Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2018
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 368
ĐÁNH GIÁ TÍNH AN TOÀN CỦA CƠ SỞ Y TẾ TP. HỒ CHÍ MINH 
TRƯỚC TÁC ĐỘNG CỦA BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU, NĂM 2019 
Đặng Văn Chính*, Phạm Kim Anh, Phùng Đức Nhật**, Dương Thị Minh Tâm* 
TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Biến đổi khí hậu gây nên sự gia tăng của các hiện tượng khí hậu cực đoan và thiên tai cả về tần 
số và cường độ. Bão, lũ lụt, hạn hán, mưa lớn, nắng nóng, tố lốc là thiên tai gây thiệt hại về con người và sức 
khỏe cộng đồng, có thể tạo nên các khó khăn cho việc tiếp nhận điều trị của các bệnh viện(5). Việc tiến hành đánh 
giá điều kiện cơ sở vật chất khám chữa bệnh của các bệnh viện về tính an toàn trong việc ứng phó với tác động 
của BĐKH lên sức khỏe là điều cần thiết. 
Mục tiêu nghiên cứu: Khảo sát tính an toàn của cơ sở y tế trước tác động của biến đổi khí hậu. 
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả, từ 11/2018 đến 7/2019. 
Kết quả nghiên cứu: Có 22 bệnh viện (BV) được điều tra, gồm 4 nhóm: bệnh viện tuyến bộ ngành, tuyến 
thành phố, bệnh viện quận huyện công lập và bệnh viện tư nhân. Các bệnh viện đa số đạt các tiêu chí của bệnh 
viện an toàn về vị trí xây dựng và khả năng tiếp cận. Tuy nhiên, vẫn có một số BV không đạt về các tiêu chí của 
bệnh viện an toàn về thiết kế và kết cấu, chủ yếu là mật độ xây dựng (13,6%), về chống hỏa hoạn (18,2%), và 
chống động đất, gió bão ở cấp tối đa (18,2%). Các bệnh viện cũng có tỉ lệ không an toàn về tiêu chí phi kết cấu của 
bệnh viện an toàn về an toàn mái, trần và cửa ra vào, dao động từ 4,5% đến 22,7%. Các hệ thống kỹ thuật hạ 
tầng: điện, nước, khí vẫn còn có nơi chưa đạt. Ngoài ra, BV còn thiếu tài liệu thông tin giáo dục truyền thông cho 
người bệnh và nhân viên về những việc cần làm trong tình huống khẩn cấp/thảm họa (13,6%). 
Kết luận: Khảo sát sơ bộ tại 22 bệnh viện tại thành phố Hồ Chí Minh theo 4 nhóm: các bệnh viện thuộc 
tuyến bộ/ngành, các bệnh viện tuyến thành phố, tuyến quận huyện, tư nhân đang hoạt động tại TP. Hồ Chí 
Minh cho thấy mức độ đáp ứng về an toàn bệnh viện là chưa cao. Mức độ quan tâm của lãnh đạo bệnh viện về an 
toàn bệnh viện còn chưa cao. 
Từ khóa: bệnh viện an toàn, biến đổi khí hậu 
ABSTRACT 
ASSESSEMENT OF HOSPITAL SAFETY IN HO CHI MINH CITY 
IN RESPONSE TO CLIMATE CHANGE IN 2019 
Dang Van Chinh, Pham Kim Anh, Phung Duc Nhat, Duong Thi Minh Tam 
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 – No. 5 - 2019: 367 – 373 
Background: Climate change caused an increase of extreme climate and natural calamity both in frequency 
and severity. Storm, flooding, drought, heavy rain, extreme hot, whirlwind are natural calamity that affect human 
health and community health and cause difficulties in admission to hospitals of patients(5). A study on assessment 
of hospitals’ infrastructure on its safety towards responding to affect of climate change on health is neccesary. 
Objective: Study the safety of health care facilities on affect of climate change. 
Method: descriptive sectional study, from November 2018 till July 2019. 
Results: there were 22 hospitals under studied, including 4 categories: central, city, district, private 
hospitals. Most of hospitals reached the standards of hospital’s safety on location and accessibility. However, there 
*Viện Y tế công cộng thành phố Hồ Chí Minh **Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch 
Tác giả liên lạc: Ts.Phùng Đức Nhật ĐT: 0918103404, Email: 
[email protected] 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 369
were some hostipals did not meet the requirement of standards for hospital safety on design and structure, mainly 
on construction density (13.6%), on fire safety (18.2%), and on safety about earthquake and storm on its 
maximum level (18,2%). Hospitals also did not meet the requirement of standards on non-structural criteria on 
safety of roof, ceiling, and doors with proprotion from 4.5% to 22.7%. The system of technical infrastructure such 
as electricity, water supply, gas supply did not meet requirement of standards in some hospitals. Besides, some 
hospitals were also lack of appropriate information and education materials for patients and health care staff to 
guide tham on what should they do in emergency cases and in disaster (13.6%). 
Conclusion: A preliminary study of 22 hospitals in Ho Chi Minh city in 4 categories: central, city, district, 
private hospitals found that hospital safety is not high as requested. Concern of leaders of hospitals on hospital 
safety is also not very high. 
Keywords: hospital safety, climate change 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Biến đổi khí hậu (BĐKH) là một yếu tố nguy 
cơ đe dọa sức khỏe cộng đồng ở nhiều nước trên 
thế giới. Tác động của BĐKH lên sức khỏe cộng 
đồng thông qua ba phương cách: tác động trực 
tiếp, tác động gián tiếp và tác động thông qua 
các yếu tố liên quan đến sự thay đổi kinh tế xã 
hội và hệ thống y tế(8). 
Ban Liên Chính phủ về Biến đổi khí hậu 
(IPCC) dự báo các hiện tượng thời tiết khắc 
nghiệt sẽ diễn ra thường xuyên hơn. Hạn hán và 
lũ lụt hiện đã là tác nhân chính gây ra các thảm 
hoạ liên quan đến khí hậu hiện đang liên tục gia 
tăng. Nhiệt độ tăng quá 2°C sẽ đẩy nhanh quá 
trình mực nước dâng lên, dẫn đến việc mất phần 
lớn nơi cư trú của người dân các nước như 
Bangladesh, Ai Cập và Việt Nam và nhấn chìm 
một số đảo quốc nhỏ(3). 
Sự gia tăng của các hiện tượng khí hậu cực 
đoan và thiên tai cả về tần số và cường độ do 
BĐKH là mối đe dọa thường xuyên, trước mắt 
và lâu dài đối với tất cả các lĩnh vực, các vùng và 
các cộng đồng. Bão, lũ lụt, hạn hán, mưa lớn, 
nắng nóng, tố lốc là thiên tai xảy ra hàng năm ở 
nhiều vùng trong cả nước, gây thiệt hại về con 
người và sức khỏe cộng đồng, có thể tạo nên các 
khó khăn cho việc tiếp nhận điều trị của các 
bệnh viện(5). 
Với những tác động tiêu cực của BĐKH và 
nguy cơ ảnh hưởng sức khỏe tiềm ẩn tại thành 
phố Hồ Chí Minh việc tiến hành đánh giá điều 
kiện cơ sở vật chất khám chữa bệnh của các bệnh 
viện về tính an toàn trong việc ứng phó với tác 
động của BĐKH lên sức khỏe là điều cần thiết, 
từ đó kịp thời có các kế hoạch phòng chống và 
can thiệp hiệu quả. 
Câu hỏi nghiên cứu: Cơ sở hạ tầng y tế tại 
TP. Hồ Chí Minh có an toàn trong các tình huống 
do biến đổi khí hậu như thiên tai thảm họa? 
Mục tiêu 
Khảo sát tính an toàn của cơ sở y tế trước tác 
động của biến đổi khí hậu. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
Dân số mục tiêu 
Tất cả các bệnh viện tuyến bộ ngành, tuyến 
thành phố, bệnh viện quận huyện công lập và 
bệnh viện tư nhân đang hoạt động tại TP.Hồ 
Chí Minh 
Dân số chọn mẫu 
Những bệnh viện công lập, bệnh viện tư 
nhân được chọn nghiên cứu 
Tiêu chí chọn vào 
Các bệnh viện thuộc tuyến bộ/ngành, các 
bệnh viện tuyến thành phố, tuyến quận huyện, 
tư nhân đang hoạt động tại TP.Hồ Chí Minh. 
Tiêu chí loại ra 
Những cơ quan quản lý y tế, Trung tâm 
không giường bệnh, những bệnh viện tư nhân 
thuộc chuyên khoa thẩm mỹ và các bệnh 
viện/khu điều trị thuộc Sở Y tế quản lý nhưng 
đang hoạt động ngoài TP. Hồ Chí Minh. 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2018
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 370
Phương pháp nghiên cứu 
Thiết kế nghiên cứu 
Nghiên cứu cắt ngang mô tả. 
Thời gian nghiên cứu 
Từ 11/2018 đến 7/2019. 
Địa điểm nghiên cứu 
Các bệnh viện tại TP. Hồ Chí Minh. 
Cỡ mẫu 
Chọn mẫu thuận tiện. Giai đoạn từ tháng 5 
đến tháng 7/2019 chọn được 22 bệnh viện trong 
đó có bốn nhóm bệnh viện: bệnh viện trung 
ương, bệnh viện chuyên khoa, bệnh viện quận 
huyện, bệnh viện tư nhân. 
Phương pháp thu thập dữ liệu 
Tập huấn cho các thành viên nhóm nghiên 
cứu hiểu và nắm rõ phương pháp đánh giá bộ 
công cụ thu thập đánh giá tính an toàn của cơ sở 
y tế. Các cuộc đánh giá sẽ được thực hiện đồng 
thời bằng phương pháp điều tra mặt đối mặt và 
kết hợp với quan sát trực tiếp. 
Khảo sát tính an toàn của cơ sở y tế trước tác 
động của biến đổi khí hậu: Số liệu được thu thập 
thông qua bộ công cụ đánh giá bệnh viện an 
toàn trong tình huống khẩn cấp và thảm họa ban 
hành kèm theo Quyết định số 4695/QĐ – BYT 
ngày 21 tháng 11 năm 2013 của Bộ trưởng Bộ Y 
tế. Bộ công cụ này được chỉnh sửa phù hợp với 
bối cảnh của Việt Nam theo bộ công cụ của Tổ 
chức Y tế Thế giới(5). 
Bộ công cụ gồm 4 nhóm tiêu chí lớn như sau: 
(1) Tiêu chí kết cấu và phi kết cấu liên quan 
đến kiến trúc; 
(2) Tiêu chí phi kết cấu liên quan đến hệ 
thống trang thiết bị công trình đảm bảo cho 
người sử dụng; 
(3) Tiêu chí chức năng liên quan đến chính 
sách và nhân lực; 
(4) Tiêu chí chức năng liên quan đến trang 
thiết bị. 
Xử lý và phân tích dữ kiện 
Tất cả bộ câu hỏi được rà soát và làm sạch số 
liệu trước khi nhập liệu. Thông tin bị thiếu sẽ 
được thu thập bổ sung thông qua điện thoại 
hoặc email. Sử dụng phần mềm Epidata 3.1 để 
nhập số liệu. Sau khi hoàn thành nhập liệu sẽ 
chuyển toàn bộ số liệu sang phần mềm Stata 12.0 
để phân tích số liệu. 
KẾT QUẢN 
Kết quả phân tích dữ liệu từ 22 bệnh viện đã 
điều tra được trình bày như sau. 
Bảng 1. Thông tin về phân loại bệnh viện (n=22) 
Loại bệnh viện Tần số Tỉ lệ 
Tuyến trung ương 2 9,1% 
Tuyến thành phố 10 45,5% 
Tuyến quận huyện 5 22,7% 
Chuyên khoa, tư nhân 5 22,7% 
Nghiên cứu có đủ 4 nhóm bệnh viện cần 
điều tra. Tỉ lệ cao nhất là bệnh viện tuyến 
thành phố (45,5%) (Bảng 1). 
Bảng 2. Các tiêu chí của bệnh viện an toàn về vị trí xây dựng và khả năng tiếp cận (n=22) 
Vị trí xây dựng công trình và khả năng tiếp cận các bệnh viện 
Đạt 
n, (%) 
Đạt chưa đầy 
đủ n, (%) 
Không 
đạt n, (%) 
a. Các công trình của bệnh viện không xây dựng ở những khu vực dễ gặp hiểm họa 
(Ví dụ: Gần sông, nhánh sông hay hồ nước có thể làm xói mòn móng của tòa nhà) 
22 (100) 
b. Có biện pháp giảm thiểu rủi ro cho các công trình của bệnh viện trong khu vực dễ gặp 
hiểm họa (Như xây dựng hệ thống thoát nước, đê bao, tường rào) 
21 (95,5) 1 (4,5) 
c. Tiện lợi giao thông, và có đủ xe vận chuyển cấp cứu để có thể tiếp cận được cộng 
đồng (Quan sát thực địa; số xe cứu thương) 
21 (95,5) 1 (4,5) 
d. Không ở gần nơi có nguy cơ ô nhiễm môi trường (quá ồn, khói bụi, hôi thối, ngập nước, 
gần đường xe lửa, kho hàng, sân chơi trẻ em, sân bay, nhà máy, nhà máy rác thải). 
19 (86,4) 3 (13,6) 
e. Phù hợp với quy hoạch tổng thể của địa phương 21 (95,5) 1 (4,5) 
f. Đường dẫn vào bệnh viện thông thoáng. 22 (100) 
g. Có nhiều hơn một tuyến đường dẫn đến bệnh viện, có lối vào và lối ra bệnh viện riêng biệt. 16 (72,7) 6 (27,3) 
h. Có bảng chỉ dẫn rõ ràng và được đặt ở các vị trí thích hợp & được chiếu sáng ban đêm 19 (86,4) 2 (9,1) 1 (4,5) 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 371
Kết quả cho thấy vẫn còn bệnh viện chưa có 
biện pháp giảm thiểu rủi ro cho các công trình 
của bệnh viện trong khu vực dễ gặp hiểm họa 
(4,5%) và có bệnh viện chưa có bảng chỉ dẫn rõ 
ràng và được đặt ở các vị trí thích hợp & được 
chiếu sáng ban đêm (4,5%). Tuy nhiên, 100% 
bệnh viện không xây dựng ở những khu vực dễ 
gặp hiểm họa (Ví dụ: Gần sông, nhánh sông hay 
hồ nước có thể làm xói mòn móng của tòa nhà). 
(Bảng 2). 
Bảng 3. Các tiêu chí của bệnh viện an toàn về thiết kế và kết cấu (n=22) 
Thiết kế 
Đạt 
n,(%) 
Đạt chưa đầy 
đủ n,(%) 
Không đạt 
n,(%) 
a. Các công trình của bệnh viện được thiết kế có hình dáng đơn giản và cân đối về 
chiều ngang và chiều dọc (VD: tổng thể tòa nhà có hình vuông hay hình chữ nhật) 
21 (95,5) 1 (4,5) 
b. Mật độ xây dựng nhỏ hơn hoặc bằng 35% tổng diện tích đất. 12 (54,5) 7 (31,8) 3 (13,6) 
c. Các công trình bệnh viện ở gần khu vực có nguy cơ động đất thì phải tính toán để 
công trình đạt mức kháng chấn tối thiểu lớn hơn 1 cấp so với quy định cho khu vực địa 
lý đó 
18 (81,9) 1 (4,5) 3 (13,6) 
d. Bố trí đường dốc có chiều dài không vượt quá 9m, có tay vịn ở những nơi phù hợp, 
độ dốc tối đa 12%, thuận tiện cho việc vận chuyển người bệnh nằm giường và cho 
người tàn tật sử dụng. 
20 (91,9) 2 (9,1) 
e. Số tầng cao của các công trình trong bệnh viện phù hợp với quy hoạch của khu vực. 22 (100) 
Kết cấu 
a. Không có điểm nứt vỡ trên các thành phần của kết cấu (Không có các điểm nứt vỡ 
trên cột, dầm, sàn, tường chịu lực) 
18 (81,8) 2 (9,1) 2 (9,1) 
b. Các kết cấu được xây dựng bằng các vật liệu có khả năng chịu lửa trong vòng 2h. 17 (77,3) 1 (4,5) 4 (18,2) 
c. Các thành phần về kết cấu của tòa nhà (móng, cột, dầm, sàn, kèo) được tính toán 
chống được động đất, gió bão ở cấp tối đa. 
15 (68,2) 3 (13,6) 4 (18,2) 
d. Tường và cửa kính chịu được tốc độ gió bão cấp tối thiểu đạt cấp 12 (Sử dụng kính 
chịu lực an toàn, cửa đẩy ngang hoặc cửa lật..bản lề có khả năng cố định) 
13 (59,1) 5 (22,7) 4 (18,2) 
Các kết quả không đạt là khá cao về các tiêu 
chí của bệnh viện an toàn về thiết kế và kết cấu, 
các vi phạm có thể kể: mật độ xây dựng (mức tỉ 
lệ vi phạm là 13,6%), có điểm nứt vỡ trên kết cấu 
(9,1%), kết cấu không được xây dựng bằng các 
vật liệu có khả năng chịu lửa trong vòng 2h 
(18,2%) và các kết cấu của tòa nhà (móng, cột, 
dầm, sàn, kèo) không được tính toán để có thể 
chống được động đất, gió bão ở cấp tối đa.. 
(18,2%), tường và kính cửa không chịu được gió 
bão tối đa (18,2%) (Bảng 3). 
Bệnh viện phải là nơi an toàn cho bệnh nhân 
khi có tình huống khẩn cấp, bão lũ, thiên tai, 
thảm họa. Mức độ chưa đảm bảo an toàn của các 
bệnh viện là khá cao. Mái nhà chưa tối ưu để 
chịu được sức gió (18,2%) hoặc với gió bão cấp 
12 (13,6%). An toàn về cửa cũng chưa được coi 
trọng, với 22,7% không tuân thủ được qui định 
Khóa lắp trong các phòng bệnh nhân chỉ có thể 
sử dụng loại khóa từ bên ngoài hành lang để cho 
phép bệnh nhân thoát hiểm từ phòng chỉ thông 
qua một thao tác đơn giản, mà không cần dùng 
đến chìa khóa (Bảng 4). 
Bảng 4: Các tiêu chí phi kết cấu của bệnh viện an toàn về an toàn mái, trần và cửa ra vào (n=22) 
An toàn mái 
Đạt 
n,(%) 
Đạt chưa đầy 
đủ n,(%) 
Không 
đạt n,(%) 
a. Hệ thống mái được thiết kế để chịu được gió bão cấp 12 (Tiêu chuẩn cấp báo bão Việt Nam) 16 (72,7) 3 (13,6) 3 (13,6) 
b. Đối với các tòa nhà ở những khu vực hay bị bão sử dụng Mái bằng, Mái có độ dốc nhỏ 
hơn hoặc bằng 30° (tối ưu để chịu đựng được lực gió) 
14 (63,6) 4 (18,2) 4 (18,2) 
c. Mái được liên kết chắc chắn và an toàn. 16 (72,8) 5 (22,7) 1 (4,5) 
An toàn trần 
a. Trần bê tông, không bị dột và nứt 19 (86,4) 3 (13,6) 
b. Các trần treo làm bằng các vật liệu không phải bê tông phải được liên kết chắc chắn 
và không có các dấu hiệu nứt hoặc bong tróc các mảng liên kết 
17 (77,3) 4 (18,2) 1 (4,5) 
An toàn cửa và lối vào 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2018
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 372
An toàn mái 
Đạt 
n,(%) 
Đạt chưa đầy 
đủ n,(%) 
Không 
đạt n,(%) 
a. Các vật liệu làm cửa là các vật liệu chống được gió bão , chống cháy (VD: gỗ có sơn 
chống cháy, cửa sử dụng kính chịu lực) 
15 (68,2 5 (22,7) 2 (9,1) 
b. Cửa phải được liên kết chắc chắn với khung cửa và tường và sử dụng bản lề cố định được 20 (91,9 2 (9,1) 
c. Cửa ra vào các phòng đảm bảo dễ đóng mở và có chốt an toàn 20 (91,9 1 (4,5) 1 (4,5) 
d. Khóa lắp trong các phòng bệnh nhân chỉ có thể sử dụng loại khóa từ bên ngoài hành 
lang để cho phép bệnh nhân thoát hiểm từ phòng chỉ thông qua một thao tác đơn giản, 
mà không cần dùng đến chìa khóa. 
13 (59,1) 4 (18,2) 5 (22,7) 
e. Cửa lối ra cầu thang hay lối thoát hiểm được thiết kế luôn ở chế độ đóng và dễ mở ra 
ngoài khi cần thiết. 
16 (72,7) 2 (9,1) 4 (18,2) 
f. Trên các cửa thoát hiểm cần có biển hướng dẫn như: LỐI THOÁT HIỂM/EXIT 20 (91,9) 2 (9,1) 
Bảng 5: Các tiêu chí phi kết cấu của bệnh viện an toàn liên quan đến hệ thống trang thiết bị công trình đảm bảo 
an toàn cho người sử dụng: các hệ thống kỹ thuật hạ tầng: điện, nước, khí (n=22) 
1. Hệ thống điện 
Đạt 
n,(%) 
Đạt chưa đầy 
đủ n,(%) 
Không đạt 
n,(%) 
a. Nhà để máy phát điện được xây dựng chắc chắn và ở khu vực thuận tiện đảm bảo 
trong trường hợp xảy ra sự cố vẫn duy trì hoạt động. 
16 (72,7) 4 (18,2) 3 (13,6) 
b. Máy phát điện có chế độ ngắt/chuyển mạch tự động 18 (81,8) 2 (9,1) 2 (9,1) 
c. Chiếu sáng đủ ở tất cả các khu vực của bệnh viện bao gồm cả sân bệnh viện 18 (81,9) 4 (9,1) - 
d. Đèn ở lối thoát hiểm phải sáng và có pin dự phòng 18 (81,9) 4 (9,1) - 
2. Hệ thống cung cấp nước 
a. Bể chứa nước có sức chứa tối thiểu đáp ứng được nhu cầu trong vòng ba ngày. 13 (59,1) 6 (27,3) 3 (13,6) 
b. Có nguồn nước dự trữ: ví dụ như giếng, cơ sở cấp nước địa phương, bể nước di 
động hay xe cứu hỏa 
15 (68,2) 4 (18,2) 3 (13,6) 
3. Hệ thống khí y tế 
a. Nhà khí trung tâm cách ly với công trình chính, có hệ thống thông gió tốt, đảm bảo 
an toàn cháy nổ. 
16 (72,7) 3 (13,6) 3 (13,6) 
b. Bình chứa khí phải có niêm phong an toàn nguyên vẹn của nhà cung cấp, có tem 
quy định chủng loại khí. 
19 (86,4) 1 (4,5) 2 (9,1) 
c. Ống dẫn khí y tế gắn trên tường phải có vỏ bảo vệ, có hướng chỉ chiều dòng khí. 19 (86,4) 1 (4,5) 2 (9,1) 
d. Có bình oxi dự trữ dùng trong trường hợp sơ tán người bệnh trong trường hợp khẩn cấp 17 (77,3) 3 (13,6) 2 (9,1) 
4. Hệ thống thoát hiểm trong tình huống khẩn cấp 
a. Có đèn chiếu sáng tại các lối thoát hiểm trong tình huống khẩn cấp 16 (72,7) 5 (22,7) 1 (4,5) 
b. Các thiết bị chiếu sáng trong truờng hợp khẩn cấp, mất điện chung duy trì được độ 
chiếu sáng trong thời gian ít nhất 1 giờ 
15 (68,2) 6 (27,3) 1 (4,5) 
c. Có bảng hướng dẫn thoát hiểm có đèn sáng. 15 (68,2) 5 (22,7) 2 (9,1) 
Bảng 6: Các tiêu chí phi kết cấu của bệnh viện an toàn liên quan đến an toàn và an ninh cho con người (n=22) 
An toàn và an ninh cho nhân viên và người bệnh 
Đạt 
n,(%) 
Đạt chưa đầy 
đủ n,(%) 
Không đạt 
n,(%) 
a. Các lối ra vào được chỉ dẫn chi tiết bởi các biển báo và đèn chiếu sáng 20 (90,9) 2 (9,1) 
b. Có bảo vệ tuần tra liên tục 24/24 giờ 21 (95,5) 1 (4,5) 
c. Có thiết bị camera theo dõi dọc hành lang và khu vực tập trung đông bệnh nhân 
trong bệnh viện 
19 (86,4) 3 (13,6) 
d. Có đồ bảo hộ cá nhân (găng tay, khẩu trang và áo choàng) cho từng khu vực trong 
bệnh viện 
17 (77,3) 5 (22,7) 
e. Có trang thiết bị khử khuẩn 19 (86,4) 2 (9,1) 1 (4,5) 
f. Có tài liệu thông tin giáo dục truyền thông cho người bệnh và nhân viên về những 
việc cần làm trong tình huống khẩn cấp/thảm họa 
15 (68,2) 4 (18,2) 3 (13,6) 
Để bệnh viện hoạt động trong hoàn cảnh 
phải ứng phó các trường hợp khẩn cấp, các hệ 
thống kỹ thuật hạ tầng: điện, nước, khí, phải 
hoạt động tốt, ngay cả trong tình huống khẩn 
cấp. Mức độ không đạt các tiêu chí về điện (máy 
phát điện không có chế độ ngắt/chuyển mạch tự 
động) là 9,1%. Không có bể cấp nước (13,9%) và 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 373
không có nguồn dự trữ nước (13,9%). Thậm chí, 
còn thiếu đèn chiếu sáng lối thoát hiểm (4,5%) và 
thiếu bảng hướng dẫn thoát hiểm có đèn sáng 
(9,1%) (Bảng 5). 
Khi xảy ra thảm họa, thiên tai việc đảm bảo 
an toàn cho con người gồm cả người bệnh và 
nhân viên y tế là rất quan trọng. kết quả của các 
bệnh viện là khá tốt, chỉ có 13,6% thiếu các tài 
liệu thông tin giáo dục truyền thông cho người 
bệnh và nhân viên về những việc cần làm trong 
tình huống khẩn cấp/thảm họa (Bảng 6). 
BÀN LUẬN 
Nghiên cứu cho thấy tỉ lệ bệnh viện ở các vị 
trí có nguy cơ, chưa có biện pháp giảm thiểu rủi 
ro cho các công trình của bệnh viện trong khu 
vực dễ gặp hiểm họa là 4,5%, thấp hơn nhiều so 
với nghiên cứu về đánh giá tính dễ tổn thương 
của cơ sở y tế đối với thiên tai (bão, lụt và sạt lở 
đất) được tiến hành tại 4 Quảng Trị, Quảng 
Nam, Quảng Ngãi và Kon Tum của tác giả Hà 
Văn Như với gần 51% cơ sở y tế nằm ở khu vực 
thấp hoặc gần sông, suối có nguy cơ ngập lụt và 
18% ở vị trí có nguy cơ sạt lở đất(1). 
Về các yếu tố dễ bị tổn thương, dù vẫn còn 
tỉ lệ chưa đạt như (18,2%) bệnh viện có các kết 
cấu của tòa nhà không thể chống được động 
đất, gió bão ở cấp tối đa,  Và 18,2% bệnh 
viện có tường và kính cửa không chịu được 
gió bão tối đa. Con số này vẫn thấp hơn so với 
nghiên cứu của Lê Thị Ngọc Ánh tại 7 bệnh 
viện huyện và thành phố tỉnh Quảng Bình cho 
thấy 100% bệnh viện đều không đảm bảo an 
toàn khi có tình huống khẩn cấp và thảm họa 
xảy ra. Có nhiều yếu tố dễ bị tổn thương đang 
tồn tại ở hầu hết các bệnh viện(2). Tuy nhiên, 
thành phố Hồ Chí Minh hiếm có khả năng gặp 
gió, bão nguy cấp như Quảng Bình. 
Một số tiêu chí về kết cấu và phi kết cấu 
chưa đạt, như mái nhà chưa tối ưu để chịu được 
sức gió (18,2%) hoặc với gió bão cấp 12 (13,6%). 
An toàn về cửa: có 22,7% không tuân thủ qui 
định Khóa lắp trong các phòng bệnh nhân cho 
phép bệnh nhân thoát hiểm qua một thao tác 
đơn giản, không cần đến chìa khóa. Một nghiên 
cứu do Viện Y tế công cộng TP.HCM thực hiện 
năm 2016 cũng cho thấy việc ứng phó tác động 
của biến đổi khí hậu nhóm bệnh viện ngoại 
thành có số lượng tiêu chí đạt cao hơn nhóm 
bệnh viện nội thành, cụ thế nhóm tiêu chí kết 
cấu và phi kết cấu liên quan đến kiến trúc thì 
bệnh viện huyện Củ Chi đạt 100%, bệnh viện 
huyện Nhà Bè đạt 93,2%, trong khi đó bệnh viện 
tuyến nội thành đạt cao nhất 77,9%(6). 
Bênh viện cần chuẩn bị sẵn sàng cho ứng 
phó các trường hợp khẩn cấp. Các hệ thống kỹ 
thuật hạ tầng: điện, nước, khí,  phải hoạt động 
tốt, ngay cả trong tình huống khẩn cấp. Nghiên 
cứu này phát hiện tỉ lệ không đạt do máy phát 
điện không có chế độ ngắt/chuyển mạch tự động 
là 9,1%. Không có bể cấp nước (13,9%) và không 
có nguồn dự trữ nước (13,9%). Thiếu đèn chiếu 
sáng lối thoát hiểm (4,5%), thiếu bảng hướng 
dẫn thoát hiểm có đèn sáng (9,1%). Nghiên cứu 
năm 2011 về sự chuẩn bị của bệnh viện trong 
việc ứng phó các trường hợp khẩn cấp ở Mỹ (lấy 
số liệu năm 2008), gần như tất cả các bệnh viện 
đã có kế hoạch đáp ứng cho chất thải hoá học, 
thiên tai, dịch bệnh, và sự cố sinh học. Do đó xây 
dựng một bệnh viện an toàn trong trường hợp 
khẩn cấp và thảm họa là điều cấp thiết trong xã 
hội hiện đại(4). 
Đánh giá về tiêu chí phi kết cấu của bệnh 
viện an toàn liên quan đến an toàn và an ninh 
cho con người cho thấy tỉ lệ đạt chưa đầy đủ 
hoặc chưa đạt vẫn còn yếu về chiếu sáng cho 
thoát hiểm, bảo vệ tuần tra liên tục 24/24, thiếu 
camera. Về vật dụng, còn thiếu đồ bảo hộ cá 
nhân theo từng khu vực, trang thiết bị khử 
khuẩn, tài liệu hướng dẫn cách ứng phó cho con 
người khi có tình huống khẩn cấp/thảm họa. Các 
yếu tố này có thể làm cho bệnh viện ngưng hoạt 
động hoặc hoạt động kém hiệu quả. Tại khu vực 
châu Mỹ, người ta ước tính rằng một bệnh viện 
không hoạt động sẽ khiến 200.000 người không 
được chăm sóc sức khỏe. Các biện pháp can 
thiệp ngăn chặn sự tổn thất về chức năng sẽ ít 
tốn kém hơn nhiều so với việc khắc phục hậu 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2018
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 374
quả của cả bệnh viện sau thảm họa. Do đó, điều 
quan trọng là phải xác định mức độ an toàn của 
bệnh viện nếu thảm họa xảy ra(7). 
KẾT LUẬN 
Ở nhiều quốc gia, bệnh viện (BV) là nơi trú 
ẩn cuối cùng cho các nạn nhân gặp thiên tai cần 
sự chăm sóc. Tuy nhiên, tư liệu ghi nhận cho 
thấy các cơ sở y tế và nhân viên y tế là một trong 
những thương vong lớn của các trường hợp 
khẩn cấp, thiên tai và các cuộc khủng hoảng 
khác. Chính vì vậy, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) 
đã đưa ra chương trình bệnh viện an toàn nhằm 
đảm bảo các mục tiêu như: cho phép các bệnh 
viện hoạt động liên tục và cung cấp mức độ 
chăm sóc sức khỏe thích hợp và bền vững trong 
và sau các trường hợp khẩn cấp và thiên tai, bao 
gồm cả biến đổi khí hậu. Bệnh viện cũng phải 
đảm bảo rằng nhân viên được đào tạo có sẵn để 
cung cấp điều trị một cách chất lượng và công 
bằng cho những thương vong và số người sống 
sót trong trường hợp khẩn cấp, thiên tai và các 
cuộc khủng hoảng khác. 
Khảo sát sơ bộ tại 22 bệnh viện tại thành phố 
Hồ Chí Minh theo 4 nhóm: các bệnh viện thuộc 
tuyến bộ/ngành, các bệnh viện tuyến thành phố, 
tuyến quận huyện, tư nhân đang hoạt động tại 
TP.Hồ Chí Minh cho thấy mức độ đáp ứng về an 
toàn bệnh viện là chưa cao. 
Kết quả không đạt là khá cao về các tiêu chí 
của bệnh viện an toàn về thiết kế và kết cấu. Các 
kết cấu có thể không an toàn trong tình huống 
lửa cháy, chống động đất, gió bão. Các thiết kế 
và kết cấu của mái nhà, trần nhà, các cửa và lối 
ra vào cũng chưa đảm bảo an toàn hoàn toàn. 
Một số bệnh việc chưa đạt mức an toàn với các 
hệ thống kỹ thuật hạ tầng: điện, nước, khí 
Thậm chí, còn thiếu đèn chiếu sáng lối thoát 
hiểm và thiếu bảng hướng dẫn thoát hiểm có 
đèn sáng. Bệnh viện cũng thiếu các tài liệu thông 
tin giáo dục truyền thông cho người bệnh và 
nhân viên về những việc cần làm trong tình 
huống khẩn cấp/thảm họa. Những thiếu sót dễ 
khắc phục như nêu trên cho thấy mức độ quan 
tâm của lãnh đạo bệnh viện về an toàn bệnh viện 
còn chưa cao. 
KIẾN NGHỊ 
Theo Quyết định số 4695/QĐ-BYT ngày 21 
tháng 11 năm 2013 của Bộ trưởng Bộ Y tế, các 
bệnh viện cần định kỳ rà soát và báo cáo về an 
toàn bệnh viện. Việc này cần được chấn chỉnh và 
thực hiện nghiêm túc. 
Cần sự quan tâm cao hơn của lãnh đạo bênh 
viện trong công tác đảm bảo an toàn bệnh viện. 
Đưa văn hóa an toàn bệnh viện thành một tiêu 
chí phấn đấu của bệnh viện. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Hà Văn Như (2011). "Đánh giá thiệt hại cơ sở y tế do bão 
Ketsana, tháng 9 năm 2009 tại bốn tỉnh Miền Trung và Tây 
Nguyên". Tạp chí Y học Thực hành, 9(782):54-56. 
2. Lê Thị Ngọc Ánh, Nguyễn Quang Huy, Vũ Quang Hiếu và 
cộng sự (2016). "Đánh giá bệnh viện an toàn trong tình huống 
khẩn cấp và thảm họa tại tỉnh Quảng Bình năm 2015". Y học 
Thành Phố Hồ Chí Minh - Chuyên đề Y tế Công cộng, 5(S20):402-
411. 
3. Ling HY, Huaiping Z, Nawi Ng, Ching NL, Joacim R (2012). 
"Forecast of Dengue Incidence Using Temperature and 
Rainfall". PLoS Negl Trop Dis, 6(11):e1908. 
4. Richard WN, Iris MS (2011). "Hospital Preparedness for 
Emergency Response: United States, 2008". National Health 
Statistics Reports, 37:1-16. 
5. Tran ND (2015). "Characterizing the relationship between 
temperatureand mortality in tropical and subtropical cities: a 
distributed lag non-linear model analysis in Hue, Viet Nam, 
2009 2013". Global Health Action, pp.34-76. 
6. Viện Y tế công cộng TP. HCM (2016). "Đánh giá sơ bộ tác động 
của biến đổi khí hậu lên các vấn đề sức khỏe một số quận huyện 
tại thành phố Hố Chí Minh ". Đề Tài Cấp Thành phố Hồ Chí Minh, 
pp.12-98. 
7. WHO (2008). "Hospital safety index guide for evaluators". World 
Health Organization, p.13-15. 
8. Woodward A, Smith KR, Campbell-Lendrum D (2014). 
"Climate change and health: on the latest IPCC report". Lancet, 
383(9924):1185-9. 
Ngày nhận bài báo: 15/08/2019 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 31/08/2019 
Ngày bài báo được đăng: 15/10/2019