Đánh giá thang moca trong tầm soát suy giảm nhận thức ở người Việt Nam

Tài liệu Đánh giá thang moca trong tầm soát suy giảm nhận thức ở người Việt Nam: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 2 * 2017 Chuyên Đề Nội Khoa 210 ĐÁNH GIÁ THANG MOCA TRONG TẦM SOÁT SUY GIẢM NHẬN THỨC Ở NGƯỜI VIỆT NAM Nguyễn Thị Xuân Lan*, Trần Công Thắng** TÓM TẮT Mở đầu: Thang MoCA, được Nasreddine và cộng sự đề xuất, công cụ đánh giá chức năng nhận thức hữu dụng, cho thấy là có khả năng chẩn đoán tốt rối loạn thần kinh nhận thức. Mục tiêu: Đánh giá vai trò thang MoCA trong tầm soát rối loạn thần kinh nhận thức ở người Việt Nam trong cộng đồng. Phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang mô tả. Toàn bộ đối tượng từ 50 tuổi trở lên gồm 28 rối loạn thần kinh nhận thức điển hình, 40 rối loạn thần kinh nhận thức nhẹ, 72 bình thường đều được thực hiện thang MoCA. Sau đó điểm MoCA được đánh giá giá trị thông qua quá trình chẩn đoán theo tiêu chuẩn DSM – 5 về rối loạn thần kinh nhận thức nhẹ và điển hình. Phân tích thống kê dùng đường cong ROC để xác định điểm cắt tối ưu. Kết quả: Điểm cắt tối ưu để phân định nhóm rối loạn thần...

pdf6 trang | Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 10/07/2023 | Lượt xem: 174 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá thang moca trong tầm soát suy giảm nhận thức ở người Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 2 * 2017 Chuyên Đề Nội Khoa 210 ĐÁNH GIÁ THANG MOCA TRONG TẦM SOÁT SUY GIẢM NHẬN THỨC Ở NGƯỜI VIỆT NAM Nguyễn Thị Xuân Lan*, Trần Công Thắng** TÓM TẮT Mở đầu: Thang MoCA, được Nasreddine và cộng sự đề xuất, công cụ đánh giá chức năng nhận thức hữu dụng, cho thấy là có khả năng chẩn đoán tốt rối loạn thần kinh nhận thức. Mục tiêu: Đánh giá vai trò thang MoCA trong tầm soát rối loạn thần kinh nhận thức ở người Việt Nam trong cộng đồng. Phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang mô tả. Toàn bộ đối tượng từ 50 tuổi trở lên gồm 28 rối loạn thần kinh nhận thức điển hình, 40 rối loạn thần kinh nhận thức nhẹ, 72 bình thường đều được thực hiện thang MoCA. Sau đó điểm MoCA được đánh giá giá trị thông qua quá trình chẩn đoán theo tiêu chuẩn DSM – 5 về rối loạn thần kinh nhận thức nhẹ và điển hình. Phân tích thống kê dùng đường cong ROC để xác định điểm cắt tối ưu. Kết quả: Điểm cắt tối ưu để phân định nhóm rối loạn thần kinh nhận thức (nhẹ và điển hình) so với nhóm bình thường là 21/22 với các thông số giá trị độ nhạy 91,2%, độ đặc hiệu 94,4%. Điểm cắt tối ưu để phân định nhóm rối loạn thần kinh nhận thức điển hình so với nhóm không rối loạn thần kinh nhận thức điển hình là 16/17 với các thông số giá trị độ nhạy 100%, độ đặc hiệu 98,2%. Kết luận: Thang MoCA là công cụ tầm soát nhận thức hữu ích với độ nhạy và độ đặc hiệu cao trong việc tầm soát rối loạn thần kinh nhận thức trong cộng đồng. Từ khóa: thang MoCA, rối loạn thần kinh nhận thức, tiêu chuẩn DSM – 5 ABSTRACT MOCA TEST IN SCREENING FOR THE COGNITIVE IMPAIREMENT IN VIETNAMESE Nguyen Thi Xuan Lan, Tran Cong Thang * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement of Vol. 21 - No 2 - 2017: 210 - 215 Background: Montreal Cognitive Assessment, developed by Nasreddine et al, a convenient bedside cognitive test, has been shown to have good diagnostic utility for neurocognitive disorder. Objective: Evaluate the usefulness of the MoCA test in screening for neurocognitive disorder in the Vietnamese community. Methods: Descriptive cross – sectional study. A total of 140 participants (28 major NCD, 40 mild NCD, 72 normal controls) aged 50 years or above were assessed by MoCA. The MoCA scores were validated against diagnosis according to the DSM – 5 for major and mild NCD. Statistical analysis was performed using receiver operating characteristic curve and regression analyses. Results: The optimal cutoff score for the MoCA test to differentiate NCD (major and mild) from normal control was 21/22, giving a sensitivity of 0.912, specificity of 0.944. The optimal cutoff score for the MoCA test to differentiate major NCD from control was 16/17, giving a sensitivity of 1.00, specificity of 0.982. Conclusion: The MoCA test is a useful cognitive screening instrument with high sensitivity and specificity for screening NCD in the Vietnamese community. *Bệnh viện Hoàn Mỹ Sài Gòn ** Bộ môn Thần kinh, Khoa Y, Đại học Y Dược TPHCM Tác giả liên lạc: BS. Nguyễn Thị Xuân Lan ĐT: 01695529082 Email: xuanlannguyenmd@gmail.com Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 2 * 2017 Nghiên cứu Y học Thần kinh 211 Keywords: MoCA, neurocognitive disorder (NCD), Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders – Fifth Edition (DSM – 5) ĐẶT VẤN ĐỀ Với xu hướng già hóa dân số hiện nay, tỉ lệ người lớn tuổi tăng lên thì tỉ lệ bệnh liên quan tuổi già cũng gia tăng đáng kể, trong đó chiếm một phần không nhỏ là bệnh lý về các rối loạn thần kinh nhận thức. Với sự ra đời của tiêu chuẩn DSM – 5, khái niệm rối loạn thần kinh nhận thức đã thay đổi để bắt kịp với các tiến bộ của công tác chẩn đoán và điều trị những năm gần đây. Hiện nay, tại Việt Nam vẫn chưa có nhiều nghiên cứu thực hiện đánh giá giá trị thang MoCA cũng như vấn đề tầm soát rối loạn thần kinh nhận thức trong cộng đồng, các nghiên cứu chưa đưa ra được điểm cắt khuyến cáo cho người Việt Nam mà áp dụng điểm cắt của nghiên cứu gốc tại Canada trong khi trình độ học vấn của ta thấp hơn, phiên bản MoCA áp dụng cho nghiên cứu tại Việt Nam vẫn chưa thống nhất. Từ đó, chúng tôi tiến hành nghiên cứu này nhằm mục đích đánh giá giá trị của thang MoCA trong tầm soát rối loạn thần kinh nhận thức ở người Việt Nam trong cộng đồng. ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu Tất cả các đối tượng từ 50 tuổi trở lên đến dự chương trình Khám và Tư vấn sức khỏe miễn phí tại ba địa điểm sau đây từ 01/03/2016 đến 30/05/2016. Phòng khám Mai Khôi, 54 Thành Thái, phường 12, quận 10, Tp. Hồ Chí Minh. Nhân dân xã Tân Phú Trung, huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp. Nhân dân xã An Nhật Tân, huyện Tân Trụ, tỉnh Long An. Tiêu chuẩn nhận vào Chọn đối tượng từ 50 tuổi trở lên. Là người Việt Nam, biết nói, đọc và viết tiếng Việt. Đồng ý tham gia nghiên cứu. Tiêu chuẩn loại trừ Đối tượng bị loại ra khỏi nghiên cứu nếu có một trong các đặc điểm sau: Có bệnh lý tâm thần nặng, tâm thần phân liệt, sảng, trầm cảm nặng gây ảnh hưởng đến tình trạng nhận thức. Đối tượng mất ngôn ngữ, yếu tay thuận, khiếm khuyết thị giác hoặc thính giác làm ảnh hưởng đến khả năng thực hiện thang điểm. Đối tượng có bệnh lý nội ngoại khoa nặng không đủ khả năng hoàn thành thang điểm. Phương pháp nghiên cứu Thiết kế nghiên cứu Nghiên cứu cắt ngang mô tả. Phương pháp thu thập số liệu Công cụ thu thập số liệu: Bảng thu thập số liệu dựa theo tiêu chuẩn DSM – 5. Quá trình nghiên cứu chia thành hai giai đoạn nối tiếp nhau. Giai đoạn 1: Thử nghiệm thang MoCA Tiếng Việt Chúng tôi chọn ngẫu nhiên 50 người bình thường trong cộng đồng biết nói và viết tiếng Việt. Các đối tượng được đánh giá thang MoCA Tiếng Việt đã được Việt hóa từ phiên bản MoCA gốc. Sau đó chúng tôi đề nghị thang MoCA Tiếng Việt với một vài đặc điểm thay đổi so với phiên bản MoCA gốc rồi tiến hành nghiên cứu bằng sử dụng phiên bản MoCA đề nghị này. Giai đoạn 2: Chính thức đánh giá giá trị của thang điểm MoCA trong tầm soát rối loạn thần kinh nhận thức ở người Việt Nam. Tất cả đối tượng thỏa tiêu chuẩn nhận vào nghiên cứu. Thực hiện thang MoCA tiếng Việt đã được hiệu chỉnh. Thực hiện bộ câu hỏi nghiên cứu đánh giá chức năng nhận thức theo DSM –5. Quá trình Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 2 * 2017 Chuyên Đề Nội Khoa 212 đánh giá gồm 2 phần: ghi nhận thông tin và đánh giá kỹ năng. Cả hai phần chúng tôi đều thực hiện đánh giá sáu lĩnh vực: sự chú ý, chức năng điều hành, học tập và nhớ, chức năng ngôn ngữ, giác quan vận động và nhận thức xã hội. Riêng phần đánh giá kỹ năng, các chi tiết lựa chọn để đánh giá chúng tôi chọn theo tiêu chẩn DSM – 5. Sau đó chúng tôi tiến hành đánh giá thang IADL. Chi tiết về bộ câu hỏi với các phần đánh giá xin xem ở phần phụ lục. Dùng tiêu chuẩn DSM – 5 và thang IADL để kết luận chẩn đoán là rối loạn nhận thức thần kinh điển hình, rối loạn nhận thức thần kinh nhẹ hay bình thường. Xử lý số liệu Áp dụng phép kiểm Chi bình phương kiểm định mối liên quan giữa các biến định tính. Dùng hệ số tương quan Pearson và mô hình hồi quy tuyến tính để kiểm định mối tương quan giữa các biến định lượng có phân phối chuẩn. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê khi P < 0,05. Xác định điểm cắt tối ưu tức là tìm ngưỡng có độ nhạy và độ đặc hiệu cao nhất dựa trên phân tích đường cong ROC. Dùng chỉ số Youden J để xác định giá trị nào có độ nhạy và độ đặc hiệu cao nhất. Chỉ số J là trị số cao nhất của tổng độ nhạy và độ đặc hiệu trừ đi 1. KẾT QUẢ Đặc điểm của mẫu nghiên cứu Có tất cả 140 người tham gia nghiên cứu, độ tuổi thấp nhất là 50 tuổi, tuổi cao nhất là 96 tuổi, tuổi trung vị là 63 tuổi, trong đó nam chiếm 37,9% và nữ 62,1%. Có 54,3% đối tượng sống ở thành thị và 45,7% sống ở nông thôn. Về trình độ học vấn, số năm đi học thấp nhất là 1 năm, cao nhất là 16 năm, số trung vị là 6 năm, trong đó tỉ lệ học cấp I chiếm đa số 47,1%, học cấp II và cấp III gần tương đương nhau là 24,3% và 25%, trình độ đại học khá khiêm tốn chỉ 3,6%. Tình trạng rối loạn thần kinh nhận thức khi đánh giá bằng tiêu chuẩn DSM – 5 Tỉ lệ rối loạn thần kinh nhận thức điển hình là 20%, rối loạn thần kinh nhận thức nhẹ là 28,6% và tỉ lệ của nhóm bình thường là 51,4%. Đặc điểm của mẫu nghiên cứu khi đánh giá bằng tiêu chuẩn DSM – 5 Các yếu tố dịch tễ học Bảng 1: Mối liên quan giữa rối loạn thần kinh nhận thức với các yếu tố dịch tễ học Các yếu tố dịch tễ RLTKNT điển hình RLTKNT nhẹ Bình thường Tổng P Tuổi trung bình 74,4 tuổi ± 9,2 62,7 tuổi ± 7,5 61,2 tuổi ± 6,7 64,3 tuổi ± 9,0 < 0,001 Tỉ lệ nữ % 78,5% 62,5% 55,5% 62,1% 0,103 Tỉ lệ thành thị % 25% 60% 62,5% 54,3% 0,002 Học vấn 3,29 năm ± 2,65 5,55 năm ± 2,45 8,78 năm ± 3,33 6,76 năm ± 3,70 < 0,001 Đặc điểm thang MoCA của mẫu nghiên cứu Đặc điểm tổng MoCA Điểm tổng MoCA thấp nhất là 10 điểm, cao nhất là 30 điểm, điểm trung bình tổng MoCA là 21,06 ± 4,9 điểm. Đặc điểm từng thành phần MoCA của mẫu nghiên cứu 100% các đối tượng đều thực hiện được vẽ hình tròn, nhắc lại theo chiều xuôi, trả lời đúng năm, địa điểm và thành phố. Tỉ lệ làm đúng nối theo thứ tự xen kẽ và vẽ hình khối xấp xỉ 50%. Khi đánh giá kỹ năng vẽ đồng hồ, tất cả các đối tượng đều vẽ được hình tròn, tuy nhiên chỉ khoảng 70% trong số đó vẽ được số, khoảng 70% vẽ được kim. Gọi tên ba con vật, tỉ lệ gọi đúng tên tê giác là 45,7% trong khi sư tử và lạc đà thì tương ứng tỉ lệ là 70% và 66,4%. Khi đánh giá sự lưu loát, tức là kể tên các từ bắt đầu bằng chữ M, chỉ 4,3% đối tượng thực hiện được. Tỉ lệ trả lời đúng sự giống nhau giữa Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 2 * 2017 Nghiên cứu Y học Thần kinh 213 tàu hỏa – xe đạp, đồng hồ - cây thước chỉ là 17,9%; tỉ lệ nhắc lại đúng hai câu là 23,6%, tỉ lệ nhớ đủ năm từ là 10,7%. Giá trị của thang MoCA trong tầm soát rối loạn thần kinh nhận thức ở người việt nam trong cộng đồng Đặc điểm tổng MoCA phân theo tình trạng nhận thức Tổng MoCA trung bình của nhóm rối loạn thần kinh nhận thức điển hình, rối loạn thần kinh nhận thức nhẹ và bình thường lần lượt là 13,57; 19,45 và 24,87 điểm. Sự khác biệt này là có ý nghĩa thống kê với P < 0,001. Đặc điểm từng thành phần thang MoCA phân theo tình trạng nhận thức Đa số từng thành phần MoCA biểu hiện ở ba nhóm rối loạn thần kinh nhận thức là khác biệt có ý nghĩa thống kê với P < 0,001, ngoại trừ một vài thành phần như vẽ hình tròn của đồng hồ, nhắc lại theo chiều xuôi, sự lưu loát và sáu thành phần chức năng định hướng ngày, tháng, năm, thứ, địa điểm, thành phố. Đặc điểm các lĩnh vực nhận thức thang MoCA phân theo tình trạng nhận thức Khi đánh giá MoCA phân theo các lĩnh vực nhận thức ở ba nhóm rối loạn nhận thức thần kinh là có sự khác biệt mang ý nghĩa thống kê với P < 0,001, ngoại trừ chức năng định hướng thời gian và không gian là khác biệt không có ý nghĩa thống kê với P = 0,111. Giá trị thang MoCA trong việc phát hiện rối loạn thần kinh nhận thức điển hình Bảng 2: Các thông số giá trị của thang MoCA trong việc phát hiện rối loạn thần kinh nhận thức điển hình Điểm cắt SE SP J index PPV NPV 13/14 0,429 1,00 0,429 1,00 0,875 14/15 0,679 1,00 0,679 1,00 0,925 15/16 0,821 0,991 0,812 0,958 0,957 16/17 1,00 0,982 0,982 0,933 1,00 17/18 1,00 0,934 0,934 0,800 1,00 Giá trị thang MoCA trong việc phát hiện rối loạn thần kinhnhận thức Bảng 3: Các thông số giá trị của thang MoCA trong việc phát hiện rối loạn thần kinh nhận thức Điểm cắt SE SP J index PPV NPV 19/20 0,706 0,986 0,692 0,979 0,780 20/21 0,794 0,972 0,766 0,964 0,833 21/22 0,912 0,944 0,856 0,939 0,912 22/23 0,971 0,847 0,818 0,857 0,968 23/24 1,00 0,708 0,708 0,764 1,00 BÀN LUẬN Đặc điểm của mẫu nghiên cứu khi đánh giá bằng tiêu chuẩn DSM – 5 Tuổi già là yếu tố nguy cơ hàng đầu của rối loạn thần kinh nhận thức, theo đó tuổi càng cao thì rối loạn thần kinh nhận thức càng nặng nề. Vì vậy, kết quả của các nghiên cứu cho thấy đặc điểm về tuổi giữa ba nhóm tình trạng rối loạn thần kinh nhận thức có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê là điều phù hợp với y văn và lâm sàng. Tỉ lệ nữ phân theo ba nhóm tình trạng nhận thức là khác biệt không có ý nghĩa thống kê. Điều này cũng phù hợp với y văn, lâm sàng và các nghiên cứu khoa học là rối loạn thần kinh nhận thức không bị ảnh hưởng bởi giới tính. Người dân sống ở nông thôn thì khả năng bị rối loạn thần kinh nhận thức nhiều hơn là người sống ở thành thị và sự khác biệt này là có ý nghĩa thống kê. Có thể người sống ở thành thị có tỉ lệ phơi nhiễm nhiều hơn với các yếu tố bảo vệ như là học vấn cao hơn, môi trường hiện đại hơn, tiếp cận chăm sóc sức khỏe tốt hơn. Trình độ học vấn cao là yếu tố bảo vệ hàng đầu của rối loạn thần kinh nhận thức, theo đó dù là cơ chế sinh học như thế nào thì học vấn càng cao liên quan với độ lưu hành thấp của rối loạn thần kinh nhận thức. Vì vậy, kết quả của nghiên cứu cho thấy đặc điểm về trình độ học vấn giữa ba nhóm tình trạng rối loạn thần kinh nhận thức có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê là điều phù hợp với y văn và lâm sàng. Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 2 * 2017 Chuyên Đề Nội Khoa 214 Phiên bản MoCA đề xuất cho người Việt Nam Chúng tôi đề nghị thang MoCA Tiếng Việt với một vài đặc điểm thay đổi so với phiên bản MoCA gốc như sau. Các phần nối theo thứ tự xen kẽ, vẽ lại hình khối vuông, vẽ đồng hồ và gọi tên ba con vật chúng tôi giữ nguyên nội dung gốc. Chúng tôi chỉ thiết kế lại các phần này bằng cách phóng to thành trang lớn vì các đối tượng thử nghiệm nhận xét là chữ và hình nhỏ nên không nhìn rõ được, không đủ chỗ trống để vẽ hình. Ba con vật gọi tên chúng tôi để nguyên hình gốc mà không thay đổi bởi vì chúng tôi muốn bảo toàn mục đích của tác giả Nasreddine. Ba con vật sư tử, tê giác và lạc đà là các con vật không thường gặp ở các nước phương Tây lẫn ở các nước châu Á. Tuy nhiên được chọn để đánh giá vì phản ánh khả năng học tập và hiểu biết thông qua các phương tiện thông tin từ xa chứ không nhất thiết là phải gần gũi thì mới biết được. Phần đánh giá trí nhớ chúng tôi quyết định thay ”vẻ mặt” thành ”khuôn mặt” với lý do người nghe hay nhầm lẫn về mặt phát âm giữa ”vẻ mặt” và ”vẽ mặt” tức là vẽ hình khuôn mặt. Chúng tôi thay ”vải nhung” thành ”vải lụa” bởi vì có số lượng không nhỏ các đối tượng khi được yêu cầu là ghi nhớ từ ”vải nhung” thì họ lại nhớ là ”vải lụa”, có lẽ trong văn hóa Việt Nam vải lụa phổ biến và thông dụng hơn. Chúng tôi thay ”nhà thờ” thành ”trường học” bởi vì tránh nhạy cảm về mặt tôn giáo tín ngưỡng. Phần đánh giá ngôn ngữ chúng tôi thay ”Con mèo luôn luôn trốn dưới đi văng khi con chó ở trong phòng” thành ”Con mèo luôn luôn trốn dưới ghế khi con chó ở trong phòng” với lý do là ”đi văng” là từ mượn nên ít có người nghe mà hiểu được để nhắc lại nên dễ xảy ra lỗi nhầm lẫn, chúng tôi muốn sử dụng ”ghế” là từ thuần việt để phần đông người nghe hiểu dễ dàng. Phần đánh giá sự lưu loát chúng tôi thay” Kể các từ bắt đầu bằng L trong một phút” thành ”Kể các từ bắt đầu bằng M trong một phút” với lý do chữ ”L” dễ nhầm lẫn về mặt phát âm ”L và N” nhất là các vùng miền thuộc Bắc Trung Bộ. Trong số các chữ cái Tiếng Việt, chúng tôi cần lựa chọn một chữ mà đảm bảo các tiêu chí sau đây, đó phải là một phụ âm, có khả năng ghép âm đa dạng với nhiều nguyên âm, tạo thành từ có nghĩa với số lượng nhiều. Đó không phải là phụ âm ghép như ”N, NH, NG, NGH”, ”T, TH, TR”, ”G, GH”, ”K, KH”, ”P, PH”. Chữ cái này phải đảm bảo không nhầm lẫn về mặt phát âm như ”S và X”, ”CH và TR”. Và cuối cùng chúng tôi nhận thấy chỉ có chữ ”M” là thỏa các tiêu chí đặt ra. Phần đánh giá tư duy trừu tượng chúng tôi bổ sung ”tàu” thành ”tàu hỏa” với lý do dịch chính xác theo phiên bản MoCA nguyên gốc, và để trở thành danh từ cụ thể thay vì là danh từ chung. Chúng tôi thay ”thước kẻ” thành ”cây thước”với lý do tránh nhầm lẫn về mặt tư duy rằng ”thước kẻ” chỉ dùng để kẻ đường thẳng chứ không dùng để đo. Giá trị thang MoCA trong việc phát hiện rối loạn thần kinh nhận thức điển hình Trong nghiên cứu của chúng tôi, khi lựa chọn điểm cắt thích hợp để phân định nhóm rối loạn thần kinh nhận thức điển hình so với nhóm không rối loạn thần kinh nhận thức điển hình thì nhận thấy rằng tại điểm cắt 16/17 là có các thông số giá trị tối ưu nhất, độ nhạy 100%, độ đặc hiệu 98,2%, giá trị tiên đoán dương 93,3%, giá trị tiên đoán âm 100%. Nghiên cứu của chúng tôi chọn điểm cắt thấp hơn so với các nghiên cứu trên thế giới. Có điểm đặc biệt là nghiên cứu của MoCA gốc(5) và của Nhật Bản(1), Hàn Quốc(2) có điểm cắt để xác định nhóm rối loạn thần kinh nhận thức điển hình và rối loạn thần kinh nhận thức nhẹ là bằng nhau. Còn các nước như Hồng Kông(6), Ba Lan(4), Singapore(3) và chúng tôi đều có hai lựa chọn điểm cắt cho hai mục đích phát hiện bệnh khác nhau. Điều này chúng tôi vẫn chưa lý giải là tại sao. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 2 * 2017 Nghiên cứu Y học Thần kinh 215 Giá trị thang MoCA trong việc phát hiện rối loạn thần kinh nhận thức Trong nghiên cứu của chúng tôi, khi lựa chọn điểm cắt thích hợp để phân định nhóm có rối loạn thần kinh nhận thức so với nhóm bình thường thì nhận thấy rằng tại điểm cắt 21/22 là có các thông số giá trị tối ưu nhất, độ nhạy 91,2%, độ đặc hiệu 94,4%, giá trị tiên đoán dương 93,9%, giá trị tiên đoán âm 91,2%. Nghiên cứu gốc(5) chọn điểm cắt là 25/26, chúng tôi thấp hơn 4 điểm, Nhật Bản(1) cũng chọn điểm cắt 25/26, Ba Lan(4) và Singapore(3) chọn điểm cắt 24/25, Hàn Quốc(2) chọn điểm cắt 22/23, nghiên cứu của chúng tôi và Hồng Kông(6) cùng chọn điểm cắt là 21/22. Điều này có thể lý giải như ban đầu đã nói là trình độ học vấn của Nhật Bản(1) và Canada(5) cao hơn so với các nước còn lại. Tuy nhiên điều chúng tôi nhận thấy là các thông số giá trị của các nghiên cứu trên thế giới hơi thấp. Như Singapore(3) tại điểm cắt 24/25 đã chọn thì độ nhạy phát hiện nhóm có rối loạn thần kinh nhận thức so với nhóm chứng bình thường là 78%, độ đặc hiệu là 62%. Trong khi nghiên cứu của chúng tôi, tại điểm cắt 21/22 độ nhạy tương ứng là 91,2%, độ đặc hiệu là 94,4%. KẾT LUẬN Điểm trung bình tổng MoCA tương quan nghịch với sự tăng của tuổi và tương quan thuận với sự tăng của trình độ học vấn. Điểm trung bình tổng MoCA liên quan với tình trạng rối loạn thần kinh nhận thức và sự khác biệt này là có ý nghĩa thống kê. Các lĩnh vực nhận thức của thang MoCA ở ba nhóm rối loạn nhận thức thần kinh thì có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê ngoại trừ chức năng định hướng thời gian và không gian là khác biệt không có ý nghĩa thống kê. Thông qua nghiên cứu này, chúng tôi có đề nghị phiên bản MoCA Tiếng Việt có vài đặc điểm hiệu chỉnh so với phiên bản MoCA Tiếng Việt gốc. Điểm cắt tối ưu để phân định nhóm có rối loạn thần kinh nhận thức so với nhóm bình thường là 21/22 với các thông số giá trị độ nhạy 91,2%, độ đặc hiệu 94,4%, giá trị tiên đoán dương 93,9%, giá trị tiên đoán âm 91,2%. Điểm cắt tối ưu để phân định nhóm rối loạn thần kinh nhận thức điển hình so với nhóm không rối loạn thần kinh nhận thức điển hình là 16/17 với các thông số giá trị độ nhạy 100%, độ đặc hiệu 98,2%, giá trị tiên đoán dương 93,3%, giá trị tiên đoán âm 100%. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Fujiwara Y, et al (2010). Brief screening tool for mild cognitive impairment in older Japanese: validation of the Japanese version of the Montreal Cognitive Assessment. Geriatr Gerontol Int, 10(3): 225-232. 2. Lee JY, Lee DW, et al (2008). Brief screening for mild cognitive impairment in elderly outpatient clinic: validation of the Korean version of the Montreal Cognitive Assessment. Journal of geriatric psychiatry and neurology, 21(2): 104-110. 3. Liew TM, et al (2015). Diagnostic utility of Montreal Cognitive Assessment in the Fifth Edition of Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders: major and mild neurocognitive disorders. J Am Med Dir Assoc, 16(2): 144-148. 4. Magierska J, et al (2012). Clinical application of the Polish adaptation of the Montreal Cognitive Assessment (MoCA) test in screening for cognitive impairment. Neurol Neurochir Pol, 46(2): 130-139. 5. Nasreddine ZS, Phillips NA, et al (2005). The Montreal Cognitive Assessment, MoCA: a brief screening tool for mild cognitive impairment. J Am Geriatr Soc, 53(4): 695-699. 6. Yeung PY, et al (2014). A validation study of the Hong Kong version of Montreal Cognitive Assessment (HK-MoCA) in Chinese older adults in Hong Kong. Hong Kong Med J, 20(6): 504-510. Ngày nhận bài báo: 18/11/2016 Ngày phản biện nhận xét bài báo: 17/12/2016 Ngày bài báo được đăng: 01/03/2017

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfdanh_gia_thang_moca_trong_tam_soat_suy_giam_nhan_thuc_o_nguo.pdf