Tài liệu Đề tài Biến chứng thường gặp trong tuần lễ đầu trên bệnh nhân đột quỵ não cấp: BIẾN CHỨNG THƯỜNG GẶP TRONG TUẦN LỄ ĐẦU TRÊN BỆNH 
NHÂN ĐỘT QUỴ NÃO CẤP 
TÓM TẮT 
Cơ sở: Những bệnh nhân bị đột quỵ não dễ bị nguy hiễm bởi sự phát triển của các 
biến chứng khác nhau và cũng là nguyên nhân của sự tàn tật bởi đột quỵ. 
Phương pháp: Chúng tôi nghiên cứu187 bệnh nhân đột quỵ não cấp điều trị tại 
khoa Thần kinh bệnh viện Chợ Rẫy. 
Kết quả: Biến chứng sau đột quỵ não cấp rất phổ biến. Trong đó biến chứng táo 
bón thường xảy ra nhất chiếm tỉ lệ 71,1%; kế đến là các biến chứng tim mạch 
chiếm 39%; tăng đường huyết chiếm 32,1%; viêm phổi chiếm 32%; tăng áp lực 
nội sọ chiếm 28,3%; bí tiểu cấp chiếm 25,1%; loét da chiếm 13,9%; hạ natri máu 
chiếm 13,4%; xuất huyết tiêu hóa chiếm 12,7%; nhiễm trùng tiểu chiếm 8%; cuối 
cùng là biến chứng co giật chiếm 2,1%. 
Kết luận: Biến chứng sau đột quỵ cấp rất phổ biến; các biến chứng này thường 
liên quan đến tuổi của bệnh nhân. 
ABSTRACT 
COMMON COMPLICATIONS IN THE FIRST WEEK OF STROKE PATIENTS 
IN ACUTE STAGE 
Phan T...
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 20 trang
20 trang | 
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1808 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Biến chứng thường gặp trong tuần lễ đầu trên bệnh nhân đột quỵ não cấp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BIẾN CHỨNG THƯỜNG GẶP TRONG TUẦN LỄ ĐẦU TRÊN BỆNH 
NHÂN ĐỘT QUỴ NÃO CẤP 
TÓM TẮT 
Cơ sở: Những bệnh nhân bị đột quỵ não dễ bị nguy hiễm bởi sự phát triển của các 
biến chứng khác nhau và cũng là nguyên nhân của sự tàn tật bởi đột quỵ. 
Phương pháp: Chúng tôi nghiên cứu187 bệnh nhân đột quỵ não cấp điều trị tại 
khoa Thần kinh bệnh viện Chợ Rẫy. 
Kết quả: Biến chứng sau đột quỵ não cấp rất phổ biến. Trong đó biến chứng táo 
bón thường xảy ra nhất chiếm tỉ lệ 71,1%; kế đến là các biến chứng tim mạch 
chiếm 39%; tăng đường huyết chiếm 32,1%; viêm phổi chiếm 32%; tăng áp lực 
nội sọ chiếm 28,3%; bí tiểu cấp chiếm 25,1%; loét da chiếm 13,9%; hạ natri máu 
chiếm 13,4%; xuất huyết tiêu hóa chiếm 12,7%; nhiễm trùng tiểu chiếm 8%; cuối 
cùng là biến chứng co giật chiếm 2,1%. 
Kết luận: Biến chứng sau đột quỵ cấp rất phổ biến; các biến chứng này thường 
liên quan đến tuổi của bệnh nhân. 
ABSTRACT 
COMMON COMPLICATIONS IN THE FIRST WEEK OF STROKE PATIENTS 
IN ACUTE STAGE 
Phan Thai Nguyen, Vu Anh Nhi * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 13 - 
Supplement of No 1 - 2009: 387 - 393 
 Background: Patients with acute stroke are vulnerable to the development of 
various complications as a result of the stroke and the disability caused by the 
stroke. 
Method: We studies 187 patiennt with stroke admitted to Department of 
Neurology, Choray hospital. 
Results: Complications after acute stroke are common; the most common 
individual complications were constipation (complicating 71,1% of all strokes); 
cardiovascular complications (39%); hyperglycemie (32,1%); chest infections 
(32%); intracarnial hypertention (28,3%); urinary retention (25,1%); skin breaks 
(13,9%); hyponatremia (13,4%); gastrointestinal bleeding (12,7%);, and urinary 
tract (8%); seizures (2,1%). 
Conclution: Complication after stroke is the common, that stroke requires at age 
of patient. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Đột quỵ (hay tai biến mạch máu não) là một hội chứng thần kinh biểu hiện bởi sự 
khởi phát cấp tính, kéo dài trên 24 giờ, rối loạn chức năng thần kinh trung ương có 
tính khu trú và là hậu quả của sự hư biến mạch máu não. 
Đột quỵ đang trở thành vấn đề quan trọng của y học, bởi vì tuổi thọ trung bình ngày 
càng tăng cao mà nguy cơ đột quỵ phụ thuộc vào tuổi. Đột quỵ là nguyên nhân hàng 
đầu gây tàn phế cho con người và đứng hàng thứ ba trong các bệnh gây tử vong chỉ 
sau ung thư và tim mạch . Nó để lại hậu quả nặng nề về thể chất tinh thần và phí tổn 
tài chính cho bản thân người bệnh, gia đình và xã hội. 
Do đó việc khảo sát “Biến chứng thường gặp trong tuần lễ đầu trên bệnh nhân đột 
quỵ não cấp” nhằm tìm hiểu một số đặc điểm và mối tương quan giữa lâm sàng, cận 
lâm sàng và các biến chứng nhằm giúp bác sĩ chú ý đến những biến chứng nào 
thường xảy ra trong tuần lễ đầu sau đột quỵ để theo dõi, chăm sóc và điều trị bệnh 
nhân được tốt hơn. 
ĐỐI TƯỢNG -PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Thiết kế nghiên cứu 
Nghiên cứu cắt ngang mô tả tiền cứu. 
Đối tượng nghiên cứu 
Tất cả những bệnh nhân đột quỵ não cấp nhập viện điều trị tại khoa Nội Thần kinh 
bệnh viện Chợ Rẫy từ tháng 11/ 2006 đến tháng 6/ 2007 thỏa mãn các tiêu chuẩn 
chọn mẫu. 
Cỡ mẫu 
Cỡ mẫu thu nhận là 187 bệnh nhân. 
 Tiêu chuẩn chọn bệnh 
Tất cả bệnh nhân đột quỵ não cấp nhập khoa Nội Thần kinh bệnh viện Chợ Rẫy trong 
vòng 48 giờ tính từ lúc khởi phát bệnh. 
Tiêu chuẩn loại trừ 
Bệnh nhân có thời gian từ lúc khởi phát đột quỵ đến khi nhập viện trể hơn 48 giờ. 
Bệnh nhân đột quỵ không phải là nhồi máu não hoặc xuất huyết não như: chấn 
thương sọ não, u não, xuất huyết khoang dưới nhện... 
Thu thập số liệu 
Công cụ thu thập số liệu: Biểu mẫu soạn sẵn, Máy CT scan thế hệ thứ ba . 
Phương pháp thu thập số liệu: Những bệnh nhân bị đột quỵ não cấp nhập vào bệnh 
viện Chợ Rẫy, được thăm khám lâm sàng bởi một bác sĩ đa khoa cấp cứu và được 
chụp CT scan sọ não thường quy tại khoa cấp cứu, sau đó được chuyển đến khoa Nội 
Thần kinh điều trị tiếp. Tại đây, các bệnh nhân sẽ được bác sĩ chuyên khoa Thần kinh 
hỏi tiền sử và bệnh sử hoặc nếu tình trạng tri giác bệnh nhân xấu không có khả năng 
tiếp xúc thì hỏi bệnh thông qua thân nhân bệnh nhân, khám lâm sàng cẩn thận và đưa 
vào mẫu nghiên cứu nếu đúng tiêu chuẩn đưa vào và loại ra như trên. 
 Xử lý dữ liệu 
Các thu thập sẽ được xử lý và phân tích bằng phần mềm thống kê SPSS phiên bản 
12.0. 
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
Loại đột quỵ 
Bảng 1: Phân loại đột quỵ. 
Loại đột quỵ Tần số (n) Tỉ lệ (%) 
Nhồi máu não 73 39,0 
Xuất huyết não 114 61,0 
Tổng số 187 100,0 
Bệnh nhân bị đột quỵ nhồi máu não là 73 chiếm 39%; xuất huyết não là 114 chiếm 
61%. 
Một số biến chứng thường gặp 
Tăng đường huyết 
Bảng 2: Phân bố bệnh theo đường huyết. 
Tăng đường huyết Tần số (n) Tỉ lệ (%) 
Có 60 32,1 
Không 127 67,9 
Tổng số 187 100 
Bệnh nhân có tăng đường huyết sau đột quỵ là 60 chiếm 32,1%; không tăng đường 
huyết là 127 chiếm 67,9%. 
Đường huyết trung bình là 133,46 ± 57,11 mg%; đường huyết thấp nhất là 73 mg%; 
cao nhất là 497 mg%. 
Tăng áp lực nội sọ: 
Bảng 3: Phân bố bệnh theo áp lực nội sọ. 
Tăng áp lực nội sọ Tần số (n) Tỉ lệ (%) 
Có 53 28,3 
Không 134 71,7 
Tổng số 187 100 
Bệnh nhân có tăng áp lực nội sọ sau đột quỵ là 53 chiếm 28,3%; không tăng áp lực 
nội sọ là 134 chiếm 71,7%. 
Biến chứng tim mạch: 
Bảng 4: Phân bố bệnh theo biến chứng tim mạch. 
Biến chứng tim Tần số (n) Tỉ lệ (%) 
mạch 
Có 73 39 
Không 114 61 
Tổng số 187 100 
Bệnh nhân có biến chứng tim mạch sau đột quỵ là 73 chiếm 39%; không có biến 
chứng là 114 chiếm 61%. 
Trong các biến chứng tim mạch thì : Rối loạn nhịp tim có 12 trường hợp; ST chênh 
xuống có 46 tường hợp; ST chênh lên có 7 trường hợp; T đảo ngược 38 trường hợp. 
 Biến chứng hô hấp: 
Bảng 5: Phân bố bệnh theo biến chứng hô hấp. 
Biến chứng hô 
hấp 
Tần số (n) Tỉ lệ (%) 
Có 17 9,1 
Không 170 90,9 
Tổng số 187 100 
Bệnh nhân có biến chứng hô hấp sau đột quỵ là 17 chiếm 9,1%; không có biến chứng 
là 170 chiếm 90,9%. 
Trong các biến chứng hô hấp có 17 trường hợp rối loạn nhịp thở kiểu Cheynes-
Stockes; 2 trường hợp rối loạn nhịp thở kiểu tăng thông khí thần kinh trung ương. 
Biến chứng co giật và động kinh: 
 Bệnh nhân có biến chứng co giật sau đột quỵ là 4 chiếm 2,1%; không có biến chứng 
là 183 chiếm 97,9%. Không có trường hợp nào bị động kinh. 
Biến chứng xuất huyết tiêu hóa: 
Bảng 6: Phân bố bệnh theo biến chứng xuất huyết tiêu hóa. 
Xuất huyết tiêu 
hóa 
Tần số (n) Tỉ lệ (%) 
Có 23 12,3 
Không 164 87,7 
Tổng số 87 100 
Bệnh nhân có biến chứng xuất huyết tiêu hóa sau đột quỵ là 23 chiếm 12,7%; không 
có biến chứng là 164 chiếm 87,7%. 
Biến chứng hạ natri máu: 
Bảng 7: Phân bố bệnh theo biến chứng xuất huyết tiêu hóa. 
Hạ natri máu Tần số (n) Tỉ lệ (%) 
Có 25 13,4 
Không 162 86,6 
Tổng số 187 100 
Bệnh nhân có biến chứng hạ natri máu sau đột quỵ là 25 chiếm 13,4%; không có biến 
chứng là 162 chiếm 86,6%. 
Natri máu trung bình là 138,54 ± 4,01 mEq/L; natri máu thấp nhất là 123 mEq/L; cao 
nhất là 160 mEq/L. 
 Biến chứng viêm phổi: 
Bảng 8: Phân bố bệnh theo biến chứng viêm phổi. 
Viêm phổi Tần số (n) Tỉ lệ (%) 
Có 60 32,1 
Không 127 67,9 
Tổng số 187 100 
 Bệnh nhân có biến chứng viêm phổi sau đột quỵ là 60 chiếm 32,1%; không có biến 
chứng là 127 chiếm 67,9%. 
Biến chứng bí tiểu cấp: 
Bảng 9: Phân bố bệnh theo biến chứng bí tiểu cấp. 
Bí tiểu cấp Tần số (n) Tỉ lệ (%) 
Có 47 25,1 
Không 140 74,9 
Tổng số 187 100 
Bệnh nhân có biến chứng bí tiểu cấp sau đột quỵ là 47 chiếm 25,1%; không có biến 
chứng là 140 chiếm 74,9%. 
Biến chứng nhiễm trùng tiểu: 
Bảng 10: Phân bố bệnh theo biến chứng nhiễm trùng tiểu. 
Nhiễm trùng 
tiểu 
Tần số (n) Tỉ lệ (%) 
Có 15 8 
Không 172 92 
Tổng số 187 100 
Bệnh nhân có biến chứng nhiễm trùng tiểu sau đột quỵ là 15 chiếm 8%; không có 
biến chứng là 172 chiếm 92%. 
Biến chứng táo bón: 
Bảng 20: Phân bố bệnh theo biến chứng táo bón. 
Táo bón Tần số (n) Tỉ lệ (%) 
Táo bón Tần số (n) Tỉ lệ (%) 
Có 133 71,1 
Không 54 28,9 
Tổng số 187 100 
Bệnh nhân có biến chứng táo bón sau đột quỵ là 133 chiếm 71,1%; không có biến 
chứng là 54 chiếm 28,9%. 
Biến chứng loét da: 
Bảng 21: Phân bố bệnh theo biến chứng loét da. 
Loét da Tần số (n) Tỉ lệ (%) 
Có 26 13,9 
Không 161 86,1 
Tổng số 187 100 
Bệnh nhân có biến chứng loét da sau đột quỵ là 26 chiếm 13,9%; không có biến 
chứng là 161 chiếm 86,1%. 
BÀN LUẬN 
Đặc điểm các biến chứng: 
Biến chứng tăng đường huyết sau đột quỵ: 
Có một số công trình nghiên cứu và y văn liên quan đến tăng đường huyết sau đột 
quỵ có liên quan đến sự gia tăng tỉ lệ tử vong. Nhưng cũng có một số nghiên cứu và y 
văn khác nhận xét tỉ lệ tử vong có tăng trong những bệnh nhân này nhưng sự khác 
biệt không có ý nghĩa thống kê hoặc không có ý nghĩa tiên lượng (Error! Reference 
source not found.),hoặc không đề cập đến giá trị tiên lượng của đường huyết lúc 
nhập viện. 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, đường huyết trung bình là 133,46 ± 57,11 mg%. 
Chúng tôi cùng nhận thấy biến chứng tăng đường huyết sau đột quỵ có mối tương 
quan với tuổi trung bình của bệnh nhân đột quỵ, cụ thể tuổi trung bình của nhóm bệnh 
nhân có biến chứng tăng đường huyết là 63,07 của nhóm bệnh nhân không có biến 
chứng tăng đường huyết là 50,62; sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p=0,036< 
0,05). Chúng tôi cũng nhận thấy biến chứng tăng dường huyết sau đột quỵ có mối 
tương quan với điểm Glasgow của bệnh nhân; cụ thể có biến chứng tăng đường huyết 
điểm Glasgow<8 chiếm 16,7%; không biến chứng tăng đường huyết điểm 
Glasgow<8 chiếm 1,6%; sự khác biệt này co ý nghĩa thống kê (p<0,001). 
Biến chứng tăng áp lực nội sọ sau đột quỵ: 
Tử vong trong tuần lễ đầu tiên sau đột quỵ phần lớn là do phù não và tăng áp lực nội 
sọ, gây tụt kẹt não trên lều hoặc chèn ép hạnh nhân tiểu não vào lổ chẩm. Các rối loạn 
thần kinh do phù não thường vào ngày thứ 2 hoặc ngày thứ 3, nhưng cũng có thể sớm 
hơn. 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, bệnh nhân có tăng áp lực nội sọ sau đột quỵ chiếm 
28,3%. Về mối tương quan giữa biến chứng tăng áp lực nội sọ và các dữ liệu khác 
chúng tôi nhận thấy biến chứng tăng áp lực nội sọ sau đột quỵ có mối tương quan với 
loại đột quỵ, cụ thể ở nhóm bệnh nhân có biến chứng tăng áp lực sọ sau đột quỵ thì 
nhồi máu não chiếm 20,8% và ở nhóm bệnh nhân không có biến chứng tăng áp lực 
nội sọ thì nhồi máu não chiếm 50,9%, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê 
(p<0,001); Biến chứng tăng áp lực nội sọ sau đột quỵ cũng có tương quan với điểm 
Glassgow, cụ thể ở nhóm bệnh nhân có biến chứng tăng áp lực sọ đột quỵ thì có điểm 
Gkassgow< 8 chiếm 15,1% và ở nhóm bệnh nhân không có biến chứng tăng áp lực 
nội thì có điểm Glssgow <8 là 0%, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p<0,001). 
Biến chứng tim mạch sau đột quỵ 
Đột quỵ não có thể gây ra biến đổi trực tiếp điện tim và chức năng cơ tim mà không 
liên quan đến thiếu máu cơ tim. Theo kết quả của những nghiên cứu có đối chứng của 
Dimand và Grob so sánh điện tâm đồ của 100 bệnh nhân tai biến mạch máu não 
(nhũn não, xuất huyết não, xuất huyết dưới nhện ) trong 3 ngày đầu nhập viện với 
điện tâm đồ của 100 bệnh nhân tương đồng về tuổi và giới tính nhập viện vì ung thư 
đại tràng cho thấy: ST chênh xuống và khoảng QT kéo dài gấp 7 lần ở nhóm tai biến 
mạch máu não so với nhóm chứng, sóng T đảo ngược cao gấp 4 lần ở nhóm tai biến 
mạch máu não so với nhóm chứng. Điều này gợi ý mối liên quan giữa tai biến mạch 
máu não với biến đổi điện tâm đồ . 
Trong nghiên cứu của chúng tôi bệnh nhân có biến chứng tim mạch sau đột quỵ 
chiếm 39%; không có biến chứng là chiếm 61%.Trong các biến chứng tim mạch thì : 
rối loạn nhịp tim có 12 trường hợp ; ST chênh xuống có 46 tường hợp; ST chênh lên 
có 7 trường hợp; T đảo ngược 38 trường hợp. Kết quả này cũng phù hợp với y văn 
thấy rối loạn nhịp tim có thể xảy ra từ 20-40% đột quỵ cấp, khử cực bất thường xảy ra 
20% thiếu máu não cấp và 60% bệnh nhân xuất huyết trong sọ(Error! Reference source not 
found.). Chúng tôi nhận thấy biến chứng tim mạch sau đột quỵ có mối tương quan với 
tuổi trung bình của bệnh nhân đột quỵ, cụ thể tuổi trung bình của nhóm bệnh nhân có 
biến tim mạch là 63,75; của nhóm bệnh nhân không có biến chứng tim mạch là 50,62 
; sự khác biệt này có ý nghìa thống kê (p=0,003<0,05); biến chứng tim mạch sau đột 
quỵ cũng có mối tương quan với điểm Glassgow; cụ thể ở nhóm bệnh nhân có biến 
chứng tim mạch điểm Glassgow <8 chiếm 13,7%, ở nhóm bệnh nhân không có biến 
chứng tim mạch điểm Glassgow <8 chiếm 1,8%, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê 
(p=0,001<0,05) 
Biến chứng hô hấp 
Hô hấp là dấu hiệu sinh tồn rất quan trọng trong đột quỵ. Đây là bước điều trị, theo 
dõi mà tất cả các y văn về đột quỵ đặt lên hàng đầu trong giai đoạn cấp; đó là đảm 
bảo lưu thông đường hô hấp, cung cấp oxy qua sonde, mask, đặt nội khí quản nếu 
cần. Những rối loạn hô hấp như kiểu thở Cheynes-Stocke, thở tăng thông khí thần 
kinh trung ương, nhịp thở thất điều là những dấu hiệu tiên lượng xấu. 
Trong nghiên cứu của chúng tôi bệnh nhân có biến chứng hô hấp sau đột quỵ chiếm 
9,1%. Trong các biến chứng hô hấp có 17 trường hợp rối loạn nhịp thở kiểu Cheynes-
Stockes; 2 trường hợp rối loạn nhịp thở kiểu tăng thông khí thần kinh trung ương. 
Chúng tôi nhận thấy biến chứng hô hấp sau đột quỵ cũng có mối tương quan với điểm 
Glassgow, cụ thể ở nhóm bệnh nhân có biến chứng hô hấp điểm Glassgow <8 chiếm 
52,9%, ở nhóm bệnh nhân không có biến chứng hô hấp điểm Glassgow <8 chiếm 
1,8%, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p<0,001). 
Biến chứng co giật và động kinh sau đột quỵ 
Đây là một biến chứng phần lớn xảy ra trong 24 giờ đầu của đột quỵ, khoảng 90% 
trường hợp. Aboix và cộng sự (Error! Reference source not found.) khảo sát 1099 
bệnh nhân tai biến mạch máu não nhằm đánh giá ảnh hưởng của xuất hiện co giật 
sớm (trong 48 giờ sau nhập viện) đối với tử vong trong 30 ngày đầu. Họ kết luận co 
giật sớm là một yếu tố tiên lượng độc lập cho tử vong trong 30 ngày đầu. 
Trong nghiên cứu của chúng tôi bệnh nhân có biến chứng co giật sau đột quỵ chiếm 
2,1%; không có trường hợp nào bị động kinh. Kết quả này cũmg phù hợp với nghiên 
cứu của Doshi V Svà cộng sự (Error! Reference source not found.) thấy biến 
chứng co giật và động kinh chiếm tỉ lệ 0,7%. 
Biến chứng xuất huyết tiêu hóa 
Xuất huyết tiêu hóa trong đột quỵ được xem là một triệu chứng đi kèm không phải là 
biểu hiện căn bản của đột quỵ. Về nguyên nhân xuất huyết tiêu hóa có một số lý giải: 
xuất huyết tiêu hóa do kích xúc thường lượng máu chảy không nhiều có thể đề phòng 
bằng thuốc ức chế tiết acid; xuất huyết tiêu hóa bộc phát trên nền tổn thương hệ tiêu 
hóa tiềm ẩn hay hoạt động sẽ làm xấu thêm tình trạng vốn đã nặng của đột qụy; Xuất 
huyết tiêu hóa trong giai đoạn cuối của đột quỵ; loét dạ dày tá tràng do tress gây xuất 
huyết tiêu hóa… 
Trong nghiên cứu của chúng tôi bệnh nhân có biến chứng xuất huyết tiêu hóa sau đột 
quỵ chiếm 12,7%. tỉ lệ này cao hơn nghiên cứu của R.J. Davenport(Error! Reference source 
not found.) và cộng sự tỉ lệ này là 3%. 
Biến chứng hạ Natri máu 
Rối loạn nước, điện giải hay xảy ra trên bệnh nhân đột quỵ não cấp, nếu không chú ý 
trong quá trình điều trị sẽ làm nặng thêm tình trạng bệnh, trong đó hạ Natri máu 
thường xảy ra nhất. Natri là một trong những chất điện giải có tác dụng tạo áp lực 
thẩm thấu, quyết định sự phân bố nước giữa trong và ngoài tế bào của cơ thể, nồng độ 
chất này thay đổi dẫn đến những rối loạn về phân bố nước trong cơ thể. Những công 
trình nghiên cứu trên thế giới cho thấy nguyên nhân hạ natri máu nặng trong những 
bệnh lý này liên quan đến hội chứng tiết ADH không thích hợp và hội chứng thải 
muối não còn gặp nhiều trong những trường hợp hạ natri máu nhẹ và trung bình. Tuy 
nhiên không phải lúc nào cũng có thể xác định nguyên nhân một cách dễ dàng trên 
lâm sàng, mà đòi hỏi phải được tiến hành từng bước một cách có hệ thống. Hạ natri 
máu ngoài việc gây rối loạn phân bố nước còn có thể dẫn đến những rối loạn về chức 
năng và tổn thương hệ thần kinh. Nếu việc điều chỉnh không thích hợp sẽ làm cho 
tình trạng bệnh xấu đi và có thể dẫn đến tử vong. 
Trong nghiên cứu của chúng tôi bệnh nhân có biến chứng hạ natri máu sau đột quỵ 
chiếm 13,4%. Chúng tôi cùng nhận thấy biến chứng hạ natri máu sau đột quỵ có mối 
tương quan với tuổi trung bình của bệnh nhân đột quỵ, cụ thể tuổi trung bình của 
nhóm bệnh nhân có biến chứng hạ natri máu là 67,56, của nhóm bệnh nhân không có 
biến chứng hạ natri máu là 58,89 ; sự khác biệt này có ý nghìa thống kê (p=0,003< 
0,05). Biến chứng hạ natri máu sau đột quỵ cũng có tương quan với điểm Glassgow, 
cụ thể ở nhóm bệnh nhân có biến chứng hạ natri máu sau đột quỵ ở bệnh nhân có 
điểm Glassgow <8 chiếm 16% và ở nhóm bệnh nhân không có biến chứng hạ natri 
máu trên những bệnh nhân có điểm Glassgow> 8 là 4,9%, sự khác biệt này có ý nghĩa 
thống kê (p= 0,036 <0,05). 
Biến chứng viêm phổi 
Viêm phổi là một trong những nguyên nhân độc lập gây tử vong sau đột quỵ. Khi 
bệnh nhân bị đột quỵ do sự tăng tiết đàm dãi, ít vận động,… nên dễ đưa đến viêm 
phổi. Ngăn ngừa bằng cách làm sạch đường hô hấp, vận động sớm, ngồi dậy nhiều 
lần trên giường, dẫn lưu tư thế, ngăn ngừa trào ngược, vỗ ngực. Nếu có sốt cần tìm 
ngay nguyên nhân viêm phổi và cho kháng sinh sớm. 
Trong nghiên cứu của chúng tôi bệnh nhân có biến chứng viêm phổi sau đột quỵ 
chiếm 32,1%. Kết quả này so với một số nghiên cứu khác có cao hơn như nghiên cứu 
của P. Langhorne và cộng sự(Error! Reference source not found.) nghiên cứu trên 331 bệnh nhân 
đột quỵ biến chứng viêm phổi chiếm 22%; còn nghiên cứu của R.J. Davenport(Error! 
Reference source not found.) nghiên cứu trên 613 bệnh nhân đột quỵ thì có 12% bệnh nhân có 
biến chứng viêm phổi. Về mối tương quan giữa biến chứng viêm phổi và các dữ kiện 
lâm sàng khác, chúng tôi nhận thấy biến viêm phổi sau đột quỵ có mối tương quan 
với tuổi trung bình của bệnh nhân đột quỵ, cụ thể tuổi trung bình của nhóm bệnh nhân 
có biến chứng viêm phổi là 63,53 của nhóm bệnh nhân không có biến chứng viêm 
phổi là 58,40 ; sự khác biệt này có ý nghìa thống kê (p=0,036<0,05). Chúng tôi nhận 
thấy biến chứng viêm phổi sau đột quỵ có mối tương quan với điểm Glasgow của 
bệnh nhân, cụ thể điểm Glasgow< 8 ở bệnh nhân có biến chứng viêm phổi chiếm 
15%, ở bệnh nhân không có biến chứng viêm phổi chiếm 2,4%; sự khác biệt này có ý 
nghĩa thống kê (p= 0,001<0,05). 
Biến chứng bí tiểu cấp và nhiễm trùng tiểu 
Trên đột quỵ bệnh nhân dễ bị bí tiểu và bệnh nhân thường phải đặt sond tiểu để dẫn 
lưu nuớc tiểu, kèm theo đó là tình trạng bệnh lý nên bệnh nhân rất dễ bị nhiễm trùng 
đường tiết niệu. Trong nghiên cứu của chúng tôi bệnh nhân có biến chứng bí tiểu cấp 
sau đột quỵ chiếm 25,1%, biến chứng nhiễm trùng tiểu là 8%. Tỉ lệ này cũng phù hợp 
với nghiên cứu của V S Doshi và cộng sự(Error! Reference source not found.) nghiên cứu trên 
261 trường hợp bị đột quỵ ở bệnh viện Changi (Singapore) từ tháng 1/ 2001- 6/ 2001 
thì tỉ lệ bí tiểu cấp là 20,9%; nhiễm trùng tiểu là 14,3%; còn nghiên cứu của R.J. 
Davenport(Error! Reference source not found.) nghiên cứu trên 613 bệnh nhân đột quỵ thì có 
16% bệnh nhân có biến chứng nhiễm trùmg tiểu.. Chúng tôi nhận thấy biến chứng 
nhiễm trùng tiểu sau đột quỵ có mối tương quan với điểm Glasgow của bệnh nhân, cụ 
thể điểm Glasgow< 8 ở bệnh nhân có biến chứng nhiễm trùng tiểu chiếm 20%, ở 
bệnh nhân không có biến chứng này chiếm 5,2%, sự khác biệt này có ý nghĩa thống 
kê (p= 0,025< 0,05). Chúng tôi cũng nhận thấy biến chứng bí tiểu cấp sau đột quỵ có 
mối tương quan với điểm Glasgow của bệnh nhân, cụ thể điểm Glasgow< 8 ở bệnh 
nhân có biến chứng bí tiểu cấp chiếm 19,1%, ở bệnh nhân không có biến chứng bí 
tiểu cấp chiếm 2,1%; sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p< 0,001). 
Biến chứng táo bón 
Là biến chứng thường gặp trên bệnh nhân đột quỵ mặc dù biến chứng này ít nguy 
hiểm cho tính mạng bệnh nhân nhưng cũng ảnh hưởng đến quá trình hồi phục của 
bệnh nhân. Trong nghiên cứu của chúng tôi biến chứng táo bón chiếm tỉ lệ 71,1%, tỉ 
lệ này cao hơn nhiều so với nghiên cứu của Doshi V S và cộng sự(Error! Reference source not 
found.) nghiên cứu trên 261 trường hợp bị đột quỵ ở bệnh viện Changi (Singapore) từ 
tháng 1/ 2001- 6/ 2001 thì tỉ lệ bệnh nhân có biến chứng táo bón là 22,9%. Về mối 
tương quan giữa biến chứng táo bón và các dữ kiện lâm sàng khác, chúng tôi nhận 
thấy biến chứng táo bón sau đột quỵ có mối tương quan với tuổi trung bình của bệnh 
nhân đột quỵ, cụ thể tuổi trung bình của nhóm bệnh nhân có biến chứng táo bón là 
62,35 của nhóm bệnh nhân không có biến này là 54,39; sự khác biệt này có ý nghìa 
thống kê (p< 0,001). 
Biến chứng loét da 
Đây là biến chứng rất thường gặp, nhất là những bệnh nhân không được chăm sóc, 
xoay trở tốt. Loét mục làm tăng đáng kể tử vong và tàn tật. Trong nghiên cứu của 
chúng tôi bệnh nhân có biến chứng loét da sau đột quỵ chiếm 13,9%. Tỉ lệ này cũng 
phù hợp với các nghiên cứu khác như :nghiên cứu của R.J. Davenport và cộng 
sự(Error! Reference source not found.). 
KẾT LUẬN 
Qua khảo sát 187 trường hợp đột quỵ não tại Bệnh viện Chợ Rẫy cấp, chúng tôi có 
một số nhận xét như sau: 
Biến chứng sau đột quỵ não xảy ra trong tuần lễ đầu khá đa dạng bao gồm các 
biến chứng nội khoa và thần kinh. Trong đó biến chứng táo bón thường xảy ra 
nhất chiếm tỉ lệ 71,1%; kế đến là các biến chứng tim mạch chiếm 39%; tăng 
đường huyết chiếm 32,1%; viêm phổi chiếm 32%; tăng áp lực nội sọ chiếm 
28,3%; bí tiểu cấp chiếm 25,1%; loét da chiếm 13,9%; hạ natri máu chiếm 13,4%; 
xuất huyết tiêu hóa chiếm 12,7%; biến chứng hô hấp chiếm 9,1%; nhiễm trùng 
tiểu chiếm 8%; cuối cùng là biến chứng co giật chiếm 2,1%. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 110_2637.pdf 110_2637.pdf