TCNCYH 117 (1) - 2019 143 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
BÁO CÁO CA LÂM SÀNG 
UNG THƯ TUYẾN GIÁP XÂM LẤN KHÍ QUẢN 
Nguyễn Xuân Hậu, Mai Thị Kim Ngân, Lê Văn Quảng 
Khoa Ung bướu và Chăm sóc giảm nhẹ - Bệnh viện Đại học Y Hà Nội 
Ung thư tuyến giáp xâm lấn đường thở là tình trạng hiếm gặp tuy nhiên tình trạng này gây nguy hiểm đến 
tính mạng khi u gây bíttắc đường thở và/hoặc chảy máu đường thở. Chúng tôi ghi nhận và báo cáo một 
trường hợp bệnh nhân ung thư tuyến giáp thể nhú xâm lấn khí quản gây ho khan, khó chịu vùng cổ, chưa có 
ho máu hoặc khó thở trên lâm sàng. Bệnh nhân được phẫu thuật cắt tuyến giáp toàn bộ, vét hạch cổ 2 bên, 
cắt đoạn khí quản bị xâm lấn, nối ngay mà không cần mở khí quản. Bệnh nhân được rút ống nội khí quản 
vào ngày thứ 6 sau mổ, ra viện sau 14 ngày hậu phẫu. 
Từ khóa: Ung thư tuyến giáp, xâm lấn khí quản, cắt khí quản, tạo hình khí quản 
I. ĐẶT VẤN ĐỀ 
Ung thư tuyến giáp thể biệt hóa là bệnh 
tiến triển chậm, thường được phát hiện khi u 
còn khu trú trong thùy tuyến, chưa xâm lấn 
các cấu trúc xung quanh và có tiên lượng tốt. 
Theo Stephen, có khoảng 5% bệnh nhân 
được chẩn đoán khi bệnh tiến triển tại vùng, u 
xâm lấn các cấu trúc xung quanh như: sụn 
giáp, mô mềm dưới da, thanh quản, khí quản, 
thực quản, thần kinh thanh quản quặt ngược, 
khoang trước sống, động mạch cảnh (xếp loại 
T4 theo TNM),... và đây là một trong các yếu 
tố tiên lượng xấu [1]. 
Tỉ lệ sống toàn bộ (OS) 10 năm là 45% ở 
các bệnh nhân có u T4, trong khi tỉ lệ này 
giảm xuống còn 91% ở các bệnh nhân có u 
khu trú tại tuyến giáp [2]. Khí quản là vị trí hay 
bị xâm lấn nhất với tỉ lệ 35 - 60%, theo sau là 
thanh quản và thực quản [3 - 5]. Khi khí quản 
bị xâm lấn, bệnh nhân có thể xuất hiện các 
triệu chứng như khó thở tăng dần hoặc ho 
máu có thể từ nhẹ đến nặng, thậm chí tử 
vong. Xâm lấn khí quản là yếu tố tiên lượng 
xấu, không chỉ làm giảm OS mà còn làm giảm 
chất lượng sống của người bệnh. Hiện nay, 
điều trị chuẩn cho các bệnh nhân này vẫn 
đang còn tranh cãi, một số tác giả ủng hộ 
quan điểm điều trị tân bổ trợ bằng hóa chất 
hoặc các thuốc kháng tyrosine kinase 
(TKI). Tuy nhiên, nhiều tác giả đồng thuận 
hướng phẫu thuật triệt căn ngay từ đầu, 
gồm: cắt tuyến giáp toàn bộ, vét hạch và 
cắt đoạn khí quản bị xâm lấn với mục tiêu 
đạt diện cắt R0 [6]. 
Một số tác giả trên thế giới ghi nhận ở các 
trường hợp ung thư tuyến giáp xâm lấn cấu 
trúc xung quanh, nếu cắt bỏ được hoàn toàn 
khối u thì tỉ lệ OS 5 năm đạt 100%, trong khi tỉ 
lệ này giảm xuống còn 50% nếu không cắt bỏ 
được hoàn toàn khối u [1]. Chúng tôi ủng hộ 
quan điểm phẫu thuật triệt căn ngay từ đầu 
cho các bệnh nhân ung thư tuyến giáp thể biệt 
hóa có xâm lấn các cấu trúc xung quanh. 
Trong bài báo cáo này, chúng tôi mô tả đặc 
điểm lâm sàng, cận lâm sàng và kết quả sớm 
sau phẫu thuật của một trường hợp ung thư 
tuyến giáp thể biệt hóa xâm lấn khí quản. 
Địa chỉ liên hệ: Nguyễn Xuân Hậu, Khoa Ung bướu và 
Chăm sóc giảm nhẹ - Bệnh viện Đại học Y Hà Nội 
Email: 
[email protected] 
Ngày nhận: 22/11/2018 
Ngày được chấp thuận: 17/12/2018 
 144 TCNCYH 117 (1) - 2019 
 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
II. GIỚI THIỆU CA LÂM SÀNG 
Bệnh nhân nam, 54 tuổi, không có bệnh lý 
nội khoa phối hợp. Bệnh nhân phát hiện u 
giáp khoảng 10 năm không điều trị gì. Gần 
đây, bệnh nhân cảm giác vướng nhiều vùng 
cổ, hay tiết đờm dãi kèm theo thỉnh thoảng có 
ho khan, khàn tiếng nhẹ, không khó thở. 
Khám lâm sàng, thùy trái tuyến giáp có khối 
cứng chắc khoảng 3cm, di động theo nhịp 
nuốt, không sờ thấy hạch cổ khi thăm khám. 
Kết quả siêu âm vùng cổ cho thấy: chiếm gần 
hết thùy (T) và eo tuyến giáp có khối giảm âm 
kích thước 22 x 32mm, bờ không đều, trong 
có vôi hóa, tăng sinh mạch trên Doppler màu 
(TIRADs 5) và không có hạch to bất thường 
vùng cổ. Kết quả chọc hút tế bào kim nhỏ 
(FNA) có hình ảnh carcinoma tuyến giáp thể 
nhú. Siêu âm tuyến giáp đánh giá u không ghi 
nhận u có phá vỡ vỏ hay khôngnhưng lâm 
sàng gợi ý u xâm lấn dây thanh quản quặt 
ngược gây khàn tiếng vì vậy chúng tôitiến 
hành chụp cắt lớp vi tính vùng cổ cho bệnh 
nhân. Kết quả cho thấy: thùy (T) tuyến giáp có 
khối u kích thước 35 x 36mm phá vỡ bao xâm 
lấn khí quản. Kết quả nội soi tai mũi họng cách 
3 tháng bình thường, nội soi lại gần đây phát 
hiện liệt dây thanh (T); soi phế quản phát hiện 
thành (T) khí quản đoạn cồ bị chèn ép gây hẹp 
khí quản, niêm mạc khí quản tăng sinh mạch 
nhẹ. Các kết quả cận lâm sàng khác không 
thấy có tổn thương di căn. Hormone tuyến giáp 
FT3, FT4, TSH cũng như các chỉ số sinh hóa 
khác trong giới hạn bình thường. 
Hình 1. U tuyến giáp xâm lấn, đẩy lệch thành (T) khí quản trên cắt lớp vi tính vùng cổ 
Bệnh nhân được chẩn đoán ung thư thùy (T) tuyến giáp cT4aN0M0 (u xâm lấn khí quản, giai 
đoạn III theo Shin và cộng sự). Phương pháp điều trị được đặt ra cho bệnh nhân là phẫu thuật 
cắt tuyến giáp toàn bộ, vét hạch cổ hai bên và cắt đoạn khí quản bị xâm lấn. Tổn thương trong 
mổ: Toàn bộ thùy (T) lan đến eo tuyến giáp là khối u khoảng 4 x 4cm, chắc, phá vỡ vỏ, xâm lấn 
vào mặt trước khí quản đoạn vòng sụn 1 đến 3, trên đoạn dài 3cm, xâm lấn thần kinh thanh quản 
quặt ngược, nhiều hạch cổ 2 bên khoảng 5 - 7mm. Bệnh nhân được cắt tuyến giáp toàn bộ, cắt 
thành (T) khí quản đoạn dài 3cm do u xâm lấn, tạo hình vạt chữ V, cắt đoạn thần kinh thanh quản 
quặt ngược do u xâm lấn, vét hạch cổ 2 bên các nhóm II, III, IV, VI. Sau mổ, bệnh nhân thở hỗ 
trợ qua ống nội khí quản, rút ống nội khí quản vào ngày thứ 6. Bệnh nhân ra viện sau 14 ngày 
hậu phẫu trong tình trạng tự thở khí trời, nói giọng khàn nhẹ. 
 TCNCYH 117 (1) - 2019 145 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
Hình 2. Đoạn khí quản bị u xâm lấn được cắt bỏ và phần khí quản còn lại 
Hình 3. Khâu phục hồi thành khí quản và khí quản sau khi khâu phục hội 
 Giải phẫu bệnh sau mổ: U thùy (T) tuyến giáp là ung thư biểu mô tuyến giáp thể nhú, phá 
vỡ vỏ xơ tuyến giáp, thùy (P) không có u, 14 hạch viêm mạn tính, đoạn khí quản có ung thư biểu 
mô tuyến giáp xâm lấn khí quản. Bệnh nhân được dự kiến điều trị I - 131 khi hồi phục sau phẫu 
thuật và bổ sung hormone tuyến giáp tổng hợp sau điều trị. 
Hình 4. Hình ảnh giải phẫu bệnh mô giáp khẳng định Ung thư tuyến giáp thể nhú 
 146 TCNCYH 117 (1) - 2019 
 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
III. BÀN LUẬN 
Ung thư tuyến giáp thường xảy ra ở nhóm 
tuổi 40 - 50 tuổi, hay gặp ở nữ giới hơn nam 
giới với tỉ lệ 2 - 3/1 [7]. Bệnh gồm 2 thể chính: 
biệt hóa (thể nhú, thể nang, tế bào Hurtle) và 
kém biệt hóa. Tỉ lệ bệnh ở giai đoạn xâm lấn 
tại chỗ vi thể hoặc đại thể (T3 - 4) chiếm 
khoảng 10 % và thường xâm lấn các cấu trúc: 
thần kinh thanh quản quặt ngược, khí quản, 
[8; 9]. Tỉ lệ tái phát cao gấp 2 lần khi u xâm lấn 
tại chỗ và có khoảng 33% bệnh nhân sẽ tử 
vong vì bệnh trong thập kỉ đầu tiên [8; 10]. Khí 
quản là vị trí bị xâm lấn phổ biến thứ 2 sau 
thần kinh thanh quản quặt ngược và chiếm 
1/3 số trường hợp u xâm lấn các cấu trúc 
xung quanh [11]. Các triệu chứng của bệnh 
khi u xâm lấn khí quản thường gặp là sờ thấy 
khối vùng cổ, ho khan hoặc ho máu, cảm giác 
vướng cùng cổ, khò khè, có thể nói khàn,
Ung thư tuyến giáp thể nhú là thể giải phẫu 
bệnh hay gặp nhất ở các trường hợp u xâm 
lấn khí quản. Trường hợp bệnh nhân của 
chúng tôi là ung thư tuyến giáp thể nhú giai 
đoạn cT4aN0M0 với các triệu chứng sờ thấy 
khối u và có cảm giác vướng vùng cổ, khàn 
tiếng, phù hợp với y văn. 
Khí quản kéo dài từ dưới thanh quản, chạy 
dọc sau xương ức, sau đó chia thành hai phế 
quản gốc phải và trái. Về cấu trúc giải phẫu, 
khí quản gồm 15 - 20 vòng sụn cứng hình chữ 
C nằm ở phía trước và hai bên tạo bức tường 
bảo vệ cho khí quản. Thành sau khí quản 
được cấu tạo bởi lớp cơ và mô liên kết. Sụn 
nhẫn là vòng sụn đầu tiên của khí quản và 
nằm ngay dưới đáy thanh quản. Nó là vòng 
sụn kín duy nhất của khí quản. Mỗi vòng sụn 
rộng khoảng 4mm và dày khoảng 1mm. Mặt 
ngoài các vòng sụn tạo mặt phẳng thẳng 
đứng tuy nhiên mặt trong lồi do các vòng sụn 
dày ở giữa hơn 2 đường biên [12]. Tuyến giáp 
nằm trước và ở phần đỉnh của khí quản, bên 
dưới sụn nhẫn. Eo tuyến giáp nằm ngay trước 
khí quản trong khi hai thùy tuyến giáp nằm 
phía trước và kéo dài sang hai bên của khí 
quản. Vì vậy, khi các khối u của tuyến giáp 
tiến triển xâm lấn phá vỡ vỏ thường có xu 
hướng xâm lấn vào khí quản. 
Về phân loại giai đoạn khi u xâm lấn khí 
quản, các tác giả đồng thuận phân loại theo 
Shin và cộng sự: giai đoạn I u phá vỡ vỏ tuyến 
giáp nhưng không xâm lấn phần mô sụn xung 
quanh khí quản, giai đoạn II u xâm lấn sụn khí 
quản và phá hủy sụn khí quản, giai đoạn III u 
xâm lấn lớp màng đáy của niêm mạc khí 
quản, giai đoạn IV u xâm lấn toàn bộ chiều 
dày khí quản và có thể thấy niêm mạc khí 
quản sùi hoặc loét khi nội soi phế quản [13]. 
Trường hợp bệnh nhân của chúng tôi được 
đánh giá xếp loại giai đoạn III theo phân loại 
của Shin và cộng sự 
Hình 5. Phân loại giai đoạn ung thư tuyến 
giáp xâm lấn khí quản theo Shin 
Về điều trị ung thư tuyến giáp thể biệt hóa 
nói chung và khi u xâm lấm khí quản nói riêng, 
phẫu thuật vẫn là phương pháp điều trị chính, 
theo sau bằng điều trị Iod phóng xạ. Nhiều tác 
giả đồng thuận về mục tiêu phẫu thuật là cắt 
 TCNCYH 117 (1) - 2019 147 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
bỏ được hoàn toàn tổn thương đại thể bao 
gồm cắt tuyến giáp toàn bộ, cắt tổ chức khí 
quản bị xâm lấn, nạo vét hạch. Tỉ lệ tái phát 
rõ ràng cao hơn ở nhóm bệnh nhân không 
cắt được hoàn toàn tổn thương so với nhóm 
cắt được hoàn toàn tổn thương. Nishida và 
cộng sự đã nghiên cứu trên 54 bệnh nhân 
ung thư tuyến giápxâm lấn khí quản giai 
đoạn II hoặc cao hơn trong đó có 40 bệnh 
nhân đã trải qua cắt khí quản, 14 bệnh nhân 
chỉ cắt tuyến giáp mà không cắt khí quản ghi 
nhận tỷ lệ tái phát cao hơn nhiều (79% so với 
8%) và thời gian sống thêm toàn bộ ngắn 
hơn (1,5 năm so với 8,7 năm) ở nhóm không 
cắt đường thở so với nhóm có cắt đường 
thở. Ngược lại, với các bệnh nhân giai đoạn 
I, không có sự khác biệt về tỉ lệ tái phát tại 
chỗ, di căn xa và thời gian sống thêm toàn bộ 
giữa 2 nhóm có hay không có cắt đường thở 
[14]. Khi khối u xâm nhập vào hoặc phá hủy 
sụn khí quản (giai đoạn II), việc cắt khí quản 
có thể lựa chọn giữa 2 phương pháp: cắt kiểu 
cửa sổ (window resection) hoặc cắt theo chu 
vi khí quản (circumferential resection) và tạo 
hình lại. 
Hình 6. Cắt khí quản kiểu cửa sổ do u 
tuyến giáp xâm lấn khí quản 
Việc cắt bỏ khí quản kiểu cửa sổ có thể 
được thực hiện ở các trường hợp u tuyến 
giáp xâm lấn giới hạn ở thành trước và bên 
của khí quản. Nếu phải cắt bỏ nhiều hơn một 
vòng sụn khí quản thì cắt kiểu tay áo (sleeve 
resection) và tạo hình lại là bắt buộc. Cắt kiểu 
chu vi khi u xâm lấn màng đáy niêm mạc khí 
quản, không cho phép phẫu thuật viên cắt 
kiểu cửa sổ. 
Các biến chứng thường gặp của phẫu 
thuật gồm suy tuyến cận giáp gây hạ Canxi 
máu, tổn thương thần kinh thanh quản quặt 
ngược gây khàn tiếng, nói khó,...[15]. Trong 
báo cáo của chúng tôi, bệnh nhân được phẫu 
thuật cắt tuyến giáp toàn bộ, vét hạch cổ 2 
bên, cắt đoạn khí quản kiểu cửa sổ và cắt 
thần kinh thanh quản quặt ngược bị xâm lấn. 
Phẫu thuật đạt được mục tiêu cắt bỏ hoàn 
toàn tổn thương về đại thể. Trong quá trình 
hậu phẫu, bệnh nhân được dự phòng hạ 
Canxi máu và không thấy các dấu hiệu của 
tình trạng này. Bệnh nhân hồi phục tốt, không 
có các biến chứng khác trong thời gian hậu 
phẫu. 
Về điều trị I - 131 sau phẫu thuật, NCCN 
khuyến cáo cho các trường hợp bệnh nhân có 
nguy cơ cao bệnh còn tồn tại dai dẳng sau cắt 
tuyến giáp toàn bộ, gồm các bệnh nhân có ít 
nhất một trong các yếu tố sau: Tổn thương 
xâm lấn ra ngoài tuyến giáp trên đại thể, u 
nguyên phát lớn hơn 4cm, Tg tăng cao hơn 5-
10ng/ml sau phẫu thuật. Trường hợp bệnh 
nhân của chúng tôi có yếu tố nguy cơ cao, vì 
vậy bệnh nhân được dự kiến điều trị I-131 sau 
phẫu thuật và bổ sung hormone tuyến giáp 
tổng hợp sau điều trị. 
IV. KẾT LUẬN 
Ung thư tuyến giáp thể biệt hóa là bệnh có 
tiên lượng tốt, tỉ lệ sống 5 năm cao. Khoảng 
10% bệnh khi phát hiện đã ở giai đoạn xâm 
lấn tại chỗ, phá vỡ vỏ tuyến, và xâm lấn các 
 148 TCNCYH 117 (1) - 2019 
 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
cấu trúc xung quanh. Khí quản là vị trí bị xâm 
lấn hay gặp. Điều trị ung thư tuyến giáp xâm 
lấn khí quản còn nhiều tranh cãi, tuy nhiên 
phẫu thuật cắt toàn bộ tuyến giáp,cắt phần khí 
quản bị xâm lấn là hướng điều trị được nhiều 
tác giả đồng thuận vì tỉ lệ tái phát thấp và đem 
lại thời gian sống toàn bộ dài hơn. Cách thức 
phẫu thuật tùy thuộc vào tổn thương khí quản 
bị xâm lấn. 
Lời cám ơn 
Chúng tôi xin chân thành cám ơn Khoa 
Ung bướu và Chăm sóc giảm nhẹ, Khoa Giải 
phẫu bệnh - Bệnh viện Đại học Y Hà Nội đã 
tạo điều kiện thuận lợi để chúng tôi hoàn 
thành bài báo cáo này. Chúng tôi xin cam 
đoan nghiên cứu này không trùng lặp bất kì 
nghiên cứu nào khác. Các số liệu và thông tin 
nghiên cứu là hoàn toàn chính xác, trung thực 
và khách quan. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Bayles S. W., Kingdom T. T., Carlson 
G. W (1998). Management of thyroid carci-
noma invading the aerodigestive tract. Laryn-
goscope, 108(9), 1402 - 1407. 
2. Andersen P. E., Kinsella J., Loree T. R 
et al (1995). Differentiated carcinoma of the 
thyroid with extrathyroidal extension. Am J 
Surg, 170(5), 467 - 470. 
3. Brauckhoff M., Dralle H. (2009). Cervi-
covisceral resection in invasive thyroid tumors. 
Chirurg, 80(2), 88 - 98. 
4. Machens A., Hinze R., Dralle H (2001). 
Surgery on the cervicovisceral axis for inva-
sive thyroid cancer. Langenbecks Arch Surg, 
386(5), 318 - 323. 
5. Kim H., Jung H. J., Lee S. Y et al 
(2016). Prognostic factors of locally invasive 
well-differentiated thyroid carcinoma involving 
the trachea. Eur Arch Otorhinolaryngol, 273
(7), 1919 - 1926. 
6. Dang R. P., McFarland D., Le V. H et al 
(2016). Neoadjuvant Therapy in Differentiated 
Thyroid Cancer. Int J Surg Oncol, 2016, 
3743420. 
7. Howlader N, Noone A, Krapcho M, et 
al (2017). SEER Cancer Statistics Review, 
1975-2014, based on November 2016 SEER 
data submission, posted to SEER website, 
April 2017. Bethesda, MD: National Cancer 
Institute; 2017. Available at: https://seer. can-
cer.gov/archive/csr/1975_2014/, chủ biên. 
8. Mazzaferri E. L., Jhiang S. M. (1994). 
Long-term impact of initial surgical and medi-
cal therapy on papillary and follicular thyroid 
cancer. Am J Med, 97(5), 418 - 428. 
9. Emerick G. T., Duh Q. Y., Siperstein A. 
E et al (1993). Diagnosis, treatment, and out-
come of follicular thyroid carcinoma. Cancer, 
72(11), 3287 - 3295. 
10. Salvesen H., Njolstad P. R., Akslen 
L. A et al (1992). Papillary thyroid carcinoma: 
a multivariate analysis of prognostic factors 
including an evaluation of the p-TNM staging 
system. Eur J Surg, 158(11-12), 583 - 589. 
11. McCaffrey T. V., Bergstralh E. J., Hay 
I. D (1994). Locally invasive papillary thyroid 
carcinoma: 1940 - 1990. Head Neck, 16(2), 
165 - 172. 
12. Ross Micdihael. Histology a text and 
atlas (5th ed.). Wojciech Pawlina. p. 617. 
13. Shin D. H., Mark E. J., Suen H et al 
(1993). Pathologic staging of papillary carci-
noma of the thyroid with airway invasion 
based on the anatomic manner of extension 
to the trachea: a clinicopathologic study 
based on 22 patients who underwent thyroi-
dectomy and airway resection. Hum Pathol, 
24(8), 866 - 870. 
 TCNCYH 117 (1) - 2019 149 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
14. Nishida T., Nakao K., Hamaji M. 
(1997). Differentiated thyroid carcinoma with 
airway invasion: indication for tracheal resec-
tion based on the extent of cancer invasion. J 
Thorac Cardiovasc Surg, 114(1), 84 - 92. 
15. Bilimoria K. Y., Zanocco K., Stur-
geon C (2008). Impact of surgical treatment 
on outcomes for papillary thyroid cancer. Adv 
Surg, 42, 1 - 12. 
Summary 
CASE REPORT: THYROID CANCER INVADING THE TRACHEA 
Thyroid cancerinvading the airway is rare but is life-threatening when the tumor narrows the 
airway or bleeds into the airway. We recorded and reported a case of a patient with papillary thy-
roid cancer having tracheal invasion, which caused dry cough and neck discomfort, but no 
hemoptysisor clinical dyspnea. The patient underwent complete thyroid gland surgery, bilateral 
neck nodal dissection, invasive trachea resection, and immediate closure without tracheostomy. 
Patient wasextubated on the 6th day after surgery and dischargedon day 14 post-operation. 
Key words: thyroid cancer, tracheal invasion, tracheostomy, tracheal angioplasty