Tài liệu Đề án Quản lý của nhà nước đối với các công ty phát hành chứng khoán ở Việt Nam: ĐỀ ÁN MÔN HỌC 
Đề tài: 
Quản lý của Nhà nước đối với các Công ty phát 
hành Chứng khoán ở Việt Nam 
 1
LỜI MỞ ĐẦU 
Với sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế của thế giới, sự vươn lên không ngừng 
của các nước trong khu vực về tất cả các lĩnh vực mà đặc biệt là sự phát triển như 
vũ bão về kinh tế, chính trị, xã hội. Điều đó đặt nước ta vào một vị thế vô cùng 
quan trọng, bởi vì nước ta nằm ở vị trí cực kỳ nhạy cảm, nhạy cảm cả về vị trí 
chiến lược quân sự cũng như kinh tế trong khu vực. Chính vì thế mà Đảng và nhà 
nước đã nhận thấy rõ công việc của mình là phải lãnh đạo, định hướng phát triển 
cho nền kinh tế đất nước sao cho thật tốt, để tiến vào kỷ nguyên mới với thành 
công mới rực rỡ. Để đạt được điều đó Đảng, nhà nước đã đưa ra nhiệm vụ và mục 
tiêu phải tiến hành "Công nghiệp hoá và Hiện đại hoá đất nước". 
Để tiến hành công nghiệp hoá hiện đại hoá thành công, tăng trưởng kinh tế 
bền vững, khắc phục nguy cơ tụt hậu so với các nước trong khu vực cần phải có 
nguồn v...
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
35 trang | 
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1161 | Lượt tải: 0
              
            Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề án Quản lý của nhà nước đối với các công ty phát hành chứng khoán ở Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐỀ ÁN MÔN HỌC 
Đề tài: 
Quản lý của Nhà nước đối với các Công ty phát 
hành Chứng khoán ở Việt Nam 
 1
LỜI MỞ ĐẦU 
Với sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế của thế giới, sự vươn lên không ngừng 
của các nước trong khu vực về tất cả các lĩnh vực mà đặc biệt là sự phát triển như 
vũ bão về kinh tế, chính trị, xã hội. Điều đó đặt nước ta vào một vị thế vô cùng 
quan trọng, bởi vì nước ta nằm ở vị trí cực kỳ nhạy cảm, nhạy cảm cả về vị trí 
chiến lược quân sự cũng như kinh tế trong khu vực. Chính vì thế mà Đảng và nhà 
nước đã nhận thấy rõ công việc của mình là phải lãnh đạo, định hướng phát triển 
cho nền kinh tế đất nước sao cho thật tốt, để tiến vào kỷ nguyên mới với thành 
công mới rực rỡ. Để đạt được điều đó Đảng, nhà nước đã đưa ra nhiệm vụ và mục 
tiêu phải tiến hành "Công nghiệp hoá và Hiện đại hoá đất nước". 
Để tiến hành công nghiệp hoá hiện đại hoá thành công, tăng trưởng kinh tế 
bền vững, khắc phục nguy cơ tụt hậu so với các nước trong khu vực cần phải có 
nguồn vốn lớn. Mà để có nguồn vốn lớn cần phát triển thị trường chứng khoán. 
Tuy nhiên, việc phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam gặp không ít khó 
khăn về kinh tế cũng như sự hiểu biết loại hình kinh doanh này còn hạn chế, đặc 
biệt khi thị trường chứng khoán đi vào hoạt động thì cần phải có “sự quản lý của 
Nhà nước các Công ty phát hành chứng khoán”. 
Chính vì thế, mà hơn bao giờ hết chúng ta cần phải chuẩn bị một cách kỹ càng 
cả về kiến thức cơ bản và học hỏi kinh nghiệm của các nước khác trên thế giới về 
tổ chức quản lý và kiểm soát hoạt động của các Công ty phát hành chứng khoán. 
Những nội dung chính được trình bày trong Đề án này gồm: 
Phần 1: Cơ sở lý luận về Quản lý nhà nước đối với các Công ty phát hành 
Chứng khoán 
Phần 2: Thực trạng Quản lý Nhà nước đối với các Công ty phát hành 
chứng khoán 
Phần 3: Phương hướng và một số kiến nghị quản lý phù hợp ở Việt Nam 
 2
NỘI DUNG 
PHẦN 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI 
CÁC CÔNG TY PHÁT HÀNH CHỨNG KHOÁN 
I. THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VÀ CÁC CÔNG TY PHÁT 
HÀNH CHỨNG KHOÁN 
1. Chứng khoán và thị trường chứng khoán 
 Chứng khoán 
 Khái niệm 
Chứng khoán là chứng chỉ thể hiện quyền của chủ sở hữu chứng khoán đối 
với người phát hành. Chứng khoán bao gồm : chứng khoán nợ (trái phiếu), chứng 
khoán vốn (cổ phiếu) và các chứng chỉ có nguồn gốc chứng khoán (chứng quyền, 
chứng khế, chứng chỉ thụ hưởng ...). 
 Các chứng khoán do chính phủ, chính quyền địa phương và các công ty phát 
hành với mức giá nhất định. Sau khi phát hành, các chứng khoán có thể được mua 
đi bán lại nhiều lần trên thị trường chứng khoán theo các mức giá khác nhau tuỳ 
thuộc vào cung và cầu trên thị trường. 
 Các loại chứng khoán 
Cổ phiếu: 
 Cổ phiếu là chứng khoán vốn, xác nhận quyền sở hữu một phần tài sản công 
ty của cổ đông. Cổ phiếu gồm hai loại chính: 
 Cổ phiếu thường: là cổ phiếu xác định quyền sở hữu của cổ đông trong công 
ty. Cổ phiếu thường được đặc trưng bởi quyền quản lí, kiểm soát công ty. Cổ đông 
sở hữu cổ phiếu thường được tham gia bầu hội đồng quả trị, tham gia bỏ phiếu 
quyết định các vấn đề lớn của công ty. 
 3
Cổ phiếu ưu đãi: là cổ phiếu có cổ tức xác định được thể hiện bằng số tiền xác 
định được in trên cổ phiếu hoặc theo tỉ lệ phần trăm cố định so với mệnh giá cổ 
phiếu. 
Trái phiếu: 
Trái phiếu là chứng khoán nợ, người phát hành trái phiếu phải trả lãi và hoàn 
trả gốc cho những người sở hữu trái phiếu vào lúc đáo hạn. 
Trái phiếu có thể phân theo nhiều tiêu chí khác nhau: 
- Căn cứ vào chủ thể phát hành, trái phiếu gồm hai loại chính là: trái phiếu 
chính phủ, trái phiếu chính quyền địa phương (do chính phủ và chính quyền địa 
phương phát hành) và trái phiếu công ty (do công ty phát hành). 
- Căn cứ vào tính chất chuyển đổi, trái phiếu được chia thành loại có khả 
năng chuyển đổi (chuyển đổi thành cổ phiếu) và loại không có khả năng chuyển. 
- Trái phiếu chiết khấu: là loại trái phiếu không trả thưởng và được bán theo 
nguyên tắc chiết khấu. 
- Trái phiếu có bảo đảm và trái phiếu không có bảo đảm. 
Các chứng chỉ có nguồn gốc chứng khoán: 
- Chứng quyền: là giấy xác nhận quyền được mua cổ phiếu mới phát hành tại 
mức giải tường bán ra của công ty. 
- Chứng khế: là các giấy tờ được phát hành kèm theo các trái phiếu, trong đó 
xác nhận quyền được mua cổ phiếu theo những điều kiện nhất định. 
 - Chứng chỉ thụ hưởng: là giấy xác nhận quyền lợi của khách hàng là những 
nhà đầu tư cá nhân trong các quỹ đầu tư nhất định. 
 4
 Thị trường chứng khoán 
 Khái niệm 
 Thị trường chứng khoán là nơi diễn ra các hoạt động mua bán chứng khoán 
theo các nguyên tắc của thị trường (theo quan hệ cung cầu) 
 Cơ cấu 
Xét về sự lưu thông của CK trên thị trường,TTCK có hai loạI:thị trường sơ 
cấp và thị trường thứ cấp. 
Thị trường sơ cấp: Là thị trường phát hành. Đây là thị trường mua bán các 
chứng khoán phát hành lần đầu giữa nhà phát hành (người bán) và nhà đầu tư 
(người mua). Trên thị trường sơ cấp, chính phủ và các công ty thực hiện huy động 
vốn thông qua việc phát hành- bán chứng khoán của mình cho nhà đầu tư. 
Thị trường thứ cấp: Là thị trường giao dịch. Đây là thị trường mua bán các 
loại chứng khoán đã được phát hành. Thị trường thứ cấp thực hiện vai trò điều hoà, 
lưu thông các nguồn vốn, đảm bảo chuyển hoá các nguồn vốn ngắn hạn thành dài 
hạn. Qua thị trường thứ cấp, những người có vốn nhàn rỗi tạm thời có thể đầu tư 
vào chứng khoán, khi cần tiền họ có thể bán lại chứng khoán cho nhà đầu tư khác. 
Xét về phương diện tổ chức và giao dịch ,TTCK có ba loại: 
Thị trường chứng khoán tập trung: là thị trường ở đó việc giao dịch mua 
bán chứng khoán được thực hiện thông qua Sở giao dịch chứng khoán. 
Thị trường chứng khoán bán tập trung: là thị trường CK “bậc cao”. Thị 
trường chứng khoán bán tập trung (OTC) không có trung tâm giao dịch mà giao 
dịch mua bán chứng khoán thông qua mạng lưới điện tín, điện thoại. Một điều rất 
quan trọng là các nhà đầu tư trên thị trường OTC không trực tiếp gặp nhau để thoả 
thuận mua bán chứng khoán như trong phòng giao dịch của SGDCK, thay vào đó 
họ thuê các công ty môi giới giao dịch hộ thông qua hệ thống viễn thông. 
 5
Thị trưòng chứng khoán phi tập trung: còn gọi là thị trường thứ ba. Hoạt 
động mua bán chứng khoán được thực hiện tự do. 
 Các chủ thể tham gia thị trường chứng khoán 
Các đối tượng tham gia thị trường CK chia thành các nhóm:nhà phát hành,nhà 
đầu và các tổ chức có liên quan. 
Nhà phát hành 
Nhà phát hành là các tổ chức thực hiện huy động vốn thông qua thị trường 
chứng khoán. Nhà phát hành có thể là Chính phủ, chính quyền địa phương, Công 
ty. 
- - Chính phủ phát hành các loại trái phiếu chính phủ nhằm huy động tiền bù 
đắp thâm hụt ngân sách hoặc thực hiện nhưng công trình quốc gia lớn. 
- - Chính quyền địa phương phát hành trái phiếu địa phương để huy động tiền 
đầu tư cho các công trình hay chương trình kinh tế, xã hội của địa phương. 
- - Các công ty muốn huy động vốn đầu tư phát triển sản xuất thương phát hành 
trái phiếu công ty hoặc cổ phiếu. 
 Nhà đầu tư 
Nhà đầu tư có thể chia làn hai loại: nhà đầu tư cá nhân và nhà đầu tư có tổ 
chức. 
 Các nhà đầu tư cá nhân 
Nhà đầu tư cá nhân là những người tham gia mua bán trên thị trường chứng 
khoán với mục đích tìm kiếm lợi nhuận. Tuy nhiên, lợi nhuận luôn gắn liền với rủi 
ro. Rủi ro càng cao thì lợi nhuận càng lớn. Do vậy, các nhà đầu tư phải lựa chọn 
các hình thức đầu tư phù hợp với mình. 
 6
 Các nhà đầu tư có tổ chức 
Các tổ chức này thường xuyên mua bán chứng khoán với số lượng lớn và có 
các bộ phận chức năng bao gồm nhiều chuyên gia có kinh nghiệm để nghiên cứu 
thị trường và đưa ra các quyết định đầu tư. Đầu tư thông qua các tổ chức này có ưu 
điểm là đa dạng hoá danh mục đầu tư và các quyết định đầu tư được thực hiện bởi 
các chuyên gia có kinh nghiệm. 
Các tổ chức kinh doanh chứng khoán 
 Công ty chứng khoán 
Các công ty này hoạt động với nghiệp vụ chính là bảo lãnh phát hành, tự 
doanh, môi giới, quản lý danh mục đầu tư và tư vấn đầu tư chứng khoán. 
 Các ngân hàng thương mại 
Các ngân hàng thương mại có thể sử dụng vốn để đầu tư chứng khoán nhưng 
chỉ được trong giới hạn rất định để bảo vệ ngân hàng trước những biến động của 
giá chứng khoán. 
Các tổ chức có liên quan đến thị trường chứng khoán 
 - Cơ quan quản lý nhà nước 
Cơ quan này được thành lập để thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với 
thị trường chứng khoán. cơ quan này có những tên gọi khác nhau tuỳ từng nước. 
Tại Anh có Uỷ ban đầu tư chứng khoán (SIB- Securities Investment Board), tại Mỹ 
có Uỷ ban chứng khoán và Giao dịch chứng khoán (SEC - Securities And 
Exchange Comission) hay ở Nhật Bản có Uỷ ban giám sát chứng khoán và Giao 
dịch chứng khoán (ESC - Exchange Surveillance Comission) được thành lập vào 
năm 1992 và đến năm 1998 đổi tên thành FSA - Financial Supervision Agency. Và 
 7
ở Việt Nam có Uỷ ban chứng khoán nhà nước được thành lập theo Nghị địng số 
75/CP ngày 28/11/1996. 
 - Sở giao dịch chứng khoán 
 - Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán 
 - Tổ chức ký gửi và thanh toán chứng khoán 
 - Các tổ chức đánh giá hệ số tín nhiệm 
2. Các công ty phát hành Chứng khoán 
 Điều kiện phát hành 
 Phát hành chứng khoán ra công chúng là việc chào bán chứng khoán rộng 
rãi cho các nhà đầu tư ngoài tổ chức phát hành để huy động vốn từ đông đảo công 
chúng đầu tư. Hình thức huy động vốn này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với 
nền kinh tế Việt Nam, khi mà một nguồn vốn nhàn rỗi rất lớn vẫn còn nằm trong 
dân, trong khi các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế luôn ở trong tình 
trạng đói vốn và khả năng đáp ứng của ngân sách nhà nước cũng như vay ngân 
hàng còn hạn chế. 
 Hiện nay trong bất kỳ thị trường nào, dù là đã phát triển hay đang phát triển, 
yêu cầu đầu tiên đối với hoạt động phát hành là phải có sự quản lý, giám sát của 
nhà nước để đảm bảo hiệu quả, công bằng và bảo vệ quyền lợi của các nhà đầu tư. 
Ở Việt Nam, Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước với tư cách là cơ quan quản lý Nhà 
nước về chứng khoán và thị trường chứng khoán, thực hiện chức năng giám sát và 
điều chỉnh việc phát hành chứng khoán ra công chúng để được niêm yết trên thị 
trường. 
 Mỗi nước có những quy định riêng cho việc phát hành chứng khoán lần đầu 
ra công chúng. Tuy nhiên, để phát hành chứng khoán ra công chúng thông thường 
tổ chức phát hành phải đảm bảo năm điều kiện cơ bản sau: 
 8
* Về quy mô vốn: tổ chức phát hành phải đáp ứng được yêu cầu về vốn điều 
lệ tối thiểu ban đầu và sau khi phát hành phải đạt được một tỷ lệ phần trăm nhất 
địnhvề vốn cổ phần do công chúng nắm giữ và do số lượng công chúng tham gia. 
* Về tính liên tục của hoạt động sản xuất kinh doanh: Công ty được thành 
lập và hoạt động trong vòng một thời gian nhất định( thường khoảng từ 3-5 năm). 
* Về đội ngũ quản lý công ty: Công ty phải có đội ngũ quản lý tốt, có đủ năng 
lực và trình độ quản lý các hoạt động sản xuất, kinh doanh của công ty. 
* Về hiệu quả sản xuất kinh doanh: công ty phải làm ăn có lãi với mức lợi 
nhuận không thấp hơn mức quy định và trong một số năm liên tục nhất định ( 
thường từ 2- 3 năm). 
* Về tính khả thi của dự án: công ty phải có dự án khả thi trong việc sử dụng 
nguồn vốn huy động được. 
Tuy nhiên, các nước đang phát triển thường cho phép một số trường hợp 
ngoại lệ, tức là có những doanh nghiệp sẽ được miễn giảm một số điều kiện nêu 
trên, Ví dụ: Doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công ích, hạ tầng cơ sở có thể 
được miễn giảm về hoạt động sản xuất kinh doanh. Ở Việt Nam, theo quy định của 
Nghị định 48/1998/-NĐ-CP về chứng khoán và thị trường chứng khoán và thông 
tư 01/1998/TT-UBCK hướng dẫn Nghị định 48/1998/-NĐ-CP, tổ chức phát hành 
cổ phiếu, Trái phiếu lần đầu ra công chúng phải đáp ứng được các điều kiện sau: 
+ Mức vốn điều lệ tối thiểu là 5 tỷ đồng Việt Nam 
+ Hoạt động kinh doanh có lãi trong 2 năm liên tục gần nhất 
+ Thành viên Hội đồng quản trị và Giám đốc (Tổng giám đốc) có kinh 
nghiệm quản lý kinh doanh. tổ chức phát hành và phải nắm giữ mức này tối thiểu 3 
năm kể từ ngày kết thúc đợt phát hành. 
+ Trường hợp cổ phiếu phát hành có tổng giá trị theo mệnh giá vượt 10 tỷ 
đồng thì phải có tổ chức bảo lãnh phát hành. 
 9
+ Có phương án khả thi về việc sử dụng vốn thu được từ đợt phát hành cổ 
phiếu, trái phiếu. 
+ Tối thiểu 20% vốn cổ phần của tổ chức phát hành phải được bán cho trên 
100 người đầu tư ngoài tổ chức phát hành; trường hợp vốn cổ phần của tổ chức 
phát hành; trường hợp vốn cổ phần của tổ chức phát hành từ 100 tỷ đồng trở lên thì 
tỷ lệ tối thiểu này là 15% vốn cổ phần của tổ chức phát hành. 
+ Cổ đông sáng lập phải nắm giữ ít nhất 20% vốn cổ phần của 
 Hình thức phát hành 
 Doanh nghiệp có thể kêu gọi tiền tiết kiệm của dân cư bằng cách phát hành 
cổ phiếu hoặc trái phiếu để hình thành nguồn vốn dài hạn rất cần cho sự tài trợ phát 
triển của mình. Doanh nghiệp cũng có thể tiến hành gia tăng vốn bằng việc phát 
hành cổ phiếu để kêu gọi thêm sự tham gia của các cổ đông sáng lập, nhưng việc 
đó giả thiết một mặt các cổ đông này phải có sẵn những vốn cần thiết, và mặt khác, 
họ cũng chấp nhận tham gia bổ sung vào hoạt động của doanh nghiệp. 
 Trái phiếu là một chứng chỉ nợ, đại diện cho một sự vay vốn dài hạn đối 
với tổ chức phát hành. Do đó sẽ phải được hoàn trả cả gói hoặc từng phần theo 
theo mệnh giá phát hành hoặc đắt hơn, điều này phải được ghi rõ khi khoản thu 
nhập cố định bất kể trong tình huống nào và bất kể hiệu quả kinh doanh của doanh 
nghiệp ra sao. Mức lãi suất đã được quy định khi phát hành trái phiếu. 
 Cổ phiếu là một chứng chỉ có tham gia vào cấu tạo vốn ban đầu của một 
doanh nghiệp, người chủ cổ phiếu có tư cách hội viên và có quyền được chia lợi 
tức theo tỷ lệ vốn tham gia hoặc tài sản có theo điều lệ của Công ty. Khoản thu 
nhập đó (gọi là lợi tức (hay cổ tức) cổ phiếu) thay đổi tuỳ theo tổng lợi nhuận của 
tài khoá và theo chính sách của công ty. Khi thấy cần thiết phải ưu đãi việc tự tài 
trợ hoặc mỗi khi phân phối lợi nhuận, Công ty có trách nhiệm thông tin cho các 
chủ cổ phần về hoạt động và kết quả kinh doanh của mình. Vì thế công ty phải 
 10
công khai hoá bảng cân đối tài sản, bảng kết quả lỗ lãi cùng với các phụ lục, kể cả 
những tài liệu khác. 
 Mặc dù cổ phiếu và trái phiếu có những điểm khác biệt nhưng xét cho cùng 
chúng đều là các hình thức huy động vốn của nhà phát hành, được quyền mua bán 
tự do trên thị trường riêng của nó. Chúng là nguồn tiếp vốn, là máu nuôi dưỡng các 
tế bào kinh tế, là cái phao nâng đỡ con tàu kinh tế qua các cơn phong ba bão tố của 
thị trường. 
 Chức năng Công ty phát hành 
Chức năng thứ nhất :Huy động vốn cho nền kinh tế 
Phát hành chứng khoán được xem như chiếc cầu vô hình nối liền người thừa 
vốn với người thiếu vốn để họ giúp đỡ nhau thông qua việc mua bán cổ phiếu và 
trái phiếu, qua đó để huy động vón cho nền kinh tế, góp phần phát triển sản xuất 
kinh doanh tạo công ăn việc làm cho người lao động, giảm thất nghiệp, ổn định đời 
sống dân cư và thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Thông qua việc phát hành chứng 
khoán, chính phủ và chính quyền địa phương cũng huy động các nguồn vốn cho 
đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng. Phát hành chứng khoán đóng vai trò tự động điều 
hoà vốn giữa nơi thừa sang nơi thiếu vốn. Vì vậy, nó góp phần giao lưu và phát 
triển kinh tế. Mức độ điều hoà này phụ thuộc vào quy mô hoạt động của từng Công 
ty phát hành chứng khoán. Chẳng hạn, những công ty phát hành chứng khoán lớn ở 
thị trường Luân Đôn, Niu óc, Paris, Tokyo,... thì phạm vi ảnh hưởng của nó vượt ra 
ngoài khuôn khổ quốc gia vì đây là những Công ty từ lâu được xếp vào loại hoạt 
động có tầm cơ quốc tế. Cho nên mọi biến động của Nó tác động mạnh mẽ tới nền 
kinh tế của bản thân nước sở tại, mà còn ảnh hưởng đến thị trường chứng khoán 
nước khác. 
Chức năng thứ hai: thông tin 
Phát hành chứng khoán bảo đảm thông tin chính xác, kịp thời ( cho các nhà 
đầu tư và các nhà kinh doanh chứng khoán ) về tình hình cung - cầu, thị giá của 
 11
từng loại chứng khoán trên thị trường mình và trên thị trường chứng khoán hữu 
quan. 
Chức năng thứ ba: cung cấp khả năng thanh khoản 
Nhờ có Phát hành chứng khoán mà các nhà đầu tư có thể chuyển đổi thành 
tiền khi họ muốn.Chức năng cung cấp khả năng thanh khoản bảo đảm cho thị 
trường chứng khoán hoạt động hiệu quảvà năng động. 
Chức năng thứ tư: đánh giá giá trị doanh nghiệp 
Phát hành chứng khoán là nơi đánh giá chính xác doanh nghiệp thông qua chỉ 
số chứng khoán trên thị trường, tình hình hoạt động của doanh nghiệp này kích các 
doanh nhgiệp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, kích thích áp dụng công ngệ mới. 
Chức năng thứ năm: tạo môi trường để chính phủ thực hiện chính vĩ mô 
Chính phủ có thẻ mua bán trái phiếu chính phủ để tạo ra nguồn thu bù đắp 
thâm hụt ngân sách và quản lý lạm phát.ngoài ra chính có thể sử dụng các chính 
sách tác động vào thị trường chứng khoán nhằm định hướng đầu tư. 
 Vai trò của công ty phát hành 
Góp phần xây dựng và phát triển thị trường chứng khoán, với vai trò là tổ 
chức đầu tư trực tiếp, đồng thời là những trung gian tài chính sẽ góp phần nâng cao 
năng lực hoạt động của các doanh nghiệp Việt Nam, giúp quảng bá, giới thiệu sản 
phẩm cho các doanh nghiệp tới công chúng đầu tư, cho các thành phần kinh tế 
trong và ngoài nước và đặc biệt góp phần cải thiện tư duy, cách nhìn nhận đánh giá 
của đối tác vào thị trường chứng khoán Việt Nam. Bên cạnh đó còn góp phần hoàn 
thiện cơ chế quản lý điều hành các doanh nghiệp, giúp các doanh nghiệp huy động 
vốn và giao dịch chứng khoán trên thị trường chứng khoán; cung cấp cơ chế giá 
cho các khoản đầu tư, làm cơ chế chuyển nhượng chứng khoán thành tiền và ngược 
lại, giảm chi phí giao dịch, phát triển sản phẩm và dịch vụ trên thị trường làm cải 
 12
thiện môi trường kinh doanh góp phần hình thành nền văn hoá đầu tư: tăng chất 
lượng và hiệu quả dịch vụ nhờ cạnh tranh. Công ty phát hành chứng khoán sẽ là 
cầu nối đưa nhà đầu tư, các luồng tiền nhàn rỗi đến với doanh nghiệp cần vốn một 
cách nhanh nhất với chi phí hợp lý. Ngoài ra giúp tuyên truyền quảng bá hoạt động 
của Doanh nghiệp và đây cũng là nơi cung cấp các kênh thông tin và dịch vụ mới 
nhanh, chính xác. Do vậy, Công ty phát hành chứng khoán có vai trò rất lớn trong 
nền kinh tế thị trường nói chung và nền kinh tế Việt Nam nói riêng. 
II. QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI CÁC CÔNG TY PHÁT HÀNH 
CHỨNG KHOÁN 
1. Khái niệm quản lý nhà nước 
Là sự tác động có tổ chức và bằng pháp quyền của Nhà nước nên đối tượng 
quản lý nhằm dẫn dắt đối tượng đi đến mục tiêu với kết quả và hiệu quả cao nhất 
trong điều kiện môi trường luôn biến động. 
Quản lý nhà nước là quản lý có tính toàn cục mà đối tượng là những quan hệ 
kinh tế vĩ mô, nhưng quan hệ kinh tế xét trong tổng thể nền kinh tế của một nước. 
Tính toàn cục của quản lý nhà nước đòi hỏi nhà nước với tư cách là chủ thể quản lý 
cần xem xét các vấn đề kinh tế trung mô và xuất phát từ các yêu cầu của phát triển 
kinh tế quốc dân, từ sự phối hợp, điều hoà các mối quan hệ trong phạm vi nền kinh 
tế quốc dân. 
 Quản lý có tính tổng thể là một loại quản lý dựa trên cơ sở quản lý doanh 
nghiệp, quản lý khu vực và quản lý ngành bằng việc vận dụng tổng hợp các 
phương pháp quản lý, Nhà nước điều tiết các mối quan hệ làm cho nền kinh tế 
quốc dân trên tổng thể phát triển cân đối nhịp nhàng tạo điều kiện thuận lợi cho 
quản lý doanh nghiệp, quản lý khu vực và quản lý ngành phát huy được hiệu quả 
của mình. 
 Quản lý mang tính quyền lực: Nhà nước quản lý các hoạt xã hội bằng quyền 
lực chính trị ( lập pháp, hành pháp và tư pháp) của giai cấp thống trị đối với giai 
 13
cấp khác. Mặt khác quản lý nhà nước còn mang tính pháp quyền và thực hiên theo 
nguyên tắc pháp chế. Quản lý bằng pháp luật là đặc điểm riêng có của quản lý Nhà 
nước đối với quản lý xã hội. 
 Quản lý mang tính phức hợp đa dạng được thể hiện ở tính phức hợp và tính 
đa dạng của các đối tượng quản lý, tính đa mục tiêu, tính phong phú của các hình 
thức tác động, tính phụ thuộc vào môi trường trong nước và quốc tế, tính hệ thống 
của các vấn đề trong phạm vi quốc gia và quốc tế, tính gián tiếp của phương pháp 
tác động do đó phải có một bộ máy quản lý tinh xảo, hoạt động có hiệu lực và hiệu 
quả. 
 Quản lý nhà nước nhằm mục tiêu phát triển lấy hiệu quả kinh tế xã hội làm 
chính, bởi vậy mục tiêu đặt ra trong quản lý kính tế quốc dân là mục tiêu kinh tế xã 
hội, hiệu quả kinh tế xã hội được xem như là tiêu chuẩn của mục tiêu trên. Hiệu 
quả được hiểu theo hai nội dung sau: Thứ nhất, lỗ hoặc lãi của một doanh nghiệp, 
một nganh hay một khu vực kinh tế chưa phải là lỗ hoặc lãi của toàn bộ nên kinh tế 
quốc dân mà hiệu quả kinh tế phải xét trong phạm vi toàn bộ nên kinh tế quốc dân. 
Thứ hai, hiệu quả tổng hợp không chỉ là hiệu quả kinh tế mà còn là hiệu quả chính 
trị, xã hội, văn hoá và môi trường. 
 Quản lý nhà nước là quản lý đa mục tiêu. Về cơ bản, mục đích trong quản 
lý doanh nghiệp là tối đa hoá lợi nhuận, còn mục đích trong quản lý nhà nước là tối 
đa hoá phúc lợi quốc gia. Bởi vậy, mục tiêu quản lý của nhà nước không chỉ dừng 
lại ở mục tiêu tăng trưởng kinh tế mà còn phải tính đến hàng loạt các mục tiêu khác 
như công bằng xã hội, phát triển văn hoá, ổn định và nâng cao đời sống, xoá đói 
giảm nghèo và vấn đề về môi trường. 
Thực chất quản lý nhà nước là quản lý con người và các quan hệ xã hội 
nhằm giúp định hướng cho các hoạt động được diễn ra theo đúng quy luật cơ chế 
thị trường. Đó là cả một khoa học và nghệ thuật quản lý của nhà nước. 
 14
2. Các chức năng chủ yếu của quản lý Nhà nước đối với các Công ty phát 
hành 
 2.1. Khuyến khích tạo điều kiện cho các CTPHCK phát triển 
Nhằm tạo lập môi trường thuận lợi cho hoạt động sản suất kinh doanh và hỗ 
trợ thúc đẩy sự phát triển. Muốn các tổ chức, Công ty phát triển tốt trong điều kiện 
kinh tế thị trường còn non kém như hiện nay thì nhà nước cần có các chính sách 
hay giải pháp thích hợp tạo nền thuận lợi khuyến khích sự phát triển đối với các 
Công ty phát hành chứng khoán như: Duy trì ổn định kinh tế vĩ mô tạo ra sự tin 
tưởng cho các chủ thể kinh tế vào tương lai, tránh cho nền kinh tế khỏi những cuộc 
khủng hoảng làm ảnh hưởng tới các doanh nghiệp kinh doanh; Giữ vững ổn định 
chính trị tạo điều kiện yên tâm cho các nhà đầu tư cũng như nhà phát hành chứng 
khoán; Đưa ra các chính sách ưu đãi hoặc hỗ trợ khi các Doanh nghiệp gặp khó 
khăn; Bên cạnh đó cần bảo đảm ổn định xã hội tạo môi trường văn hoá lành mạnh, 
ổn định thuận lợi cho hoạt động của các chủ thể kinh tế trên thị trường là Nhà nước 
đã thực hiện vai trò kinh tế của mình đối với quá trình tăng trưởng và phát triển 
kinh tế đất nước. 
1.2. Định hướng phát triển thị trường chứng khoán 
Xã hội càng phát triển, con người càng được tự do hơn trong hành động thì 
chức năng định hướng càng giữ vai trò quan trọng. Trong việc quản lý nhà nước 
việc định hướng đúng giúp đất nước đối phó được với mọi sự không ổn định trong 
nước cũng như khu vực và thế giới. 
Định hướng theo nghĩa rộng bao gồm cả định ra đường lối phát triển và thiết 
lập kế hoạch ngắn hạn, trung hạn và dài hạn cho sự phát triển. Do vậy chức năng 
định hướng còn được gọi là chức năng hoạch định. Chất lượng của định hướng tạo 
điều kiện cho việc thực hiện các chức năng còn lại của quản lý và quyết định toàn 
bộ quá trình quản lý của Nhà nước. Cho nên sự quản lý của nhà nước đối với các 
 15
Công ty phát hành chứng khoán có đúng đắn hay không còn tuỳ thuộc vào chức 
năng định hướng đúng hay sai. 
1.3. Tạo khuôn khổ pháp luật cho các Công ty phát hành 
Pháp luật theo nghĩa rộng là tổng thể các quy phạm pháp luật do Nhà nước 
ban hành hoặc thừa nhận, thể hiện ý trí của giai cấp công nhân và nhân dân lao 
động nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình tổ chức quản lý 
và trong hoạt động kinh doanh giữa các chủ thể với nhau và các cơ quan quản lý 
nhà nước. 
Trong nền kinh tế thị trường để phát triển mạng lưới các hoạt động và các 
mối quan hệ phức tạp sẽ trở nên cực kỳ khó khăn nếu không có các luật chơi rõ 
ràng, sòng phẳng và có thể dự đoán được. Nhưng luật chơi trong các hoạt động 
kinh tế này phải là mối quan tâm chủ yếu của Nhà nước vì chỉ có Nhà nước mới có 
thể đưa ra và buộc các tổ chức, cá nhân chấp hành nghiêm chỉnh các luật chơi đó. 
Bằng luật pháp nhà nước điều chình hành vi kinh doanh phát hành chứng 
khoán, xác định hành vi nào là hành vi kinh doanh hợp pháp, hành vi nào là hành 
vi kinh doanh phi pháp. Luật pháp tạo ra luật chơi cho các chủ thể kinh doanh trên 
thị trường. Trên sân bóng thiếu luật chơi hoặc luật chơi chưa hoàn thiện các cầu 
thủ không thể chơi bóng được, trong các hoạt động kinh doanh phát hành cũng 
vậy. 
Khi đã có luật chơi rõ ràng rồi thì buộc các chủ thể tham gia phải tuân theo 
nó để tạo ra một sân chơi bình đẳng, công bằng. Do đó Nhà nước đã ban hành các 
văn bản hướng dẫn cũng như các điều luật buộc các chủ thể phát hành chứng 
khoán phải tuân theo những quy định của pháp luật đã đề ra. 
1.4. Điều chỉnh sai lệch trong chính sách quản lý của nhà nước 
Quá trình điều chỉnh thường gặp phải các tác động đột biến, làm cho đối 
tượng đi chệnh quỹ đạo dự kiến và chủ thể phải tác động thêm để san bằng các sai 
lệch đó. Việc thực hiện những tác động thêm này gọi là điều chỉnh. Trong mọi 
 16
trường hợp có thể xảy ra các sai lệch là điều khó có thể tránh khỏi nhất là trong 
giai đoạn nền kinh tế luôn biến động như thế này cho nên sự cần thiết của việc điều 
chỉnh là tất yếu, cũng như các chính sách quản lý của Nhà nước chỉ đúng ở giai 
đoạn này song trong tương lai nó có thể không còn thích hợp nữa do đó cần điểu 
chỉnh lại cho phù hợp, Như vậy thì nền kinh tế mới tồn tại và phát triển lâu dài 
được. Có các phương pháp điều chỉnh sau: 
 + Phương pháp khử nhiễu 
 + Phương pháp bồi thường nhiễu 
 + Phương pháp san bằng sai lệch 
 + Phương pháp chấp nhận sai lệch 
 Nghị định 48 Chính phủ ban hành các Công ty phát hành chứng khoán vốn 
điều lệ phải từ 10 tỷ đồng trở lên. Sau này Nghị định 144 Chính phủ đã điều chỉnh 
lại vốn điều lệ chỉ cần từ 5 tỷ trở lên là được, 8 văn bản hướng dẫn của Nghị định 
lần lượt được ban hành góp phần tạo nên một hành lang pháp lý hoàn chỉnh phù 
hợp với thực tiễn phát triển của thị trường. Điều chỉnh như vậy nhằm phù hợp với 
nền kinh tế Việt Nam và khuyến khích các Công ty phát hành chứng khoán phát 
triển mở rộng thị trường chứng khoán Việt Nam. 
PHẦN 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI CÁC 
CÔNG TY PHÁT HÀNH CHỨNG KHOÁN Ở VIỆT NAM HIỆN 
NAY 
i. TÌNH HÌNH THỰC TRẠNG CÁC CÔNG TY PHÁT HÀNH HIỆN 
NAY 
1. Những thuận lợi 
Phát hành chứng khoán sẽ tạo ra hình ảnh đẹp và sự nổi tiếng của Công ty, 
nhờ vậy công ty sẽ dễ dàng hơn và tốn ít chi phí hơn trong việc huy động vốn qua 
 17
phát hành trái phiếu, cổ phiếu ở những lần sau. Thêm vào đó, khách và nhà cung 
ứng của công ty thường cũng trở thành cổ đông của công ty và do vậy công ty sẽ 
rất có lợi trong việc mua nguyên liệu và tiêu thụ sản phẩm. 
Phát hành chứng khoán ra công chúng sẽ làm tăng giá trị tài sản ròng, giúp 
công ty có được nguồn vốn lớn và có thể vay vốn của ngân hàng với lãi suất ưu đãi 
hơn cũng như các điều khoản về tài sản cầm cố sẽ ít phiền hơn. Ví dụ như các cổ 
phiếu của các công ty đại chúng dễ dàng được chấp nhận là tài sản cầm cố cho các 
khoản vay ngân hàng. Ngoài ra, việc phát hành chứng khoán ra công chúng cũng 
giúp công ty trở thành một ứng cử viên hấp dẫn hơn đối với các công ty nước 
ngoài với tư cách làm đối tác liên doanh. 
Phát hành chứng khoán giúp công ty có thể thu hút và duy trì đội ngũ nhân 
viên giỏi bởi vì khi chào bán chứng khoán ra công chúng, công ty bao giờ cũng 
dành một tỷ lệ chứng khoán nhất định để bán cho nhân viên của mình. Với quyền 
mua cổ phiếu, nhân viên của công ty sẽ trở thành cổ đông, và được hưởng lãi trên 
vốn thay vì thu nhập thông thường. Điều này đã làm cho nhân viên của công ty làm 
việc có hiệu quả hơn và coi sự thành bại của công ty thực sự là thành bại của mình. 
Phát hành chứng khoán công ty có cơ hội tốt để xây dựng một hệ thống quản 
lý chuyên nghiệp cũng như xây dựng được một chiến lược phát triển rõ ràng. Công 
ty cũng dễ dàng hơn trong việc tìm người thay thế, nhờ đó mà tạo ra tính liên tục 
trong quản lý. Bên cạnh đó, sự hiện diện của các uỷ viên quản trị không trực tiếp 
tham gia điều hành công ty cũng giúp tăng cường kiểm tra và cân đối trong quản lý 
và điều hành công ty. Làm tăng chất lượng và độ chính xác của các báo cáo của 
công ty bởi vì các báo cáo của công ty phải được lập theo tiêu chuẩn chung do cơ 
quan quản lý quy định. Chính điều này làm cho việc đánh giá và so sánh kết quả 
hoạt động của công ty được thực hiện dễ dàng và chính xác hơn. 
2. Những khó khăn 
 18
Phát hành cổ phiếu ra công chúng làm phân tán quyền sở hữu và có thể làm 
mất quyền kiểm soát công ty của các cổ đông sáng lập do hoạt động thôn tính công 
ty. Bên cạnh đó cơ cấu quyền sở hữu của công ty luôn bị biến động do chịu ảnh 
hưởng của các giao dịch cổ phiếu hàng ngày. 
Chí phí phát hành chứng khoán ra công chúng cao, thường chiếm từ 8-10% 
khoản vốn huy động, bao gồm các chi phí bảo lãnh phát hành, phí tư vấn pháp luật, 
chi phí in ấn, phí kiểm toán, chi phí niêm yết... Ngoài ra hàng năm công ty cũng 
phải chịu thêm các khoản chi phí phụ như chi phí kiểm toán các báo cáo tài chính, 
chi phí cho việc chuẩn bị tài liệu nộp cho cơ quản lý nhà nước về chứng khoán và 
chi phí công bố thông tin định kỳ. 
Bên cạnh đó công ty phát hành chứng khoán phải tuân thủ một chế độ công 
bố thông tin rộng rãi, nghiêm ngặt và chịu sự giám sát chặt chẽ hơn so với các 
công ty khác. Hơn nữa việc công bố các thông tin về doanh thu, lợi nhuận, vị trí 
cạnh tranh, phương thức hoạt động, các hợp đồng nguyên liệu, cũng như nguy cơ 
bị rò rỉ thông tin mật ra ngoài có thể đưa công ty vào vị trí cạnh tranh bất lợi. Đội 
ngũ cán bộ quản lý công ty phải chịu trách nhiệm lớn hơn trước công chúng. Ngoài 
ra do quy định của pháp luật việc chuyển nhượng vốn cổ phần của họ thường bị 
hạn chế. 
Ở nước ta hiện nay hình thức phát hành bán trực tiếp cho các nhà đầu tư cuối 
cùng là phổ biến nhất, các công ty cổ phần mới thành lập phát hành cổ phiếu lần 
đầu hoặc phát hành bổ sung đều thực hiện bằng cách thông báo trực tiếp đến các 
nhà đầu tư, để họ đăng ký mua cổ phần, sau khi số lượng đã đăng ký đủ thì tổ chức 
đại hội cổ đông và tiến hành các bước chuẩn bị cho phát hành cổ phiếu, với hình 
thức này công ty phát hành sẽ giảm được chi phí trung gian, nhưng thực tế việc 
huy động vốn chậm. 
 19
 Do việc tiếp cận với TTCK còn rất là mới mẻ nên các Công ty phát hành 
chứng khoán ở Việt Nam hiện nay chủ yếu chỉ phát hành cổ phiếu bởi hình thức 
tham của nó đơn giản và dễ hiểu hơn so với trái phiếu, mà nguồn huy động vốn 
cũng dễ dàng không gây áp lực cho đơn vị phát hành về tính thanh khoản trả nợ khi 
đáo hạn. Việc phát hành trái phiếu chủ yếu do Chính phủ và các Ngân hàng phát 
hành để tạo nguồn vốn thu cho ngân sách, hạn chế lượng tiền nhàn rỗi trong dân 
chúng với mục đích đưa tiền vào lưu thông làm giảm tỷ lệ lạm phát, tăng nguồn 
vốn đầu tư, giải quyết công ăn việc làm cho nhân dân lao động. 
ii. THỰC TRẠNG SỰ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI CÁC CÔNG 
TY PHÁT HÀNH 
Hiện nay ở nước ta việc phát hành chứng khoán bị chi phối bởi Luật Công ty 
năm 1990, trong các Điều khoản 32, 35, 36 quy định những điều kiện cơ bản cho 
một công ty phát hành cổ phiếu lần đầu, phát hành bổ sung, phát hành trái phiếu, 
nhưng rất tiếc cho đến nay chưa có các văn bản hướng dẫn thi hành chi tiết hoá, cụ 
thể hoá cho việc phát hành chứng khoán. Một trong các điều kiện quan trọng là 
công bố công khai những nội dung đảm bảo cho các nhà đầu tư hiểu rõ, hiểu đúng 
mục đích và triển vọng của công ty, nhưng việc công khai thông tin trên các 
phương tiện thông tin đại chúng lại chưa là thường xuyên, còn chế độ kiểm toán 
tính chính xác của số liệu thì chưa được quy định trong luật công ty, pháp lệnh kế 
toán. Do đó, để bảo vệ các nhà đầu tư, các điểm tồn tại trên cần phải được bổ sung 
vào các luật cho hoàn chỉnh. Tất nhiên ở đây việc kiểm tra các bản cáo bạch nhằm 
ngăn ngừa và chế tài các hành vi không lương thiện của các công ty phát hành, còn 
việc phán đoán và đánh giá các loại chứng khoán đó vẫn thuộc về các nhà đầu tư. 
Trên thực tế Nhà nước đã quản lý các Công ty phát hành chứng khoán bằng 
các biện pháp và công cụ sau: 
1. Quá trình quản lý của Nhà nước đối với CTPHCK 
 20
1.1. Lập kế hoạch quản lý 
Lập kế hoạch là chức năng khởi đầu và trọng yếu đối với nhà quản lý, nó 
không phải là một sự kiện đơn thuần có bắt đầu và kết thúc rõ ràng. Lập kế hoạch 
là quá trình tiếp diễn phản ánh và thích ứng được với những biến động diễn ra 
trong môi trường của mỗi tổ chức. Trên ý nghĩa này lập kế hoạch được coi là quá 
trình thích ứng với sự không chắc chắn bằng việc xác định các phương án hiành 
động để đạt được mục tiêu cụ thể của tổ chức. Trong quá trình hoạt động của một 
tổ chức những yếu tố không chắc chắn có nguồn gốc rất đa dạng. 
Tóm lại, lập kế hoạch là quá trình xác định mục tiêu và lựa chọn các phương 
thức để đạt được mục tiêu đó. Nếu không có các kế hoạch nhà quản lý có thể 
không biết tổ chức và khai thác con người và các nguồn lực khác của tổ chức một 
cách hiệu quả, thậm chí không có được một ý tưởng rõ ràng về cái họ cần tổ chức 
và khai thác. Không có kế hoạch nhà quản lý và các nhân viên của họ có rất ít cơ 
hội để đạt được mục tiêu của mình, không biết khi nào và ở đâu phải làm gì. Lúc 
này việc kiểm tra sẽ trở nên rất phức tạp, ngoài ra trong thực tế, những kế hoạch tồi 
cũng thường làm ảnh hưởng xấu đến tương lai của toàn bộ tổ chức. Lập kế hoạch 
quả thật rất quan trọng. 
Lập kế hoạch gồm có lập kế hoạch chiến lược và lập kế hoạch tác nghiệp. 
Việc lập kế hoạch theo loại nào còn tuỳ thuộc vào yêu cầu mục đích cần lập. 
1.2. Phương thức tổ chức hoạt động phát hành 
Thứ nhất, tổ chức là một hệ thống gồm nhiều người cùng hoạt động vì mục 
đích chung. 
Thứ hai, tổ chức là quá trình triển khai các kế hoạch như tổ chức thi hành 
chính sách hay tổ chức triển khai dự án. Khi đó tổ chức bao gồm cả ba chức năng 
của quá trình quản lý: xây dựng những hình thức cơ cấu làm khuôn khổ cho việc 
triển khai kế hoạch, chỉ đạo thực hiện kế hoạch và kiểm tra đối với kế hoạch. 
 21
Thứ ba, tổ chức là một chức năng của quá trình quản lý bao gồm việc phân 
bổ sắp xếp nguồn lực con người gắn liền với con người là những nguồn lực khác 
nhằm thực hiện thành công công tác kế hoạch của tổ chức. 
Chức năng tổ chức là hoạt động quản lý nhằm thiết lập một hệ thống các vị 
trí cho mỗi cá nhân và bộ phận đó có thể phối hợp với nhau một cách tốt nhất để 
thực hiện mục tiêu chiến lược của tổ chức; sau đó là xác định và phân loại các hoạt 
động cần thiết để thực hiện mục tiêu; phân chia tổ chức thành các bộ phận để thực 
hiện các hoạt động; xác định vị trí của từng bộ phận và cá nhân trong đó bao gồm 
cả vấn đề phân cấp; đảm bảo các nguồn lực cho hoạt động của tổ chức. 
Với chức năng tạo khuôn khổ cơ cấu và nhân lực quản lý cho quá trình triển 
khai các kế hoạch, công tác tổ chức có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, quyết định 
phần lớn sự thành bại của tổ chức. Một tổ chức làm công tác tổ chức tốt sẽ hoạt 
động có hiệu quả trong mọi tình huống phức tạp. 
1.3. Chức năng lãnh đạo nhà nước 
Để tiến hành hoạt động quản lý, chủ thể quản lý phải thực hiện đồng bộ rất 
nhiều chức năng: lập kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo và kiểm tra; trong đó lãnh đạo 
chiếm một vị trí khá quan trọng. 
 Lãnh đạo là việc ra quyết định chủ trương, đường lối, mục đích, tính chất, 
nguyên tắc hoạt động của một hệ thống trong các điều kiện môi trường nhất định. 
Một tổ chức hay một đất nước có phát triển được hay không là nhờ vào tài trí của 
người lãnh đạo đã chỉ dẫn cách đi như thế nào, bởi người lãnh đạo thường là người 
đứng đầu một tập thể hoặc một tổ chức nào đó, là người luôn dẫn đường để tiến tới 
mục đích cuối cùng. Sự thành bại là do người lãnh đạo quyết định một phần. Do đó 
vai trò của người lãnh đạo trong cơ cấu tổ chức có ảnh hưởng rất lớn đến thành quả 
của tổ chức cũng như toàn bộ nên kinh tế quốc dân. 
1.4. Kiểm tra giám sát việc phát hành và sử dụng vốn 
 22
Kiểm tra là chức năng quan trọng của quản lý. Kiểm tra là công cụ quan 
trọng để nhà quản lý phát hiện ra những sai sót và có biện pháp điều chỉnh. Mặt 
khác thông qua kiểm tra các hoạt động sẽ được thực hiện tốt hơn và giảm bớt 
những sai sót có thể nảy sinh vì trong mọi hoạt động đều không tránh khỏi sai sót 
cho nên kiểm tra là bước cuối cùng để hạn chế tình trạng này. Trong thực tế điều 
đó đúng nhưng chưa đủ vì kiểm tra có tác động rất mạnh tới các hoạt động. Một 
công việc nếu không có kiểm tra sẽ chắc chắn nảy ra nhiều sai sót hơn nếu nó được 
theo dõi, giám sát thường xuyên. Điều đó khẳng định rằng kiểm tra không chỉ là 
khâu sau cùng của chu trình quản lý. Kiểm tra cũng không phải là hoạt động đan 
xen mà là một quá trình liên tục về thời gian và bao quát không gian. Nó là yếu tố 
thường trực của quản lý nhà nước ở mọi nơi, mọi lúc. 
Vậy kiểm tra là quá trình xem xét các hoạt động nhằm mục đích làm cho các 
hoạt động đạt kết quả tốt hơn, đồng thời, kiểm tra giúp phát hiện ra những sai sót, 
lệch lạc để có biện pháp khắc phục, bảo đảm cho hoạt động thực hiện đúng hướng. 
2. Công cụ dùng để quản lý các công ty phát hành 
2.1. Quản lý bằng chính sách của Nhà nước 
Chính sách là một trong các công cụ chủ yếu và quan trọng mà Nhà nước sử 
dụng để thực hiện chức năng quản lý kinh tế- xã hội của mình. Mỗi chính sách cụ 
thể là tập hợp các giải pháp nhất định để thực hiện các mục tiêu bộ phận trong quá 
trình hướng tới đạt mục tiêu chung của phát triển kinh tế quốc dân và phát triển xã 
hội. 
Trong hệ thống công cụ quản lý kinh tế quốc dân, chính sách là bộ phận 
năng động nhất, có độ nhảy cảm cao trước những biến động trong đời sống kinh tế 
xã hội của đất nước nhằm giải quyết những vấn đề bức xúc mà xã hội đặt ra. Thực 
tiễn nước ta và nhiều nước trên thế giới đều chứng tỏ: phần lớn những thành công 
trong công cuộc đổi mời và cải cách kinh tế đều bắt nguồn từ việc lựa chọn và áp 
 23
dụng những chính sách thích hợp, có hiệu suất cao để khai thác tối ưu các lợi thế 
so sánh của đất nước. 
Như vậy, một hệ thống chính sách đồng bộ, phù hợp với yêu cầu phát triển 
đất nước trong từng thời kỳ lịch sử nhất định sẽ là bảo đảm vững chắc cho sự vận 
hành bình thường, hưu hiệu của nền kinh tế thị trường. Nhờ đó mà có thể khơi dậy 
được các loại tiềm năng, sử dụng hợp lý và tiết kiệm các nguồn lực, phát huy tính 
tích cực sáng tạo và ý chí vươn lên làm cho dân giàu, nước mạnh của các tầng lớp 
dân cư. Ngược lại chỉ cần một chính sách sai lầm sẽ gây ra phản ứng tiêu cực dây 
chuyền đến các chính sách khác, cũng như đến các bộ phận khác của hệ thống 
công cụ quản lý nhà nước, làm suy yếu động lực phát triển kinh tế- xã hội. 
Công cuộc cải cách mở cửa đất nước đòi hỏi phải đổi mới và hoàn thiện hệ 
thống chính sách kinh tế xã hội, trong đó đặc biệt quan trọng là chính sách cho các 
công ty phát hành chứng khoán bởi đây là loại hình kinh doanh mới được phát 
triển ở Việt Nam và nó được nhiều nước trên thế giới chu ý đến vì nó có ảnh 
hưởng lớn đến nền kinh tế của mỗi nước mạnh hay yếu, là nơi thu hút vốn đầu tư 
nhanh nhất. 
2.2. Quản lý bằng pháp luật 
Trong xã hội nhà nước pháp quyền, các quan hệ xã hội chủ yếu được điều 
chỉnh bằng các quy phạm pháp luật. Pháp luật trở thành công cụ tối quan trọng của 
nhà nước để điều chỉnh các quan hệ xã hội và quản lý sự vận hành của toàn bộ nền 
kinh tế xã hội theo mục tiêu đã định. 
Để thể chế hoá đường lối, chủ trương của Đảng và hình thành đồng bộ khuôn 
khổ pháp lý cần thiết cho nền kinh tế hoạt động theo cơ chế thị trường có sự điều 
tiết của nhà nước theo định hướng XHCN, Nhà nước cần phải ban hành các văn 
bản quy phạm pháp luật theo một trình tự pháp lý nhất định gồm có các văn bản 
luật và văn bản dưới luật. 
 24
 Để phát huy vai trò của công cụ pháp luật trong quản lý nhà nước, đi đôi với 
việc xây dựng và ban hành pháp luật, cần tăng cường công tác tổ chức thực thi 
pháp luật. Chú trọng phổ cập pháp luật cho toàn dân; phát triển các hình thức dịch 
vụ pháp lý; mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng đào tạo các luật gia, nhất là 
luật gia về kinh tế; kiện toàn bộ máy thực thi và kiểm tra việc thực thi pháp luật. 
3. Những bất cập trong cách quản lý của Nhà nước 
Sau 4 năm đi vào hoạt động thị trường chứng khoán Việt Nam đã có những 
thành quả rất đáng khích lệ, khung pháp lý cũng ngày được hoàn thiện để quản lý 
các công ty phát hành chứng khoán, thực tế so với một số nước như: 
* Thị trường chứng khoán Nhật Bản 
- Năm 1948, Nhật Bản đã ban hành Bộ Luật về chứng khoán. Bên cạnh đó, 
Nhật Bản cũng đã ban hành những luật khác, như luật Công ty chứng khoán nước 
ngoài; Luật đầu tư chứng khoán tín thác; Luật kế toán công cộng; Luật liên quan 
đến nghiệp vụ lưu ký và ghi sổ chứng chỉ cổ phiếu; Luật quản lý hoạt động tư vấn 
đầu tư chứng khoán. Trước đây việc quản lý chứng khoán và thị trường chứng 
khoán do Bộ tài chính đảm nhiệm. Từ thực tiễn cho thấy, TTCK Nhật Bản sẽ gặp 
nhiều khó khăn nếu không có một cơ quan quản lý độc lập, nhất là việc quản lý các 
Công ty phát hành chứng khoán. Vì vậy, năm 1992 đã thành lập Uỷ ban Giám sát 
chứng khoán (SESC) độc lập. 
 Hiện nay, Nhật Bản có 8 Sở Giao dịch Chứng khoán(SGDCK), trong đó có 
3 SGDCK giao dịch tất cả các loại chứng khoán, chiếm 98,1% tổng giá trị giao 
dịch trên toàn toàn. Các SGDCK Nhật là các tổ chức tự quản chịu sự chi phối bởi 
Luật Chứng khoán và giao dịch chứng khoán, tuy nhiên Nhật vẫn duy trì phương 
thức đấu giá công khai cổ truyền. 
* Thị trường chứng khoán Mỹ 
 - Bên cạnh hệ thống luật pháp chung, Mỹ đã ban hành Luật Chứng khoán 
(1933) và Luật Giao dịch chứng khoán (1934). Luật chứng khoán (1933) qui định 
 25
về phát hành, còn Luật Giao dịch chứng khoán (1934) điều chỉnh việc mua bán 
chứng khoán đã phát hành. Luật này quy định chế độ đăng ký, báo cáo cũng như 
các quy định chống đầu cơ, mua bán nội gián. Mỹ còn các Luật khác hỗ trợ cho 
việc quản lý TTCK như: Luật Công ty đầu tư, Luật bảo vệ nhà đầu tư chứng 
khoán, Luật tín thác… 
 Uỷ ban Chứng khoán (SEC) là cơ quan độc lập có quyền lực cao nhất trong 
việc quản lý TTCK Mỹ. Chức năng chính là ban hành các quy chế, quy định về 
TTCK, có quyền thanh tra, kiểm tra và truy tố các tổ chức kinh doanh chứng khoán 
vi phạm pháp luật; quản lý, cấp hoặc thu hồi giấy phép đối với các SGDCK, Công 
ty môi giới, Nhà giao dịch, Công ty đầu tư… 
 Mặc dù TTCK của các nước này ra đời sớm, có hệ thống luật pháp về 
TTCK được coi là khá hoàn chỉnh tạo nên môi trường pháp lý tốt cho hoạt động 
của TTCK, nhưng để quản lý tốt TTCK các nước này vẫn cần phải có cơ quan 
quản lý nhà nước về lĩnh vực này. 
- Hầu như các nước đều thực hiện hai cách phát hành chứng khoán để huy 
động vốn. Phát hành tư nhân là phát hành chứng khoán có tính chất riêng lẻ cho 
một số lượng hạn chế nhất định các cá nhân hoặc tổ chức đầu tư. Phát hành chứng 
khoán ra công chúng tức là phát hành rộng rãi chứng khoán cho tất cả các cá nhân, 
các tổ chức hoặc nhóm cá nhân hay nhóm tổ chức. Ranh giới giữa phát hành tư 
nhân và phát hành ra công chúng được phân biệt bằng các quy định giới hạn số 
lượng người mua. Thí dụ ở Hoa Kỳ phát hành chứng khoán ra công chúng là bán 
cho trên 200 tổ chức hoặc cá nhân (không tính đến các cá nhân là người lao động 
tại Công ty), còn ở Nhật Bản cũng bán 200, ở Ba Lan bán 300, Thái Lan và 
Indonexia bán 50. Nếu bán thấp hơn các mức ở trên thì gọi là phát hành tư nhân. 
 Việc phân biệt hai loại phát hành ở trên là nhằm mục đích bảo vệ người đầu 
tư, nếu phát hành rộng rãi ra công chúng thì phải tuân thủ các quy định chặt chẽ 
hơn và phải bảo đảm các điều kiện nhất định do Uỷ ban chứng khoán nhà nước 
 26
quy định nhằm hạn chế rủi ro cho công chúng là người mua chứng khoán. Đây là 
kinh nghiệm mà Việt Nam cần học hỏi. 
 Nhìn vào cách quản lý của một số nước trên Thế giới ta mới thấy được rằng 
các văn bản pháp quy của Việt Nam chưa thực sự mang tính thị trường, chưa theo 
kịp tốc độ phát triển, thay đổi của thị trường. Chưa tạo lập được hành lang pháp lý, 
tạo môi trường đầu tư lành mạnh, công bằng để thị trường chứng khoán hoạt động 
ổn định và tạo được sự yên tâm cho các tổ chức phát hành. Quy mô các công ty 
phát hành còn nhỏ, lượng cổ phiếu trái phiếu phát hành chưa đủ lớn để có thể mở 
rộng thị trường, các cơ quan quản lý chưa có giải pháp hữu hiệu để tạo cầu cho thị 
trường chứng khoán. 
 Vì vậy các cơ quan quản lý Nhà nước cần tiếp tục nghiên cứu và áp dụng về 
các chính sách quản lý phù hợp như thuế và mang tính khuyến khích trong thời 
gian đầu đối với các công ty phát hành. Sớm ban hành các văn bản hướng dẫn nghị 
định, hoàn thiện hệ thống giao dịch, nâng cao chất lượng, tạo lòng tin cho nhà đầu 
tư. Do đó cần phải có sự quản lý của Nhà nước ngày một tốt hơn. 
PHẦN 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ QUẢN LÝ 
PHÙ HỢP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 
I. PHƯƠNG HƯỚNG QUẢN LÝ THÚC ĐẨY PHÁT TRIỂN 
Việc lựa chọn và xây dựng mô hình tổ chức quản lý các Công ty phát hành 
chứng khoán có vai trò quan trọng đối với việc thiết lập và từng bước phát triển 
TTCK Việt Nam. Căn cứ vào thực trạng TTCK Việt Nam, trên cơ sở áp dụng mô 
hình tổ chức quản lý của những TTCK phát triển Ta nên áp dụng “mô hình hỗn 
hợp” bởi trong giai đoạn hiện nay, sự phát triển của TTCK sơ cấp ở Việt Nam hoàn 
toàn phụ thuộc vào quy mô phát hành cổ phiếu, trái phiếu và tiến hành cổ phần hoá 
DNNN. Đây là vấn đề chịu ảnh hưởng rất lớn từ Bộ tài chính, do đó dưới sự chỉ 
đạo tập trung, Thống nhất của Bộ tái chính là phù hợp với thực trạng, đặc thù của 
 27
cải cách kinh tế Việt Nam và phụ hợp với khuynh hướng phát triển TTCK ở khu 
vực Châu Á và các nước trên thế giới. Hơn thế nó còn khắp phục những bất cập 
trong lĩnh vực QLNN về TTCK và phát hành chứng khoán ở Việt Nam tạo điều 
kiện để huy động các nguồn vốn dưới hình thức chứng khoán, khai thác những tiền 
năng về cơ sở hạ tầng của hệ thống ngân hàng cho việc thực hiện các dịch vụ lưu 
ký, thanh toán đa phương trong quá trình phát hành và giao dịch chứng khoán. Tuy 
nhiên, việc lựa chọn mô hình cụ thể phải xuất phát từ những đặc thù của từng Quốc 
gia, từng khu vực cụ thể. Đồng thời từ việc phân tích trên đây cho phép khẳng định 
rằng: áp dụng “ mô hình hỗn hợp” về tổ chức quản lý TTCK cũng như quản lý 
Công ty phát hành chứng khoán nói riêng là phù hợp và mang có thể mang lại hiệu 
quả cao nhất đối với việc phát triển TTCK Việt Nam. 
Đẩy nhanh tiến độ thực hiện chiến lược phát triển thị trường chứng khoán 
đến năm 2010, đưa ra các mục tiêu và kế hoạch thực hiện cụ thể cho từng thời kỳ. 
Đặt ra các mốc thời gian hoàn thiện và ban hành các văn bản pháp luật về chứng 
khoán và thị trường chứng khoán. Đồng thời phải tiếp tục hoàn chỉnh khung pháp 
lý phối kết hợp đồng bộ. 
II. MỐT SỐ KIẾN NGHỊ 
Để phát triển TTCK cùng với việc thúc đẩy quá trình Cổ phần hoá và tăng 
cường việc phát hành cổ phiếu, trái phiếu Công ty đề nghị Chính phủ, Bộ tài chính, 
Uỷ ban chứng khoán nhà nước hỗ trợ về nguồn nhân lực, xây dựng cơ sở hạ tầng 
của thị trường vốn ở các Tỉnh, thành phố…v…v.., để giúp các địa phương phát 
hành chứng khoán huy động vốn. Bên cạnh đó ta cần chú trọng tới việc hoàn thiện 
bộ máy Quản lý các Công ty phát hành chứng khoán ở nước ta hiện nay. 
 + Về công tác quản lý và giám sát: Bên cạnh hệ thống luật pháp, cần phải có 
cơ quan quản lý công ty phát hành chứng khoán, mỗi nước đều có một cơ quan 
quản lý đảm bảo cho việc phát hành diễn ra thuận lợi. Thực tế cho thấy bất kỳ nền 
 28
kinh tế thị trường nào cũng cần có sự điều tiết của Nhà nước. Mức độ và phạm vi 
điều tiết tuỳ thuộc vào sự phát triển của thị trường và những yếu tố khác…do đó 
quản lý nhà nước là nhu cầu khách quan. Đây là bài học kinh nghiệm trong việc 
thành lập cơ quan quản lý Nhà nước về phát hành chứng khoán ở Việt Nam. 
 + Về tổ chức và quản lý hoạt động: Để TTCK Việt Nam ổn định và phát 
triển cần dựa vào hệ thống ngân hàng, vì hệ thống ngân hàng có một vai trò hết sức 
quan trọng thể hiện qua các vấn đề như: là cầu nối giữa nhà đầu tư và nhà phát 
hành chứng khoán; Ngân hàng rất thích hợp và nhậy cảm trong bảo lãnh phát hành 
chứng khoán, là nơi tin cậy nhất trong thanh toán bù trừ và lưu trữ chứng khoán và 
có một vai trò nhất định trong cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, góp phần phát 
triển TTCK. Tuỳ theo sự điều chỉnh của luật pháp, hệ thống ngân hàng sẽ gián tiếp 
hoặc trực tiếp tham gia kinh doanh chứng khoán. Kinh nghiệm một số nước cho 
thấy nhà nước cần có quy chế chặt chẽ đối với các ngân hàng tham gia vào TTCK 
và bảo lãnh phát hành chứng khoán mới có thể thúc đẩy thị trường phát hành 
chứng khoán phát triển và hoạt động có hiệu quả. 
 + Về quản lý và công khai hoá thông tin: Việc công khai hoá thông tin có 
tầm quan trọng đặc biệt nhằm thu hút vốn đầu tư hoặc kinh doanh chứng khoán, 
bao gồm việc thông báo định kỳ kết quả kinh doanh, lỗ lãi, các khoản nợ, tổng kết 
tài sản… của các công ty phát hành chứng khoán. Một vấn đề rất quan trọng là 
thông tin kinh tế, các thông tin cần phải đáp ứng ba yêu cầu: công khai, chính xác, 
kịp thời. Các cơ quan quản lý nhà nước phải có chiến lược về thông tin, có cơ sở 
vật chất và đội ngũ cán bộ thích hợp, xây dựng hệ thống thông tin phù hợp trên các 
phương tiện báo chí, bản tin điện tử, mạng thông tin thị trường trong và ngoài 
nước. Thành lập các tổ chức điều tra, thu thập thông tin, các công ty định mức tín 
nhiệm, định hướng đầu tư cho công chúng. Xây dựng hệ thống chỉ số và phân loại 
chứng khoán ngay từ đầu. Thống nhất việc in ấn giấy tờ cần thiết vào một đầu mối. 
 29
Sát nhập dịch vụ thông tin tư vấn và sản xuất tin học để giúp cho việc tinh chế 
thông tin và tư vấn có chất lượng. 
 + Về tổ chức và hoạt động của hệ thống kiểm toán: Kiểm toán là công việc 
cần thiết đối với phát hành chứng khoán, Công tác kiểm toán sẽ phản ánh trung 
thực tình trạng của các doanh nghiệp cũng như chứng khoán của họ phát hành ra 
thị trường. Các doanh nghiệp muốn phát hành chứng khoán và đưa vào giao dịch 
trên thị trường, phải công bố công khai các báo cáo tài chính, kết quả kinh doanh 
và các tài liệu khác có liên quan đến việc phát hành chứng khoán đã được kiểm 
toán và xác nhận của cơ quan kiểm toán. Căn cứ vào các báo cáo kiểm toán, Hội 
đồng xét duyệt quyết định chứng khoán của doanh nghiệp nào sẽ được đưa ra phát 
hành, giao dịch tại thị trường chứng khoán và đây la tài liệu chính thức để công bố 
công khai trên TTCK. 
- Để tạo điều kiện thuận lợi cho việc giao dịch cổ phiếu, trái phiếu của các 
Công ty chưa niêm yết chứng khoán và nhằm thúc đẩy sự phát triển thị trường vốn, 
đề nghị Chính phủ ban hành nghị định về việc lưu ký chứng khoán của những công 
ty có vốn điều lệ từ 10 tỷ đồng trở lên tại các Ngân hàng hoặc tại các Thị trường 
Giao dịch chứng khoán. Cùng với sự phối hợp hoạt động của hệ thống Ngân hàng 
và kho bạc Nhà nước trên TTCK theo mô hình như đã nêu trên; đề nghị khuyến 
khích thành lập các công ty tư vấn, công ty quản lý quỹ và Công ty niêm yết phát 
hành chứng khoán chung. 
 - Đối với trái phiếu, mặc dù đây là loại hình chứng khoán nợ, phản ánh các 
khoản vay nợ của tổ chức phát hành ( Chính phủ, Doanh nghiệp) đối với nhà đầu 
tư. Mặc dù việc nắm dữ trái phiếu không có khả năng chi phối ảnh hưởng đến 
chiến lược phát triển của tổ chức phát hành, nhưng trong trường hợp nhà đầu tư 
nắm giữ với số lượng quá lớn trái phiếu của một tổ chức phát hành đồng loạt bán ra 
( hoặc mua vào) thì sẽ làm ảnh hưởng đến giá cả trái phiếu và khả năng trả nợ của 
 30
tổ chức phát hành. Vì vậy, việc quy định nắm giữ trái phiếu đối với nhà đầu tư 
trong giai đoạn đầu TTCK mới đi vào vận hành là hết sức cần thiết. 
 - Nâng cấp hệ thống giao dịch thị trường chứng khoán phối hợp với các 
công ty phát hành chứng khoán để triển khai và thực hiện đồng bộ. Tạo điều kiện 
hỗ trợ việc thành lập, vận hành các tổ chức như tổ chức định mức tín nhiệm, quỹ 
đầu tư, số lượng cổ phiếu, trái phiếu được phát hành... 
 - Nghiên cứu và ứng dụng các công cụ quản lý tiên tiến đã áp dụng thành 
công trong khu vực đối với hoạt động thị trường chứng khoán như: tiêu chuẩn hoá 
các hoạt động cung cấp thông tin, niêm yết, giám sát và quản lý hoạt động của các 
thành viên... 
Tóm lại các hoạt động phát hành chứng khoán ra công chúng: phát hành, số 
lượng, mệnh giá, tình hình hoạt động của Công ty phải được niêm yết rõ ràng khi 
giao dịch, kinh doanh và các hoạt động có liên quan khác phải đảm bảo nguyên tắc 
công khai, công bằng và minh bạch, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu 
tư. 
 31
KẾT LUẬN 
Trên đây là những kiến thức sơ lược về các Công ty phát hành chứng khoán 
cùng với sự quản lý nhà nước đối với các công ty này tại Việt nam, giải pháp nhằm 
thúc đẩy thị trường chứng khoán Việt nam đứng từ góc độ của một nhà quản lý. 
Việc hoàn thiện mô hình quản lý của Nhà nước giúp cho các Công ty phát hành 
chứng khoán cũng như Thị trường chứng khoán ở Việt Nam tiến lên một bước phát 
triển mới là hết sức cần thiết để thực hiện các mục tiêu đã đề ra cho sự nghiệp công 
nghiệp hoá - hiện đại hoá ở Việt Nam. Tuy nhiên, việc tiến hành vẫn còn gặp rất 
nhiều khó khăn, đăc biệt là môi trường để phát triển và hoàn thiện hành lang pháp 
lý về quản lý ở Việt nam. Chính vì thế Đảng và Nhà nước cần có những giải pháp 
hỗ trợ tích cực trong điều kiện và khuôn khổ cho phép cũng như sự góp sức của tất 
cả các ngành, các cấp chức năng cùng đưa nền kinh tế Nước nhà ngày một phát 
triển hơn. 
Các chính sách, giải pháp cần phải được thực hiện một cách đồng bộ và linh 
hoạt. Song điều quan trọng hơn cả là chúng ta cần phải lựa chọn được một mô hình 
quản lý phát hành chứng khoán thích hợp với Việt Nam trong hoàn cảnh hiện nay. 
* 
* * 
 32
Tài liệu tham khảo 
1. Chứng khoán và thị trường chứng khoán - Uỷ ban chứng khoán nhà nước 
2. Những kiến thức cơ bản về chứng khoán và thị trường chứng khoán - Uỷ ban 
chứng khoán nhà nước 
3. Tạp chí Chứng khoán Việt Nam, Số 6- Tháng 6 Năm 2004, Trang 12-15 
4. Tạp chí Chứng khoán Việt Nam, Số 5- Tháng 5 Năm 2004, Trang 12-14 
5. Tạp chí Chứng khoán Việt Nam, Số 1- Tháng 1 Năm 2000, Trang 30-32 
6. Tạp chí Chứng khoán Việt Nam, Số 11- Tháng 11 Năm 2002, Trang 16-18 
7. Tạp chí Chứng khoán Việt Nam, Số 7- Tháng 7 Năm 2004, Trang 12-14 
8. Giáo trình quản lý nhà nước về kinh tế, NXB Khoa học và kỹ thuật, 
 Tác giả: TS. Mai Văn Bưu - TS. Phan Kim Chiến, Trang 164-214 
9. Giáo trình Khoa học quản lý – Tập I + II , NXB Khoa học và kỹ thuật, 
 Tác giả: TS. Đoàn Thị Thu Hà - TS. Nguyễn Thị Ngọc Huyền 
8. Giáo trình Quản lý học kinh tế quốc dân – Tập I + II, NXB Khoa học và kỹ thuật 
 Tác giả: GS. TS. Đỗ Hoàng Toàn - TS. Mai Văn Bưu 
9. Hiểu và sử dụng thị trường chứng khoán, NXB Thống kê, 
 Tác giả: PGS. PTS Lê Văn Tư , Trang 323- 515 
10. Trang web: www.vcb.com.vn 
11. Trang web: www.Stockmarket.com.vn 
 33
MỤC LỤC 
LỜI MỞ ĐẦU ........................................................................................................................... 1 
NỘI DUNG ............................................................................................................................... 2 
PHẦN 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI CÁC CÔNG TY PHÁT 
HÀNH CHỨNG KHOÁN ........................................................................................................ 2 
I. Thị trường chứng khoán và các công ty phát hành chứng khoán ..................2 
1. Chứng khoán và thị trường chứng khoán ............................................................2 
1.1. Chứng khoán ....................................................................................................2 
1.1.1. Khái niệm......................................................................................................2 
1.1.2. Các loại chứng khoán ....................................................................................2 
1.2. Thị trường chứng khoán ...................................................................................4 
1.2.1. Khái niệm......................................................................................................4 
1.2.2. Cơ cấu ...........................................................................................................4 
1.2.3. Các chủ thể tham gia thị trường chứng khoán ...............................................5 
2. Các công ty phát hành chứng khoán ....................................................................7 
2.1. Điều kiện phát hành .........................................................................................7 
2.2. Hình thức phát hành .........................................................................................9 
2.3. Chức năng công ty phát hành ......................................................................... 10 
2.4. Vai trò của công ty phát hành ......................................................................... 11 
II. Quản lý nhà nước đối với các công ty phát hành chứng khoán .................. 12 
1. Khái niệm quản lý nhà nước ............................................................................. 12 
2. Các chức năng chủ yếu của quản lý Nhà nước đối với các Công ty phát hành... 13 
2.1. Khuyến khích tạo điều kiện cho các CTPHCK phát triển ............................... 13 
2.2. Định hướng phát triển thị trường chứng khoán ............................................... 14 
2.3. Tạo khuôn khổ pháp luật cho các Công ty phát hành...................................... 14 
2.4. Điều chỉnh sai lệch trong chính sách quản lý của nhà nước ............................ 15 
 34
PHẦN 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI CÁC CÔNG TY PHÁT 
HÀNH CHỨNG KHOÁN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.......................................................... 16 
I. Tình hình thực trạng các công ty phát hành hiện nay ................................... 16 
1. Những thuận lợi ................................................................................................ 16 
2. Những khó khăn ............................................................................................... 17 
II. Thực trạng sự quản lý nhà nước đối với các công ty phát hành ................. 18 
1. Quá trình quản lý của Nhà nước đối với CTPHCK .......................................... 19 
1.1. Lập kế hoạch quản lý .................................................................................... 19 
1.2. Phương thức tổ chức hoạt động phát hành ...................................................... 20 
1.3. Chức năng lãnh đạo nhà nước ........................................................................ 20 
1.4. Kiểm tra giám sát việc phát hành và sử dụng vốn........................................... 21 
2. Công cụ dùng để quản lý các công ty phát hành ................................................ 21 
2.1. Quản lý bằng chính sách của Nhà nước .......................................................... 21 
2.2. Quản lý bằng pháp luật .................................................................................. 22 
3. Những bất cập trong cách quản lý của Nhà nước .............................................. 23 
PHẦN 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ QUẢN LÝ PHÙ HỢP Ở VIỆT 
NAM HIỆN NAY ................................................................................................................... 25 
I. Phương hướng quản lý thúc đẩy phát triển ................................................... 25 
II. Một số kiến nghị ............................................................................................. 26 
KẾT LUẬN ............................................................................................................................. 30 
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................................... 31 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
Luận văn- Quản lý của Nhà nước đối với các Công ty phát hành Chứng khoán ở Việt Nam.pdf