Đề án Xu hướng phát triển của thị trường xuất khẩu sản phẩm thủy sản Việt Nam

Tài liệu Đề án Xu hướng phát triển của thị trường xuất khẩu sản phẩm thủy sản Việt Nam: PHẦN MỞ ĐẦU Sau hơn 15 năm đổi mới cho thấy chiến lược mà Đảng và Nhà nước đề ra là hết sức đúng đắn. Quan điểm của chúng ta là hướng vào xuất khẩu tích luỹ nội bộ cho nền kinh tế, phát huy mọi tiềm năng thế mạnh sẵn có để công nghiệp hoá -hiện đại hoá đất nước. Xu thế quốc tế hoá nền kinh tế ngày càng trở thành một xu hướng quan trọng trong quá trình phát triển của mỗi quốc gia. Trong xu thế phát triển đó, Việt nam chúng ta cũng đã từng bước gia nhập vào nền kinh tế thế giới noi chung và đã xuất đi nhiều nước với nhiều mặt hàng khác nhau như gạo, cao su, cà phê, dầu mỏ, thuỷ hải sản...Xuất khẩu thuỷ sản được coi là mặt hàng có tiềm năng của nước ta. Hiện nay nước ta đứng vị trí thứ 17 trên thế giới và về tương lai thuỷ sản xuất khẩu của ta có khả năng tăng cao hơn nữa vì tiềm năng thuỷ sản của ta rất lớn. Do vậy các sản phẩm thủy sản của Việt Nam đã từng bước khẳng định mình và dần có chỗ đứng trên thị trường thủy sản thế giới. Tuy nhiên, do một số nguyên nhân nên các sản phẩm thủ...

doc33 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1177 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề án Xu hướng phát triển của thị trường xuất khẩu sản phẩm thủy sản Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN MỞ ĐẦU Sau hơn 15 năm đổi mới cho thấy chiến lược mà Đảng và Nhà nước đề ra là hết sức đúng đắn. Quan điểm của chúng ta là hướng vào xuất khẩu tích luỹ nội bộ cho nền kinh tế, phát huy mọi tiềm năng thế mạnh sẵn có để công nghiệp hoá -hiện đại hoá đất nước. Xu thế quốc tế hoá nền kinh tế ngày càng trở thành một xu hướng quan trọng trong quá trình phát triển của mỗi quốc gia. Trong xu thế phát triển đó, Việt nam chúng ta cũng đã từng bước gia nhập vào nền kinh tế thế giới noi chung và đã xuất đi nhiều nước với nhiều mặt hàng khác nhau như gạo, cao su, cà phê, dầu mỏ, thuỷ hải sản...Xuất khẩu thuỷ sản được coi là mặt hàng có tiềm năng của nước ta. Hiện nay nước ta đứng vị trí thứ 17 trên thế giới và về tương lai thuỷ sản xuất khẩu của ta có khả năng tăng cao hơn nữa vì tiềm năng thuỷ sản của ta rất lớn. Do vậy các sản phẩm thủy sản của Việt Nam đã từng bước khẳng định mình và dần có chỗ đứng trên thị trường thủy sản thế giới. Tuy nhiên, do một số nguyên nhân nên các sản phẩm thủy sản của Việt Nam đang bị cạnh tranh hết sức gay gắt và có nguy cơ mất dần chỗ đứng của mình. Vì vậy em đã chọn đề tài “Xu hướng phát triển của thị trường xuất khẩu sản phẩm thủy sản Việt Nam” để nghiên cứu các thị trường thủy sản, nhằm giữ vững, phát triển và mở rộng thị trường thủy sản Việt Nam. B ố cục bài viết của em được chia làm hai phần: Phần I: Thực trạng xuất khẩu thuỷ sản và thị trường xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam. Phần II: Xu hướng và giải pháp phát triển thị trường xuất khẩu thuỷ sản. Do thời gian, trình độ và kinh nghiệm có hạn nên bài viết nay chỉ trình bày được một vài khía cạnh của vấn đề. Em xin chân thành cảm ơn cô giáo Nguyễn Thu Lan đã giúp đỡ em hoàn thành bài viết này PHẦN I THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU THUỶ SẢN VÀ THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU THUỶ SẢN CỦA VIỆT NAM 1. Thực trạng xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam trong thời gian qua. 1.1. Các sản phẩm thủy sản chủ yếu Nếu như thời kỳ 1985-1995, chúng ta phải dựa vào một sản phẩm chủ yếu là tôm đông block thì Từ năm 1995 trở đi, tỷ lệ tôm đông giảm, các sản phẩm tăng nhanh như cá đông lạnh các loại, mực và bạch tuộc đông lạnh và phơi khô. Đến nay tôm đông vẫn còn là sản phẩm xuất khẩu số một với tổng trị giá xuất khẩu tăng lên rất nhanh từ 59 triệu USD năm 1985 lên 775 triẹu USD năm 2001, nhưng tỷ trọng đã giảm đi 34% so với cách đây 15 năm. Điều đáng chú ý là trứoc đây các sản phẩm cá ít được chú ý thì gần đây các sản phẩm cá đông lạnh, cá tưới, cá phi-lê được chú trong hơn. Hiện nay giá trị xuất khẩu cá đông đã chiếm tỷ trọng 20%. Năm 2001 mực khô đã trở thành một mặt hàngười xuất khẩu lớn thứ 3 đạt 144 triệu USD. Bảng 1: Xuất khẩu thuỷ sản năm 2004 theo từng mặt hàng Các mặt hàng năm 2003 năm 2004 Sản lượng Giá trị Sản lượng Giá trị Bạch tuộc đông lạnh 20583.48 35183937 35688.49 71103642 Cá đông lạnh 74093.14 221947692 165596.3 464727235 Cá khô 12906.8 36844382 14755.54 47916251 Cá ngừ 14475.71 58592912 20783.76 55054959 Mực đông lạnh 21069.73 80707667 26726.62 96517102 Mực khô 18109.76 153809866 9793.97 65420451 Ruốc khô 2743.67 3802902 6927.17 5208457 Các mặt hàng khác 211505,45 1186596396 280271.9 805948097 Tổng số 375490.7 1777485754 560543.8 1611896194 Nguồn : Trung tâm thị trường KHKT và kinh tế thuỷ sản-Bộ thuỷ sản Năm 1998 dến 1999, các mặt hàng thuỷ sản giá trị gia tăng mới chiếm 17-18% thì nay đã hơn 30% trong tổng số sản phẩm xuất khẩu. Nhiều doanh nghiệp tỷ trọng này chiếm 50%. Đây là kết quả của chủ trương đổi mới công nghệ chế biến thuỷ sản xuất khẩu và tăng cường quản lý chất lượng sản phẩm theo chương trình HACCP và ISO 9002 của ngành. Hiện nay đã có trên 60 doanh nghiệp chế biến thuỷ sản xuất khẩu được cấp giấy chứng nhận xuất khẩu trực tiếp sang EU. Nhiều mặt hàng đã chinh phục được các thị trường quan trọng như Mỹ, Nhật Bản. 1.2. Một số thị trường xuất khẩu thuỷ sản chủ yếu 1.2.1 Thị trường Nhật Bản. Nhật Bản là quốc gia có mức tiêu thụ thuỷ sản bình quân đầu người cao nhất thế giới (67kg/người /năm). Người Nhật Bản coi trọng nguồn cung cấp protein từ tôm cá, đặc biệt trong năm, người Nhật có tới hàng trăm lễ hội và mỗi lễ hội hầu như có một hay vài món ăn chế biến từ thuỷ sản. Nhưng trong lịch sử phát triển lâu dài của mình, Nhật Bản đã sớm là một quốc gia biển nên có tiềm năng lớn về đánh bắt và nuôi trồng thuỷ sản , kim ngạch xuất khẩu những năm gần đây của Nhật Bản trên dưới 3,6 tỷ USD, riêng 6 tháng đầu năm 2001, xuất khẩu đạt 128.377 tấn, trị giá 44,9 tỷ yên. Nhật Bản chủ yếu xuất khẩu mực, cá hồi Thái Bình Dương sang Trung Quốc với khối lượng rất lớn, trên 90% lượng cá chuồn được xuất sang Thái Lan làm nguyên liệu cho hải sản đóng hộp. Mặt hàng thuỷ sản mà Nhật Bản nhập về chủ yếu là tôm, cá ngừ, cá mực, lươn, surimi, cua…Năm 2000, Nhật Bản nhập 246.627 tấn tôm đông lạnh, giảm 3% so với năm 1999. Các nước xuất khẩu tôm sang thi trường Nhật chủ yếu là Ấn Độ, Inđônêxia và Việt Nam , cá ngừ vàng đông lạnh và cá ngừ mắt to từ Hàn Quốc và Đài Loan, cá hồi từ Nauy và Chi Lê, lươn tư Trung Quốc. Riêng đối với Việt Nam thì sản lượng xuất khẩu vào thị trường Nhật Bản tương đối cao, năm 2001 đạt 76895,53 tấn, trị giá gần 466 triệu USD, năm 2002 đạt 96251,41 tấn, trị gía gần 540 triệu USD, năm 2003 đạt 97953,91 tấn, trị giá gần 600 triệu USD và đến năm 2004 thì đạt 121160,49 tấn, trị giá gần 770 triệu USD với các sản phẩm chủ yếu của nước ta xuất sang Nhật là tôm, cá mực… Hầu hết các sản phẩm của ta đều đáp ứng được yêu cầu của thị trường Nhật, được người tiêu dùng ưa chuộm. Tuy nhiên sản phẩn của ta đang vấp phải khó khăn tương đối lớn, đó là phải cạnh tranh với các sản phẩm của các nước Ấn Độ, Indonexia…là những nước rất mạnh trong khu vực về xuất khẩu thuỷ sản. Mặt khác, các sản phẩm của chúng ta vẫn chưa được cao về chất lượng, chủng loại chưa đa dạng, do đó vấn đề cạnh tranh với các nước trên là rất khó khăn.Ngoài ra chúng ta còn phải cạnh tranh với một s ố nước nữa như là Nauy, chilê, Trung Quốc… 1.2.2. Thị trường Mỹ Trong thập kỷ vừa qua, Mỹ luôn đứng thứ ba, thứ tư trên thế giới về tổng sản lượng thuỷ sản với mức khá ổn định từ 5,5-5,9 triệu tấn/năm. Hầu hết các mặt hàng thuỷ sản của Mỹ đều có chất lượng cao, phong phú về chủng loại với nhiều sản phẩm quý như cá hồi, cá tuyết, cá ngừ, tôm hùm, sò, điệp, cá nheo...Tuy nhiên, sản lượng thuỷ sản nêu trên vẫn chưa đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước. Hơn thế, thị hiếu của người tiêu dùng Mỹ lại tập trung vào một số mặt hàng như: Tôm đông bóc đầu, cá ngừ đóng hộp, cá hồi tươi Đại Tây Dương, cá phi lê tươi, tôm hùm, thịt điệp...Các mặt hàng nêu trên của Mỹ lại có rất ít hoặc có nhưng không đủ đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của người tiêu dùng. Đặc điểm này là một trong những động lực quan trọng cho ngoại thương hàng thuỷ sản của Mỹ phát triển toàn diện cả về xuất khẩu lẫn nhập khẩu. Những năm gần đây, xuất nhập khẩu thuỷ sản của Mỹ đạt giá trị bình quân 10 tỷ USD/năm, lớn thứ 2 trên thế giới. Các mặt hàng thuỷ sản nhập khẩu vào Mỹ rất đa dạng, chủ yếu là thuỷ sản tươi sống và đông lạnh (khoảng 88% giá trị nhập khẩu), 73% là các mặt hàng thuỷ sản đóng hộp, còn lại là các mặt hàng thuỷ sản khác. Tôm đông lạnh là mặt hàng nhập khẩu quan trọng nhất vào Mỹ, chiếm tới 38% giá trị nhập khẩu của thuỷ sản nước này, chiếm gần 30% giá trị tôm đông lạnh nhập khẩu của thế giới. Tôm đông lạnh nhập khẩu vào Mỹ chủ yếu là tôm bóc đầu (chiếm 55% khối lượng và 58% giá trị) và tôm nguyên liệu thô (chiếm 38% khối lượng và 34% giá trị nhập khẩu tôm đông). Thái Lan tiếp tục chiếm lĩnh thị trường tôm đông lạnh ở Mỹ nhưng so với năm 1995 thì khối lượng giảm 7%. Equado lại là nhà xuất khẩu tôm đông lạnh thứ 2 sang Mỹ nhưng về khối lượng so với năm 1995 cũng giảm 8,5%. Sau nữa là đến Trung Quốc và một số nước khác có kim ngạch xuất khẩu tôm đông lạnh khá lớn sang thị trường Mỹ. Ngoài tôm đông lạnh, mặt hàng thuỷ sản nhập khẩu lớn thứ hai là cá philê tươi và ướp đông. Mặc dù Mỹ có khả năng sản xuất cá philê nhưng do người Mỹ rất ưa chuộng cá philê của Tây Âu và Canada, vì vậy Mỹ phải xuất khẩu sản phẩm của mình và nhập khẩu sản phẩm của các nước khác (Canada, Chi Lê, Na uy, Tây Ban Nha...). Sau tôm đông lạnh và cá philê, các mặt hàng khác như : cá ngừ nguyên con, cá hồi nguyên con và ướp lạnh, cá ngừ đống hộp...được nhập khẩu vào Mỹ với giá trị hàng năm tương đối lớn nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của cư dân nước này và để tái chế rồi xuất sang nước khác. Đối với Việt Nam thì thị trường Mỹ là một thị trương rất lớn, rất cần phải quan tâm. Tuy nhiêu sản lượng thuỷ sản của nước ta xuất sang Mỹ không đều, năm 2001 đạt sản lượng là 70930,78 tấn, trị giá gần 500 triệu USD, năm 2002 đạt là 98664.54 tấn, trị giá gần 650 triệu USD, năm 2003 đạt được 122162.89 tấn, trị giá gần 780 triệu USD nhưng đến năm 2004 thì sản lượng chỉ đạt là 91380,69 tấn, giá trị là gần 600 triệu USD. Các sản phẩm của nước ta xuất khẩu sang thị trường Mỹ chủ yếu là các loại cá, tôm…Tuy nhiên khó khăn của thuỷ sản nước ta trên thị trường Mỹ là có rất nhiều các đối thủ cạnh tranh, hầu hết các nước đó đều là các quốc gia có thế mạnh về thuỷ sản với chất lượng sản phẩm cao, phong phú về chủng loại như Thái Lan, Trung Quốc, Equado, Canada… 1.2.3. Thị trường Trung Quốc. Năm 2000, sản lượng thuỷ sản các loại của Trung Quốc đạt 42.785 ngàn tấn trong đó sản lượng thuỷ sản khai thác tự nhiên là 17.400 ngàn tấn và sản lượng thuỷ sản nuôi trồng đạt 25.385 ngàn tấn. Dự kiến đến năm 2001, sản lượng thuỷ sản của Trung Quốc sẽ tăng lên đến trên 50 ngàn tấn nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu thụ trong nước ngày càng tăng và nhu cầu cho xuất khẩu với khối lượng lớn. Về tiêu thụ, do mức sống của nhân dân Trung Quốc tiếp tục tăng lên và nhu cầu về thuỷ sản tươi sống cũng tăng theo, dưới đây là số liệu thống kê của Trung Quốc cho ta thấy. Bảng 2: Cơ cấu tiêu dùng và xuất nhập khẩu thuỷ sản Trung Quốc. Năm Chỉ tiêu Đơn vị 1999 2000 Mức tiêu thụ bình quân. - Thành thị: - Nông thôn: Nhập khẩu. Xuất khẩu. kg/người ,, ,, Tấn ,, 5,82 10,3 3,28 626.000 1.296.000 6,74 11,7 3,92 1.251.000 1.485.000 Nguồn: Trung tâm thị trường KHKT và kinh tế thuỷ sản-Bộ thuỷ sản Tính đến hết tháng 4/2001, khối lượng thuỷ sản mậu dịch của Trung Quốc dự tính tăng 13% so với cùng kỳ năm 2000. Hầu hết cá đông lạnh nhập khẩu vào Trung Quốc được lọc xương và tái xuất. Mực là loài nhuyễn thể thân mềm được giao dịch với khối lượng lớn, phần lớn mực nhập khẩu vào Trung Quốc được chế biến và tái xuất sang Nhật, Mỹ và Hàn Quốc. Ngoài ra, Trung Quốc cũng xuất khẩu một khối lượng lớn mực sống, tôm đông lạnh, lươn sống và đông lạnh. Tính đến tháng 11/2000, thuỷ sản Việt Nam đã xuất khẩu sang thị trường này 252,1 triệuUSD tăng 2,3 lần so với năm1999. Trung Quốc và Hồng Kông đã trở thành thị trường xuất khẩu lớn thứ 3 của ngành thuỷ sản Việt Nam, chiếm tỷ trọng 19,3% tổng gía trị kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản cả nước, có tốc độ tăng trưởng nhanh, sát nút với thị trường Mỹ, đã khẳng định vị trí quan trọng của mình. Xuất khẩu cá sang thị trường này đã đạt 36,6 triệu USD, ngang ngửa với thị trường Nhật bản vốn là thị trường truyền thống lớn nhất của ta. Riêng mực và bạch tuộc đạt 12 triệu USD, vượt cả 13 nước EU cộng lại. Đặc biệt hơn là hàng khô các loại xuất khẩu sang thị trường này đã đạt 150,797 triệu USD chiếm tỷ trọng 60% kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam năm 2000 vượt xa gía trị xuất khẩu của một số ngành kinh tế mạnh và có nhiều lợi thế của Việt Nam như cao su, hạt tiêu... Thị trường Trung Quốc trong 7 tháng đầu năm 2001 đã tăng 2,76 lần đạt 106 triệu USD trong đó hàng khô đạt 74,3 triệu USD tăng 2,97 lần và mặt hàng cá đạt 33,4 triệu USD tăng 11 lần so với cùng kỳ năm 2000 mặc dùgiá tôm xuất khẩu có giảm 20-30% so với cùng kỳ năm 2000 và vẫn chưa có dấu hiệu nhích lên. Thị trường Hồng Kông chiếm khoảng 10% về gía trị hàng xuất khẩu thuỷ sản, tiêu thụ thuỷ sản Hồng Kông rất lớn và phải nhập khẩu. Hiện nay Hồng Kông đã thuộc về Trung Quốc đang chuyển dần từ quốc gia xuất khẩu lớn thuỷ sản thành thị trường tiêu thụ và nhập khẩu lớn các hàng thuỷ sản nên nó sẽ trở thành một thị trường tiêu thụ thuỷ sản lớn hơn trước và sẽ không thua kém gì so với thị trường Nhật bản. 1.2.4. Thị trường EU. Liên minh Châu Âu hiện nay bao gồm 25 quốc gia với khoảng 500 triệu người tiêu dùng. Từ năm 1968, EU đã là một thị trường thống nhất về hải quan, có định mức thuế hải quan chung cho tất cả các nước thành viên. Ngày 7/2/1992 hiệp ước Masstricht được ký kết tại Hà Lan mở đầu cho sự thống nhất về chính trị, kinh tế tiền tệ giữa các nước thành viên EU. Thị trường EU thống nhất cho phép tự do lưu thông sức lao động, hàng hoá dịch vụ và vốn giữa các nước thành viên. Riêng đối với mặt hàng thuỷ sản, EU là một trong ba thị trường tiêu thụ thuỷ sản lớn nhất thế giới bên cạnh Nhật Bản và Mỹ. Hàng năm Liên minh Châu Âu chiếm từ 25-30% nhập khẩu thuỷ sản của toàn thế giới. Mức tiêu thụ thuỷ sản bình quân đầu người ở EU là 17kg/năm và tăng dần hàng năm khoảng 3%. Giá cả mặt hàng thuỷ sản ở thị trường EU cũng cao hơn các thị trường Châu Á trung bình khoảng từ 1,1 đến 1,4 lần và có tính ổn định. Thị trường thuỷ sản EU có tính ổn định cao, với nhiều nhóm cư dân có nhiều yêu cầu khác nhau trong thói quen tiêu thụ các sản phẩm thuỷ sản. Trong khi nhu cầu về hàng thuỷ sản đang ngày càng tăng, Uỷ ban nghề cá của EU mới đây đã ra tuyên bố cắt giảm 1/3 sản lượng khai thác hải sản từ năm 1997-2010, nhằm để bảo vệ nguồn lợi hải sản. Chính điều này làm cho nhu cầu nhập khẩu thuỷ sản của EU đang ngày càng tăng cao. Tuy nhiên thị trường EU thật sự là một thị trường khó tính, có tính chọn lọc cao với những yêu cầu nghiêm ngặt về tiêu chuẩn chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm. Trong những năm vừa qua thì Việt Nam cũng đã từng bước đổi mới công nghệ, dây chuyền sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, từng bước xâm nhập vào thị trường EU. Năm 2001 xuất khẩu thuỷ sản của nước ta sang thị trường này đạt 26659.04 tấn, trị giá 90745293 USD, năm 2002 sản lượng là 28612.78 tấn, trị giá là 73719852 USD và đến năm 2004 thì sản lượng đạt 73459,12 tấn, trị giá gần 230 triệu USD. Hiện nay, các sản phẩm xuất sang thị trường này của nước ta là t ôm đông lạnh, mực đông lạnh, nghêu, ghẹ, sò, ốc, cua, tôm hùm...và một vài năm tới sẽ xuất khấu thêm một số mặt hàng nữa. Taị thị trường này sản phẩm của ta cũng gặp phải nhiều đối thủ cạnh tranh rất mạnh như Thái Lan, canada, Ấn Độ…và các sản phẩm tái xuất của Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc… U 1.2.5. Các thị trường khác. Ngoài ra nước ta còn có một số thị trường khác như thị trường Nga, một số nước Đông Âu và một số nước ở châu Mỹ. Các thị trường nay cũng gia tăng rất nhanh cả về số lượng và giá trị,năm 2001 xuất được 84927,92 tấn, đạt giá trị là 256301785 USD, năm 2002 là 100385,2 tấn, trị giá 258860933 USD, năm 2003 là 132259,39 tấn, trị giá 431417822 USD và đến năm 2004 cũng đạt được 121434,36 tấn, đạt giá trị là 380228081 USD. Các sản phẩm xuất sang các thị trường này có rất nhiều chủng loại, đa dạng như cá đông lạnh, cá khô, cá khô, ruốc khô,tôm đông lạnh, tôm khô… Thị trường các nước Châu Á khác cũng chiếm tỷ trọng lớn, năm 1999 chiếm 23%. Đáng kể là Singapore, hiện nay là thị trường lớn thứ 4 về xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam, chiếm tỷ trọng 8% gía trị xuất khẩu. Đến tháng 11/2000 kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam sang Singapore, Đài Loan là 22,7 triệu USD; Triều Tiên là 21 triệu USD, Malaysia là 10,5 triệu USD; Canada là 19,6 triệu USD; Oxtraylia là17,1 triệu USD. Đó là những thị trường cũng có nhiều tiềm năng mà Việt Nam cần phải cố gắng xâm nhập và mở rộng hoạt động kinh doanh xuất khẩu thuỷ sản. 1.3.Các nhân tố ảnh hưởng tới xuất khẩu thủy sản . 1.3.1. Yếu tố kinh tế . Kinh tế là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến việc xuất khẩu hàng hoá của mỗi quốc gia, trong đó có thuỷ sản. Khi một thị trường nào đó bị rơi vào tình trạng bị khủng hoảng thì việc xuất khẩu sang thị trường đó là rất khó khăn vì khi đó ng ười dân sẽ không muốn tiêu thụ những hàng hoá có giá trị cao, thậm chí là trung bình, do đó giá trị xuất khẩu thu về sẽ không được cao,thậm chí có khi còn bị lỗ. Kinh tế của đất nước cũng ảnh hưởng đến thu nhập của người dân, khi thu nhập người dân giảm xuống thì nhu cầu của người dân về các sản phẩn thuỷ sản nhập khẩu cũng sẽ giảm xuống, do đó việc xuất khẩu sang các thị trường đó sẽ gặp rất nhiều khó khăn, có khi là không xuất khẩu được. Đối với các doanh nghiệp khi xuất khẩu cũng cần phải chú ý đến yếu tố này vì nó sẽ ảnh hưởng đến doanh thu của chính doanh nghiệp đó. 1.3.2. Yếu tố địa lý,khí hậu. Thị trường cũng chịu tác động của yếu tố địa lý và khí hậu tự nhiên. Chính yếu tố này mà thị trường của một quốc gia, khu vực khác nhau có những yêu cầu khác nhau, đòi hỏi sản phẩm đưa vào phải thích hợp. Chẳng hạn như sản phẩm nào đó sử dụng tốt ở các nước có khí hậu ôn đới có thể ở khí hậu nhiệt đới lại bị hỏng, hoặc đòi hỏi phải để ở nhiệt độ lạnh hoặc bôi dầu mỡ bảo quản. Những sản phẩm dễ hỏng do sự tác động của khí hậu nóng ẩm thì lại yêu , bảo quản cao hơn khi xâm nhập vào thị trường có nhiệt độ cao, độ ẩm lớn. 1.3.3. Yếu tố chính trị – pháp luật. Ngoài các yếu tố đã nêu trên, thị trường quốc tế còn chịu sự tác động bởi chính trị và pháp luật. Thể hiện ở những ưu đãi và cản trở của Chính phủ đối với các nhà cung ứng khi xâm nhập vào thị trường quốc gia này. Điều này sẽ giúp cho các doanh nghiệp có điều kiện dễ xâm nhập vào thị trường hơn, đồng thời có điều kiện mở rộng thị trường của mình. Có thể đó là những qui chế hàng rào thuế quan, về bảo hộ, hạn ngạch.. . Nếu mối quan hệ chính trị giữa nước nhập khẩu và xuất khẩu là bất ổn thì xâm nhập và mở rộng thị trường sẽ là rất khó khăn cho nhà xuất khẩu. 1.3.4. Yếu tố văn hóa. Khi xét các yếu tố ảnh hưởng đến thị trường, đặc biệt là thị trường quốc tế thì không thể bỏ qua yếu tố văn hoá. Chính yếu tố văn hoá đó đã làm cho khách hàng ở mỗi quốc gia phản ứng khác nhau với cùng một loaị sản phẩm. Tác động của yếu tố văn hoá đến thị trường thực sự là một vấn đề rộng, phức tạp, tuỳ cách quan niệm văn hoá theo nghĩa rộng hay nghĩa hẹp nhưng có một điều, yếu tố văn hoá được hình thành trên điều kiện tự nhiên, lịch sử dân tôc, tôn giáo.. . Do đó, thị trường của cùng các loại sản phẩm vào các quốc gia có nền văn hoá khác nhau thì sẽ khác nhau. Một ví dụ đơn giản về ảnh hưởng của các yếu tố văn hoá tới thị trường quốc tế là việc giới thiệu và bán váy ngắn ở các quốc gia theo đạo hồi là điều không tưởng. Một số yếu tố khác như: Trình độ công nghệ, hệ thống phân phối.. cũng có tác động rất lớn đến các thị trường xuất khẩu của một nước. 2 . Đánh giá thực trạng . 2.1 . Những kết quả đạt được. Năm 1985, kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản đạt 75 triệu USD, năm 1990 là 178 triệu USD và tăng nhanh với 1475 triệu USD năm 2000. Năm 2001 là 1760 triệu USD. Sau thập kỷ 90 vừa qua, giá trị xuất khẩu đã tăng lên 888% là mức tăng nhanh nhất trong số các sản phẩm lương thực và thực phẩm xuất khẩu. Trong 5 năm gần đây mức tăng này bình quân hàng năm là 24,2%/năm. Đây là mức tăng cao không chỉ ở nước ta mà còn trên thế giới (giá trị xuất khẩu thuỷ sản thế giới cùng thời kỳ chỉ tăng bình quân 1%/năm). Nhờ xuất khẩu thuỷ sản hàng năm tăng nhanh vào đầu thập kỷ 90 của thế kỷ 20, Việt nam còn đứng hàng thứ 25, 26 tới cuối thế kỷ 20 đã vươn lên thứ 13, 14 trên thế giới và đã gia nhập danh sách những nước xuất khẩu thuỷ sản chính của thế giới. Vào những năm 2000 thì các thị trường của xuất khẩu có những biến động mạnh, đặc biệt là sau vụ kiện tôm và cá basa nhập khẩu vào thị trường Mỹ.Tuy nhiên xuất khẩu thuỷ sản vẫn có những bước phát triển đáng ghi nhận, các thị trường vẫn được duy trì, mở rộng với tổng cộng hơn 80 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, các thị trường từng bước được khai thác cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Bảng 3:Xuất khẩu thuỷ sản chính ngạch năm 2004 trên các thị trường. Các thị trường Năm 2003 Năm 2004 sản lượng (tấn) Giá trị (USD) % về giá trị sản lượng (tấn) giá trị (USD) %về giá trị Châu Á (không kể Nhật) 90503.71 290925817 13.23 123891.1 413861348 17.24 Châu Âu 38186.88 116739138 5.31 73459.12 231527515 9.64 Mỹ 122162.89 777656159 35.35 91380.69 602969450 25.12 Nhật Bản 97953.91 582837870 26.50 121160.49 772194720 32.16 Các thị trường khác 132259.39 431417822 19.61 121434.36 380228081 15.84 Tổng số 481066.78 2199576806 100.00 531325.76 2400781114 100.00 Nguồn : Trung tâm thị trường KHKT và kinh tế thuỷ sản-Bộ thuỷ sản Trong khối ASEAN, Việt nam đã ngang ngửa với Indonesia, chỉ đứng sau Thái Lan về xuất khẩu thuỷ sản. Đây được coi là thành tích xuất sắc của Việt nam trong thời kỳ đổi mới và đã được quốc tế và bạn bè đánh giá cao. Để đạt được những thành tựu này, các doanh nghiệp thủy sản và nhà nước đã có những việc làm cụ thể, hợp lý để đưa ngành thủy sản phát triển theo đúng định hướng phát triển của nhà nước : - Nâng cao chất lượng quản lý, hoàn thiện bộ máy quản lý ở các địa phương, phân cấp mạnh tới các cơ sở sản xuất. Bên cạnh đó tích cực hạn chế và khắc phục tính tự phát tăng cường hiệu quả và phát triển bền vững, đề xuất những chính sách, giải pháp cụ thể để thu hút các nguồn vốn đầu tư, xúc tiến tiếp tục mở rộng thị trường tiêu thụ. - Hoạt động quản lý chất lượng và an toàn vệ sinh có sự khởi sắc đáng mừng và có những chuyển biến mang lại hiệu quả thực sự. Chế biến thuỷ sản là khu vực đi tiên phong trong áp dụng phương thức quản lý chất lượng theo hệ thống, các doanh nghiệp tích cực đầu tư đổi mới điều kiện sản xuất đảm bảo an toàn vệ sinh, áp dụng quản lý theo HACCP đưa ra những sản phẩm chất lượng, đáp ứng đòi hỏi của người tiêu dùng, đứng vững ngay cả lúc thị trường truyền thống trong khu vực chao đảo vì khủng hoảng tài chính, thị trường mới lại xâm nhập vô cùng khó khăn đối với thực phẩm thuỷ sản nhập từ nước ngoài. Các hoạt động kiểm tra đánh giá công nhận các doanh nghiệp chế biến thuỷ sản đảm bảo đủ điều kiện an toàn vệ sinhvà hướng dẫn các doanh nghiệp xây dựng áp dụng chương trình quản lý theo HACCP của cơ quan thẩm quyền cũng được triển khai mạnh. Trung tâm kiểm tra chất lượng và vệ sinh thuỷ sản (NAFIQACEN) do bộ thuỷ sản thành lập với một hệ thống gồm 6 chi nhánh trong cả nước được trang bị phòng thí nghiệm đạt tiêu chuẩn quốc tế đã có khả năng đáp ứng các nghiệp vụ chuyên môn và trở thành công cụ đắc lực của ngành trong quản lý Nhà nước về điều kiện đảm bảo an toàn vệ sinh thuỷ sản, tạo thêm một lực đẩy cho xuất khẩu thuỷ sản ngày càng đạt cao hơn, thị trường mở rộng, tỷ trọng sản phẩm giá trị gia tăng được nâng lên, nhiều mặt hàng đã đáp ứng được yêu cầu ăn ngay và nấu ngay và đã thâm nhập được các siêu thị khó tính nhất. - Nhà nước tích cực đổi mới cơ cấu quản lý, cho phép doanh nghiệp xuất khẩu tự do đi các nước, tự cân đối ngành. - Nghề nuôi trồng thuỷ sản tiếp tục phát triển mạnh theo hướng tăng sản, ứng dụng tiến bộ sinh học trong chọn và lai tạo giống đi đôi với công nghiệp hoá sản xuất thức ăn. - Khuyến khích nuôi trồng thuỷ sản ven bờ theo mô hình trang trại , những vùng ven biển được Chính phủ cho phép chuyển đất trồng sang nuôi tôm cá có hiệu quả hơn, quá trình chuyển đổi cơ cấu sản xuất và phân công lại lao động nông thôn từ nông nghiệp thuỷ sản diễn ra rất nhanh, đạt hiệu quả cao, đã và đang góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập và cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân rõ rệt. - Hiện nay, công nghiệp chế biến thuỷ sản Việt Nam đang lớn mạnh với 200 nhà máy đông lạnh, vùng nguyên liệu lớn đang được hình thành và theo chiều sâu. - Tích cực tập trung vốn, ngân sách ưu đãi để đóng mới sửa chữa tàu đánh cá và xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ cho sản xuất và chế biến đồng thời tăng cường các trang thiết bị viễn thông dùng cho nghề cá. Hiện nay, toàn ngành đã có 71500 tầu thuyền các loại. - Tính đa dạng của các sản phẩm chế biến ngày càng rõ nét trong sản xuất, chế biến và xuất khẩu. - Hàng năm, tạo thêm hàng trăm việc làm mới với đủ các trình độ tham gia các hoạt động đánh bắt, nuôi trồng, chế biến và các dịch vụ phục vụ sản xuất, chế biến, xuất khẩu thuỷ sản. 2.2 . Những hạn chế và nguyên nhân. 2.2.1. Những hạn chế. Mặc dù đạt được những kết quả khả quan đó nhưng ngành thuỷ sản vẫn còn có những hạn chế nhất định : Về khâu sản xuất và chế biến thì các sản phẩm của thuỷ sản tuy xuất khẩu được nhiều nhưng chất lượng không được cao, chính vì thế mà giá trị của hàng thuỷ sản Việt Nam không được cao. Giá bán các sản phẩm thuỷ sản của Việt Nam so với các nước trong khu vực hay trên thế giới đều thấp hơn nhiều, vi thế tổng giá trị xuất khẩu thu về không được cao, không đúng với giá trị thực của các sản phẩm đó. Các nhà máy xí nghiệp sản xuất các mặt hàng thuỷ sản xuất khẩu đều đã cũ, không đáp ứng được yêu cầu về chất lượng các mặt hàng xuất khẩu vào các nước như Nhật Bản, Mỹ, Châu Âu… Về khâu đánh bắt và nuôi trồng thì ngành thuỷ sản vẫn chưa khai thác được hết tiềm năng của đất nước. Diện tích nuôi trồng thuỷ sản hiện nay vẫn chiếm tỉ lệ tương đối thấp, còn nhiều diện tích đất bỏ phí rất nhiều, chưa được khai thác hết, hiệu quả của việc nuôi trồng chưa được cao. Các phương tiện đánh bắt của nước ta rất nghèo nàn, lạc hậu, có ít phương tiện có khả năng đánh bắt xa bờ, các phương tiện đánh bắt với khối lượng thấp,do đó hiệu quả kinh tế không cao. Về việc tìm kiếm thị trường cho các sản phẩm, các doanh nghiệp chưa chú trọng đến khâu marketing cho các sản phẩm của mình, do đó dẫn đến việc một số sản phẩm không phù hợp ở một số thị trường hay chất lượng không đáp ứng được đúng với yêu cầu thị trường đòi hỏi 2.2.2. Những nguyên nhân. Sau những bước phát triển nhảy vọt vào cuối những năm 1980 và đầu những năm 1990 hoạt động đánh bắt thuỷ sản đã có dấu chững lại do hiệu quả giảm sút, năng suất khai thác tàu thuyền là 0,92 tấn hải sản/mã lực ,đến 1995 giảm xuống còn 0,62 tấn/mã lực do các nguyên nhân tự nhiên ( khai thác hải sản ven bờ đã vượt mức cho phép 10% ) và các nguyên nhân chủ quan (máy móc và trang thiết bị lạc hậu ,thiếu phương tiện và kinh nghiệm đánh bắt hải sản đại dương, trình độ lực lượng lao động còn thấp ...) - Hiện nay, gần 80% số nhà máy chế biến thuỷ sản đã hoạt động trên 10 năm, chưa đáp ứng được yêu cầu chất lượng chế biến sản phẩm xuất khẩu. - Hầu hết hàng hoá thuỷ sản xuất khẩu Việt Nam hiện nay dưới dạng thô (ướp lạnh, ướp đông.. .) với giá trị thấp. -Trong thời gian tới, ngành thuỷ sản sẽ phải dựa nhiều vào khu vực nuôi trồng mà chủ yếu là nuôi tôm xuất khẩu, trong khi đó diện tích nuôi thuỷ sản nước mặn và nước lợ hiện chỉ chiếm 35% tổng số 800 ngàn ha eo, vịnh, đầm phá tự nhiên ở nước ta. - Khu vực nuôi trồng thuỷ sản Việt Nam đang gặp nhiều khó khăn về các chính sách thuế, luật pháp của Chính phủ vốn, công nghệ nuôi trồng, giống, chế biến.. . Thuỷ sản xuất khẩu Việt Nam tự nuôi trồng chỉ chiếm 63% trong đó hơn 90% là nuôi thâm canh và bán thâm canh có chất lượng không ổn định và năng suất rất thấp, chỉ băng 15% so với Thái Lan. Vào đầu năm 2001, riêng tôm giống thiếu khoảng 3-4 tỷ con. - Còn thiếu nhiều phương tiện đánh bắt cá xa bờ hoặc các phương tiện này quá nghèo nàn, lạc hậu đã làm hạn chế khai thác luồng cá lớn có giá trị cao. - Các thiết bị bảo quản cần thiết cho thuỷ sản trước khi đưa vào bờ không có đủ làm giảm chất lượng hàng thuỷ sản do khâu bảo quản trên biển. - Tình trạng phát triển nuôi trồng thuỷ sản hiện nay thiếu định hướng thị trường, các chiến lược phát triển thị trường, thiếu quy hoạch và người sản xuất vội vã với lợi ích trước mắt đã gây lên bệnh dịch tôm làm thiệt hại lớn về kinh tế, môi sinh, môi trường bị ảnh hưởng nặng nề kéo dài. - Thiếu lao động có trình độ, các chuyên gia cao cấp và các nhà khoa học. Cơ cấu và chất lượng lao động thuỷ sản tuy có sự đổi mới nhưng cũng chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của ngành. - Việc ứng dụng công nghệ sinh học vào chọn và lai tạo giống nuôi trồng còn hạn chế, vấn đề đầu tư, giải quyết các mối quan hệ trong sử dụng đất đai ven biển giữa nuôi trồng thuỷ sản- rừng- muối-lúa còn nhiều điều phải xem xét đến. - Chương trình khai thác hải sản xa bờ được Nhà nước hỗ trợ đầu tư khá cao nhưng hiệu quả sản suất còn thấp. - Giá xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam hiện chỉ bằng một nửa giá xuất khẩu thuỷ sản cùng chủng loại và chất lượng của Thái Lan. - Sự thiếu đoàn kết trong sản xuất và kinh doanh giữa các doanh nghiệp, làm ăn theo kiểu chụp giật từ đó ảnh hưởng đến uy tín của ngành thuỷ sản Việt Nam. PHẦN II XU HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU THUỶ SẢN 1. Xu hướng phát triển thị trường xuất khẩu thuỷ sản trong thời gian tới Trong thời gian tới thị trường quan trọng tiêu thụ thuỷ sản Việt Nam vẫn là các thị trường nước ngoài. Các nhà doanh nghiệp, các nhà quản lý chỉ chú trọng vào các thị trường xuất khẩu là chủ yếu. Hàng thuỷ sản xuất khẩu Việt Nam ngày càng được ưa chuộng ở các thị trường như : Nhật Bản , Đài Loan , Hông Kông , ôxtrâylia, Hàn Quốc Trung Quốc ,Mỹ , EU...Từ năm 1997 -2000 trong cơ cấu thị trường xuất khẩu thuỷ sản Nhật giảm từ 50% xuống còn 33% trong khi Mỹ tăng từ 5% lên 21,5% , Trung Quốc , Hồng Kông tăng từ 2% lên 19,3% EU giao động từ 10-7%, các nước châu á từ 19-20%. Năm 2000 về cơ cấu thị trường đã có sự chuyển biến mạnh mẽ theo hướng chắc hơn với sự gia tăng vaò thị trường Mỹ, Trung Quốc Theo xu hướng hiện nay thì thị trường Nhật vẫn là thị trường chiến lược và là thị trường xuất khẩu chủ yếu của thuỷ sản Việt Nam. Sản phẩm nhập vào thị trường Nhật đáp ứng tiêu chuẩn cao về chất lượng , chất lượng đồng đều và hình dáng đẹp là hai tiêu chuẩn chính đối với thị trường này. Mục tiêu xuất khẩu thuỷ sản đối với thị trường này là đạt được tỷ trọng xuất khẩu khoảng 30% so với tổng sản lượng xuất khẩu của nước ta. Đồng thời ngoài việc tăng khối lượng các mặt hàng đã xuất sang Nhật như tôm, mực…ta còn tiếp tục xuất sang đó một số mặt hàng phi thuỷ sản như ngọc trai, cá cảnh… Đối với thị trường Mỹ tôm nhập khẩu tăng nhanh, nhất là mặt hàng tôm nõn rút gân, cá hồng phi lê , cá rô phi đỏ và đen .. Theo dự báo, doanh số xuất khẩu thuỷ sản sang thị trường này sẽ tiếp tục tăng nhanh nhờ quy chế tối hiệu quốc, các nhà đầu tư và các công ty nước ngoài từ Mỹ và các nước khác sẽ cùng với các đối tác Việt Nam tổ chức các mặt hàng để xuất khẩu sang thị trường Mỹ .Hiệp định thương mại được ký kết sẽ tạo điều kiện thuận lợi để chọn lựa khách hàng thích hợp cho từng doanh nghiệp, sẽ có nhiều doanh nghiệp quan tâm đến hàng thủy sản Việt Nam, góp phần cải thiện thêm một bước vấn đề giải quyết việc làm trong các hoạt động dịch vụ cho các đối tác Mỹ vào việt Nam .Triển khai mở rộng sản xuất nhiều mặt hàng thủy sản mới và các hoạt động trong các lĩnh vực có liên quan như cấp thiết bị , công nghệ mới , đây cũng là bước quan trọng trong quá trình Việt Nam gia nhập với nền kinh tế thế giới , tăng cường khả năng cạnh tranh của thuỷ sản Việt nam so với một số đối thủ khác trong khu vực cùng xuất hàng vào Mỹ như Thái Lan , Indonêsia. Hiện nay Việt Nam có 70 doanh nghiệp đủ điều kiện xuất hàng vào Mỹ . Như vậy trong những năm tới phương hướng chủ yếu của ngành thủy sản Việt Nam dối với thị trường xuất khẩu là tiếp tục nang cao chất lượng hàng xuất khẩu để mở rộng thị phần cho các thị trường mới và tăng uy tín cạnh tranh đối với thị trường cũ 2. Giải pháp và kiến nghị Theo kế hoạch 5 năm 2001 – 2005 của Bộ Thuỷ sản và Bộ Thương Mại, sản lượng thuỷ sản tăng 3%/năm, và kim ngạch xuất khẩu tăng 11%/năm . Trong thời kỳ 2001 – 2005, dự kiến thị trường xuất khẩu như sau: Nhật Bản chiếm tỷ trọng 30%, Mỹ 30%, Trung Quốc 10%, EU 10%. Đây là một mục tiêu khó khăn đối với ngành thuỷ sản, đặc biệt là khi nền kinh tế thế giới đang đà tăng trưởng chậm lại. Do đó, cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền để cán bộ lãnh đạo, kỹ thuật và công nhân lao động trong ngành hiểu được cơ hội và thách thức đặt ra đối với kinh tế đất nước nói chung và ngành chế biến thuỷ sản nói riêng. Mỗi người cần ý thức được trách nhiệm của mình, sẵn sàng vượt qua khó khăn mà xu thế mới đặt ra, chủ động tìm các biện pháp hữu hiệu phát huy lợi thế nhằm không ngừng nâng cao sức cạnh tranh cuả các doanh nghiệp. 2.1. Giải pháp cho từng thị trường. 2.1.1 Đối với thị trường Nhật Bản Nhật Bản vẫn được xác định là một trong những thị trường quan trọng nhất trong thời gian tới. Để có thể đẩy mạnh xuất khẩu thuỷ sản sang Nhật Bản các doanh nghiệp Việt Nam cần đẩy mạnh triển khai các chương trình phát triển những nhóm sản phẩm chủ lực, trong đó chú trọng công tác nghiên cứu thị trường, nghiên cứu khách hàng tiềm năng để cung cấp cho thị trường những sản phẩm đạt các tiêu chuẩn chất lượng của Nhật Bản hợp khẩu vị của người Nhật. Khi lựa chọn công nghệ chế biến, các doanh nghiệp cần chú ý thị trường Nhật Bản đang có nhu cầu cần gắn khâu chế biến với việc nâng cao chất lượng nguyên vật liệu, hình thành các vùng chuyên canh có khả năng cung cấp một lượng thuỷ sản nguyên liệu lớn với chất lượng ổn định. Trong khâu bảo quản sau thu hoạch, cần chú ý kỹ thuật bảo quản để hạn chế tỷ lệ phế phẩm, kiểm soát các yếu tố độc hại, làm ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm trong khâu chế biến. Các mặt hàng thuỷ sản xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản không cần phải có hạn ngạch nhập khẩu nhưng phải tuân thủ các qui định, yêu cầu của luật kiểm dịch và luật vệ sinh thực phẩm của Nhật. Hàng thuỷ sản nhập khẩu vào Nhật phải dán nhãn, cung cấp những thông tin tối thiểu như: tên sản phẩm , hạn dùng, tên và địa chỉ của công ty sản xuất, tên và địa chỉ công ty nhập khẩu, các phụ gia đã sử dụng (nếu có), phương pháp bảo quản, phải ghi rõ sản phẩm đã nấu chín hay còn sống, ghi rõ “rã đông” nếu phải “rã đông” và “nhập khẩu” nếu là hàng nhập khẩu và xuất xứ. Thực hiện phân phối thông qua giá thị trường bán sỉ ở những mục tiêu mà doanh nghiệp hướng đến để họ phân phối đến các cửa hàng lớn, của hàng bán lẻ và các cơ sở phục vụ ăn uống hoặc phân phối trực tiếp đến các công ty chế biến thực phẩm...Các doanh nghiệp có thể liên kết một công ty nào đó ở Nhật để thực hiện công đoạn này. Xây dựng các chương trình xúc tiến hỗn hợp phù hợp đối với từng khu vực thị trường, từng nhóm khách hàng và phải tiến hành trên diện rộng, với quy mô lớn. Các doanh nghiệp cần tận dụng các triển lãm, các hội nghị, thông qua mạng internet để xây dựng các mối quan hệ làm ăn, trao đổi kinh nghiệm thâm nhập thị trường, đồng thời tiếp cận và phát triển kinh doanh thông qua thương mại điện tử. Để tiếp cận tốt hơn đối với thị trường Nhật Bản, về lâu dài đòi hỏi các doanh nghiệp phải thành lập các chi nhánh và văn phòng đại diện ngay tại Nhật Bản. Như vậy, bên cạnh những nỗ lực của chính phủ, các doanh nghiệp cũng cần phải nắm rõ địa điểm thị trường Nhật Bản để có giải pháp phù hợp, hiệu quả xâm nhập và mở rộng thị trường này, góp phần đẩy nhanh kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam trong thời gian tới, hoàn thành kế hoạch xuất khẩu thuỷ sản đến năm 2005 la 400000 tấn với giá trị 2 tỷ USD. 2. 1.2 Đối với thị trường Mỹ. Bên cạnh Nhật Bản, thị trường Hoa Kỳ vẫn sẽ là một thị trường lớn đầy tiềm năng và đang mở ra nhiều cơ hội cho sản phẩm Việt Nam đặc biệt là sau khi hiệp định thương mại Việt- Mỹ có hiệu lực. Tuy nhiên, để mở rộng hơn nữa thị trường lớn này thì các doanh nghiệp cần phải nỗ lực nghiên cứu thị trường, tiếp cận thông tin thị trường một cách đầy đủ kịp thời và chính xác. Phải đánh giá đúng khả năng sản xuất và mạnh dạn đầu tư đổi mới thiết bị, nâng cao trình độ chế biến và áp dụng qui trình quản lý chất lượng chặt chẽ hàng thuỷ sản xuất khẩu. Tăng cường giới thiệu, quảng cáo sản phẩm và tiếp thị bằng nhiều hình thức đặc biệt là qua mạng Internet với hiệu quả cao. Nhu cầu nhập khẩu thuỷ sản của Mỹ ngày càng cao về những hàng cao cấp tinh chế vì vậy các doanh nghiệp cần đầu tư theo chiều sâu kể từ khâu nguồn hàng chế biến đến xuất hàng nhằm đáp ứng được nhu cầu thị trường và thu giá trị kim ngạch cao. Điều đáng chú ý nữa là Mỹ coi trọng cả nhập khẩu thuỷ sản phi thực phẩm bao gồm các sản phẩm hoá học gốc thuỷ sản, ngọc trai, agar, cá cảnh.. Vì vậy, Nhà nước và các doanh nghiệp cần phải quan tâm phát triển loại hình kinh doanh sản phẩm này, Nhà nước cần phải có biện pháp khuyến khích, hỗ trợ đầu tư, các doanh nghiệp cần phải mạnh dạn và tăng sản lượng hàng thuỷ sản phi thực phẩm phù hợp các yêu cầu nhập khẩu của Mỹ đồng thời không bỏ lỡ một thị trường còn rất nhiều tiềm năng. Do yêu cầu chặt chẽ về chất lượng sản phẩm vì vậy các doanh nghiệp xuất khẩu cần chú trọng nâng cao trình độ công nghệ chế biến, bảo quản và công nghệ đông lạnh. Các doanh nghiệp cần cố gắng để mở văn phòng đại diện tại nước Mỹ qua đó nắm bắt được kịp thời sự thay đổi về nhu cầu thị hiếu hàng thuỷ sản cả về số lượng và chất lượng, và nắm bắt được sự thay đổi về thể chế chính sách luật pháp để kịp thời điều chỉnh kế hoạch xuất khẩu và mở rộng thị trường cho phù hợp. Các doanh nghiệp xuất khẩu cũng cần xây dựng một hệ thống phân phối rộng khắp, đưa sản phẩm đến tất cả các thị trường, các khu vực. Thị trường Mỹ là một thị trường có sức mua lớn đòi hỏi các doanh nghiệp phải đoàn kết phối hợp để chuẩn bị một khối lượng lớn hàng sang Hoa Kỳ ngay khi có nhu cầu. Có như vậy, mới có thể thu được lợi nhuận cao, đạt mục tiêu và mới có thể duy trì quan hệ làm ăn, giữ uy tín và vị thế của thuỷ sản Việt Nam trên thị trường Hoa Kỳ. Đặc biệt cần chú ý khi xuất hàng sang Mỹ là cần nắm rõ luật lệ của liên bang cùng với luật lệ của các tiểu bang vì luật lệ liên bang và luật các tiểu bang của Mỹ có thể khác nhau nhưng lại được áp dụng cùng một lúc, nhất là trong lĩnh vực thuế kinh doanh. Nếu không nắm rõ, các doanh nghiệp khi xuất khẩu hàng hoá sẽ gặp phải những khó khăn nhất định làm ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. 2.1.3. Đối với thị trường EU. Để mở rộng thị trường xuất khẩu thuỷ sản sang EU, trước hết các doanh nghiệp cần nâng cao chất lượng nguyên liệu thuỷ sản, đầu tư cho công nghệ nâng cao chất lượng hàng hoá đồng thời cần tranh thủ tối đa nguồn vốn hỗ trợ của EU và phải sử dụng tốt các nguồn vốn khác ( Nhà nước, ngân hàng...). Thị trường EU là một thị trường khó tính, kiểm tra chất lượng sản phẩm rất nghiêm ngặt vì vậy các doanh nghiệp phải thực hiện nghiêm chỉnh các điều khoản của hợp đồng và từng chi tiết của hợp đồng. Để giảm rủi ro, doanh nghiệp Việt Nam phải thông qua một công ty kiểm định chất lượng có uy tín của Châu Âu đồng thời ký kết hợp đồng vận chuyển với các đơn vị vận chuyển có uy tín. Cần tìm hiểu các kênh phân phối của EU để có thể xuất khẩu trực tiếp vào thị trường này, giảm thiểu các kênh phân phối trung gian. Doanh nghiệp cần chú ý đến biểu thuế nhập khẩu từ EU đồng thời có thể đàm phán với các cơ quan chức năng về mức thuế suất trước khi xuất hàng. Đa dạng hoá mặt hàng xuất khẩu, đáp ứng ngày càng nhiều những mặt hàng mà thị trường EU cần. Đồng thời nâng cao chất lượng các sản phẩm, nhằm đáp ứng được yêu cầu khắt khe của thị trường. Chính phủ cần triển khai xây dựng quy chế công nhận các doanh nghiệp áp dụng các phương pháp quản lý chất lượng tiên tiến (GMP và HACCP), thực hiện việc đào tạo về các hệ thống quản lý chất lượng cho cán bộ quản lý các doanh nghiệp, áp dụng các biện pháp khuyến khích cho các doanh nghiệp áp dụng hệ thống quản lý chất lượng này. Tăng cường hợp tác với uỷ ban Châu Âu, tài trợ xuất khẩu vào EU, tạo cân bằng cán cân thương mại với EU thông qua việc nâng cao vai trò của Nhà nước trong quản lý vĩ mô, hoàn thiện chính sách thương mại phù hợp nghiên cứu sử dụng đồng EURO trong thanh toán quốc tế.. . Hợp tác chặt chẽ với EU trong việc chống gian lận thương mại và giữ uy tín hàng Việt Nam, bên cạnh đó Việt Nam cần thực hiện tốt việc cấp giấy chứng nhận xuất khẩu (E/C). Nhà nước cần giới thiệu cho doanh nghiệp những thị trường hấp dẫn trong EU, tổ chức và hướng dẫn các doanh nghiệp tham gia tốt các hội chợ, triển lãm tại các nước thành viên EU. 2. 1.4. Đối với các thị trường khác. Để mở rộng xuất khẩu thuỷ sản vào các thị trường này, phía nhà nước , Bộ thuỷ sản và các doanh nghiệp trực tiếp xuất khẩu thuỷ sản bên cạnh các giải pháp chung là nâng cao chất lượng nguyên liệu, thành phẩm thuỷ sản, đổi mới công nghệ, dây chuyền sản xuất, áp dụng các tiêu chuẩn chất lượng tiên tiến ... thì còn phải quan tâm đến một số vấn đề như: - Đẩy mạnh công tác tìm hiểu nhu cầu của thị trường, nắm bắt xu hướng thị hiếu và những biến đổi trong cầu về hàng hoá của các loại thuỷ sản này. - Nâng cấp cầu cảng, bến cá, quản lý chất lượng ngay từ khâu khai thác, nuôi trồng. - Tìm hiểu kỹ luật pháp, tình hình chính trị, mức độ ổn định của từng thị trường và khả năng ứng phó của nghành. - Đa dạng hoá mặt hàng, tăng cường giới thiệu sản phẩm, khối lượng lớn đủ đáp ứng kịp thời cho các đơn đăt hàng. - Chú trọng sản xuất và tiêu thụ các mặt hàng chế biến sâu. - Tăng cường hợp tác với các nước, mở văn phòng đại diện, tranh thủ nguồn vốn đầu tư, giúp đỡ trong xuất khẩu mặt hàng này. - Trong tương lai, khi Việt Nam gia nhập các khối mậu dịch, các khu vực thương mại tự do thì vấn đề cạnh tranh lại càng trở nên khốc liệt song cũng mở ra nhiều cơ hội vào những thị trường lớn. Vì vậy, cũng cần phải có sự đoàn giữa các doanh nghiệp trong ngành, giữa các ngành để đạt được hiệu quả cao nhất. - Trên cơ sở các yêu tố ảnh hưởng đến thị trường, thuỷ sản Việt Nam cần tìm cách khắc phục, phù hợp và giải quyết tốt mọi vấn đề để xuất khẩu được nhiều hơn hàng hoá và thu lợi nhuận cao hơn. 2.2 Những kiến nghị. 2.2.1. Các kiến nghị với các cơ quan quản lý nhà nước 2.2.1.1. Đối với các bộ, ngành có liên quan Bộ Thuỷ sản chủ trì, phối hợp chặt chẽ với Bộ Thương Mại (Cục Xúc tiến Thương Mại, các cơ quan Thương vụ Đại sứ quán Việt Nam tại nước ngoài), Bộ Ngoại giao và các ngành khác có liên quan để làm tốt công tác xúc tiến thương mại và tăng cường công tác thông tin thị trường như: - Tổ chức và tham gia hội chợ triễn lãm - Quảng cáo với trình độ quốc tế. Chi phí để ta tự tổ chức một hội chợ triển lãm ở các thị trường khác có thể rất tốn kém, chúng ta nên mở hội chợ ngay trong nước và mời các đối tác tiềm năng nước ngời tham gia tìm hiểu và đánh giá. Như thế nhiều doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản trong nước có cơ hội để tham gia và cạnh tranh với nhau hơn. Khi có các cuộc triễn lãm mà nước ngoài tổ chức, chúng ta nên tham gia để khách hàng và người tiêu dùng biết đến sản phẩm thuỷ sản Việt Nam. Bộ Thuỷ sản có thể chọn một số doanh nghiệp tiêu biểu để tham dự. Chi phí cho mỗi cuộc triển lãm có thể là rất cao, do đó Bộ Thuỷ sản nên hỗ trợ một phần kinh phí cho các doanh nghiệp tham gia hội chợ triễn lãm. Quảng cáo ở trình độ quốc tế có thể vượt quá khả năng của từng doanh nghiệp, Bộ Thuỷ sản nên trích một phần kinh phí để tiến hành quảng cáo cho sản phẩm thuỷ sản. Chính phủ càn sớm hoàn thiện các luật và chính sách bảo vệ nguồn lợi tự nhiên,bảo vệ môi trường và phát triển nguồn lực thuỷ sản ,các chính sách hỗ trợ đầu tư , chính sách đẩy mạnh xuất khẩu , bảo lãnh tín dụng , bảo hiểm xuất khảu , thuế sử dụng đất , bảo hiểm rủi ro thiên tai ... 2.2.1.2. Đối với các Hội và Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam Hướng dẫn và tổ chức các hội viên của mình tham gia tích cực vào việc thực hiện Chương trình phát triển xuất khẩu thuỷ sản đến năm 2005. Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam thường xuyên phối hợp với Bộ Thuỷ sản tổ chức tốt thông tin thị trường, giới thiệu khách hàng cho các doanh nghiệp, tổ chức tốt các hoạt động xúc tiến thương mại, nghiên cứu thành lập văn phòng đại diện tại các thị trường chính để làm đầu mối giao dịch. Nâng cao năng lực hoạt động của Hội nuôi trồng thuỷ sản Việt Nam, Hội nghề cá Việt Nam , Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam để tập hợp các nhà sản xuất và kinh doanh thuỷ sản , giúp đỡ nhau về công nghệ, vốn kinh doanh, thông tin kinh tế – thương mại, kinh nghiệm sản xuất kinh doanh…nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp của ngành thuỷ sản Việt Nam . Nâng cao khả năng cạnh tranh của thuỷ sản Việt Nam trên thị trường trong nước và thị trường thế giới. Nếu không có thay đổi lớn, thời hạn áp dụng thay đổi thuế quan của EU giành cho Việt Nam sẽ kết thúc vào năm 2004, nghĩa là lợi thế cạnh tranh của hàng thuỷ sản Việt Nam sẽ giảm nhiều sau thời điểm đó. Trong khi phần lớn thuỷ sản xuất khẩu của Việt Nam vào EU hiện nay vẫn ở dạng nguyên liệu hoặc chế biến thô. Vì vậy, việc nâng cao năng lực cạnh tranh là yếu tố có tính quyết định đối với sự phát triển của ngành thuỷ sản Việt Nam trong thời gian tới. 2.2.1.3. Đối với Bộ thủy sản Bộ Thuỷ sản và các cơ quan Nhà nước hữu quan cần rà soát lại các chính sách liên quan đến hoạt động chế biến và xuất khẩu thuỷ sản, loại bỏ những quy dịnh cản trở sự phát triển và ban hành những quy định mới nhằm nâng cao hiệu qủa hoạt động và năng lực cạnh tranh của ngành. Tăng cường năng lực của Trung tâm kiểm tra chất lượng và vệ sinh thuỷ sản về nhân lực và trang thiết bị, không ngừng củng cố, nâng cao uy tín của Trung tâm và tạo cơ chế thuận lợi cho Trung râm hỗ trợ các doanh nghiệp mở rộng sản xuất và phát triển xuất khẩu. Đẩy nhanh việc áp dụng thương mại điện tử (e-commercer) vào các hoạt động thương mại thuỷ sản nước ta. Nhanh chóng hỗ trợ các biện pháp về công nghị và kỹ thuật để đưa e-commercer trở thành một công cụ hữu hiệu để giúp các doanh nghiệp vừa và nhỏ nắm bắt thông tin trực tiếp, biết người, biết ta để chủ động kinh doanh trên trường thế giới. Thực hiện tốt chương trình đánh bắt hải sản xa bờ; đây là chương trình có ý nghĩa về nhiều mặt. Để thực hiện tốt chương trình này cần phải huy động tối đa nguồn vốn trong nước, vốn viện trợ phát triển chính thức (ODA) và các nguồn vốn khác để phát triển các đội tàu lớn và có khả năng ra khơi dài ngày, đánh bắt xa bờ, có phương tiện chế biến tại chổ. Tổ chức ngư dân, các xí nghiệp đánh cá thành từng cụm ra khơi đánh bắt để hỗ trợ nhau trong sản xuất kinh doanh và đảm bảo an ninh. Xây dựng và phát triển hệ thống cảng cá, chợ cá phù hợp với sản lượng thuỷ sản của từng địa phương. Ngoài ra nhà nước cần có những khuyến khích phát triển khoa học kỹ thuật, công nghệ sinh học, từng bước ứng dụng các công nghệ đó vào trong hoạt động nuôi trồng thuỷ sản. Từ đó có được những giống hải sản có năng suất cao, chất lượng tốt. Đồng thời khôi phục lại nguồn gen những loài thuỷ sản quý hiến, những loài đang bị khai thác ngay càng cạn kiệt và gần như không còn khả năng tái sinh . Nhà nước cần phải có những biện pháp, chính sách nhằm bảo tồn, duy trì và phát triển các nguồn lợi thuỷ sản như xây dựng các dự án về nghiên cứu, thăm dò, khôi phục và phát triển nguồn lợi thuỷ sản,tiến hành các chương trình khai thác xa bờ, đẩy mạnh phát triển nuôi trồng thuỷ sản, đặc biệt là những loài có giá trị cao để phục vụ cho xuất khẩu, xây dựng các mô hình quản lý, bảo vệ và sử dụng hợp lý các nguồn lợi thuỷ sản đồng thời xây dựng các khu bảo tồn tự nhiên, các khu bảo tồn biển… Dựa trên các thông tin về các thị trường được Bộ, ngành cung cấp, đồng thời tự mình khai thác thông tin, tìm bạn hàng (thông qua Interner), nghiên cứu kỹ thói quen, nhu cầu của từng đối tác, nâng cao chất lượng sản phẩm, đảm bảo các tiêu chuẩn vệ sinh thực phẩm để dần tạo uy tín làm ăn lâu dài. Quy hoạch phát triển nuôi trồng và khai thác hợp lý nguồn lợi thuỷ sản: Nuôi trồng thuỷ sản có tính chất quyết định đến việc tăng sản lượng và phướng hướng lâu dài là phải sản xuất thâm canh. Bởi vậy, Nhà nước cần ưu tiên hỗ trợ dịch vụ cung ứng vốn, giống, cơ sở vật chất, kỹ thuật nuôi trồng, tiêu thị sản phẩm..cho nhân dân là yếu tố có tính quyết định để tăng nhánh sản lượng và chất lượng thuỷ sản . Điều chỉnh lại cơ cấu doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản: đây là trách nhiệm của Bộ Thuỷ sản. Hiện nay, thành phần kinh tế tư nhân đang phát triển rất nhanh. Các doanh nghiệp tư nhân chế biến xuất khẩu thuỷ sản đã đạt kim ngạch trên 40 triệu USD/năm Nhà nước cần khuyến khích thành phần kinh tế tư nhân đầu tư vào các lĩnh vực chế biến thuỷ sản thông qua việc thiết lập một hành lang pháp lý thuận lợi với những ưu đãi thích hợp về vốn, thuế, phí… 2.2.2. Kiến nghị đối với các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản. Các doanh nghiệp cần chú trọng đến chất lượng các sản phẩm xuất khẩu, đồng thời mở rộng danh mục các sản phẩm nhằm đáp ứng được đa dạng các nhu cầu của thị trường. Mặt khác các doanh nghiệp cũng cần xây dựng thương hiệu của mình trên các thị trường, cả thị trường nội địa và thị trường quốc tế. Các doanh nghiệp cần chú ý đến việc nghiên cứu marketing để từ đó có những biện pháp cho từng thị trường, cho từng sản phẩm nhằm đáp ứng nhu cầu chung của thế giới hiện nay. Các doanh nghiệp cũng cần phàI xây dựng được những hệ thống kênh phân phối hợp lý, có chất lượng cao để thuận lợi cho quá trình xâm nhập thị trường. Các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh thuỷ sản cần đổi mới công nghệ, đặc biệt là công nghệ sau thu hoạch, nâng cao trình độ quản lý, tổ chức tốt công tác thu mua nguyên liệu, nâng cao số lượng và chất lượng thuỷ sản, đảm bảo các tiêu chuẩn về vệ sinh thực phẩm, mở rộng đại lý tiêu thụ sản phẩm. Các doanh nghiệp cũng cần nâng cao khả năng cạnh tranh ngay trên thị trường nội địa, người dân Việt Nam có truyền thống tiêu thụ thuỷ sản, nhu cầu sẽ ngày càng tăng do đời sống được cải thiện. Đối với những doanh nghiệp Nhà nước hoạt động có hiệu quả,nhà nước nên sớm tiến hành cổ phần hoá để có thể tuy động vốn bên ngoài đầu tư nâng cấp thiết bị, công nghệ, mở rộng sản xuất. Mặt khác cũng đã đến lúc xem xét và quyết định việc giải thể, phá sản những doanh nghiệp nhiều năm làm ăn thua lỗ, mất vốn, không có khả năng trả nợ, góp phần lành mạnh hoá hệ thống doanh nghiệp Nhà nước, nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp khu vực này. KẾT LUẬN Việc nghiên cứu các thị trường thuỷ sản của Việt Nam đưa ra cho chúng ta được những giảp pháp nhằm khắc phục những hạn chế của thuỷ sản Việt Nam, mở ra những bước đI mới cho ngành thuỷ sản, từ đó đưa ngành phát triển phù hợp với xu thế và nhu cầu chung của thế giới, hội nhập với các nước trong khu vực và trên thế giới. Đồng thời giúp ngành thuỷ sản xuất khẩu được nhiều mặt hàng hơn, nâng cao được gáI trị xuất khẩu, đóng góp vào GDP nhiều hơn. Qua việc nghiên cứu cũng cho chúng ta thấy được vai trò, sự cần thiết của các công cụ marketing trong việc bảo vệ, giữ vững và phát triển thị trường. Đồng thời cũng tạo nên những ưu thế cho sản phẩm của ta có khả năng cạnh tranh được với các sản phẩm của nước ngoài. Từ đó khẳng định được vị thế của nước ta trên trường quốc tế, đưa nước ta sánh vai với các cường quốc trên thế giới. Do trình độ và hiểu biết còn hạn chế cho nên bàI viết của em còn có nhiều thiếu sót, chỉ nghiên cứu được một vài khía cạnh của vấn đề. Em xin chân thành cảm ơn cô giáo Nguyễn Thu Lan-giáo viên khoa marketing-đã giúp đỡ, hướng dẫn em hoàn thành bàI viết này. MỤC LỤC Phần mở đầu ……………………………………………………………...1 Phần I: Thực trạng xuất khẩu thuỷ sản và thị trường xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam………………………………………….2 Thực trạng xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam trong thời gian qua…...…2 Các sản phẩm thuỷ sản chủ yếu…………………………………..…2 Một số thị trường xuất khẩu thuỷ sản chủ yếu………………………3 Thị trường Nhật Bản…………………………………………………3 Thị trường Mỹ…………………………………………………….…4 Thị trường Trung Quốc………………………………………...……6 Thị trường EU……………………………………………….………7 Các thị trường khác……………………………………………….…9 Các yếu tố ảnh hưởng tới xuất khẩu thuỷ sản………..………………9 Yếu tố kinh tế………………………………………………..………9 Yếu tố địa lý, khí hậu……………………………………………...10 Yếu tố chính trị, pháp luật……………………………….…………10 Yếu tố văn hoá………………………………………………...……10 Đánh giá thực trạng…………………………………………..………11 Những kết quả đạt được.......................................................................11 Những hạn chế và nguyên nhân...........................................................14 2.2.1 Những hạn chế....................................................................................14 2.2.2. Nguyên nhân......................................................................................15 Phần II : Xu hướng và giải pháp phát triển thị trường xuất khẩt thuỷ sản .17 Xu hướng phát triển thuỷ sản trong thời gian tới ...................................17 Giải pháp và kiến nghị…………………………………………………18 Giải pháp cho từng thị trựờng………………………………………19 Đối với thị trường Nhật Bản……………………………..…………19 Đối với thị trường Mỹ………………………………………………20 Đối với thị trường EU………………………………………………22 Đối với các thị trường khác…………………………...……………23 Các kiến nghị………………………………………………….……24 Các kiến nghị đối với cơ quan quản lý nhà nước…………….……..24 Đối với các Bộ, ngành có liên quan………………………………24 Đối với các hội, hiệp hội chế biến và xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam…………………………………………...…25 Đối với bộ thuỷ sản………………………………………………26 2.2.2. Kiến nghị đối với các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản…...………28 Kết luận………………………………………………………………..…29

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLuận văn chuyên đề Xu hướng phát triển trong xuất khẩu hàng thủy sản Việt Nam.doc
Tài liệu liên quan