Đánh giá vai trò lâm nghiệp cộng đồng tại xã Bình Long, huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên

Tài liệu Đánh giá vai trò lâm nghiệp cộng đồng tại xã Bình Long, huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên: Nguyễn Thị Đông và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 188(12/1): 89 - 95 89 ĐÁNH GIÁ VAI TRÒ LÂM NGHIỆP CỘNG ĐỒNG TẠI XÃ BÌNH LONG, HUYỆN VÕ NHAI, TỈNH THÁI NGUYÊN Nguyễn Thị Đông1*, Nguyễn Thị Phương Mai1, Trần Thị Lệ Hằng2 1Trường Đại học Khoa học – ĐH Thái Nguyên, 2Viện Năng lượng – Bộ Công thương TÓM TẮT Bình Long là một xã đặc biệt khó khăn của huyện Võ Nhai tỉnh Thái Nguyên, kinh tế chủ yếu dựa vào hoạt động nông lâm nghiệp, thu nhập bình quân đầu người đạt 11 triệu đồng/năm. Trong những năm gần đây, người dân đã phát huy thế mạnh của vùng, phát triển kinh tế theo hướng nông lâm nghiệp. Người dân Bình Long đã tham gia các hoạt động lâm nghiệp cộng đồng góp phần đem lại những lợi ích nhất định về phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường. Nâng diện tích che phủ rừng lên khoảng 1.099 ha từ năm 2011 đến 2017, giảm diện tích núi đá không rừng, tăng mức đa dạng sinh học, cải thiện kinh tế nông hộ và góp phần xóa đói giảm nghèo. Từ khóa: Quản lý rừng cộ...

pdf7 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 149 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá vai trò lâm nghiệp cộng đồng tại xã Bình Long, huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nguyễn Thị Đông và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 188(12/1): 89 - 95 89 ĐÁNH GIÁ VAI TRÒ LÂM NGHIỆP CỘNG ĐỒNG TẠI XÃ BÌNH LONG, HUYỆN VÕ NHAI, TỈNH THÁI NGUYÊN Nguyễn Thị Đông1*, Nguyễn Thị Phương Mai1, Trần Thị Lệ Hằng2 1Trường Đại học Khoa học – ĐH Thái Nguyên, 2Viện Năng lượng – Bộ Công thương TÓM TẮT Bình Long là một xã đặc biệt khó khăn của huyện Võ Nhai tỉnh Thái Nguyên, kinh tế chủ yếu dựa vào hoạt động nông lâm nghiệp, thu nhập bình quân đầu người đạt 11 triệu đồng/năm. Trong những năm gần đây, người dân đã phát huy thế mạnh của vùng, phát triển kinh tế theo hướng nông lâm nghiệp. Người dân Bình Long đã tham gia các hoạt động lâm nghiệp cộng đồng góp phần đem lại những lợi ích nhất định về phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường. Nâng diện tích che phủ rừng lên khoảng 1.099 ha từ năm 2011 đến 2017, giảm diện tích núi đá không rừng, tăng mức đa dạng sinh học, cải thiện kinh tế nông hộ và góp phần xóa đói giảm nghèo. Từ khóa: Quản lý rừng cộng đồng, lâm nghiệp cộng đồng, quản lý rừng bền vững, xã Bình Long ĐẶT VẤN ĐỀ* Theo Tổ chức Nông Lương thế giới (FAO) lâm nghiệp cộng đồng (LNCĐ) được hiểu là các hoạt động gắn người dân với rừng, các sản phẩm của rừng và việc phân chia lợi ích từ các sản phẩm này [1]. Ở Việt Nam, xét về khía cạnh quyền sở hữu rừng, LNCĐ được hiểu là: Quản lý rừng của cộng đồng và quản lý rừng dựa vào cộng đồng [1]. Hiện nay, LNCĐ được phát triển với khá nhiều hình thức như: Cộng đồng quản lý theo truyền thống; nhóm hộ gia đình; cộng đồng quản lý; nhóm hộ tự liên kết quản lý [4] nguồn gốc có thể do thôn bản tự tuyên bố hoặc là do nhận giao khoán từ chính quyền địa phương hoặc từ các chủ quản lý. Bình Long là 1 xã nghèo thuộc phía Đông Nam huyện Võ Nhai, bình quân thu nhập theo đầu người 11 triệu/năm. Hơn 50% dân số là người dân tộc thiểu số, trình độ học vấn thấp. Tính đến năm 2017, xã Bình Long có diện tích đất lâm nghiệp là 1703,87 ha chiếm 61,35% diện tích đất tự nhiên, phần lớn là rừng tự nhiên trên núi đá. Nền kinh tế chủ yếu dựa vào các hoạt động nông lâm nghiệp, đặc biệt trong những năm gần đây, người dân đã tích cực tham gia lâm nghiệp cộng đồng. Tuy nhiên, hiện vẫn chưa có đánh giá cụ thể về hiệu quả của LNCĐ tới sự phát triển kinh tế, * Tel: 0987 264907, Email: dongnt@tnus.edu.vn xã hội, lâm sinh và môi trường tại xã Bình Long, xuất phát từ thực tế đó nhóm tác giả đã thực hiện đề tài “Đánh giá vai trò của lâm nghiệp cộng đồng tại xã Bình Long, huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên” ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động lâm nghiệp cộng đồng tại xã Bình Long, huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp phỏng vấn: Phỏng vấn cán bộ xã và người dân xã Bình Long, các câu hỏi tập trung chủ yếu vào các hoạt động LNCĐ lợi ích và khó khăn khi thực hiện LNCĐ, hoạt động tuần tra, bảo vệ rừng - Phương pháp đánh giá nhanh: Dựa trên các tiêu chí đánh giá về kinh tế, xã hội, lâm sinh và môi trường, với mỗi tiêu chí lựa chọn chỉ tiêu cụ thể. Khía cạnh kinh tế lựa chọn các chỉ tiêu về diện tích rừng được giao, hiện trạng rừng, tác động của LNCĐ đến thu nhập của các hộ Chỉ tiêu về môi trường lựa chọn các chỉ thị: Độ che phủ của rừng cộng đồng, tác động tới nguồn nước, ảnh hưởng đến ĐDSH, Các chỉ tiêu về xã hội: Tỷ lệ người tham gia quản lý rừng cộng đồng, công tác tập huấn, canh tác nông lâm nghiệp, số người vi phạm rừng và hương ước Nguyễn Thị Đông và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 188(12/1): 89 - 95 90 - Phương pháp xử lý số liệu: Sử dụng Excel để tổng hợp số liệu điều tra. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Phương thức quản lý rừng tại xã Bình Long Xã Bình Long có hai hình thức quản lý rừng chủ yếu: Quản lý của chính quyền địa phương: Hiện tại chính quyền xã đang quản lý 1703,87 ha đất lâm nghiệp [5]. Chính quyền xã được coi như cơ quan quản lý chung nhất có trách nhiệm phê duyệt, giám sát các hoạt động quản lý, chăm sóc và bảo vệ rừng tự nhiên của các hợp tác xã (HTX) cũng như cộng đồng dân cư. Đồng thời, hỗ trợ về mặt pháp luật, phổ biến chính sách hỗ trợ của Nhà nước về quản lý và bảo vệ rừng tới người dân. Tạo mọi điều kiện thuận lợi cho phát triển lâm nghiệp cộng đồng tại địa phương Quản lý rừng theo thôn xóm: Mô hình quản lý rừng theo thôn xóm được hình thành từ lâu đời tuy nhiên từ năm 1960 do chính sách tập thể hóa, đất đai được quản lý tập trung và có kiểm soát, nên rừng tại xã Bình Long do UBND xã quản lý. Cộng đồng địa phương không có quyền ra quyết định về tài nguyên rừng và không có trách nhiệm bảo vệ rừng dẫn đến nạn phá rừng nhanh chóng. Từ tháng 7/2011“Mô hình xây dựng năng lực cho cộng đồng dân tộc thiểu số sẵn sàng tham gia chương trình giảm phát thải khí nhà kính từ mất rừng và suy thoái rừng” được chính thức triển khai tại xã Bình Long dưới sự hỗ trợ của tổ chức CERDA (Centre of Research and Development in Upland Area) nhằm mục đích chủ yếu là nâng cao năng lực quản lý của cộng đồng dân cư trong bảo vệ và phát triển rừng. Dự án đã hỗ trợ công tác giao đất giao rừng, thành lập hợp tác xã (HTX) và các tổ tự quản để tăng cường phát triển sinh kế và bảo vệ rừng. Khác với HTX giai đoạn trước đây, HTX kiểu mới hoạt động dựa theo hướng cộng đồng dân cư là chủ thể bảo vệ rừng được giao, cùng với đó hình thức quản lý rừng theo xóm đang được thực hiện. Tổng diện tích giao cho các xóm là 1099,1 ha. HTX được xây dựng từ các tổ tự quản là các hộ dân trong cùng xóm tập hợp thành các hộ tự quản, có trách nhiệm tham gia bảo vệ và quản lý rừng, đồng thời khi tham gia HTX các hộ này có tư cách pháp nhân, để tham gia vào cơ chế thị trường thông qua các hợp đồng mua bán vật tư nông nghiệp và tiêu thụ sản phẩm, góp phần nâng cao sinh kế giảm áp lực lên tài nguyên rừng. Cơ cấu tổ chức hoạt động của HTX được trình bày tại hình 1. Hợp tác xã hoạt động trên tinh thần dân chủ công bằng và đồng thuận. Hình 1. Cơ cấu tổ chức của các hợp tác xã tại xã Bình Long [2] Vai trò của Lâm nghiệp cộng đồng tại xã Bình Long Vai trò LNCĐ đối với phát triển kinh tế Theo thống kê của HTX Hòa Bình tính đến năm 2017 rừng tự nhiên trên núi đá tại xã Bình Long có tổng diện tích giao cho các xóm là 1099,1 ha. Hoạt động giao đất, giao rừng tại xã Bình Long được tiến hành khá tốt, 100% diện tích rừng được giao tại tất cả các xóm với 100% các hộ gia Tổ tự quản Tổ tự quản Tổ tự quản HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ Ban Giám đốc Ban Kiểm soát Tổ chức điều phối việc bảo vệ rừng Tổ dịch vụ Tổ tham vấn cộng đồng Tổ kỹ thuật Tổ xử lý vi phạm rừng Tổ quản lý Vốn quay vòng Tổ tài chính Nguyễn Thị Đông và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 188(12/1): 89 - 95 91 đình tham gia. Rừng được giao sẽ tập trung quản lý theo xóm, không chia riêng rẽ từng hộ gia đình. Ưu tiên các xóm có đông dân cư, ở gần rừng, thuận tiện cho các hoạt động quản lý, bảo vệ rừng, với chính sách giao rừng như vậy đã nhận được sự hưởng ứng của người dân. Thống kê diện tích rừng tự nhiên núi đá giao cho mỗi xóm được thể hiện cụ thể tại hình 2. Hình 2. Thống kê diện tích rừng tự nhiên trên núi đá giao cho các xóm tại xã Bình Long [3] Theo số liệu tại hình 2, diện tích giao khoán rừng tại xóm Long Thành là lớn nhất 127,6 ha với 97 hộ gia đình cùng tham gia bảo vệ; xóm Bứa có diện tích rừng được giao thấp nhất 4,9 ha với 10 hộ gia đình quản lý. Đồng Bản và Đèo Ngà là hai xóm có số hộ gia đình tham gia bảo vệ rừng nhiều nhất: Xóm Đồng Bản 117 hộ quản lý 79,5 ha rừng và xóm Đèo Ngà 107 hộ quản lý 70,6 ha rừng. Tuy nhiên điều này không ảnh hưởng đến chất lượng bảo vệ rừng vì tất các hộ gia đình tham gia hợp tác xã đều có trách nhiệm và vai trò như nhau trong việc chăm sóc, bảo vệ và quản lý rừng. Hiện trạng rừng giao cho cộng đồng Trạng thái rừng khi giao chủ yếu là rừng nghèo và núi đá chưa thành rừng do đã khai thác kiệt quệ và đất nương rẫy trên địa bàn cư trú. Phần lớn là những quần tụ non, thành phần loài không đa dạng, không đồng đều tuổi, kết cấu tầng tán không rõ ràng. Những cây gỗ quý như: Nghiến (Burretiodendron hsienmu), Trai lý (Garcinia Fragraeoides), Đinh hương (Dysoxylum cauliflorum) vẫn còn song chủ yếu là cây tái sinh. Sau khi giao cho cộng đồng và hộ gia đình bảo vệ thì rừng thực sự có chủ, được chăm sóc, giảm thiểu đáng kể tình trạng khai thác, chặt phá rừng trái phép. Cùng với đó là trách nhiệm bảo vệ rừng của người dân được nâng lên rõ rệt. Nhiều diện tích núi đá không rừng được phủ xanh, rừng nghèo tăng trưởng đạt trạng thái rừng trung bình. Rừng tự nhiên được chăm sóc và bảo vệ nghiêm ngặt nên đã dần phục hồi, nhiều loại cây quý hiếm được tái sinh. Lâm nghiệp cộng đồng tác động đến thu nhập của người dân Theo số liệu UBND xã Bình Long, tỷ lệ hộ nghèo và cận nghèo lên tới 80,44%; trong đó hộ nghèo chiếm 53,04% và hộ cận nghèo chiếm 27,4%. Thu nhập bình quân đầu người 833.000 đ/người/tháng. Như vậy, mức sống của người dân trong xã còn tương đối thấp. Đối với các dự án LNCĐ tại Việt Nam, cộng đồng thường tập trung vào việc trồng rừng, bảo vệ rừng, thu nguồn lợi từ việc khai thác gỗ và lâm sản ngoài gỗ. Tuy nhiên, LNCĐ tại xã Bình Long chủ yếu tập trung vào việc khoanh nuôi bảo vệ rừng, giảm phát thải do phá rừng và suy thoái rừng, tăng cường trữ lượng và bán tín chỉ carbon, hướng tới mục tiêu phát triển bền vững. Qua 5 năm (2012 – 2017) tham gia dự án REDD+ với việc triển khai các hoạt động quản lý, chăm sóc và bảo Nguyễn Thị Đông và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 188(12/1): 89 - 95 92 vệ rừng thì hiện tại xã Bình Long đã có tối thiểu 1.099 ha rừng tự nhiên núi đá đủ điều kiện để được tiến hành chi trả dịch vụ môi trường rừng theo tiến trình chi trả vào năm 2017. Sau khi dự án kết thúc, chính quyền địa phương đã cam kết sẽ trích nguồn kinh phí từ Quỹ Bảo vệ và phát triển rừng của tỉnh để hỗ trợ kinh phí cho người dân tham gia bảo vệ và phát triển rừng núi đá tại xã Bình Long. Điều này đã tạo tâm lý ổn định cho người dân tích cực tham gia hoạt động chăm sóc và bảo vệ rừng. Cộng đồng khi bắt đầu nhận rừng sẽ tiến hành đo đếm để xác định trữ lượng rừng ban đầu. Hàng năm, tiến hành đo đếm cây rừng, xác định mức tăng sinh khối và khả năng hấp thụ CO2 của cây rừng. Từ đó, dự đoán lượng giá khả năng hấp thụ CO2 hay chính là tín chỉ carbon và các tín chỉ này sẽ được mua bán trên thị trường carbon. Căn cứ vào mức giá do Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và Môi trường (Bộ Khoa học và Công nghệ) cung cấp để tính quy đổi giá trị tín chỉ carbon thành tiền cho 1 ha rừng với tỷ giá bán 5 USD/tấn CO2 tại thị trường. Nếu chia đều cho tất cả các hộ (1.449 hộ) tham gia vào hoạt động LNCĐ của HTX, trung bình mỗi hộ được chi trả 1.054.700 VNĐ/ năm. Hiện nay, dự án tiến hành chi trả theo diện tích rừng được giao quản lý, tính đến năm 2017 có 20 xóm trữ lượng rừng đạt tiêu chuẩn được chi trả, số tiền mỗi hộ được nhận trình bày tại hình 3. Số tiền mỗi hộ được nhận có sự chênh lệch khá lớn hộ thấp nhất là 548.133 đồng, hộ nhiều nhất được nhận 2.010.000 đồng/ năm tùy thuộc vào diện thích tham gia bảo vệ; trung bình được nhận 1.054.700 VNĐ/năm/hộ mức thu nhập này tương đương với giá trị kinh tế từ các hộ gia đình tham gia dự án 661 trồng mới 5 triệu ha rừng là 1.000.000 đồng/ha [4], thì giá trị kinh tế từ LNCĐ tại xã Bình Long chưa thực sự nổi bật nhưng đã góp phần thu hút được sự tham gia của người dân trong công tác bảo vệ rừng, góp phần cải thiện cuộc sống của người dân ở đây. Bảng 1. Giá trị kinh tế do hấp thụ CO2 mang lại tại rừng tự nhiên núi đá xã Bình Long STT Hạng mục Đơn vị Lượng 1 Lượng CO2 thời điểm bắt đầu dự án* tấn/ha 160,82 2 Lượng CO2 thời điểm hiện tại ** tấn/ha 207,87 3 Lượng CO2 tăng trưởng tấn/ha 47,05 4 Đơn giá USD/ha 5 5 Thành tiền USD/ha 235,24 6 Tổng giá trị trong 1099 ha nghìn đồng 6.023.720 (Nguồn: Số liệu tính toán của tổ kỹ thuật HTX Bình Long 2012*, 2017**) Hình 3. Số tiền được chi trả theo diện tích bảo vệ của mỗi hộ trong năm (triệu đồng) Nguyễn Thị Đông và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 188(12/1): 89 - 95 93 Vai trò LNCĐ đối với lâm sinh và bảo vệ môi trường Nâng cao chất lượng rừng Với mục tiêu bảo vệ tốt diện tích rừng vốn có, tạo điều kiện cho rừng phục hồi và phát triển, chất lượng rừng tại xã Bình Long đã có chuyển biến tích cực. Điều này được thể hiện qua biến động diện tích các loại rừng của xã. Diện tích rừng trồng tăng từ 241,3 ha năm 2010 đến nay là 756,4 ha và rừng tự nhiên núi đá tăng từ 764,3 ha năm 2010 đến nay là 1099,1 ha, trong đó rừng trồng tăng 515,06 ha; rừng tự nhiên núi đá tăng 334,8 ha đồng thời với đó diện tích núi đá không rừng giảm 334,8 ha. Diện tích rừng trồng tăng lên là do các hộ gia đình chuyển đổi mục đích sử dụng đất từ đất nông nghiệp sang đất lâm nghiệp. Diện tích rừng tự nhiên trên núi đá tăng là kết quả của việc thực hiện tốt công tác khoanh nuôi, quản lý và bảo vệ rừng của dân cư địa phương. Có thể thấy rằng, người dân đã quan tâm đến công tác trồng và bảo vệ rừng. Tăng tính đa dạng sinh học Trước đây, việc quản lý rừng còn lỏng lẻo, nhận thức về quản lý và bảo vệ rừng của người dân chưa cao, tình trạng người dân vào rừng khai thác gỗ trái phép diễn ra khá phổ biến, dẫn đến rừng bị tàn phá nghiêm trọng. Rừng núi đá của xã Bình Long có nhiều loại gỗ quý như Nghiến (Burretiodendron hsienmu), Trai lý (Garcinia Fragraeoides),... không tránh khỏi tình trạng bị khai thác kiệt quệ, độ che phủ của rừng suy giảm nghiêm trọng, nhiều khu vực bị trơ núi đá và cây bụi. Tuy nhiên, theo người dân tại xã Bình Long trong khoảng 5 năm trở lại đây, rừng đã có sự phục hồi do cộng đồng dân cư đã tích cực tham gia chăm sóc, quản lý và bảo vệ rừng, từ đó người dân cũng ý thức hơn tầm quan trọng của lâm nghiệp đối với cuộc sống và môi trường sinh thái. Nhiều loài sinh vật rừng được tái sinh, phát triển nhanh và ổn định. Ngoài ra, việc rừng phát triển tốt đã du nhập một số loài động vật, thực vật phát triển cùng với các loài bản địa, làm tăng ý nghĩa đa dạng sinh học của rừng. Đặc biệt, nhiều loài quý hiếm đã lâm vào tình trạng sắp tuyệt chủng được phục hồi như Nghiến, Táu, Trai lý, các loài Sóc, Gà rừng, Bạc má... tần suất bắt gặp ngày càng nhiều. Theo số liệu điều tra đa dạng sinh học tại rừng núi đá Bình Long nhóm cây gỗ có 113 loài, lâm sản ngoài gỗ 109 loài, côn trùng 36 loài, động vật 21 loài, bò sát 17 loài, chim 58 loài [2]. Tác động của LNCĐ tới môi trường nước Theo phản ánh của người dân xã Bình Long thời gian từ năm 2000- 2010, rừng tự nhiên bị khai thác kiệt, nhiều diện tích rừng bị trơ nền đá gây ra những ảnh hưởng tiêu cực tới lượng nước tại địa phương. Tình trạng thiếu nước xẩy ra thường xuyên, suy giảm mực nước ngầm dẫn đến cạn kiệt nước giếng, tại những khe suối cũng thường xuyên cạn nước đặc biệt vào mùa khô. Tuy nhiên, khi LNCĐ được thực hiện và rừng được phục hồi thì chất lượng nước tại địa phương cũng được cải thiện. Theo kết quả điều tra tại các hộ gia đình, 86,2% các hộ được hỏi cho rằng nguồn nước hiện tại đủ cung cấp cho sinh hoạt và sản xuất nông nghiệp. Các hộ có đủ nguồn nước sạch hợp vệ sinh để sử dụng gồm cả nước giếng và nước máy. Với các xóm Chịp, Đồng Bản, Trại Rẽo do địa hình phức tạp, cách xa trung tâm xã nên chưa thể thiết kế, triển khai đưa nước máy về xóm, các hộ gia đình chủ yếu dùng nước giếng khoan, nước giếng khơi. Vào mùa khô (tháng 12, tháng 1) vẫn xảy ra tình trạng thiếu nước ở các hộ dùng nước giếng khơi, nhưng mức độ đã giảm hơn trước đây. Các khe suối đã xuất hiện dòng chảy thường xuyên và ổn định. Các hộ gia đình cũng khai thác nguồn nước từ đây để phục vụ cho hoạt động nông nghiệp. Tình trạng hạn hán, lũ quét hay sạt lở đất đá cũng hạn chế, theo báo cáo của UBND xã từ năm 2011 đến nay mới chỉ có 1 vụ sạt lở nhưng mức độ ảnh hưởng không đáng kể. Vai trò của LNCĐ đối với phát triển xã hội Mức độ tham gia quản lý rừng cộng đồng Nguyễn Thị Đông và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 188(12/1): 89 - 95 94 Mức độ tham gia quản lý rừng cộng đồng ngày càng tăng, theo thống kê từ ban quản trị HTX Hòa Bình đến nay 100% số hộ dân trong xã tham gia vào hoạt động quản lý, bảo vệ rừng. Các cuộc họp HTX hay tổ tự quản có tỷ lệ người dân tham gia họp đạt 97%. Tham gia nhận đất, nhận rừng ngoài thực địa có 100% các hộ dân có mặt. Hoạt động tuần tra rừng được thực hiện nghiêm túc. Mỗi tổ tự quản đều có đội tuần tra rừng riêng, định kỳ đi tuần tra 1 lần/tháng với 3-5 người/lần tuần tra. Tại những điểm rừng giáp với Lạng Sơn, Bắc Giang có thể tuần tra 2 lần/tháng. Ngoài ra, nếu nghi ngờ hay phát hiện có những diễn biến bất thường (nghi ngờ cháy rừng, khai thác trái phép) trong rừng, người dân sẽ chủ động báo cáo cho tổ trưởng tổ tự quản và lập đội tuần tra đi kiểm tra ngay. Mỗi lần tuần tra bảo vệ rừng, đội tuần tra được hỗ trợ 50.000 – 70.000 đồng/ngày/người đi tuần tra, do vậy khuyến khích được sự tham gia của cộng đồng. Số lớp tập huấn và số người tham gia tập huấn về quản lý rừng, kỹ thuật canh tác nông lâm nghiệp Với mục tiêu nâng cao năng lực quản lý, quyền tiếp cận rừng và đất rừng, tạo ra những tác động tích cực đến việc quản lý đất rừng, bảo tồn thiên nhiên và phát triển các kỹ năng phù hợp cho việc cải thiện sinh kế bền vững của nhóm cộng đồng sống dựa vào rừng. Nhiều lớp tập huấn, các cuộc trao đổi về kỹ thuật quản lý rừng, kỹ thuật canh tác nông lâm nghiệp cho người dân được triển khai thực hiện tại xã Bình Long, như: - Tập huấn chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật nông nghiệp và xây dựng các mô hình thử nghiệm: Giống mới, phân bón mới, ủ phân hữu cơ vi sinh, trồng lúa cải tiến, trồng khoai tây hàng hóa, nông lâm kết hợp rừng trồng với cây bản địa: Gừng trâu, chè hữu cơ khoáng, liên kết, giới thiệu đầu ra cho sản phẩm - Thành lập tổ kỹ thuật REDD+, đào tạo một số thành viên của HTX sử dụng máy GPS, trực tiếp thực hiện điều tra đo đếm ô tiêu chuẩn để đo giao rừng, điều tra giám sát trữ lượng carbon và đa dạng sinh học. Đồng thời cũng hỗ trợ đào tạo kỹ thuật và đo khoanh rừng cho các HTX mới (Phương Giao, Dân Tiến). - Hội thảo chia sẻ kinh nghiệm dự án quốc tế, quốc gia, tỉnh, huyện và vùng dự án về phát triển LNCĐ. Hương ước và tình hình thực hiện các quy định trong hương ước Để bảo vệ và phát triển rừng bền vững, các hộ đăng ký tham gia bảo vệ rừng tự nhiên trên núi đá đã tổ chức hội nghị thống nhất xây dựng và cam kết thực hiện Quy ước quản lý, bảo vệ và phát triển rừng. Quy ước được xây dựng dựa trên các quy định về pháp luật do Nhà nước ban hành, tinh thần đồng thuận nhất trí cao của cộng đồng dân cư, được UBND huyện Võ Nhai phê duyệt và có hiệu lực từ tháng 11/2013. KẾT LUẬN LNCĐ tại xã Bình Long đã đem lại hiệu quả tích cực về mặt xã hội và môi trường, góp phần cải thiện kinh tế cho người dân. Khi nguồn hỗ trợ từ dự án 661 không còn nữa, thì nguồn thu nhập từ LNCĐ cũng giúp người dân duy trì các hoạt động quản lý và bảo vệ rừng. Về mặt xã hội, LNCĐ đã giúp người dân nhận thức được tầm quan trọng của việc bảo vệ rừng. Việc ra đời của các HTX tại xã Bình Long chính là kết quả của sự đồng thuận cao trong việc thực hiện lâm nghiệp cộng đồng tại địa phương. Nâng cao ý thức, trách nhiệm và quyền lợi của cộng đồng dân cư trong quản lý, bảo vệ rừng. Diện tích rừng tự nhiên đã tăng hơn 1.000 ha từ năm 2011 tới 2017. Giảm diện tích núi đá không rừng, tăng mức đa dạng sinh học. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ NN&PTNT (2006), Cẩm nang ngành lâm nghiệp, chương lâm nghiệp cộng đồng. 2. CERDA & HTX Bình Long (2015), Báo cáo điều tra đa dạng sinh học rừng núi đá Bình Long. Nguyễn Thị Đông và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 188(12/1): 89 - 95 95 3. HTX Bình Long, Báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh nhiệm kỳ 2012 – 2017, tháng 12 năm 2017. 4. Nguyễn Bá Ngãi (2009), “Quản lý rừng cộng đồng ở Việt Nam: Thực trạng, vấn đề và giải pháp”, Kỷ yếu hội thảo quốc gia về quản lý rừng cộng đồng, tr. 4-20. 5. UBND xã Bình Long (2017), Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của xã Bình Long. SUMMARY ASSESSMENT OF COMMUNITY FOREST IN BINH LONG COMMUNE, VO NHAI DISTRICT, THAI NGUYEN PROVINCE Nguyen Thi Dong 1* , Nguyen Thi Phuong Mai 1 , Tran Thi Le Hang 2 1Thai Nguyen University of Sciences, 2Institute of Energy – Ministry of Industry and Trade Binh Long is a particularly poor commune of Vo Nhai District in Thai Nguyen Province with a major economy based on agroforestry activities, the average income per head reaches 11 million VND/ year. In recent years, people have promoted the strength of the region, economic development in the direction of agriculture and forestry. Binh Long people have participated in community forestry activities, contributing to the benefits of socio-economic development and environmental protection. Raise more than 1000 ha of forest cover from 2011 to 2017, reduce the area of non-forest rock, increase biodiversity, improve farm economy and contribute to poverty reduction. Key words: Community forestry, communal forest, forest protection and development, sustainable forest management, Binh Long Commune. Ngày nhận bài: 22/8/2018; Ngày phản biện: 20/9/2018; Ngày duyệt đăng: 12/10/2018 * Tel: 0987 264907, Email: dongnt@tnus.edu.vn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf78_108_1_pb_3643_2127003.pdf
Tài liệu liên quan