Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 3 * 2017 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2017 9
ĐÁNH GIÁ MỖI TƯƠNG QUAN NHÃN ÁP 
VÀ BIẾN SỐ BỌNG KẾT MẠC CỦA PHẪU THUẬT CẮT BÈ CỦNG MẠC 
KẾT HỢP OLOGEN 
Nguyễn Hoàng Mỹ Ngọc*, Trần Anh Tuấn** 
TÓM TẮT 
Đặt vấn đề và mục tiêu: Nghiên cứu được tiến hành nhằm khảo sát nhãn áp và hình thái cũng như các 
thông số đánh giá bọng kết mạc của các phẫu thuật cắt bè củng mạc kết hợp ologen ở thời điểm sau 1 năm điều trị 
phẫu thuật tại bệnh viện Mắt thành phố Hồ Chí Minh. 
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu tiến cứu, mô tả cắt dọc. Mẫu nghiên cứu gồm các bệnh nhân được 
điều trị phẫu thuật cắt bè củng mạc với Ologen từ tháng 10 năm 2015 đến tháng 6 năm 2016 tại khoa Glaucoma 
Bệnh viện Mắt thành phố Hồ Chí Minh. Kết quả nhãn áp được lấy sau 1 năm phẫu thuật, kết quả cấu trúc bọng 
kết mạc được đánh giá thông qua khám lâm sàng sinh hiển vi và chụp ảnh cắt lớp quang học bán phần trước. Mối 
liên quan giữa phân loại bọng và nhãn áp trung bình cho thấy có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê, kiểm định phi 
tham số các giá trị trung bình Kruskal-Wallis với p < 0,05. 
Kết quả: Mẫu nghiên cứu gồm 44 mắt được theo dõi (22 mắt phải và 22 mắt trái), với độ tuổi trung bình là 
60,68 ± 6,87, với thời gian theo dõi trung bình 17,50 ± 3,21 tháng. Nhãn áp trung bình trước mổ là 41,25 ± 14,6 
mmHg và nhãn áp trung bình tại thời điểm khảo sát là 13,60 ± 3,6 mmHg. Khảo sát cho thấy trên lâm sàng cũng 
như trên hình ảnh chụp cắt lớp bán phần trước, loại bọng dạng nang và bọng tỏa lan chiếm tỉ lệ cao nhất với nhãn 
áp đo được thấp nhất. Có 52,27% trường hợp đạt nhãn áp đích 14 mmHg. Sự hiện diện của nhóm bọng chức 
năng: bọng dạng nang chiếm 22,7% và bọng lan tỏa chiếm 22,7% trên hình ảnh chụp cắt lớp quang học tương 
ứng với mức nhãn áp kiểm soát tốt (p<0,05). Không ghi nhận trường hợp biến chứng nào xảy ra. 
Kết luận: Kết quả sau 1 năm điều trị cắt bè củng mạc với Ologen cho thấy tỉ lệ cao nhãn áp được kiểm soát 
tương ứng hình thái nhóm bọng chức năng. Kết hợp chế phẩm sinh học trong phẫu thuật cắt bè đem lại lợi ích an 
toàn, tương đối hiệu quả cho các trường hợp glaucoma góc đóng nguyên phát. 
Từ khóa: nhãn áp, bọng kết mạc, củng mạc. 
ABSTRACT 
THE CORRELATION BETWEEN THE INTRAOCULAR PRESSURE 
AND BLEB VALUES OF TRABECULECTOMY AUGMENTED WITH OLOGEN 
Nguyen Hoang My Ngoc, Tran Anh Tuan 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement Vol. 21 - No 3 - 2017: 9 - 15 
Purpose: The study was conducted to evaluate the intraocular pressure and the morphology as well as bleb 
values of trabeculectomy augmented with Ologen after 1 year follow-up at Ho Chi Minh Eye Hospital. 
Methods: In this prospective, longitudinal descriptive study, clinical data are obtained from patients with 
primary angle closure glaucoma and acute angle closure allocated for trabeculectomy augmented with Ologen 
from October 2015 to June 2016 in the Glaucoma Department of Ho Chi Minh City Eye Hospital. The 
intraocular pressure results were obtained after one-year surgery, results bleb structures were evaluated through 
clinical examination and images of the anterior segment – optical coherence tomography. The correlation between 
the bleb classification and the average intraocular pressure shows the differences with statistical significance, non-
*Bộ môn Mắt trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch 
Tác giả liên lạc: BS.Nguyễn Hoàng Mỹ Ngọc. ĐT: 0985970558 Email: 
[email protected] 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 3 * 2017
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2017 10
parametric Kruskal-Wallis test of average values with p <0.05. 
Results: 44 eyes of 18 primary angle closure glaucoma eyes and 26 acute angle closure eyes were observed, 
with an average age of 60.68 ± 6.87, and the mean follow-up period is 17.50 ± 3.21 months. The mean preoperative 
intraocular pressure was 41.25 ± 14.6 mmHg and the mean intraocular pressure at the survey time is 13.60 ± 3.6 
mmHg. The blebs were classified into four categories according to the images of filtering blebs by clinical 
examination and anterior segment – optical coherence tomography. Based on these images, the study indicates 
polycystic blebs and diffusing blebs accounted for the highest proportion with the lowest measured intraocular 
pressure. 52.27% of the cases have reached the target of 14 mmHg of intraocular pressure. The presence of 
functioning group: 22.7% of polycystic blebs and 22.7% diffusing blebs on the tomography image corresponding 
optical intraocular pressure controlling levels (p <0.05). There was no significant difference in postoperative 
complications. 
Conclusion: Results of this study significantly contribute to efforts to re-examine patients more thoroughly 
and extensively, with a particular focus on the connection of intraocular pressure and bleb morphology which 
influences the postoperative. It may be a new, safe, simple and effective therapeutic approach for treating primary 
glaucoma. 
Keywords: intraocular pressure, bleb, trabeculectomy. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Glaucoma là tình trạng bệnh lý của thần kinh 
thị giác, đặc trưng bởi sự tiêu hủy các tế bào 
hạch và sợi trục võng mạc nên tổn thương do 
bệnh glaucoma là không có khả năng hồi phục. 
Điều trị glaucoma bằng phương pháp phẫu 
thuật cắt bè củng mạc được tác giả Cairn áp 
dụng từ năm 1968 (2) và trở thành phương pháp 
phẫu thuật tiêu chuẩn trong điều trị glaucoma. 
Đây cũng là phương pháp điều trị phổ biến cho 
các hình thái glaucoma không kiểm soát được 
bằng nội khoa. Tuy nhiên, quá trình liền sẹo là 
nguyên nhân thường gặp nhất gây mất chức 
năng bọng kết mạc, từ đó dẫn đến thất bại phẫu 
thuật. Do đó, việc sử dụng thêm những chất làm 
bằng công nghệ sinh học để kiểm soát nhãn áp 
sau phẫu thuật cắt bè củng mạc mà không ảnh 
hưởng đến quá trình lành sẹo tự nhiên là một 
tiến bộ khoa học hiện nay trong phẫu thuật nhãn 
khoa. Trong đó, việc đánh giá tình trạng bọng 
kết mạc bằng máy chụp cắt lớp là phương pháp 
dễ thực hiện, không xâm hại, có độ chính xác cao 
và hiện tại Việt Nam chưa có nghiên cứu nào 
liên quan đến đánh giá nhãn áp và bọng Ologen. 
Mục tiêu nghiên cứu 
Đánh giá hiệu quả hạ nhãn áp của phẫu 
thuật cắt bè củng mạc kết hợp Ologen ở bệnh 
nhân góc đóng cấp và glaucoma góc đóng 
nguyên phát. 
Đánh giá sự tương quan giữa nhãn áp và 
hình thái bọng kết mạc sau 1 năm của phẫu 
thuật cắt bè củng mạc kết hợp Ologen bằng máy 
chụp cắt lớp quang học bán phần trước. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Dân số chọn mẫu 
Các bệnh nhân glaucoma góc đóng nguyên 
phát và bệnh nhân góc đóng cấp đã phẫu thuật 
cắt bè củng mạc kết hợp Ologen thỏa mãn tiêu 
chuẩn chọn mẫu đến tái khám tại bệnh viện Mắt 
Tp HCM từ 10/2015 đến 4/2016. 
Tiêu chuẩn chọn mẫu 
Bệnh nhân bị glaucoma góc đóng nguyên 
phát, góc đóng cấp đã phẫu thuật cắt bè củng 
mạc kết hợp Ologen sau 1 năm. 
Không có biến chứng sau phẫu thuật. 
Có điều kiện tham gia nghiên cứu. 
Tiêu chuẩn loại trừ 
Các hình thái glaucoma khác. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 3 * 2017 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2017 11
Các tổn thương về kết - giác mạc và mi ảnh 
hưởng đến tình trạng sẹo bọng: bỏng kết - giác 
mạc, dính mi cầu 
Có thực hiện những phẫu thuật tại mắt khác 
sau phẫu thuật cắt bè củng mạc. 
Cỡ mẫu 
Cỡ mẫu được tính theo công thức 
trong đó C là hằng số liên quan đến sai sót α và β 
Ta có thể tính C(α, β) theo bảng dưới đây: 
α β = 0,1 (lực mẫu 0,9) β = 0,2 (lực mẫu 0,8) 
0,01 16,74 13,33 
0,05 10,51 7,85 
Trong nghiên cứu của Florent Aptel(1) cùng 
cộng sự, r tương quan giữa nhãn áp và hình thái 
khảo sát bọng kết mạc trên AS-OCT là r = 
0,81.Với α = 0,05 và β = 0,2 thì C = 7,85. 
Thiết kế nghiên cứu: 
Nghiên cứu quan sát mô tả tiến cứu cắt dọc. 
Qui trình nghiên cứu 
Bệnh nhân được tái khám và được lưu trữ hồ 
sơ tại bệnh viện. Số liệu được thu thập từ hồ sơ 
và theo mẫu soạn sẵn. Sau đó đưa vào thống kê 
phân tích bằng phần mềm Stata. 
Phương tiện nghiên cứu: 
Bệnh nhân được khám võng mạc bằng đèn 
soi đáy mắt gián tiếp, kính sinh hiển vi, đo nhãn 
áp, chụp cắt lớp quang học bán phần trước. 
KẾT QUẢ 
Đặc điểm nền 
Nghiên cứu được thực hiện trên 36 bệnh 
nhân vào mẫu nghiên cứu với 44 mắt được theo 
dõi (22 mắt phải và 22 mắt trái). Trong đó có 8 
bệnh nhân đã được phẫu thuật cắt bè củng mạc 
trên cả hai mắt và 28 bệnh nhân được phẫu thuật 
trên một mắt, với 2 nhóm chẩn đoán chính là góc 
đóng cấp (Acute angle closure - AAC) và 
glaucoma góc đóng nguyên phát (Primary angle 
closure glaucoma - PACG). 
Trong 36 bệnh nhân tham gia vào nghiên 
cứu, có 10 bệnh nhân nam (27,80%) và 26 bệnh 
nhân nữ (72,20%); tuổi trung bình chung của 
bệnh nhân trong mẫu nghiên cứu là 60,68 ± 6,87; 
thời gian trung bình từ lúc mổ đến lúc khảo sát 
là 17,50 ± 3,21 tháng; 18 mắt góc đóng cấp 
(40,9%) và 26 mắt (59,1%) glaucoma góc đóng 
nguyên phát. Có 30 bệnh nhân (68,2%) không 
cần dùng bổ sung thêm thuốc hạ nhãn áp sau 
phẫu thuật cắt bè cũng mạc;11 bệnh nhân (25%) 
sử dụng thêm 1 loại thuốc hạ nhãn áp; 2 bệnh 
nhân (4,5%) cần sử dụng thêm 3 nhóm thuốc và 
1 bệnh nhân (2,3%) sử dụng thêm trên 2 nhóm 
thuốc. Nhóm góc đóng cấp (AAC), nhóm 
glaucoma góc đóng nguyên phát (PACG) cũng 
có thị lực logMar trung bình sau mổ (0,504 ± 
0,09) cải thiện hơn thị lực logMar trung bình 
trước mổ (0,601 ± 0,11). 
Về nhãn áp trước và sau mổ 
Nhóm góc đóng cấp có sự khác biệt về 
nhãn áp trung bình trước mổ (48,97 ± 12,6 
mmHg) và nhãn áp trung bình tại thời điểm 
khảo sát (13,53 ± 3,2 mmHg) cao nhất, nhóm 
glaucoma góc đóng nguyên phát (PACG) có 
sự khác biệt về nhãn áp ít hơn với nhãn áp 
trung bình trước mổ (35,90 ± 13,8 mmHg) và 
nhãn áp trung bình tại thời điểm khảo sát 
(13,60 ± 3,6 mmHg). Chúng tôi nhận thấy có sự 
khác biệt về nhãn áp trước mổ và sau mổ theo 
từng nhóm với các giá trị p<0,001 kiểm định 
phi tham số Wilcoxon signed rank so sánh 
giữa các mẫu bắt cặp. Bảng 1 cho thấy số 
lượng mắt có nhãn áp tại thời điểm khảo sát ≤ 
14 mmHg hoặc ≤ 18 mmHg theo từng nhóm 
bệnh. Trong đó có 23 trường hợp có nhãn áp ≤ 
14 mmHg và 42 trường hợp có nhãn áp ≤ 18 
mmHg. 
Bảng 1: Tỉ lệ mắt có nhãn áp dưới 14 mmHg và 18 
mmHg 
 ≤ 14mmHg ≤ 18mmHg 
AAC 10 (43,5%) 18 (42,9%) 
PACG 13 (56,5%) 24 (57,1%) 
Giá trị p* 0,717 0,228 
n 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 2 * 2017
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2017 12
Về đặc điểm bọng trên lâm sàng 
Nghiên cứu cho thấy, trên lâm sàng loại III 
(bọng dẹt) chiếm tỉ lệ cao nhất (31,8%), loại I 
(bọng dạng nang) chiếm tỉ lệ thấp nhất (20,5%). 
Loại II (bọng tỏa lan) chiếm tỉ lệ 25% và bọng loại 
IV (bọng vỏ bao) chiếm tỉ lệ 22,7%. 
Bảng 2: Liên quan giữa nhãn áp trung bình và hình 
thái loại bọng trên lâm sàng 
Phân loại bọng 
Theo lâm sàng 
Nhãn áp trung bình (mmHg) 
Mẫu chung Nhóm không dùng thuốc 
Loại I (n=9) 14,40 ± 3,36 14,36 ± 2,94 
Loại II (n=11) 10,96 ± 4,14 9,45 ± 2,86 
Loại III (n=14) 13,71 ± 2,99 14,32 ± 2,50 
Loại IV (n=10) 15,64 ± 3,04 16,45 ± 2,08 
Giá trị p* 0,029 0,003 
Ở bọng loại II có nhãn áp trung bình mẫu 
chung và nhãn áp trung bình ở nhóm không 
dùng thuốc thấp nhất lần lượt là 10,96 ± 4,14 
mmHg và 9,45 ± 2,86 mmHg. Bọng loại II (bọng 
tỏa lan) và III (bọng dẹt) có nhãn áp trung bình 
thấp hơn bọng loại I (bọng dạng nang) và IV 
(bọng vỏ bao). Sự khác biệt về mối liên quan 
giữa các hình thái bọng này và nhãn áp có ý 
nghĩa thống kê với p < 0,05. 
Hai hình thái bọng loại I và II là những hình 
thái bọng có chức năng thấm lọc tốt. Bọng loại 
III, IV là những hình thái bọng có chức năng 
thấm lọc kém hơn dễ gây mất tình trạng kiểm 
soát nhãn áp sau phẫu thuật. Tuy nhiên ở nghiên 
cứu này cho thấy bọng loại IV có mức nhãn áp 
cao nhất. Nhận định này khá khác biệt với kết 
luận của tác giả Kronfield (6), lý do khác biệt về 
thời gian nghiên cứu cũng như tiêu chuẩn mẫu 
nghiên cứu. 
Về đặc điểm bọng trên chụp cắt lớp quang học 
bán phần trước AS-OCT 
Trong 44 mắt khảo sát, chiều cao bọng trung 
bình chiếm tỉ lệ cao nhất (43,2%), bề dày thành 
bọng dạng mỏng chiếm 70,5%, độ rộng khoang 
phản âm dạng rộng chiếm 47,7%, chiều cao 
khoang phản âm thấp chiếm nhiều nhất (54,5%), 
dịch dưới kết mạc chiếm 63,6% và lỗ mở bè nhìn 
thấy chiếm 52,3%. Nghiên cứu cho thấy loại E 
(bọng vỏ bao) chiếm tỉ lệ cao nhất (36,4%), loại F 
(bọng dẹt) chiếm tỉ lệ thấp nhất (18,2%). Ngoài 
ra, loại C (bọng dạng nang) và bọng loại D (bọng 
tỏa lan) chiếm tỉ lệ 22,7%. 
Ở nhóm không dùng thuốc, nhãn áp được 
kiểm soát tốt ở bọng loại C (bọng dạng nang) và 
D (bọng tỏa lan) với mức huyết áp ổn định 
tương ứng 9,06 ± 2,84 mmHg và 14,09 ± 2,84 
mmHg so với mức nhãn áp đích là 14 mmHg. Ở 
bọng loại C có nhãn áp trung bình ở nhóm 
không dùng thuốc thấp nhất 9,06 ± 2,84 mmHg. 
Bọng loại C (bọng dạng nang) và D (bọng tỏa 
lan) có nhãn áp trung bình thấp hơn bọng loại E 
(bọng vỏ bao) và F (bọng dẹt) được thể hiện ở 
bảng 3. 
Bảng 3: Nhãn áp trung bình theo loại bọng trên AS-
OCT 
Phân loại bọng 
Theo lâm sàng 
Nhãn áp trung bình (mmHg) 
Mẫu chung Nhóm không dùng thuốc 
Loại C (n=10) 10,84 ± 4,34 9,06 ± 2,84 
Loại D (n=10) 14,18 ± 3,24 14,09 ± 2,84 
Loại F (n=8) 15,86 ± 3,12 17,30 ± 2,11 
Loại E (n=16) 13,84 ± 2,96 14,40 ± 2,51 
Giá trị p* 0,032 0,002 
Về sự phù hợp khi phân loại bọng theo lâm 
sàng và OCT 
Kết quả cho thấy có sự tương ứng và phù 
hợp giữa 2 phương pháp và từng loại bọng. Ở 
nhóm góc đóng cấp, các bọng loại D (bọng tỏa 
lan) và E (bọng vỏ bao) chiếm tỉ lệ cao trên 
OCT và các loại II (bọng tỏa lan) và IV (bọng 
vỏ bao) cũng chiếm tỉ lệ cao khá tương ứng 
theo lâm sàng. 
Bảng 4: Liên quan giữa lâm sàng và OCT 
Phân loại bọng 
AAC PACG 
Lâm sàng AS-OCT Lâm sàng AS-OCT 
Type I hay C 4 3 5 7 
Type II hay D 4 6 7 4 
Type III hay F 5 3 9 5 
Type IV hay E 5 6 5 10 
 18 18 26 26 
Ở nhóm glaucoma góc đóng nguyên phát 
(PACG), các bọng C (bọng dạng nang) và E 
(bọng vỏ bao) phân loại theo OCT chiếm đa số 
trong khi bọng D (bọng tỏa lan) và F (bọng dẹt) 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 3 * 2017 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2017 13
lại chiếm đa số trên lâm sàng. 
Kết quả phân tích có mối liên quan giữa 2 
phương pháp lâm sàng và OCT, sự khác biệt 
này có ý nghĩa thống kê với p < 0,001 (Pearson 
Chi-square test). Tuy nhiên, bọng dạng nang 
và bọng tỏa lan trên lâm sàng và trên AS-OCT 
có sự tương ứng phù hợp hơn bọng vỏ bao và 
bọng dẹt. 
BÀN LUẬN 
Đặc điểm nền 
Thời gian từ lúc mổ đến lúc đưa vào nghiên 
cứu có khác biệt lớn so với các nghiên cứu khác. 
Điều này sẽ ảnh hưởng đến cấu trúc bọng vì 
những yếu tố thuộc cấu trúc bọng có tính động, 
thay đổi theo thời gian. Chính vì vậy sẽ tạo nên 
sự khác biệt về mối tương quan giữa đặc điểm 
cấu trúc bọng và sự kiểm soát nhãn áp. 
Về nhãn áp trước và sau mổ 
Nhãn áp trung bình trong mẫu nghiên cứu 
của chúng tôi là 13,6 ± 3,69 mmHg. Kết quả của 
chúng tôi tương tự với kết quả nghiên cứu của 
tác giả Mavrakanas N(7), Veronica Ribas(4). 
Bảng 5: Nhãn áp trung bình trong các nghiên cứu. 
Tác giả Năm 
Giá trị trung bình 
và độ lệch chuẩn 
Sirisha S
(9)
 2015 14,1 ± 3,3 
Fei Yuan 
(12)
 2015 14,23 ± 3,13 
Veronica Ribas 
(4)
 2015 13,67 ± 0,81 
N.H.PHÚC 
(8)
 2014 12,2 
N.H.M.NGỌC 2016 13,6 ± 3,69 
Về đặc điểm bọng 
Trên lâm sàng, chiều cao của bọng không 
phải là một tiêu chuẩn quan trọng trong đánh 
giá bọng kết mạc. Bọng cao có thể xuất hiện 
khi dòng chảy thủy dịch lớn và kết mạc lỏng 
lẻo, đi kèm với hiện tượng nhãn áp thấp, 
nhưng cũng có thể xuất hiện trường hợp nang 
Tenon với dòng chảy nhỏ, thành bọng xơ hóa 
dày và nhãn áp áp(5). Ở nghiên cứu của chúng 
tôi, chiều cao bọng được đánh giá từ trung 
bình (9/44 mắt chiếm 20,5%) đến cao (14/44 
mắt chiếm 31,8%). Diện rộng bọng (độ lan tỏa 
của bọng) phần lớn từ 1-2 múi giờ đến 2-4 múi 
giờ chiếm 59,1% (26/44 mắt). Tình trạng mạch 
máu đa số phân bố trung bình chiếm tổng 
cộng 45,5% (20/44 mắt). Thử nghiệm Seidel âm 
tính chiếm 20/44 mắt (50%), dương tính sau 5 
giây có 14 trường hợp (31,8%). 
Nghiên cứu của tác giả Florent Aptel (1), cũng 
ghi nhận về diện rộng của bọng đa số từ 1-2 múi 
giờ tương tự như kết quả của chúng tôi. Tuy 
nhiên tác giả ghi nhận bọng có chiều cao thấp 
chiếm đa số 80% với 12/15 mắt và 20% bọng gồ 
cao với 3/15 mắt. Điều này có thể được lý giải so 
mẫu nghiên cứu của chúng tôi có thời gian hậu 
phẫu trung bình 17 tháng trở lên còn của tác giả 
Florent(1) là 3 tháng nên các bọng còn trong giai 
đoạn chưa hình thành hoàn chỉnh nên có ảnh 
hưởng đến sự đánh giá về chiều cao bọng trên 
lâm sàng. 
Hệ thống đánh giá bọng kết mạc theo 
Moorfields Bleb Grading System (MGBS) hay 
Indian Bleb Appearance Grading Scale (IBAGS) 
rất hữu ích trên lâm sàng và đã được chấp thuận 
trên thế giới, tuy nhiên những hệ thống đánh giá 
này chỉ cung cấp những thông tin định tính và 
chủ quan về hình thái bọng kết mạc. Trong 
nghiên cứu của chúng tôi, thời lúc nghiên cứu 
lựa chọn sau 1 năm nên khối Ologen đã thoái 
biến nên sử dụng máy AS-OCT để khảo sát cấu 
trúc bên trong bọng kết mạc. 
Về so sánh nhãn áp trung bình theo phân loại 
bọng 
Mối liên quan giữa phân loại bọng trên lâm 
sàng và nhãn áp trung bình được ghi nhận có sự 
khác biệt có ý nghĩa thống kê, kiểm định phi 
tham số các giá trị trung bình Kruskal Wallis với 
p < 0,05. Ở đây nhận thấy nhãn áp trung bình 
càng thấp tương ứng với loại bọng có chiều cao 
và bề dày thành bọng mỏng. Điều này có thể giải 
thích dựa vào thời điểm tham gia nghiên cứu 
bọng là sau 12 tháng, nghĩa là lúc bọng đã thoái 
triển hoàn toàn. Độ lan tỏa của bọng là một dấu 
hiệu rất quan trọng cho thấy sự lưu thông của 
thủy dịch. Theo tác giả Tonominaga(10) đánh giá 
bọng thành công là dạng bọng có mô dưới kết 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 2 * 2017
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2017 14
mạc hấp thu thủy dịch và dãn nở từ nó làm dày 
thành bọng lên. Ở những bọng vở bao thất bại, 
thành bọng cũng dày lên do xơ sẹo dưới kết mạc 
quá phát. Vì vây tác giả Tonominaga cho rằng 
không thể coi bề dày thành bọng là dấu hiệu chỉ 
điểm của bọng chức năng tốt. Tác giả Fakhraie (3) 
ghi nhận mối tương quan thuận giữa nhãn áp và 
chiều cao bọng. Với kết quả của tác giả Veronica 
Ribas (4), chúng tối có kết quả khá tương đồng về 
mối liên hệ giữa nhãn áp và chiều cao bọng 
trong phân loại trên lâm sàng. 
Mối liên quan giữa phân loại bọng trên AS-
OCT và nhãn áp trung bình được ghi nhận có sự 
khác biệt có ý nghĩa thống kê, kiểm định phi 
tham số các giá trị trung bình Kruskal Wallis với 
p < 0,05. Ở bọng loại C (bọng dạng nang) có 
nhãn áp trung bình mẫu chung và nhãn áp trung 
bình ở nhóm không dùng thuốc thấp nhất lần 
lượt là 10,84 ± 4,34 mmHg và 9,06 ± 2,84 mmHg. 
Bọng loại C (bọng dạng nang) và D (bọng tỏa 
lan) có nhãn áp trung bình thấp hơn bọng loại E 
(bọng vỏ bao) và F (bọng dẹt). 
Phân loại sẹo bọng theo OCT có liên quan 
chặt chẽ đến nhãn áp. Đặc biệt là các bọng tỏa 
lan và bọng dạng nang là các loại bọng có chức 
năng và liên quan kiểm soát mức nhãn áp. Như 
trong mẫu nghiên cứu của chúng tôi, nhãn áp 
của bọng C (bọng dạng nang) có mức nhãn áp 
trung bình là 10,84 mmHg, nhãn áp của bọng D 
(bọng tỏa lan) có mức nhãn áp trung bình là 
14,18 mmHg. Trong khi nhãn áp bọng E (bọng 
vỏ bao) là 13,84 mmHg và nhãn áp trung bình 
bọng F (bọng dẹt) là 15,86 mmHg. Kết quả 
nghiên cứu của chúng tôi cũng tương tự như kết 
quả nghiên cứu của các tác giả như 
Tonominaga(10), Veronica Ribas(4), Weizer JS(11). 
Các nghiên cứu này cũng cho thấy độ phản âm 
thấp liên quan chặt chẽ với bọng kết mạc có chức 
năng và có nhãn áp tốt. Sự hiện diện của bọng 
dạng nang chiếm 22,7% và bọng lan tỏa chiếm 
22,7% trên AS-OCT được xem là nhóm bọng 
chức năng, tương ứng với phần trăm khảo sát 
được của các biến số: chiều cao bọng trung bình 
(43,2%), đường dịch dưới vạt củng vạt (36,3%), 
độ phản âm (54,5%), chiều cao độ phản âm 
(45,5%) được xem là một dấu hiệu của bọng chức 
năng dẫn lưu tốt. 
KẾT LUẬN 
Giữa 2 phương pháp đánh giá đặc điểm 
bọng kết mạc theo lâm sàng và chụp cắt lớp 
quang học có mối liên hệ và phù hợp nhất định. 
Hình thái loại bọng dạng nang và bọng tỏa lan 
trên lâm sàng và trên OCT khá tương ứng và 
phù hợp nhau. Cả hai loại bọng này đều cho khả 
năng điều chỉnh nhãn áp ở mức kiểm soát ổn 
định so với nhãn áp đích. Tuy nhiên, đánh giá 
bọng kết mạc bằng máy AS-OCT có nhiều ưu 
điểm hơn, dễ sử dụng, không xâm lấn, chính 
xác, lưu lại hình ảnh và các đặc điểm thông số 
của bọng để theo dõi. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Aptel F, Dumas S, Denis P. (2009). “Ultrasound biomicroscopy 
and optical coherence tomography imaging of filtering blebs 
after deep sclerectomy with new collagen implant”. 
Department of Ophthalmology Edouard Herriot Hospital, 
Lyon-France. 
2. Bộ Y Tế và Bệnh viện Mắt Trung ương (2012), Nhãn khoa, Tập 1, 
Nhà Xuất bản Y học. 
3. Fakhraie G, Kohansal S, Eslami Y, et al. (2011). “Correlation 
between Filtering Bleb clinical Morphology, Anterior segment 
Optical Tomography Findings, and Interocular Pressure”. 
Iranian Journal of Ophthalmology 23(4): p 21-28. 
4. Gonzalez VR, Cueto LFV, Argota SB, Jordana MIC. (2015) 
“High definition tomography to evaluate filtering bleb with 
biodegradable collagen implant in patients with high myopia”. 
Barraquer Ophthalmology Centre, Barcelona, Spain 
5. Healey and Trope. The Failing Bleb: Risk Factors and 
diagnosis. Glaucoma surgery. 2005: 161-169. 
6. Kronfeld PC. The mechanisms of filtering operations. Trans Pac 
Coast Ophthamol Soc Annual MeetGood, William V et al. 
(2004), "Final results of the Early Treatment for Retinopathy of 
Prematurity (ETROP) randomized trial", Transactions of the 
American Ophthalmological Society. 102, p. 233. 
7. Mavrakanas N, Mendrinos E, Shaarawy T. “Postoperative IOP 
is related to intrascleral bleb height in eyes with clinically flat 
blebs following deep sclerectomy with collagen implant and 
mitomycin.” Glaucoma Unit, Ophthalmology Department, Geneva 
University Hospitals, Rue Alcide-Jentzer 22, 1211, Geneva 14, 
Switzerland. 
8. Nguyễn Hoàng Phúc (2014). Đánh giá hiệu quả của phẫu thuật 
cắt bè củng mạc kết hợp Ologen so với phẫu thuật cắt bè củng 
mạc kết hợp Mitomycin C. Luận văn tốt nghiệp Thạc sỹ. Đại học 
Y dược thành phố Hồ Chí Minh. 
9. Senthil S, Rao HL, Babu JG, Mandal AK, Garudadri CS. (2015). 
“Comparison of outcomes of trabeculectomy with Mitomycin 
C vs. Ologen implant in primary glaucoma”. Original Article. 
IP: 118.68.94.164. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 3 * 2017 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2017 15
10. Tominaga A, Miki A, Yamazaki Y, Matsushita K, Otori Y 
(2010), “ The Assessment of the Filtering Bleb Function With 
Anterior Segment Optical Coherence Tomography”, J Glaucoma 
Feb 15, 2012. 
11. Weizer JS, Goyal A, Ple-Plakon P, Trzcinka A, Strong BD, 
Bruno CA, Junn J, Tseng I, Niziol LM, Musch DC, Moroi SE 
(2010), “ Bleb morphology characteristics and effect on 
positional intraocular pressure variation”, Ophthalmology Surg 
Lasers Imaging 5, pp 1-6. 
12. Yuan F et al. (2015). “Biodegradable 3D-Porous Cllagen Matrix 
(Ologen) compared with Mitomycin C for treatment of primary 
open-angle glaucoma: results at 5 years”. Hindawi Publishing 
Corporation Journal of Ophthalmology. Volume 2015, Article ID 
637537, 7 pages. 
Ngày nhận bài báo: 29/11/2016 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 09/01/2017 
Ngày bài báo được đăng: 20/04/2017