buồng cũng là những người thường xuyên tiếp xúc với khách nên phải luôn có thái độ đúng mực, hoà nhã, ân cần niềm nở với khách và phải có tính trung thực, rõ ràng, không tư lợi tài sản của khách. 3.7. Bộ phận dịch vụ ăn uống (bếp, bàn, bar...) Bộ phận này gồm 5 người với 1 tổ trưởng và được chia làm 2 ca thực hiện công việc nấu ăn phục vụ các bữa ăn cho khách. Bộ phận ăn uống tổ chức chế biến phục vụ chu đáo 3 bữa ăn trong ngày cho khách nghỉ, đoàn tham quan, hội nghị, đám cưới... Bảo đảm cơm ngon canh ngọt, hợp khẩu vị của khách, bảo đảm chất lượng thực phẩm khi mua về vệ sinh sạch sẽ, giá cả hợp lý, tinh thần thái độ phục vụ nhiệt tình niềm nở tạo ấn tượng tốt với khách. Bộ phận ăn uống còn có trách nhiệm duy trì tốt môi trường vệ sinh xung quanh, chịu trách nhiệm về tài sản và công cụ lao động của bộ phận mình, mở sổ sách theo dõi việc thu chi hàng ngày theo hướng dẫn của kế toán. 3.8. Bộ phận bảo vệ điện nước Tổ bảo vệ là đơn vị được cơ quan giao nhiệm vụ bảo vệ tài sản của cơ quan và của khách đến nghỉ, đồng thời, bảo vệ trật tự an ninh trong cơ quan, trông giữ xe, bảo đảm đầy đủ điện nước phục vụ khách, phục vụ cơ quan. Bộ phận này gồm 6 người với 1 tổ trưởng, 1 tổ phó và 4 nhân viên chịu trách nhiệm tiếp khách, hướng dẫn khách ra vào nhà khách, trông xe cộ, phương tiện cho khách, sửa chữa và bảo dưỡng kịp thời các trang thiết bị điện, nước trong cơ quan, cung cấp và quản lý tốt khâu nước sạch phục vụ cơ quan, phục vụ khách. Bộ phận bảo vệ điện nước nằm dưới sự điều hành của Phó giám đốc. Sơ đồ bộ máy quản lý của nhà khách: giám đốc phó giám đốc trưởng bộ phận kế toán trưởng bộ phận lễ tân Trưởng phòng bảo vệ điện nước Trưởng bộ phận ăn uống nhà hàng trưởng bộ phận buồng Nhân viên bảo vệ, sửa chữa điện nước Nhân viên phục vụ ăn uống nhà hàng Nhân viên nhà buồng Nhân viên lễ tân Nhân viên kế toán II. Thực trạng kinh doanh và hiệu quả kinh doanh của nhà khách Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn 1. Môi trường kinh doanh 1.1. Vị trí địa lý Với mỗi doanh nghiệp, vị trí địa lý có tác động không nhỏ tới hoạt động của sản xuất kinh doanh. Đối với doanh nghiệp sản xuất, vị trí địa lý ảnh hưởng đến chi phí sản xuất, chi phí vận chuyển, giao dịch. Một vị trí thuận lợi, gần nguồn cung cấp các yếu tố đầu vào sẽ làm giảm chi phí sản xuất, chi phí lưu thông góp phần giúp doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả. Đối với doanh nghiệp kinh doanh hàng hoá và dịch vụ,vị trí địa lý ở gần nhóm khách hàng trọng điểm, ở nơi mà hàng hoá của doanh nghiệp có điều kiện phát triển tốt sẽ là yếu tố thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Đối với Nhà khách Bộ NN & PTNT, địa điểm 16 Thuỵ Khê - quận Tây Hồ - Hà Nội là 1 địa điểm đẹp và lí tưởng. Là một cơ quan trực thuộc Văn phòng Bộ, lại có vị trí nằm gần Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn nên dễ dàng nhận được sự chỉ đạo thường xuyên của Văn phòng Bộ với Nhà khách. Sự thuận lợi đó giúp Nhà khách nhanh chóng nhận được những góp ý và giúp đỡ kịp thời của Bộ và Văn phòng Bộ trong quá trình hoạt động kinh doanh, góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh. Bên cạnh đó, với diện tích rộng khoảng 3147, lại nằm trên trục đường giao thông thông thoáng, có nhiều cơ quan trung ương nên việc đi lại luôn được đảm bảo thông suốt, liên tục. Trong hoàn cảnh các đường phố luôn bị quá tải mật độ người đi lại như hiện nay, có rất nhiều tuyến đường thường xuyên bị ách tắc, khả năng đi lại dễ dàng trên trục đường nhà khách toạ lạc sẽ giúp du khách đến nghỉ đi lại nhanh chóng, thuận tiện. Không những thế, Nhà khách Bộ NN & PTNT còn nằm bên bờ Hồ Tây lộng gió với nhiều danh thắng và di tích lịch sử của Hà Nội ở xung quanh như Lăng Bác, Phủ chủ tịch, bảo tàng Hồ Chí Minh, chùa Trấn Quốc, chùa Quan Thánh..., tạo điều kiện cho khách kết hợp giữa việc ăn nghỉ với tham quan, thăm viếng. Đó là những thuận lợi không nhỏ thu hút khách tới nghỉ, giúp nhà khách nâng cao kết quả kinh doanh. 1.2. Đặc điểm về nguồn khách Nguồn khách là vấn đề cần quan tâm hàng đầu của bất cứ nhà nghỉ, khách sạn nào bởi đây là động cơ và lợi nhuận của khách sạn. Việc nghiên cứu nguồn khách là nền tảng, cơ sở cho các khách sạn tổ chức phục vụ tốt hơn nhằm thoả mãn tối đa nhu cầu của khách. Mặt khác, nghiên cứu đặc điểm nguồn khách giúp các khách sạn biết được khả năng thanh toán và tiêu dùng của khách để tổ chức phục vụ, từ đó ngày một nâng cao chất lượng phục vụ, nâng cao trình độ tay nghề của cán bộ công nhân viên 1 cách hiệu quả nhất. Nhà khách Bộ NN & PTNT chủ yếu đón tiếp khách từ khắp nơi trong cả nước đến với mục đích tham dự các cuộc hội nghị, hội thảo. Phần lớn trong số họ là cán bộ của các cơ quan ban ngành địa phương thuộc Bộ được mời về dự họp. Một số ít là khách vãng lai hoặc khách của các Bộ khác đi công vụ tới ăn nghỉ. Do đó, mức chi tiêu của khách thường được đài thọ hoặc do cơ quan địa phương chu cấp nên chỉ ở mức bình dân. Họ chỉ quan tâm tới các dịch vụ đáp ứng các nhu cầu cần thiết ở mức độ thông thường, giá cả phù hợp với khả năng và quy định của Nhà nước. Bên cạnh đó, thời gian khách lưu trú thường vào ban đêm, ban ngày khách đi dự hội nghị, vãn cảnh nên quỹ thời gian sử dụng dịch vụ bổ sung tại nhà khách giảm đi nhiều. Tuy nhiên một phần lớn phải kể đến là do các sản phẩm dịch vụ của nhà khách chưa cao, các hình thức dịch vụ bổ sung không có, mới chỉ đáp ứng được nhu cầu thiết yếu về ăn nghỉ của khách mà chưa đáp ứng được các nhu cầu bổ sung cao cấp nên chưa khai thác được "tiềm năng" chi trả của khách hàng vì tuy mức chi tiêu thực tế của khách là thấp nhưng điều đó không có nghiã là khả năng thanh toán thấp. Đây là vấn đề mà nhà khách chưa tìm ra hướng giải quyết cho phù hợp. 1.3. Các lĩnh vực hoạt động kinh doanh của nhà khách Một doanh nghiệp muốn hoạt động có hiệu quả trước khi bước vào kinh doanh phải nghiên cứu thực tế để lựa chọn loại hình kinh doanh phù hợp với tiềm lực của mình và đáp ứng được nhu cầu của thực tế. Sau đó mới dần dần mở rộng thêm các lĩnh vực mới để tăng doanh thu, đạt được hiệu quả cao trong kinh doanh. Nhà khách Bộ NN & PTNT là đơn vị hành chính sự nghiệp, được Bộ thành lập nhằm mục đích đón tiếp khách trong và ngoài Bộ về dự hội nghị, hội thảo có nơi ăn nghỉ. Do đó trong thời kỳ bao cấp và cả hiện tại, Nhà khách không phải lo đến nguồn khách nghỉ. Hoạt động kinh doanh chính là đón tiếp khách, sắp xếp chỗ ăn nghỉ cho khách với khoảng 40 phòng ngủ có đầy đủ đồ dùng sinh hoạt, trang thiết bị. Tuy nhiên, chỉ kinh doanh phòng ngủ thôi thì không đủ để nhà khách tồn tại trong thời điểm hiện tại. Vì trong thời bao cấp, nhà khách được Bộ chu cấp cho toàn bộ, lời lỗ Nhà nước chịu nên nhà khách chỉ cần thực hiện đúng chức năng nhiệm vụ của mình. Nhưng trong nền kinh tế thị trường, việc kinh doanh rất khó khăn do có sự xuất hiện của nhiều khách sạn với trang thiết bị, cơ sở vật chất hiện đại, dịch vụ bổ sung phong phú đa dạng. Do đó, với cơ sở vật chất không đồng bộ, sản phẩm dịch vụ không nhiều, Nhà khách không thể cạnh tranh nổi với các khách sạn khác. Bên cạnh đó, Bộ lại quyết định cho nhà khách hạch toán kinh doanh độc lập nên việc mở rộng kinh doanh để tồn tại và phát triển là rất cần thiết. Vì vậy, phòng ăn ngoài việc phục vụ nhu cầu ăn uống cho khách còn được dùng để cho thuê làm nơi tổ chức đám cưới, đám tiệc, nấu ăn phục vụ tiệc cưới, hội hè. Đặc điểm của nhà khách là phục vụ với giá cả phải chăng, hợp lý nên có thể đáp ứng được nhu cầu của khách hàng bình dân, không đòi hỏi cao cấp. Ngoài ra, nhà khách còn có một phòng họp lớn thường xuyên cho thuê làm nơi tổ chức các lớp học chính trị của Bộ định kỳ hàng tháng hoặc để tổ chức các buổi hội thảo, hội nghị, học tập kinh nghiệm. Để tận dụng hết lợi thế về diện tích rộng với 3147 m2 Nhà khách đã cho xây 5 - 6 phòng biệt lập cho các đơn vị có nhu cầu thuê làm nơi làm việc hoặc văn phòng đại diện. Kể cả trụ sở 2 của nhà khách tại 28 Cát Linh nay đã cho công ty VMEP của Đài Loan thuê cũng được coi là một lĩnh vực kinh doanh và tiền cho thuê hàng năm được tính vào doanh thu của nhà khách. Tất cả những hoạt động kinh doanh trên đã góp phần đáng kể vào việc tăng doanh thu của nhà khách, cải thiện tình hình kinh doanh, từng bước nâng cao hiệu quả. 2. Kết quả hoạt động kinh doanh của nhà khách 2.1. Đánh giá kết quả chung Nhà khách Bộ NN & PTNT là cơ quan hành chính sự nghiệp nhưng lại chịu trách nhiệm hạch toán kinh doanh độc lập, lấy thu bù chi nên Ban giám đốc nhà khách đã tiến hành mọi hoạt động kinh doanh có thể nhằm tận dụng hết phần diện tích và khả năng của nhà khách để không ngừng tăng doanh thu, tăng lợi nhuận. Đối với loại hình kinh doanh nhà nghỉ, khách sạn, thị trường tương đối rộng lớn. Hiện nay, trên thị trường này, cung đang lớn hơn cầu vì có rất nhiều khách sạn mọc lên với đủ các quy mô lớn nhỏ, hiện đại cao cấp cho đến bình dân. Đã có rất nhiều khách sạn xây dựng lên, đi vào hoạt động nhưng không thể sử dụng hết công suất phòng vì lượng khách đi du lịch không đủ lấp kín hệ thống phòng nghỉ nhiều như vậy. Nhà khách Bộ NN & PTNT thuộc loại bình dân, chủ yếu khách đến nghỉ là người trong ngành khi về Hà Nội công tác. Nhu cầu của họ là có chỗ nghỉ ngơi thoải mái, giá cả phải chăng, phù hợp với khả năng tài chính của họ và quy định của Nhà nước. Nắm bắt được nhu cầu đó nên mức giá ở Nhà khách cũng chỉ ở mức vừa phải nhằm thu hút và tiếp đón khách trong ngành cũng như ngoài ngành. Ngoài ra, nhà khách không chỉ kinh doanh buồng ngủ, ăn uống mà còn cho thuê văn phòng, hội trường để góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh. Bảng 1: Kết quả hoạt động kinh doanh của nhà khách từ 1999 - 2001 Đơn vị tính: VND Số TT Chỉ tiêu Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 Tỷ lệ (%) Tỷ lệ (%) 1 2 3 4 5 6=4/3 7=5/4 1 Tổng doanh thu 1.554.770.280 1.695.197.504 1.850.584.000 109,0 109,2 2 Tổng chi phí 1.181.269.707 1.319.627.869 1.466.762.126 111,7 111,2 3 Tổng lợi nhuận 373.500.573 375.569.635 383.821.874 100,6 102,2 4 Thu nhập BQ 1.0808.665 1.489.767 1.532.202 147,7 102,9 5 Lương BQ 579.803 698.655 908.204 120,5 130,0 Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh của Nhà khách từ 1999 - 2001 Nhìn chung, qua các năm, kết quả hoạt động kinh doanh của năm sau luôn cao hơn năm trước cho dù tỉ lệ tăng không đáng kể. Điều đó cho thấy nỗ lực của tập thể cán bộ công nhân viên nhà khách nhằm giữ vững và cải thiện kết quả kinh doanh, tránh tình trạng thụt lùi so với năm trước. Năm 2000, doanh thu Nhà khách đạt 1.695.497.504VNĐ, cao hơn 140.427.224 VNĐ so với năm 1999, đạt tỉ lệ tăng là 9%. Còn với năm 2001, tỉ lệ tăng là 9,2% cao hơn năm 2000 là 155.386.496 VNĐ đạt tổng doanh thu 1.850.584.000 VNĐ. Như vậy, nếu không tính đến yếu tố trượt giá thì tổng doanh thu năm 2001 cao hơn năm 2000. Nguyên nhân của kết quả đó là do Nhà khách không ngừng cải tạo, nâng cấp cơ sở vật chất để tăng số lượng khách đến nghỉ (năm 2000 nhà khách tiếp đón được 10.598 lượt khách với thời gian lưu trú trung bình là 2,4 ngày. Năm 2001, số lượng khách là 12.305 người, lưu trú trung bình khoảng 2,6 ngày). Ngoài ra, nhà khách còn tăng cường các hoạt động kinh doanh khác như cho thuê hội trường, văn phòng, tổ chức tiệc cưới, đám tiệc nên doanh thu tăng cao hơn. Tuy nhiên, xét về lợi nhuận đạt được thì tỉ lệ lại không được cao như vậy. Mặc dù năm sau vẫn cao hơn năm trước nhưng tỉ lệ tăng lại không đáng kể, năm 2000 so với năm 1999 chỉ có 0,55%, năm 2001 so với năm 2000 là 2,2%. Sở dĩ có kết quả chênh lệch giữa tỉ lệ tăng doanh thu và tỉ lệ tăng lợi nhuận như vậy là do chi phí hàng năm của Nhà khách bỏ ra là rất lớn. Năm 2000 tổng chi phí là 1.319.627.869 VNĐ chiếm 77,85% doanh thu. Năm 2001 là 1.466.762.126 VNĐ chiếm 79,26% tổng doanh thu. Nguyên nhân là do cơ sở vật chất của nhà khách đã qua nhiều năm sử dụng nên rơi vào tình trạng xuống cấp phải thường xuyên cải tạo, sửa chữa với chi phí rất lớn để nâng cấp cho đủ khả năng phục vụ khách. Ngoài ra, các khoản chi phí khác cũng tăng đáng kể. Bảng 2. Tình hình chi phí của nhà khách năm 2000 - 2001 Số TT Chỉ tiêu Năm 2000 Năm 2001 đồng Tỷ lệ % đồng Tỷ lệ % 1 Mua TSCĐ, CCDC, lương thực thực phẩm 235.396.154 17,84 261.314.700 17,82 2 Chi phí sửa chữa, nâng cấp cơ sở vật chất 447.893.200 33,94 507.200.000 34,58 3 Tiền lương, thưởng 369.219.968 27,98 392.344.810 26,75 4 Tiền BHXH, BHYT 35.140.270 2,66 37.450.000 2,55 5 Các khoản nộp NSNN 190.635.277 14,45 205.252.616 13,99 6 Các khoản chi phí khác 41.343.000 3,13 63.200.000 4,31 Tổng cộng 1.319.627.869 100 1.466.762.126 100 Theo bảng trên ta thấy, chi phí sửa chữa luôn chiếm tỉ lệ cao nhất trong tổng chi phí hàng năm (2000: 33,94% và 2001: 34,58%) do không đủ vốn để trang bị mới hoàn toàn nên phải thường xuyên bảo dưỡng, sửa chữa. Vì vậy, chi phí bỏ ra là rất tốn kém. Nếu muốn giảm khoản chi phí này, chỉ còn cách là Nhà khách tiến hành thay mới dần dần từng trang thiết bị và sử dụng, bảo quản cẩn thận để giảm thiểu những hỏng hóc. Việc mua sắm công cụ dụng cụ, văn phòng phẩm phục vụ cho việc tiêu dùng tại Nhà khách và mua lương thực thực phẩm chi dùng cho nhà bếp chế biến, nấu ăn cũng chiếm tỉ lệ đáng kể (17,84% năm 2000 và 17,82% năm 2001). Một khoản chi phí chiếm tỉ lệ thứ 2 trong tổng chi phí hàng năm là quỹ lương, thưởng trả cho công nhân viên hàng năm. Năm 2000 khoản chi này là 369.219.895 VNĐ chiếm 27,98%; năm 2001 là 392.344.810 VNĐ chiếm 26,75%. Với quỹ lương cao như vậy, hàng tháng, lương của cán bộ công nhân viên bình quân trong năm 2000 là 698.655 VNĐ và năm 2001 là 908.204 VNĐ. Tuy nhiên, thu nhập bình quân của công nhân viên lại cao hơn nhiều 1.489.767 VNĐ/tháng trong năm 2000 và 1.532.202VNĐ/năm 2001. Đó là một khoản thu nhập rất cao, có thể sánh với thu nhập của nhân viên các khách sạn cao cấp khác. Góp phần cải thiện đáng kể đời sống của cán bộ công nhân viên nhà khách. Điều đó có thể thấy, ban lãnh đạo nhà khách đã quan tâm nhiều tới thu nhập của công nhân viên, tạo ra nhiều hoạt động kinh doanh, tăng doanh thu để từ đó tăng thu nhập cho người lao động. 2.2. Kết quả kinh doanh theo lượt khách nhập phòng Kinh doanh phòng ngủ là hoạt động kinh doanh chính của nhà khách nên doanh thu chiếm một tỉ lệ lớn trong tổng doanh thu. Năm 2000, kinh doanh phòng ngủ đạt 747.000.000 VNĐ tăng 21.920.000 VNĐ so với năm 1999 (725.080.000VNĐ) chiếm 78,4% doanh thu tại 16 Thuỵ Khê và chiếm tới 44,07% tổng doanh thu của Nhà khách (kể cả doanh thu tại 28 Cát Linh). Sở dĩ đạt được kết quả cao như vậy là do nguồn khách của Nhà khách luôn ổn định. Hàng năm Bộ NN & PTNT tổ chức rất nhiều cuộc hội nghị, hội thảo, trao đổi kinh nghiệm và ban hành các cơ chế, chính sách. Do đó, cán bộ của các cơ quan thuộc Bộ ở các địa phương về công tác thường đến nghỉ tại Nhà khách nên lượng khách thường ổn định. Bảng 3: Tình hình lưu trú của khách trong 2 năm 2000 - 2001 Năm Lượt khách (người) Doanh thu (đồng) %Tổng doanh thu Thời gian lưu trú BQ (ngày) % lượt khách 2000 10.598 747.000.000 44,07 2,4 100 2001 12.305 825.000.000 44,58 2,6 116 Trong 2 năm qua, nhằm tạo điều kiện thu hút khách, nâng cao chất lượng phục vụ, nhà khách đã không ngừng nâng cấp, cải tạo phòng ở, đổi mới trang thiết bị trong mỗi phòng. Tuy nhiên, do chỉ là một nhà khách bình dân nên trang thiết bị không phải là những đồ dùng hiện đại nhưng cũng đủ để làm hài lòng khách nghỉ, vì khách đến cũng chỉ yêu cầu được phục vụ ở mức vừa phải, đáp ứng được các nhu cầu thiết yếu với giá cả bình dân phù hợp với khả năng và quy định của Nhà nước. Ngoài ra, Nhà khách còn tiếp đón cả những khách ngoài ngành, khách vãng lai bình dân có nhu cầu ăn nghỉ. Nhưng tỷ lệ khách ngoài này không đáng kể, chỉ chiếm 1/5 tổng số khách được đón tiếp trong năm. Khách chủ yếu đi công tác nên thường mất 1-2 ngày ăn ở. Do vậy thời gian lưu trú trung bình của khách là từ 2,4 - 2,6 ngày. Tuy nhiên, do không có các dịch vụ bổ sung, thể thao vui chơi, giải trí nên không kéo dài được thời gian lưu trú, không khai thác hết khả năng chi tiêu của khách. Đây chính là vấn đề mà Nhà khách cần phải quan tâm và tìm hướng khắc phục nếu muốn nâng cao hiệu quả kinh doanh của mình. Về công suất sử dụng phòng, đó là một chỉ tiêu quan trọng để đánh giá hiệu quả kinh doanh. Tại Nhà khách Bộ NN & PTNT, công suất sử dụng phòng cũng tương đối lớn: 49% năm 2000 và 62% năm 2001. Vì thường xuyên có những cuộc hội nghị, hội thảo do Bộ tổ chức trong một năm, mà khách đến nghỉ lại ở khắp các tỉnh trong cả nước nên các phòng ở Nhà khách được sử dụng với công suất như vậy là hợp lý. Có những tháng tập trung nhiều cuộc họp, công suất sử dụng phòng có khi lên tới 80 - 90%, thậm chí còn không đủ phòng để phục vụ cho cán bộ các địa phương. Nhưng cũng có tháng khách đến chỉ đủ để sử dụng 20-25% lượng phòng. Công suất sử dụng phòng như vậy là lí tưởng với một nhà khách bình dân. Tuy nhiên, nhà khách vẫn cần cải thiện nhiều dịch vụ, hoạt động nữa để thu hút thêm khách ngoài. nâng cao hơn công suất sử dụng phòng. 2.3. Kết quả kinh doanh theo chỉ tiêu doanh thu Bảng 4: Doanh thu của các hoạt động kinh doanh năm 2000 - 2001 của nhà khách Đơn vị tính: VNĐ Số TT Các dịch vụ 2000 2001 Tỉ lệ 01/02 Doanh thu Tỉ trọng Doanh thu Tỉ trọng 1 DT tại 28 Cát linh 742.434.457 43,8 670.675.000 36,24 90,33 2 DT tại 16 Thuỵ Khê 952.763.047 56,2 1.179.909.000 63,76 123,84 - DT buồng ngủ 747.000.000 44,07 825.000.000 44,58 110,44 - DT nhà hàng, ăn uống 105.448.009 6,22 234.363.974 12,66 222,26 - DT cho thuê hội trường, văn phòng 45.315.038 2,67 60.523.026 3,27 133,56 - Các dịch vụ khác 55.000.000 3,24 60.022.000 3,24 109,13 3 Tổng doanh thu 1.695.197.504 100 1.850.584.000 100 109,17 Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh của Nhà khách Bộ NN & PTNT 2000 - 2001 Nhà khách Bộ NN & PTNT trước kia có hai địa điểm: trụ sở I đặt tại 16 Thuỵ Khê, trụ sở II đặt tại 28 Cát Linh. Hiện nay do nhu cầu kinh doanh, nhà khách đã cho thuê địa điểm 28 Cát Linh và doanh thu từ tiền cho thuê được tính vào tổng doanh thu của Nhà khách. Doanh thu đó chiếm một tỉ lệ rất lớn trong (43,8% năm 2000 và 36,24% năm 2001). Trước kia, khi chưa tính khoản tiền đó, doanh thu của Nhà khách chỉ đạt 948.702.1000 (năm 1998) nhưng từ năm 1999, được phép của Bộ NN & PTNT, Nhà khách đã tính gộp tiền thuê 28 Cát Linh vào tổng doanh thu nên đã tăng lên rất nhiều (năm 2000 là 1.695.197.507 đồng, năm 2001 là 1.850.580.000 đồng). Tuy nhiên, đấy là hoạt động kinh doanh cho thuê dài hạn và cố định, doanh thu hàng năm không phản ánh được tình hình kinh doanh thực tế, sự biến đổi trong kết quả kinh doanh của nhà khách. Muốn đánh giá được kết quả kinh doanh của Nhà khách, chúng ta phải đi sâu phân tích tình hình doanh thu tại 16 Thuỵ Khê, là trụ sở kinh doanh chính hiện nay. Hoạt động kinh doanh ở đây sử dụng các nguồn lực của nhà khách nên kết quả này mới phản ánh hết thực trạng kinh doanh, hiệu quả kinh doanh của nhà khách hàng năm. Tại 16 Thuỵ Khê, kinh doanh buồng ngủ là kinh doanh chính nên doanh thu luôn chiếm tỉ trọng lớn nhất trong tổng doanh thu các dịch vụ ở đây. So với năm 2000, tỉ lệ doanh thu buồng ngủ năm 2001 tăng 10,44%, do số lượt khách đến nhà khách năm 2001 tăng 16,1% so với năm 2000, số thời gian lưu trú trung bình của khách cũng tăng (2,4 ngày năm 2000 so với 2,6 ngày năm 2001) cho nên doanh thu buồng năm 2001 đạt 825.000.000 VNĐ cao hơn 78.000.000 so với năm 2000 (747.000.000 VNĐ). Tuy nhiên, mức tăng không nhiều do nhà khách chưa đưa ra được các dịch vụ bổ sung để thu hút khách, và khai thác tiềm năng chi tiêu của khách. Mặc dù vậy tỉ trọng doanh thu của buồng vẫn là một nguồn thu rất quan trọng của nhà khách. Đó luôn chiếm tỉ trọng lớn nhất trong tổng doanh thu ở 16 Thuỵ Khê, tiếp theo đó mới đến các dịch vụ khác. Tỉ trọng doanh thu buồng ngủ năm 2000 chiếm 78,4% còn năm 2001 chiếm 69,93% trong tổng doanh thu. Sở dĩ tỉ trọng giảm là do năm 2001 các hoạt động dịch vụ khác đã tăng hơn. Bảng cơ cấu doanh thu dưới đây sẽ cho thấy tỉ trọng các dịch vụ của nhà khách qua hai năm. Bảng 5. Cơ cấu doanh thu các dịch vụ của nhà khách tại 16 Thuỵ Khê Chỉ tiêu Năm 2000 Năm 2001 DT buồng ngủ 78,4 % 69,93 % DT cửa hàng, ăn uống 11,07 % 19,86 % DT thuê HT, văn phòng 4,76 % 5,13 % DT dịch vụ khác 5,77 % 5,09 % Tổng doanh thu 100 % 100 % Năm 2000 Năm 2001 Bên cạnh kinh doanh buồng ngủ, doanh thu từ dịch vụ ăn uống là nguồn doanh thu cao thứ 2 của Nhà khách. Năm 2000 đạt 105.448.009 đồng chiếm 11,07%; năm 2001 đạt 234.363.974 đồng chiếm 19,86% tổng doanh thu. Tuy là nguồn thu chính thứ 2 nhưng có vẻ như khoản thu này chưa tương xứng với lượng khách tới nghỉ hàng năm. Mặc dù, sản phẩm ăn uống của nhà khách ngày càng được cải thiện và phong phú. Nhưng do khách chủ yếu là đi công vụ, phần lớn thời gian khách ở ngoài nên đã dùng dịch vụ ăn uống ở ngoài, ít khi ăn tại nhà khách. Chính vì vậy, doanh thu từ ăn uống nhà hàng không cao. Tuy nhiên doanh thu từ dịch vụ ăn uống lại được thu từ dịch vụ nấu ăn phục vụ đám cưới, tiệc tùng với giá cả hợp lý nên có thể coi là 1 nguồn thu quan trọng thứ 2 của Nhà khách. Do vậy, một vấn đề đặt ra với Nhà khách là nếu muốn tăng doanh thu từ dịch vụ ăn uống thì cần phải thu hút nhiều khách đến với nhà khách hơn nữa, bằng cách tăng thêm các loại hình dịch vụ bổ sung như thể thao, vui chơi, giải trí để hấp dẫn khách hàng. Từ đó sẽ tăng doanh thu, nâng cao hiệu quả kinh doanh. Ngoài ra, với ưu thế về diện tích cũng như vị trí, nhà khách cần xây thêm một số văn phòng để cho thuê, hoặc tăng cường cho thuê hội trường làm phòng hội nghị, học tập với giá cả phù hợp sẽ đóng góp một phần không nhỏ vào doanh thu của nhà khách. Nhà khách cũng thực hiện phát triển các dịch vụ khác như: dịch vụ trông xe và dịch vụ điện thoại, thông tin liên lạc giữa khách với bên ngoài.... Nói tóm lại, doanh thu ở tất cả các loại hình kinh doanh của Nhà khách năm 2001 đều tăng so với năm 2000. Để nâng cao doanh thu cũng như hiệu quả kinh doanh, Nhà khách cần mở thêm các loại hình dịch vụ bổ sung, đổi mới trang thiết bị, cơ sở vật chất kỹ thuật, nâng cao chất lượng phục vụ nhằm thu hút và tạo ấn tượng tốt với khách hàng. 3. Phân tích hiệu quả kinh doanh của Nhà khách. 3.1. Đánh giá hiệu quả kinh doanh của Nhà khách qua chỉ tiêu hiệu quả kinh tế tổng hợp Bảng 6: Hiệu quả kinh doanh tổng hợp của Nhà khách Năm Doanh thu (đồng) Chi phí (đồng) Lợi nhuận (đồng) Doanh thu/ Chi phí Lợi nhuận/ Chi phí Lợi nhuận/ Doanh thu 2000 1.695.197.504 1.319.627.869 375.569.635 1,285 0,285 0,222 2001 1.850.584.000 1.466.762.126 383.821.874 1,262 0,262 0,207 Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh của nhà khách Bộ NN & PTNT năm 2000 - 2001 Năm 2000, hiệu quả sử dụng các nguồn lực của Nhà khách là 1,285 tức là bỏ ra 1 đồng chi phí, Nhà khách sẽ thu được 1,825 đồng doanh thu trong khi trong năm 2001, Nhà khách chỉ thu được 1,262 đồng doanh thu trên một đồng chi phí, nhỏ hơn năm 2000. Như vậy, hiệu quả sử dụng các nguồn lực không tốt, thậm chí năm 2001, mặc dù doanh thu và lợi nhuận đều cao hơn năm 2000 nhưng hiệu quả sử dụng lại không bằng. Điều đó cho thấy tốc độ tăng của doanh thu thấp hơn tốc độ tăng của chi phí (tốc độ tăng doanh thu năm 2001/ 2000 là 9,2% trong khi tốc độ tăng chi phí là 11,1%). Một nguyên tắc đặt ra cho việc muốn nâng cao hiệu quả kinh doanh là có thể vừa tăng doanh thu, vừa tăng chi phí những tốc độ tăng doanh thu phải cao hơn tốc độ tăng chi phí. Vì vậy, với kết quả trên, Ban lãnh đạo nhà khách cần phải tìm biện pháp khắc phục mới mong nâng cao được hiệu quả kinh doanh. Đối với tỉ suất lợi nhuận, năm 2000 lợi nhuận đạt được trên 1 đồng chi phí là 0,285 đồng, trên một đồng doanh thu là 0,222 đồng. Còn năm 2001 con số tương ứng là 0,262 đồng và 0,207 đồng. Nhìn chung, do hiệu quả sử dụng các nguồn lực không cao nên tỷ suất lợi nhuân cũng không đạt được kết quả mong muốn. Đồng thời, do năm 2001 tốc độ tăng doanh thu thấp hơn tốc độ tăng chi phí so với năm 2000 nên tỉ suất lợi nhuận của năm 2001 cũng thấp hơn năm 2000. Do đó để nâng cao hiệu quả kinh doanh qua chỉ tiêu tỉ suất lợi nhuận, Nhà khách phải có biện pháp tiết kiệm chi phí, tăng doanh thu để qua đó tăng lợi nhuận. 3.2. Đánh giá hiệu quả kinh doanh của Nhà khách qua chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn Vốn có vai trò to lớn trong mọi hoạt động kinh doanh. Để xem xét sự ảnh hưởng của vốn đến hiệu quả kinh doanh tại Nhà khách Bộ NN & PTNT chúng ta cùng phân tích bảng số liệu sau: Bảng 7. Hiệu quả sử dụng vốn TT Chỉ tiêu Đơn vị Năm 2000 Năm 2001 Chênh lệch Tỉ lệ(%) 2001/2000 1 Doanh thu Đồng 1 695 197 504 1 850 584 000 155 386 496 9,17 2 Lợi nhuận Đồng 375 569 635 383 821 874 82 522 239 2,19 3 Tổng vốn Đồng 6 278 831 393 6 825 252 393 546 421 000 8,7 4 Vốn cố định Đồng 4 016 453 973 4 489 664 473 473 210 500 5 VCĐ/Tổng vốn % 63,97 65,78 6 Vốn lưu động Đồng 2 262 377 420 2 335 587 920 73 210 500 7 VLĐ/Tổng vốn % 36,03 34,22 8 Doanh thu/VCĐ % 0,422 0,412 - 0,01 9 Lợi nhuận/VCĐ % 0,094 0,085 - 0,009 10 Doanh thu/VLĐ % 0,749 0,792 0,043 11 Lợi nhuận/VLĐ % 0,166 0,164 - 0,002 Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh của Nhà khách Bộ NN & PTNT 2000 - 2001 Qua bảng số liệu trên ta thấy, nguồn vốn cố định của Nhà khách luôn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng vốn kinh doanh ( 63,97% năm 2000, 65,78% năm 2001). Do năm 2001, Nhà khách đã tiến hành sửa chữa, nâng cấp một số buồng ngủ và hội trường, đổi mới một số trang thiết bị nên vốn cố định đã tăng 473 210 500 VNĐ so với năm 2000. Đối với hiệu quả sử dụng vốn cố định, năm 2001, doanh thu đạt trên một đồng vốn cố định giảm 0.03 đồng so với năm 2000, đồng thời lợi nhuận cũng giảm 0,085 đồng. Nói chung con số này là không đáng kể, nhưng có thể thấy hiệu quả sử dụng vốn cố định của năm 2001 không bằng năm 2000. Nguyên nhân chính là do tài sản cố định đã xuống cấp nhiều, phải sửa chữa nâng cấp nên năm 2001, nhà khách đã tiêu nhiều chi phí sửa chữa hơn năm 2000 khoảng 59 306 800 VNĐ. Đồng thời các khoản chi phí khác cũng tăng. Do đó, tổng chi phí năm 2001 tăng 147 134 257 VNĐ so với năm 2000, với tốc độ tăng 11,1 % trong khi doanh thu chỉ tăng với tốc độ 9%, vì vậy hiệu quả sử dụng vốn cố định giảm. Để tăng hiệu quả, Nhà khách phải đổi mới một số trang thiết bị đã quá xuống cấp nâng cao chất lượng phục vụ để tăng doanh thu sao cho tốc độ tăng doanh thu cao hơn tốc độ tăng chi phí nhằm đem lại hiệu quả kinh doanh. Đối với vốn lưu động năm 2001, tăng 73 210 500 VNĐ so với 2000, đó là vì cuối năm 2001, Nhà khách đã đòi được các khoản phải thu còn tồn đọng từ năm 2000. Hiệu quả sử dụng vốn năm 2001 cao hơn 2000, một đồng vốn lưu động bỏ ra có thể thu về 0,792 đồng doanh thu, cao hơn 0,043 đồng so với năm 2000, nhưng lợi nhuận thì giảm 0,002 đồng. Việc giảm này là không đáng kể. Nó cho thấy, nhà khách đã sử dụng vốn lưu động có hiệu quả hơn nhưng do tốc độ tăng của chi phí cao hơn tốc độ tăng của doanh thu nên hiệu quả sử dụng vốn lưu động thông qua chỉ tiêu lợi nhuận mới giảm. Nói tóm lại, để nâng cao hiệu quả kinh doanh, Nhà khách cần có biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn hơn nữa, vì hiệu quả kinh doanh phụ thuộc vào hiệu quả sử dụng vốn. Để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cần dùng đúng mục đích đúng kế hoạch, chấp hành đầy đủ quy định, chính sách tài chính của doanh nghiệp, hạch toán chính xác kịp thời tình hình sử dụng vốn, giảm tới mức thấp nhất chi phí kinh doanh 3.3. Phân tích hiệu quả kinh doanh qua chỉ tiêu năng suất lao động Bảng 8. Năng suất lao động bình quân năm 2000 - 2001 Số TT Chỉ tiêu Đơn vị tính 2000 2001 Tỉ lệ % 2000/2001 1 Tổng doanh thu đồng 1.695.197.504 1.850.584.000 109,166% 2 Tổng lợi nhuận đồng 375.569.635 383.821.874 102,197% 3 Quĩ, lương thưởng đồng 369.219.968 392.3443810 106,263% 4 Tổng lao động người 36 36 5 Doanh thu/Lao động đồng/người 47.088.819,55 5361.405.111,11 6 Lợi nhuận/Lao động đồng/người 10.423.489,86 10.661.718,72 7 Lợi nhuận/Quĩ lương 1,017 1,022 Qua trên ta thấy trung bình một lao động của Nhà khách trong năm 2000 tạo ra 47 088 819,55 đồng doanh thu với 10 423 489,86 đồng lợi nhuận còn trong năm 2001, một lao động tạo ra 51 405 111,11 đồng doanh thu và sinh được 10 661 718,72 đồng lợi nhuận. Đối với hiệu quả sử dụng chi phí tiền lương năm 2000 là 1,017 tức là bỏ ra 1 đồng chi phí tiền lương Nhà khách thu được 1,017 đồng lợi nhuận, còn năm 2001 thì thu được 1,022 đồng. Như vậy có thể thấy, một lao động của nhà khách đã được sử dụng rất có hiệu quả. Chỉ với 36 nhân viên, mỗi năm Nhà khách đã tạo ra được một khoản doanh thu và lợi nhuận rất đáng kể. Điều đó cho thấy Nhà khách đã có sự chỉ đạo tốt trong việc bố trí lao động hợp lý nâng cao hiệu quả sử dụng người lao động. Mức thu nhập bình quân năm 2001 là 1 532 202 VNĐ đã khiến cho cán bộ công nhân viên yên tâm công tác, tạo ra sự phấn khởi và động lực mạnh thúc đẩy họ gắn bó lâu dài và nhiệt tình công tác tại Nhà khách. III. Đánh giá thực trạng kinh doanh và hiệu quả kinh doanh của nhà khách Bộ Nn & ptnt. 1. Đánh giá thực trạng kinh doanh của nhà khách Bộ NN & PTNT qua các năm Qua các bản phân tích tình hình kinh doanh của Nhà khách trong hai năm qua, ta thấy nhà khách đã ngày càng kinh doanh có triển vọng hơn. Tuy cuộc khủng hoảng kinh tế của khu vực ít nhiều vẫn còn ảnh hưởng đến kinh tế Việt Nam nói chung, ngành dịch vụ kinh doanh khách sạn nói riêng nhưng với sự chỉ đạo kịp thời của lãnh đạo Bộ, sự nhìn nhận đúng đắn của Ban giám đốc, Nhà khách đã đạt được kết quả ngày một cao hơn. Tuy nhiên, sau một thời gian dài hoạt động nhà khách đã gặp một số khó khăn gây ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình kinh doanh chung. Về cơ sở vật chất kỹ thuật, do đã qua nhiều năm sử dụng nên nay đã xuống cấp nghiêm trọng, cả về số lượng lẫn chất lượng, trang thiết bị đã quá lạc hậu, không đồng bộ, không hợp nhu cầu và thị hiếu của khách hàng. Vì vậy, đã hạn chế rất lớn trong việc thu hút khách nước ngoài làm giảm khả năng doanh thu của nhà khách. Tuy đã sửa chữa, nâng cấp một số phòng ngủ cũng như trang thiết bị trong phòng nhưng chưa đồng bộ, chưa tạo được nhiều phòng có cấp độ phục vụ khác nhau, chưa có điện thoại, bồn tắm cho từng phòng. Từ đó đã ảnh hưởng đến chất lượng tiêu dùng dịch vụ của khách, giảm hiệu quả kinh doanh của nhà khách. Về vấn đề nhân sự, hầu hết nhân viên của nhà khách là người của Bộ NN và PTNT khi bị giảm biên chế tại các văn phòng Bộ, được Bộ điều sang nên chất lượng không cao. Đội ngũ nhân viên không qua đào tạo chính quy, trình độ tay nghề, trình độ chuyên môn thấp, chưa được đào tạo chuyên sâu và tinh thông về nghiệp vụ. Điều đó đã làm giảm khả năng phục vụ khách của đội ngũ nhân viên. Ngoài ra, Nhà khách còn chưa biết khai thác khả năng chi tiêu của khách. Do gặp hạn chế trong việc cung cấp dịch vụ bổ sung, sản phẩm dịch vụ chưa cao nên chỉ đáp ứng được các nhu cầu thiết yếu như: ăn, ngủ .. của khách. Mặt khác, thời gian khách lưu trú thường vào ban đêm, ban ngày đi dự hội nghị và vãn cảnh nên quĩ thời gian sử dụng dịch vụ bổ sung tại nhà khách giảm đi nhiều. Mặc dù vậy, nhưng với tinh thần chịu khó, nội bộ đoàn kết, nhất trí và sự chỉ đạo và giúp đỡ kịp thời của lãnh đạo Bộ, Nhà khách đã dần khắc phục được những khó khăn ban đầu, cải thiện tình hình kinh doanh, nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng. Nếu nhanh chóng có những biện pháp khắc phục những khó khăn và phát huy mặt tích cực, Nhà khách sẽ đạt được những hiệu quả khách quan hơn nhiều. 2. Đánh giá hiệu quả kinh doanh Qua trên ta có thể thấy, kết quả kinh doanh cao chưa chắc đã đạt được hiệu quả kinh doanh. Sau những năm hoạt động, Trạm đón tiếp khách đã thu được kết quả kinh doanh năm sau cao hơn năm trước nhưng hiệu quả kimh doanh không đạt được tương ứng. Việc sử dụng các nguồn lực dù đem lại doanh thu và lợi nhuận cao hơn năm sau nhưng do chi phí cũng tăng với tốc độ cao nên hiệu quả kinh doanh dù có đạt được cũng chỉ là những con số rất nhỏ. Nguyên nhânchủ yếu là do cơ sở vật chất, trang thiết bị của trạm đã xuống cấp và không đồng bộ, hàng năm trạm phải bỏ ra rất nhiều chi phí để sửa chữa, nâng cấp. Khoản chi phí đó luôn là khoản chi lớn nhất, chiếm 33,94% năm 2000 và 34,58% năm 2001 trong tổng chi phí kinh doanh.Không chỉ có thế, tất cả các khoản chi của trạm trong năm 2001 đều tăng hơn so với năm 2000. Vì vậy trong khi tốc độ tăng doanh thu là 9,2% thì tốc độ tăng chi phí là 11,2%. Một nguyên tắc đặt ra cho các doanh nghiệp muốn nâng cao hiệu quả kinh doanh là phải tăng doanh thu, giảm chi phí hoặc vừa tăng doanh thu vừa tăng chi phí nhưng tốc độ tăng chi phí phải thấp hơn tốc độ tăng của doanh thu. Do đó, nếu Trạm đón tiếp khách Bộ NN & PTNT muốn nâng cao hiệu quả kinh doanh thì phải tìm ra được các biện pháp giảm chi phí kinh doanh, thu hút khách, nâng cao chất lượng phục vụ hơn nữa để tăng doanh thu. Khắc phục các nhược điểm trên, Trạm sẽ có khả năng nâng cao hiệu quả kinh doanh. Phần ba biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh của trạm đón tiếp khách Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn I. Các mục tiêu và phương hướng hoạt động trong những năm sắp tới của Nhà khách Bộ nông nghiệp và Phát triển nông thôn 1.Thuận lợi và khó khăn của Trạm Muốn đề ra các biện pháp thích hợp để nâng cao hiệu quả kinh doanh, trước hết, chúng ta phải thấy được những thuận lợi và khó

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc24118.DOC
Tài liệu liên quan