Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 6 * 2018 Nghiên cứu Y học
 31
ĐÁNH GIÁ TỶ LỆ BỆNH THẦN KINH NGOẠI BIÊN 
DO ĐÁI THÁO ĐƯỜNG VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN 
Ở BỆNH NHÂN ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TÍP 2 TẠI BỆNH VIỆN TRƯNG VƯƠNG 
Nguyễn Thị Thu Vân*, Bùi Hạnh Thu*, Trần Thị Thu*, Phan Thị Tuyết Trinh*, Lê Thị hồng Diễm*, 
Đoàn Thị Bưởi*, Huỳnh Thị Tú Nhi* 
TÓM TẮT 
Mở đầu: Bệnh lý thần kinh ngoại biên do dái tháo đường rất thường gặp, các triệu chứng thường không rõ 
ràng cho đến khi có biểu hiện nặng là loét chân và nguy cơ đoạn chi. Cần đánh giá biến chứng thần kinh ngoại 
biên ở bệnh nhân đái tháo đường, biết được tỉ lệ và nhận diện yếu tố các yếu tố nguy cơ liên quan để đưa ra các 
khuyến cáo chăm sóc, bảo vệ bàn chân. 
Mục tiêu nghiên cứu: Xác định tỷ lệ biến chứng thần kinh ngoại biên theo Test sàng lọc của Vương quốc 
Anh (United Kingdom Screening Test) trên bệnh nhân đái tháo đường típ 2 điều trị ngoại trú, xác định mối liên 
quan giữa bệnh thần kinh ngoại biên do đái tháo đường với các yếu tố nguy cơ. 
Đối tượng - Phương pháp nghiên cứu: Cắt ngang mô tả. Đánh giá bệnh thần kinh ngoại biên 331 bệnh 
nhân ĐTĐ típ 2 điều trị ngoại trú từ tháng 01/2016 – 11/2016 tại bệnh viện Trưng Vương sử dụng test sàng lọc 
của Vương quốc Anh. 
Kết quả nghiên cứu: Tỷ lệ bệnh thần kinh ngoại biên do đái tháo đường là 54,1% trong đó 26,0% không có 
triệu chứng cơ năng. Có sự liên quan giữa tuổi trên 70 và bệnh thần kinh ngoại biên (OR = 4,31, KTC 95% = 
1,19 - 15,59, p = 0,026), giữa giới tính nữ và bệnh thần kinh ngoại biên (OR = 0,57, KTC 95% = 0,37 - 0,89, p = 
0,013), giữa bệnh đái tháo đường típ 2 có tăng huyết áp đi kèm và bệnh thần kinh ngoại biên (OR = 2,19, KTC 
95% = 1,34 - 3,59, p = 0,002), giữa thời gian phát hiện bệnh đái tháo đường và bệnh thần kinh ngoại biên (10 - 
<15 năm OR = 3,91, KTC 95% = 1,27 - 12,04, p = 0,017;15 - <20 năm OR = 6, KTC 95% = 1,46 - 24,73, p = 
0,013). Phân tích hồi quy đa biến cho thấy HbA1c có mối tương quan độc lập với bệnh thần kinh ngoại biên do 
đái tháo đường (OR = 0,58, KTC 95% = 0,36 - 0,96, p = 0,033). 
Kết luận: Cần tầm soát biến chứng thần kinh ngoại biên ở bệnh nhân đái tháo đường theo khuyến cáo, đặc 
biệt chú ý trên những bệnh nhân có những yếu tố trên 70 tuổi, nữ, có tăng huyết áp đi kèm, thời gian phát hiện 
bệnh đái tháo đường từ 10 năm trở lên. Kiểm soát HbA1c đạt mục tiêu làm giảm nguy cơ bệnh thần kinh ngoại 
biên do đái tháo đường. 
Từ khóa: Đái tháo đường, bệnh thần kinh ngoại biên. 
ABSTRACT 
PERIPHERAL NEUROPATHY AND ITS ASSOCIATED FACTORS IN TYPE 2 DIABETIC PATIENTS 
AT TRUNG VUONG HOSPITAL 
Nguyen Thi Thu Van, Bui Hanh Thu, Tran Thi Thu, Phan Thi Tuyet Trinh, Le Thi Hong Diem, 
Doan Thi Buoi, Huynh Thi Tu Nhi 
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Vol. 22 - No 6- 2018: 31 – 40 
Background: Peripheral neuropathy is commonly seen in diabetes. Symptoms are usually subtle until ulcers 
and amputation risk occurs. Therefore it is important to understand the prevalence of diabetic neuropathy and 
identify its associated factors in order to provide appropriate education on foot care. 
 Bệnh viện Trưng Vương 
Tác giả liên lạc: BS. CKII. Nguyễn Thị Thu Vân, ĐT: 0903630405, Email: 
[email protected] 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 6 * 2018
 32
Objectives: To assess prevalence of diabetic neuropathy based on United Kingdom Screening Test in type 2 
diabetic outpatients and identify the association between the complications with its risk factors. 
Methods: Cross-sectional study. 333 type 2 diabetic outpatients at Trung Vuong hospital from January to 
November 2016 were included in our study. 
Results: 54.1% patients have been diagnosed peripheral neuropathy, among them 26% did not complain 
any symptom. Peripheral neuropathy is associated with age over 70 (OR = 4.31, 95% CI: 1.19 - 15.59, p = 0.026), 
female (OR = 0.57, 95% CI: 0.37 - 0.89, p = 0.013), hypertension (OR = 2.19, 95% CI: 1.34 - 3.59, p = 0.002), 
long-term diabetes (10 - < 15 years with OR = 3.91, 95% CI: 1.27 - 12.04, p = 0.017; 15 - < 20 years with OR = 6, 
95% CI: 1.46 - 24.73, p = 0.013). Multivariate logistic regression showed that HbA1c is independent risk factor of 
peripheral neuropathy (OR = 0.58, 95% CI: 0.36 - 0.96, p = 0.033). 
Conclusions: It is fundamental to screen for diabetic peripheral neuropathy based on guidelines, especially 
for those patients who are over 70 years old, female, hypertension, > 10 years of diabetes. Tight HbA1c control 
helps to lower risk of diabetic peripheral neuropathy. 
Keywords: Diabetes, diabetic peripheral neuropathy. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Đái tháo đường (ĐTĐ) là một bệnh chuyển 
hóa, đặc trưng là tình trạng tăng đường huyết 
mạn tính cùng với các rối loạn chuyển hóa 
đường, đạm và mỡ do khiếm khuyết tiết insulin 
hoặc giảm hoạt tính insulin hoặc do cả hai. Đái 
tháo đường gây ra biến chứng mạch máu và 
ngoài mạch máu. Biến chứng mạch máu nhỏ là 
biến chứng đặc thù của bệnh đái tháo đường, 
thường xuất hiện sớm, gây tổn thương mắt, thận 
và thần kinh. Bệnh lý thần kinh do đái tháo 
đường gồm có bệnh lý thần kinh ngoại biên, 
bệnh lý thần kinh tự chủ Bệnh lý thần kinh 
ngoại biên do dái tháo đường rất thường gặp và 
tỷ lệ mắc bệnh gia tăng theo thời gian. Kết quả 
nghiên cứu của Pirat (1997) trên 4400 bệnh nhân 
đái tháo đường típ 2, tỷ lệ bệnh thần kinh ngoại 
biên tại thời điểm chẩn đoán là 7,5%, sau 25 năm 
là 50%(19). 
Đau do bệnh lý thần kinh ngoại biên hiện 
diện ở 26% bệnh nhân bị đái tháo đường, gây 
giảm chất lượng cuộc sống của bệnh nhân(8). 
Nhưng cũng có tới 50% bệnh nhân có thể không 
có bất cứ triệu chứng cảnh báo nào(5). Biến 
chứng trầm trọng liên quan đến biến chứng thần 
kinh ngoại biên do đái tháo đường là loét và 
nguy cơ đoạn chi(1,11) Bệnh thần kinh ngoại biên 
làm tăng nguy cơ đoạn chi dưới 1,7 lần, tăng 12 
lần nếu có biến dạng chân kèm theo (biến dạng 
chân thường là hậu quả của bệnh thần kinh 
ngoại biên), tăng lên 36 lần nếu bệnh nhân đã 
từng bị loét chân trước đó(3). Theo Boulton và 
cộng sự, tỷ lệ đoạn chi lên 80% sau loét chân hay 
chấn thương(5). 
Thực tế hiện nay, các biến chứng thận, mắt, 
tim mạch thường được đánh giá sớm nhưng 
biến chứng thần kinh ngoại biên ở bệnh nhân 
ĐTĐ hiện tại ít được đánh giá sớm. 
Bệnh viện Trưng Vương tiếp nhận, quản lý 
bệnh nhân đái tháo đường đến điều trị tăng liên 
tục mỗi năm, chưa có nghiên cứu đánh giá bệnh 
thần kinh ngoại biên do đái tháo đường. Do vậy, 
để nâng cao chất lượng điều trị cần đánh giá 
biến chứng thần kinh ngoại biên ở bệnh nhân 
đái tháo đường, biết được tỉ lệ và nhận diện 
nguy cơ cao loét chân cũng như các yếu tố liên 
quan để đưa ra các khuyến cáo chăm sóc, bảo vệ 
bàn chân thực tế hơn. 
Mục tiêu 
Xác định tỷ lệ biến chứng thần kinh ngoại 
biên theo Test sàng lọc của Vương quốc Anh 
(United Kingdom Screening Test) trên bệnh 
nhân đái tháo đường típ 2 điều trị ngoại trú, mối 
liên quan giữa bệnh thần kinh ngoại biên do đái 
tháo đường với các yếu tố: tuổi, giới tính, thời 
gian phát hiện bệnh đái tháo đường, tăng huyết 
áp, hút thuốc lá, chỉ số khối cơ thể, vòng eo, 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 6 * 2018 Nghiên cứu Y học
 33
glucose máu tĩnh mạch khi đói, HbA1c, LDL 
cholesterol, HDL cholesterol và Triglycerid máu. 
ĐỐI TƯỢNG- PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Thiết kế nghiên cứu 
Nghiên cứu mô tả cắt ngang. 
Đối tượng nghiên cứu 
Bệnh nhân ĐTĐ típ 2 đã được chẩn đoán 
theo tiêu chí chẩn đoán và phân loại theo Hiệp 
hội đái tháo đường Hoa kỳ (ADA) 2015(9), theo 
dõi và điều trị ngoại trú tại bệnh viện Trưng 
Vương từ tháng 01/2016 đến tháng 11/2016. 
Tiêu chí loại trừ 
Bệnh nhân không trả lời phỏng vấn được; 
đang điều trị nội trú; ĐTĐ típ 1; ĐTĐ thai kỳ; đã 
đoạn chi dưới; đang bị nhiễm trùng bàn chân, 
bệnh thận giai đoạn 4, 5; suy giáp; thiếu vitamin 
B nặng biểu hiện toàn thân trên lâm sàng; bệnh 
HIV; có bệnh lý ác tính ung thư, bệnh về máu; 
nghề nghiệp tiếp xúc với chì; nghiện rượu nặng, 
có hội chứng cai nghiện trên lâm sàng; đang sử 
dụng các thuốc: INH, metronidazole, 
amiodarone, chloramphenicol, indomethacin, 
phenytoin; không đồng ý tham gia nghiên cứu. 
Thu thập dữ kiện 
Thu thập số liệu theo mẫu bệnh án soạn sẵn. 
Phương thức thực hiện 
Đánh giá tình trạng béo phì theo tiêu chuẩn 
của WHO dành cho người Châu Á năm 2004(23). 
Phân độ huyết áp theo JNC VII (2003)(4). Mục 
tiêu đường huyết tương khi đói, HbA1c, HDL-
Cholesterol, LDL-Cholesterol và Triglycerid theo 
ADA 2015(9). 
Đánh giá biến chứng thần kinh ngoại biên 
theo thang điểm sàng lọc của Vương quốc 
Anh(7). 
Bảng 1: Thang điểm sàng lọc 
Hỏi triệu chứng Điểm 
1/ Cảm nhận như thế nào? 
Nóng rát, tê bì hay châm chích ở bàn chân 2 
Mỏi, bọp bẻ hay đau nhức 1 
2/ Triệu chứng có ở vị trí nào? 
Bàn chân 2 
Bắp chân 1 
Hỏi triệu chứng Điểm 
3/ Triệu chứng này có đánh thức bệnh nhân về đêm không? 
Có 1 
4/ Cảm thấy khó chịu lúc nào? 
Nặng hơn về đêm 2 
Cả ngày lẫn đêm 1 
Chỉ có ban ngày 0 
5/ Triệu chứng giảm khi nào? 
Lúc đi lại 2 
Lúc đứng 1 
Khám dấu hiệu LS Điểm/mỗi chân 
1/ Phản xạ gân gót 
Mất 2 
Giảm 1 
2/ Cảm nhận rung: Mất/Giảm 1 
3/ Cảm nhận đau: Giảm hoặc mất 1 
4/ Cảm nhận nhiệt: Giảm hoặc mất 1 
Bảng 2: Chẩn đoán bệnh thần kinh ngoại biên: 
Chẩn đoán mức độ bệnh 
TKNB 
TCCN 
(tổng điểm) 
Khám LS 
(tổng điểm) 
Bình thường 0 – 2 0 – 2 
Nhẹ 3 – 4 3 – 5 
Trung bình 5 – 6 6 – 8 
Nặng 7 – 9 9 – 10 
Chẩn đoán bệnh TKNB (UKST) ≥≥ 5 và ≥ 3 hoặc ≥ 6 6 
Nguy cơ loét chân cao (UKST) ≥ 8 
Xử lý và phân tích dữ kiện 
Nhập liệu bằng phần mềm Epidata 3.0, xử lý 
và phân tích bằng phần mềm Stata 13.0. 
KẾT QUẢ 
Chúng tôi nghiên cứu 331 bệnh nhân đái 
tháo đường típ 2 tại phòng khám Nội tiết Bệnh 
viện Trưng Vương, nữ chiếm tỷ lệ 58,6%, nam 
chiếm 41,4%, nhóm tuổi chủ yếu là từ 51 đến 70 
tuổi chiếm 68,0%. Có 49% với chỉ số BMI lớn hơn 
23, trong đó 24,5% có chỉ số khối cơ thể BMI từ 
25 trở lên. 49% nữ có vòng eo lớn hơn 80 cm 
(Bảng 3). 
Nhóm bệnh nhân có thời gian phát hiện 
bệnh đái tháo đường từ 1 tới 5 năm chiếm 
39,9%. Có72,8% bệnh nhân có bệnh tăng huyết 
áp. Bệnh nhân có hút thuốc lá đều là nam 
chiếm 43,8% bệnh nhân nam. Bệnh nhân được 
điều trị bệnh đái tháo đường bằng thuốc viên 
hạ đường huyết uống chiếm tỷ lệ 75,8%. Có 
20,6% được điều trị bằng thuốc viên hạ đường 
huyết uống phối hợp insulin. Tỷ lệ bệnh nhân 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 6 * 2018
 34
tuân thủ điều trị cao chiếm 90,3%. 
Tỷ lệ bệnh nhân đạt mục tiêu kiểm soát 
glucose huyết tương khi đói là 44,6%, HbA1c 
40,8%, Triglyceride 36,0%, LDL Cholesterol chỉ 
29,6% (Bảng 4). 
Trong mẫu nghiên cứu của chúng tôi đa số 
60 tuổi, BMI 24,39 kg/m2, đường huyết tương 
khi đói và HbA1c của bệnh nhân cao hơn so với 
mục tiêu điều trị theo khuyến cáo của Hiệp hội 
đái tháo đường Hoa Kỳ 2015(9) (Bảng 5). 
LDL cholesterol, Triglyceride đều cao hơn 
giá trị mục tiêu điều trị. 
HDL Cholesterol của nữ đa số 1,2 mmol/L 
không đạt mục tiêu mong đợi. 
Bảng 3: Đặc tính mẫu nghiên cứu 
Đặc tính mẫu nghiên cứu Tần số Tỷ lệ (%) 
Giới tính 
Nam 137 41,4 
Nữ 194 58,6 
Nhóm tuổi 
≤ 40 13 3,9 
41 - 50 45 13,6 
51 - 60 116 35,1 
61 - 70 109 32,9 
> 70 9 17,0 
BMI (kg/m
2
) 
< 18,5 9 3,8 
18.5 – 22,9 91 47,2 
23 – 24,9 92 24,5 
> 25 139 24,5 
Vòng eo(cm) 
Nam > 90 42 30,7 
Nữ > 80 95 49,0 
Thời gian phát hiện bệnh ĐTĐ (năm) 
 Dưới 1 16 4,8 
 Từ 1 đến dưới 5 132 39,9 
 Từ 5 đến dưới 10 68 20,5 
 Từ 10 đến dưới 15 77 23,3 
 Từ 15 đến dưới 20 23 7,0 
 Từ 20 trở lên 15 4,5 
Tăng Huyết áp (mmHg) 
Có 241 72,8 
Không 90 27,2 
Thói quen hút thuốc lá (n=137) 
Có 60 43,8 
Không 77 56,2 
Phương pháp điều trị 
Chế độ ăn đơn thuần 0 0 
Đặc tính mẫu nghiên cứu Tần số Tỷ lệ (%) 
Thuốc hạ đường huyết uống đơn thuần 251 75,8 
Insulin đơn thuần 12 3,6 
Insulin và Thuốc hạ đường huyết uống 68 20,6 
Tuân thủ điều trị 
Tuân thủ 299 90,3 
Không tuân thủ 32 9,7 
Bảng 4: Các chỉ số sinh hóa so với mục tiêu điều trị 
của mẫu nghiên cứu 
Các chỉ số sinh hóa Tần số Tỷ lệ (%) 
Đường huyết lúc đói (mmol/L) 
Đạt mục tiêu 147 44,4 
Không đạt mục tiêu 184 55,6 
HbA1c (%) 
Đạt mục tiêu 135 40,8 
Không đạt mục tiêu 196 59,2 
LDL – C (mmol/L) 
Đạt mục tiêu 98 29,6 
Không đạt mục tiêu 233 70,4 
HDL – C (mmol/L) 
Đạt mục tiêu (n= 177) 
Nam 
Nữ 
93 
84 
52,5 
47,5 
Không đạt mục tiêu (n= 154) 
Nam 
Nữ 
44 
110 
28,6 
71,4 
Triglycerid (mmol/L) 
Đạt mục tiêu 119 36,0 
Không đạt mục tiêu 212 64,0 
Bảng 5: Đặc điểm trung vị của mẫu nghiên cứu 
Các chỉ số 
Trung vị 
[khoảng tứ phân vị] 
Tuổi 60 [53 – 66] 
BMI (kg/m
2
) 24,39 [22,37 - 26,99] 
Vòng eo (cm) 
Nam > 90 86,0 [80,0 – 91,0] 
Nữ > 80 84,5 [79,0 – 90,0] 
Thời gian phát hiện bệnh ĐTĐ 
(năm) 
5 [2 – 10] 
Huyết áp 
Huyết áp tâm thu (mmHg) 120 [120 – 140] 
Huyết áp tâm trương (mmHg) 80 [70 – 80] 
Đường huyết lúc đói (mmol/L) 7,5 [6,3 – 9,0] 
HbA1c (%) 7,3 [6,6 – 8,5] 
Cholesterol toàn phần (mmol/L) 4,8 [4,0 – 5,6] 
LDL(mmol/L) 3,0 [2,4 – 3,7] 
HDL(mmol/L): Nam (n= 137) 
 Nữ (n= 194) 
1,0 [0,9 – 1,3] 
1,2 [1,0 – 1,4] 
Triglycerid (mmol/L) 2,0 [1,4 – 3,0] 
Đa số bệnh nhân (72,5%) có triệu chứng cơ 
năng về thần kinh; 27,5% bệnh nhân không có 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 6 * 2018 Nghiên cứu Y học
 35
triệu chứng thần kinh nào. Triệu chứng chủ yếu 
ở bàn chân (57,4%). Có 22,4% bệnh nhân có triệu 
chứng đau đánh thức bệnh nhân về đêm và 
nặng hơn về đêm là 32,6% (Bảng 6). 
Dấu hiệu mất phản xạ gân gót ở bàn chân 
phải và bàn chân trái lần lượt là 56,8 và 53,2%, 
chiếm tỷ lệ cao nhất (Bảng 7). 
Bảng 6: Kết quả tầm soát các triệu chứng cơ năng 
bệnh thần kinh theo UKST 
Bảng 7: Kết quả khám lâm sàng đánh giá bằng UKST 
Khám dấu hiệu LS 
Bàn chân phải Bàn chân trái 
Tần số Tỷ lệ (%) Tần số Tỷ lệ (%) 
1/ Phản xạ gân gót? 
Mất 188 56,8 176 53,2 
Giảm 30 9,1 28 8,5 
Bình thường 113 34,1 127 38,3 
2/ Cảm nhận rung? 
Mất/Giảm 91 27,5 70 21,1 
Bình thường 240 72,5 261 78,9 
3/ Cảm nhận đau 
Giảm hoặc mất 58 17,5 49 14,8 
Bình thường 273 82,5 282 85,2 
4/ Cảm nhận nhiệt 
Giảm hoặc mất 98 29,6 82 24,8 
Bình thường 233 70,4 249 75,2 
Bệnh nhân có biểu hiện mức độ bệnh thần 
kinh theo triệu chứng từ trung bình đến nặng 
chiếm tỷ lệ 51,4%; theo dấu hiệu khám lâm 
sàng từ trung bình đến nặng chiếm tỷ lệ 26%. 
Bảng 8: Tỷ lệ % mức độ bệnh thần kinh ngoại biên 
Mức độ bệnh thần 
kinh ngoại biên 
Bình 
thường 
Nhẹ Trung 
bình 
Nặng 
Theo triệu chứng cơ 
năng 
30,2 
18,4 27,8 23,6 
Theo khám lâm sàng 18,4 55,6 21,8 4,2 
Tỷ lệ bệnh thần kinh ngoại biên do đái tháo 
đường 54,1%; trong đó tỷ lệ bệnh thần kinh 
ngoại biên không có triệu chứng cơ năng là 
26,0%. Có 8,8% bệnh nhân có nguy cơ cao loét. 
Bảng 9: Bệnh thần kinh ngoại biên đánh giá bằng 
UKST 
Bệnh thần kinh ngoại biên Tần số Tỷ lệ (%) 
Khám lâm sàng ≥ 3 điểm và 
triệu chứng cơ năng ≥ 5 điểm 
hoặc khám lâm sàng ≥ 6 điểm 
Có 179 54,1 
Không 152 45,9 
Bệnh thần kinh ngoại biên không triệu 
chứng cơ năng 
86 26,0 
Có nguy cơ loét chân cao (Khám lâm 
sàng ≥ 8 điểm) 
29 8,8 
Bệnh thần kinh ngoại biên do đái tháo 
đường có sự khác biệt có ý nghĩa ở nữ so với 
nam; nhóm tuổi trên 70 tuổi so với nhóm tuổi 
dưới 40; nhóm mắc bệnh đái tháo đường từ 
mười năm đến dưới 15 năm cao gấp 4,32 lần (p = 
0,017), từ 15 - < 20 năm cao gấp 6 lần (p = 0,013) 
so với nhóm < 1 năm (p = 0,009); người mắc đái 
tháo đường có bệnh lý tăng huyết áp kèm theo 
mắc bệnh thần kinh ngoại biên cao gấp 2,19 lần 
so với người mắc đái tháo đường nhưng huyết 
áp bình thường. 
Kiểm soát HbA1c đạt mục tiêu điều trị giúp 
giảm đến 51% nguy cơ mắc bệnh thần kinh 
ngoại biên so với những người kiểm soát HbA1c 
không đạt mục tiêu và sự khác biệt này có ý 
nghĩa thống kê (p < 0,002). 
Các yếu tố tuổi, giới tính, thời gian phát 
hiện bệnh đái tháo đường, bệnh tăng huyết áp 
và HbA1c là các yếu tố khi phân tích đơn biến 
đều có mối liên quan đến bệnh thần kinh 
ngoại biên do đái tháo đường. Tuy nhiên, các 
yếu tố này lần lượt đưa vào phân tích đa biến, 
kết quả cho thấy chỉ có biến chứng thần kinh 
ngoại biên do đái tháo đường ở bệnh nhân 
Triệu chứng cơ năng Tần số Tỷ lệ (%) 
1/ Cảm nhận như thế nào? 
Nóng rát, tê bì hay châm chích ở bàn 
chân 
165 49,9 
Mỏi, bọp bẻ hay đau nhức 75 22,6 
Không có triệu chứng 91 27,5 
2/ Triệu chứng có ở vị trí nào? 
Bàn chân 190 57,4 
Bắp chân 45 13,6 
Nơi khác 96 29 
3/ Triệu chứng này có đánh thức bệnh nhân về đêm không? 
Có 74 22,4 
Không 257 77,6 
4/ Cảm thấy khó chịu lúc nào? 
Nặng hơn về đêm 108 32,6 
Cả ngày lẫn đêm 60 18,1 
Chỉ có ban ngày 163 49,3 
5/ Triệu chứng giảm khi nào? 
Lúc đi lại 87 26,3 
Lúc đứng 9 2,7 
Lúc ngồi nằm hay lúc nghỉ ngơi 235 71,0 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 6 * 2018
 36
kiểm soát HbA1c đạt mục tiêu điều trị có xu 
hướng thấp hơn 0,42 lần so với nhóm bệnh 
nhân kiểm soát HbA1c không đạt mục tiêu 
điều trị. 
Bảng 10: Các yếu tố liên quan đến bệnh thần kinh ngoại biên do đái tháo đường 
Đặc điểm mẫu nghiên cứu 
Bệnh thần kinh ngoại biên 
p 
OR 
(KTC 95%) Có (%) Không (%) 
Giới tính 
Nam 63 (46,0) 74 (54,0) 0,013 0,57 (0,37-0,89) 
Nữ 116 (59,8) 78 (40,2) 1 
Nhóm tuổi 
<=40 5 (39,5) 8 (61,5) 1 
41-50 11 (24,4) 34 (75,6) 0,324 0,52 (0,14 - 1,91) 
51-60 58 (50,0) 58 (50,0) 0,433 1,60 (0,49 - 5,18) 
61-70 70 (64,2) 39 (35,8) 0,081 2,87 (0,88 - 9,38) 
>70 35 (72,9) 13 (27,1) 0,026 4,31 (1,19 - 15,59) 
BMI 
Bình Thường 46 (50,6) 45 (49,4) 1 
Thiếu cân 7 (77,8) 2 (22,2) 0,138 3,42 (0,67 - 17,38) 
Thừa cân 45 (48,9) 47 (51,1) 0,825 0,94 (0,52 - 1,67) 
Béo phì 81 (58,3) 58 (41,7) 0,250 1,37 (0,80 - 2,32) 
Vòng eo 
Nam: Đạt mục tiêu 
 Không đạt mục tiêu 
50,0 
55,8 
0,531 
1,26 (0,61 - 2,61) 
1 
Nữ: Đạt mục tiêu 
 Không đạt mục tiêu 
36,6 
50,0 
0,094 
1,73 (0,91 - 3,29) 
1 
Thời gian mắc bệnh ĐTĐ 
<1 năm 6 (37,5) 10 (62,5) 1 
1-5 năm 59 (44,7) 73 (55,3) 0,585 1,35 (0,46 - 3,92) 
6-10 năm 31 (45,6) 37 (54,4) 0,559 1,40 (0,46 - 4,28) 
>10 năm 83 (72,2) 32 (27,8) 0,009 4,32 (1,45 - 12,87) 
Tăng Huyết áp 
Có 143 (59,3) 98 (40,7) 0,002 2,19 (1,34 - 3,59) 
Không 36 (40,0) 54 (60,0) 1 
Hút thuốc lá 
Có 24 (39,3) 37 (60,7) 0,215 0,65 (0,33 - 1,29) 
Không 155 (57,4) 115 (42,6) 1 
Đường huyết lúc đói (mmol/L) 
Đạt 74 (50,3) 73 (49,7) 0,223 0,76 (0,49 - 1,18) 
Không đạt 105 (57,1) 79 (42,9) 1 
HbA1c (%) 
Đạt 59 (43,7) 76 (56,3) 0,002 0,49 (0,32 - 0,77) 
Không đạt 120 (61,2) 76 (38,8) 1 
LDL – C (mmol/L) 
Đạt 59 (60,2) 39 (39,8) 0,148 1,42 (0,88 - 2,30) 
Không đạt 120 (51,5) 113 (48,5) 1 
HDL – C (mmol/L) 
Đạt 96 (54,2) 81 (45,8) 0,950 1,01 (0,66 - 1,56) 
Không đạt 83 (53,9) 71 (46,1) 1 
Triglycerid (mmol/L) 
Đạt 64 (53,8) 55 (46,2) 0,935 0,98 (0,63 - 1,54) 
Không đạt 115 (54,3) 97 (45,7) 1 
Phép kiểm 2 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 6 * 2018 Nghiên cứu Y học
 37
BÀN LUẬN 
Nghiên cứu của Thomas (1997), tỷ lệ bệnh 
thần kinh đái tháo đường giao động trong 
khoảng rất lớn, từ 5% đến 100%. Sự khác biệt 
này do sự khác nhau về quần thể nghiên cứu, về 
tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh thần kinh và các 
phương pháp phát hiện bệnh thần kinh(20). 
Nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ bệnh thần kinh 
ngoại biên do đái tháo đường được đánh giá 
theo điểm triệu chứng 69,8%, mức độ nặng 
23,6%, được đánh giá theo điểm khám lâm sàng 
81,6%, nặng 4,2%, kết quả nghiên cứu của 
Nguyễn Thị Nhạn thấp hơn, tỷ lệ bệnh thần kinh 
ngoại biên đánh giá theo điểm triệu chứng 
52,23%, mức độ nặng 13,39% được đánh giá theo 
điểm khám lâm sàng 42,52%, mức độ nặng cao 
hơn 13,38%(16). Tỷ lệ bệnh thần kinh ngoại biên 
do đái tháo đường được đánh giá theo thang 
điểm UKST (cả thiệu chứng cơ năng và khám 
dấu hiệu lâm sàng) là 54,1% cao hơn nghiên cứu 
của Ibrahim A và cộng sự (31,2%)(13), cao hơn 
cứu của Nguyễn Thị Nhạn (37,05%), các nghiên 
cứu này đều dùng Test sàng lọc của Vương 
Quốc Anh(16). Nghiên cứu của Fareh HR và cộng 
sự trên 125 bệnh nhân đái tháo đường nhằm xác 
định hiệu quả của 3 phương pháp chẩn đoán 
bệnh thần kinh do đái tháo đường, bao gồm 
MNSI, UKST và đo điện cơ. Kết quả phát hiện 
bệnh thần kinh ngoại biên theo MNSI là 69%, 
theo UKST là 73% và theo điện cơ đồ là 69%. Kết 
quả của 3 phương pháp này tương đương 
nhau(11). Một nghiên cứu sử dụng công cụ tầm 
soát bệnh thần kinh Michigan và đo điện cơ 
cũng như đo ngưỡng tiếp nhận rung. Kết quả tỷ 
lệ bệnh thần kinh ngoại biên là 32,1% khi dựa 
vào điểm của công cụ tầm soát bệnh thần kinh 
Michigan(21) thấp hơn kết quả của chúng tôi. Có 
lẽ do đặc điểm mẫu nghiên cứu của chúng tôi có 
tuổi trung bình 59,51 ± 10,42 cao hơn của nghiên 
cứu Ibrahim A và cộng sự (49,55 ± 10,28)(13), thời 
gian phát hiện bệnh ĐTĐ trung bình trong 
nghiên cứu của chúng tôi 6,87 ± 5,39 năm cao 
hơn của Nguyễn Thị Nhạn (3,04 ± 3,47)(16). Trong 
nghiên cứu của chúng tôi phân tích có 26% bệnh 
nhân được chẩn đoán bệnh thần kinh ngoại biên 
mà không có triệu chứng cơ năng. Điều này cho 
thấy khi khám bệnh nhân đái tháo đường, bệnh 
nhân không than phiền triệu chứng cũng phải 
khám tầm soát để không bỏ soát biến chứng 
thần kinh ngoại biên. 
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy 
tỷ lệ nguy cơ cao loét chân (điểm khám lân 
sàng ≥ 8) của bệnh nhân chỉ có 8,8% (n = 29). 
Những bệnh nhân này đa số tuổi khoảng 64, 
thời gian phát hiện bệnh đái tháo đường 10 
năm, có các chỉ số BMI, Glucose huyết khi đói, 
HbA1c, LDL-c, Triglycerid đều cao hơn mục tiêu 
điều trị. Tuy nguy cơ loét chân cao thấp nhưng 
bệnh thần kinh ngoại biên chiếm tỷ lệ đến 54,1%. 
Bệnh nhân ĐTĐ típ 2 nói chung có một số 
đặc điểm liên quan đến dịch tễ học của bệnh và 
ảnh hưởng đến nội dung nghiên cứu. Trong số 
các đặc điểm chung cần quan tâm đến ở BN 
ĐTĐ típ 2 bao gồm tuổi, giới, chỉ số khối cơ thể, 
vòng eo, thời gian phát hiện bệnh và một số 
YTNC khác. 
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ biến 
chứng thần kinh ngoại biên tăng dần theo nhóm 
tuổi, 24,4% trong nhóm tuổi từ 41-50 tuổi; 50,0% 
trong nhóm tuổi từ 51- 60 tuổi; 64,2% trong 
nhóm tuổi từ 61-70 tuổi; tăng đến 72,9% trong 
nhóm tuổi trên 70 và sự khác biệt có ý nghĩa 
thống kê (p < 0,05). Nghiên cứu tại Bangladesh 
trên 294 bệnh nhân đái tháo đường típ 2 để xác 
định tỷ lệ biến chứng thần kinh ngoại biên do 
đái tháo đường và các yếu tố nguy cơ đã cho 
thấy tỷ lệ bệnh tăng theo tuổi, từ 11% trong 
nhóm tuổi 23 - 40 tuổi lên tới 32,3% ở nhóm tuổi 
60 – 80 tuổi và sự khác biệt có ý nghĩa thống kê 
(p < 0,01)(15). Điều này cho thấy, tuổi đời liên 
quan đến biến chứng thần kinh ngoại biên. 
Tỷ lệ bệnh nhân nữ có biến chứng thần kinh 
ngoại biên trong nghiên cứu của chúng tôi là 
59,8% và nam 46% (nữ gấp 1,3 lần nam) và sự 
khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). 
Trong khi đó các nghiên cứu trong và ngoài 
nước có tỷ lệ nam cao hơn hoặc nữ cao hơn 
nhưng không có sự khác biệt về giới tính trong 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 6 * 2018
 38
việc đánh giá các biến chứng thần kinh do đái 
tháo đường(13,15,16). Điều này chứng tỏ không phải 
lúc nào, tỷ lệ nữ cao thì tỷ lệ nữ có biến chứng 
thần kinh ngoại biên cao hơn. 
Tình trạng dư cân, béo phì là YTNC của 
nhiều bệnh tim mạch, chuyển hóa trong đó có 
ĐTĐ típ 2. Trong nghiên cứu chúng tôi, tỷ lệ 
thừa cân, béo phì chiếm 69,8%. Tỷ lệ bệnh nhân 
đái tháo đường béo phì có biến chứng thần kinh 
ngoại biên là 58,3% cao hơn 1,37 lần so với bệnh 
nhân có chỉ số khối cơ thể bình thường có biến 
chứng thần kinh ngoại biên. Tuy nhiên sự khác 
biệt này không có ý nghĩa thống kê. Kết quả này 
cũng tương tự như những kết quả nghiên cứu 
của Ibrahim A và cộng sự(13). 
Trong nghiên cứu của chúng tôi nam có 
vòng eo > 90 cm chiếm tỷ lệ 30,7% nam giới, nữ 
giới có vòng eo > 80 cm chiếm 49,0%. Kiểm soát 
vòng eo không đạt mục tiêu, nguy cơ mắc bệnh 
thần kinh ngoại biên cao hơn so với những 
người kiểm soát đạt mục tiêu vòng eo ở cả hai 
giới nam và nữ, tuy nhiên sự khác biệt này 
không có ý nghĩa thống kê. Kết quả này cũng 
tương tự kết quả nghiên cứu D.D. Wang(22). 
Tỷ lệ bệnh nhân nam hút thuốc lá có bệnh 
thần kinh ngoại biên do đái tháo đường trong 
nghiên cứu của chúng tôi là 40% (n=24). Các 
nghiên cứu trên thế giới, có mối liên quan kém 
giữa hút thuốc lá và biến chứng thần kinh đái 
tháo đường, hoặc là không có liên quan(6,13,15). 
Nghiên cứu của chúng tôi cũng cho thấy không 
có mối liên quan giữa biến chứng thần kinh và 
hút thuốc lá. 
Thời gian phát hiện đái tháo đường của các 
đối tượng trong nghiên cứu khoảng 5 năm, 
trong đó bệnh nhân đái tháo đường có biến 
chứng thần kinh ngoại biên khoảng 8 năm cao 
hơn so với nhóm không có biến chứng thần kinh 
ngoại biên là 4 năm (p < 0,05). Biến chứng thần 
kinh ngoại biên tăng theo thời gian phát hiện đái 
tháo đường, những bệnh nhân phát hiện bệnh 
đái tháo đường từ 10 năm đến dưới 15 năm 
nguy cơ bị biến chứng thần kinh ngoại biên tăng 
gấp 3,91 lần, từ 15 năm đến dưới 20 năm tăng 
gấp lần so với nhóm mới phát hiện đái tháo 
đường dưới 1 năm (p < 0,05). Những bệnh nhân 
phát hiện bệnh đái tháo đường từ 20 năm trở lên 
nguy cơ bị biến chứng thần kinh ngoại biên tăng 
gấp 4,58 lần so với nhóm mới phát hiện đái tháo 
đường dưới 1 năm, tuy nhiên (p = 0,051). Vậy 
thời gian phát hiện bệnh đái tháo đường lâu liên 
quan đến biến chứng thần kinh ngoại biên do 
đái tháo đường. Kết quả này tương đồng với các 
nghiên cứu của Kjersti Mørkrid và cộng sự(15), 
của Ogonna Oguejiofor và cộng sự(17). Các 
nghiên cứu trên cho thấy biến chứng thần kinh 
liên quan mật thiết với thời gian phát hiện bệnh 
đái tháo đường, những bệnh nhân phát hiện 
bệnh đái tháo đường càng lâu thì biến chứng 
thần kinh càng nhiều điều này phù hợp với y 
văn và các công trình nghiên cứu của các tác giả 
trong và ngoài nước. 
Tăng HA là bệnh thường gặp song hành với 
ĐTĐ típ 2, có thể xuất hiện trước, sau hoặc đồng 
thời với ĐTĐ. Mặc dù BN tăng HA đơn thuần 
thì biến chứng TKNB rất ít gặp, sự phối hợp của 
2 bệnh sẽ làm gia tăng nguy cơ gây tổn thường 
TKNB ở BN ĐTĐ típ 2 từ 1,5 - 2 lần(10,14). Trong 
nghiên cứu của chúng tôi, bệnh nhân bị tăng HA 
có bệnh thần kinh ngoại biên cao gấp 2,19 lần 
(KTC 95%: 1,34 – 3,59) so với bệnh nhân không 
bị tăng huyết áp (p=0,002). Kết quả này tương 
đồng với nghiên cứu khác, như nghiên cứu do 
Harris và công sự khảo sát trên 84.572 người ở 
Hoa Kỳ vào năm 1989 đã cho thấy bệnh thần 
kinh ngoại biên trên bệnh nhân đái tháo đường 
típ 2 liên quan đến tăng huyết áp(13). 
Nghiên cứu Partanen J và cs hơn 4000 bệnh 
nhân ĐTĐ đã nhận thấy sau 25 năm những 
bệnh nhân được kiểm soát đường máu tối ưu 
thì cũng có 10% bị biến chứng thần kinh(18). Ở 
những bệnh nhân không được điều trị, tỷ lệ 
biến chứng tăng lên đến 70% sau 25 năm bị 
ĐTĐ. Tất nhiên, cơ chế gây tổn thương thần 
kinh ở BN ĐTĐ rất phức tạp chứ không đơn 
thuần là yếu tố điều trị không hợp lý(2). Tuy 
nhiên nghiên cứu của chúng tôi, bệnh thần 
kinh ngoại biên không liên quan đến kiểm soát 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 6 * 2018 Nghiên cứu Y học
 39
đường máu lúc đói đạt mục tiêu điều trị. 
Nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ HbA1c đạt 
mục tiêu điều trị chiếm 40,8% (n=135). Đánh giá 
mối liên quan giữa kiểm soát đường huyết tốt, 
thể hiện qua HbA1c ≤ 7% và bệnh thần kinh 
ngoại biên, chúng tôi nhận thấy tỷ lệ bệnh nhân 
đạt mục tiêu HbA1c ≤ 7% có bệnh thần kinh 
ngoại biên chỉ bằng 0,49 lần (KTC95%: 0,49 – 
1,18) so với nhóm bệnh nhân có HbA1c > 7%, và 
sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p = 0,002). 
Vậy HbA1c được xác định là yếu tố liên quan 
đến bệnh lý thần kinh ngoại biên. 
Cholesterol tỷ trọng thấp, cholesterol tỷ 
trọng cao, triglycerid trong nghiên cứu của 
chúng tôi không có mối liên quan với bệnh thần 
kinh ngoại biên. 
Các yếu tố tuổi, giới tính, thời gian phát hiện 
bệnh đái tháo đường, bệnh tăng huyết áp và 
kiểm soát HbA1c đạt mục tiêu điều trị đều có 
mối liên quan với bệnh thần kinh ngoại biên, 
nhưng khi chúng tôi đưa vào phân tích đa biến, 
kết quả cho thấy biến chứng thần kinh ngoại 
biên do đái tháo đường ở bệnh nhân kiểm soát 
HbA1c đạt mục tiêu điều trị có xu hướng thấp 
hơn 0,42 lần so với nhóm bệnh nhân kiểm soát 
HbA1c không đạt mục tiêu điều trị. Vậy HbA1c 
được xác định là yếu tố liên quan đến bệnh lý 
thần kinh ngoại biên. 
KẾT LUẬN 
Qua nghiên cứu 331 người bị đái tháo đường 
típ 2 tại phòng khám Nội tiết bệnh viện Trưng 
Vương từ tháng 01- 11/2016, nghiên cứu “Đánh 
giá tỷ lệ bệnh thần kinh ngoại biên do đái tháo 
đường bằng Test sàng lọc của Vương quốc Anh” 
đã ghi nhận những kết quả sau: 
Bệnh thần kinh ngoại biên được đánh giá 
theo điểm triệu chứng 69,8%, nặng 23,6%; được 
đánh giá theo điểm khám lâm sàng 81,6%, nặng 
4,2% được đánh giá sau khi đã sàng lọc là 54,1%. 
Trong đó bệnh thần kinh ngoại biên được chẩn 
đoán không có triệu chứng cơ năng là 26,0%. 
Các yếu tố được xác định có liên quan với 
bệnh thần kinh ngoại biên do đái tháo đường 
khi phân tích đơn biến là bệnh nhân trên 70 tuổi, 
nữ, thời gian phát hiện bệnh đái tháo đường từ 
10 năm đến dưới 20 năm, có HbA1c trên 7%, 
bệnh tăng huyết áp. Khi phân tích hồi quy đa 
biến logistic chỉ yếu tố HbA1c có liên quan với 
bệnh thần kinh ngoại biên do đái tháo đường có 
ý nghĩa thống kê. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Abbott CA, Malik RA, van Ross ERE, Kulkarni J, Boulton AJM 
(2011), “Prevalence and characteristics of painful diabetic 
neuropathy in a large community-based diabetic population in 
the UK”, Diabetes Care, 34(10): 2220–4. 
2. Adgaonkar AA, Dawange AA, Adgaonkar ShA (2014), “A 
study of clinical profile of peripheral neuropathy in diabetes 
mellitus”, Scholars Journal of Applied Medical Sciences, 2(4C), pp. 
1347-1350. 
3. Armstrong DG, Lavery LA and Harkless LB (1998), "Validation 
of a diabetic wound classification system. The contribution of 
depth, infection, and ischemia to risk of amputation", Diabetes 
Care, 21: pp. 855-859. 
4. Bakris GL, Black HR (2003), “Joint National Committee on 
Prevention, Detection, Evaluation and Treatment of High Blood 
Pressure; National Heart, Lung and Blood Institute; National 
High Blood Pressure Education Program Coordinating 
Committee: Seventh report of the Joint National Committee on 
Prevention, Detection, Evaluation, and Treatment of High Blood 
Pressure”, Hypertension, 42(6):1206-1252. 
5. Boulton AJ (2005), "Diabetic neuropathies: a statement by the 
American Diabetes Association", Diabetes Care, 28: pp. 956–962. 
6. Clair C (2015), “The Effect of Cigarette Smoking on Diabetic 
Peripheral Neuropathy: A Systematic Review and Meta-
Analysis”, Journal of General Internal Medicine, 30(8): pp.1193–
1203. 
7. Consensus statement (1988), “Report and recommendations of 
the San Antonio conference on diabetic neuropathy”, American 
Diabetes Association American Academy of Neurology, Diabetes Care, 
11:592. 
8. Davies M, Brophy S, Williams R, Taylor A (2006), "The 
prevalence, severity and impact of painful diabetic peripheral 
neuropathy in type 2 diabetes", Diabetes Care, 29: pp. 1518 – 1522. 
9. Diabetes Association (2015), “Diagnosis and Classification of 
Diabetes Mellitus”, Diabetes Care, 38(1): pp.S1-S17. 
10. Đinh Đức Hòa (2013), Nghiên cứu đặc điểm chỉ số huyết áp 24 
giờ ở bệnh nhân tăng huyết áp có đái tháo đường týp 2, Luận 
văn bác sĩ chuyên khoa 2, Học viện Quân y. 
11. Fateh HR, Madani SP, Heshmat R, Larijani B (2016), 
“Correlation of Michigan neuropathy screening instrument, 
United Kingdom screening test and electrodiagnosis for early 
detection of diabetic peripheral neuropathy”,J Diabetes Metab 
Disord,15: pp. 8. 
12. Harris M, Eastman R, Cowie C (1993), "Symptoms of sensory 
neuropathy in adults with NIDDM in the U.S. population", 
Diabetes Care, 16(11): pp.1446-52. 
13. Ibrahim A, Owolabi LF, Borodo MM, Ogunniyi A (2015), 
“Clinical profile of diabetic sensorimotor polyneuropathy in a 
tertiary hospital in Northwestern Nigeria”, Original Article, 12, 
pp. 13-19. 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 6 * 2018
 40
14. Liu F, Bao Y, Hu R (2010), “Screening and prevalence of 
peripheral neuropathy in type 2 diabetes outpatients: a 
randomized multicentre survey in 12 city hospitals of China”, 
Diabetes/metabolism Research and Reviews, 26(6), pp. 481 – 489. 
15. Mørkrid K, Ali L and Hussain A (2010), "Risk factors and 
prevalence of diabetic peripheral neuropathy: A study of type 2 
diabetic outpatients in Bangladesh", Int J Diabetes Dev Ctries, 
30(1): pp.11–17. 
16. Nguyễn Thị Nhạn (2005), “Nghiên cứu biến chứng thần kinh 
ngoại biên ở bệnh nhân đái tháo đường”, Y Học Thực Hành, Hội 
nghị Khoa học Y Dược lần thứ 11 tại Trường Đại học Y Khoa 
Huế, Bộ Y Tế xuất bản, số 521, tr. 369-376. 
17. Oguejiofor O, Oli JO, Odenigbo CU et al (2008), “Are the 
symptoms of diabetic peripheral neuropathy in Nigerian 
patients objective? An evaluation using the United Kingdom 
Screening Test (UKST) and Bio-Thesiometry”, Tropical Journal of 
Medical Research, 12 (1), pp. 45-. 
18. Partanen J, Niskanen L, Lehtinen J, Mersvaala E, Siitonen O, 
Uusitupa M (1995), "Natural history of peripheral neuropathy in 
patients with non-insulin dependent diabetes mellitus", N Engl J 
Med, 333: pp. 89–94. 
19. Pirat J (1997), "Diabetes mellitus and its degenerative 
complications: a prospective study of 4400 patients observed 
between 1947 and 1973", Diabete Metab, 3(2): pp. 97-107. 
20. Thomas PK (1997), "Classification, differential diagnosis, and 
staging of diabetic peripheral neuropathy", Diabetes, 46: pp. S54–
S57. 
21. Turkan M (2013), "Comparison of Efficiencies of Michigan 
Neuropathy Screening Instrument, Neurothesiometer, and 
Electromyography for Diagnosis of Diabetic Neuropathy", 
International Journal of Endocrinology, DOI: 10.1155/2013/821745. 
22. Wang DD (2014), “Prevalence and correlates of diabetic 
peripheral neuropathy in a Saudi Arabic population: a cross-
sectional study”, PLoS One, 9(9), p.e106935. 
23. WHO expert consultation (2004),“Appropriate body-mass index 
for Asian populations and its implications for policy and 
intervention strategies”,The Lancet, 363: pp 157-163. 
Ngày nhận bài báo: 14/08/2018 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 30/08/2018 
Ngày bài báo được đăng: 10/10/2018