Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019
Chuyên Đề Tiết Niệu – Thận Học 286
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ SỚM PHẪU THUẬT ĐIỀU TRỊ 
CƯỜNG TUYẾN CẬN GIÁP TRÊN BỆNH NHÂN SUY THẬN MẠN 
VÀ BƯỚC ĐẦU XÂY DỰNG QUY TRÌNH KẾT HỢP ĐIỀU TRỊ 
NỘI, NGOẠI KHOA TẠI BỆNH VIỆN CHỢ RẪY 
Châu Phú Thi*, Trương Cao Nguyên*, Bùi Thị Hương Giang*, Lâm Xuân Nhật*, Lưu Hoài Nam*, 
Trần Minh Quân* 
TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Điều trị bệnh lý cường tuyến cận giáp thứ phát trên bệnh nhân suy thận mạn tính cần sự kết 
hợp cả điều trị nội khoa và ngoại khoa. Vì vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu các kết quả sớm trong phẫu thuật 
cắt tuyến cận giáp trong điều trị cường tuyến cận giáp thứ phát trên bệnh nhân suy thận mạn (STM) tính tại 
Bệnh viện Chợ Rẫy. 
Phương pháp nghiên cứu: Hồi cứu từ 1/2016 đến 1/2019 tại bệnh viện Chợ Rẫy. 
Kết quả: Có 24 trường hợp cường tuyến cận giáp thứ phát trên bệnh nhân suy thận mạn tính được chỉ định 
phẫu thuật cắt tuyến cận giáp, trong đó tỉ lệ nam: nữ là 3: 1, với độ tuổi trung bình là 39,5 ± 12,6 tuổi. Tất cả các 
bệnh nhân bị STM giai đoạn cuối, 75% bệnh nhân STM trên 5 năm, 75% bệnh nhân điều trị bằng chạy thận 
nhân tạo. Có 3 bệnh nhân có biến dạng xương (hội chứng Sagliker) chiếm 12,5%. Các trường hợp được tiến hành 
phẫu thuật cắt ¾ hoặc 4/4 tuyến cận giáp, biến chứng sau phẫu thuật thường gặp tình trạng hạ can xi máu 
33,3%, tụ dịch vết mổ 8,3%. 
Kết luận: Phẫu thuật cắt tuyến cận giáp trong điều trị cường tuyến cận giáp thứ phát trên bệnh nhân suy 
thận mạn tính cho kết quả điều trị tốt, ít biến chứng. 
Từ khóa: cường tuyến cận giáp thứ phát, hạ can xi máu, biến dạng xương, suy thận mạn 
ABSTRACT 
RESEARCH CLINICAL CHARACTERS AND EVALUATE EARLY RESULT OF 
PARATHYROIDECTOMY FOR RENAL HYPERPARATHYROIDISM 
Chau Phu Thi, Truong Cao Nguyen, Bui Thi Huong Giang, Lam Xuan Nhat, Luu Hoai Nam, 
Tran Minh Quan 
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 - No 3 - 2019: 286 - 290 
Objectives: Treatment of renal hyperparathyroidism requires the combination of both medical treatment and 
surgical treatment. Therefore, we begin a study on early results in parathyroidectomy for renal 
hyperparathyroidism in Cho Ray Hospital. 
Method: Retrospective study from 01/ 2016 to 01/ 2019 at Cho Ray Hospital. 
Results: There are 24 cases parathyroidectomy, in which the ratio of male: female is 3: 1, average age is 
39.5±12.6. Most of the speciality clinical such as end-stage renal disease, 75% over 5 years, 75% dialysis. There 
are 3 cases (12.5%) of Sagliker syndrome. The patient was operated parathyroidectomy (3/4 or 4/4 glands) and 
had 33.3% postoperative hypocalcemia. 
Conclusions: Parathyroidectomy in treating renal hyperparathyroidism is good and less complications. 
*Khoa Ngoại Lồng ngực, BV Chợ Rẫy 
Tác giả liên lạc: TS.BS Châu Phú Thi ĐT: 0978097286 Email: 
[email protected] 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Tiết Niệu – Thận Học 287
Keywords: secondary hyperparathyroidism, renal hyperparathyroidism, hypocalcaemia, skeletal deformities, 
chronic renal failure 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Cường tuyến cận giáp (CTCG) thứ phát là 
tình trạng gia tăng nồng độ PTH, do giảm 
nồng độ canxi trong huyết tương gây tăng 
hoạt động tuyến cận giáp. Đặc biệt trên bệnh 
nhân suy thận mạn có lọc máu, tình trạng 
CTCG thứ phát xảy ra trên 51%. 
Điều trị bệnh lý cường tuyến cận giáp thứ 
phát trên bệnh nhân suy thận mạn (STM) cần sự 
kết hợp cả điều trị nội khoa và ngoại khoa. Từ 
nhiều năm trước đây, chúng tôi đã có phẫu thuật 
cắt tuyến cận giáp chỉ để cho các bệnh nhân 
cường cận giáp nguyên phát có các biểu hiện 
loãng xương hoặc có các biến chứng như gãy 
xương tự nhiên Đến năm 2017, chúng tôi đã 
phẫu thuật cho 02 bệnh nhân cường tuyến cận 
giáp có suy thận mạn và có các biểu hiện của hội 
chứng Saligker. Trên cơ sở đó, khoa phẫu thuật 
lồng ngực của chúng tôi đã có những trao đổi 
với các đồng nghiệp của khoa Nội Thận và khoa 
Thận Nhân Tạo Bệnh viện Chợ Rẫy, phát hiện 
thêm những bệnh nhân cường tuyến cận giáp 
thứ phát trên suy thận mạn tính. 
Chúng tôi đang thực hiện quy trình phối 
hợp: với các phương pháp điều trị nội khoa với 
mục đích làm tăng nồng độ canxi bằng chất 
tương tự vitamin D, bổ sung canxi hoặc giảm 
nồng độ phosphat bằng chất kết phosphate và 
calcimimetics. Kết hợp phương pháp điều trị 
ngoại khoa nhằm mục đích cắt bỏ tuyến cận 
giáp, tránh gây biến chứng lên xương khớp và 
đã có những kết quả đáng khích lệ(1,7,10). 
Vì vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu 
đánh giá kết quả sớm trong phẫu thuật cắt 
tuyến cận giáp trong điều trị cường tuyến cận 
giáp thứ phát trên bệnh nhân suy thận mạn và 
bước đầu xây dựng quy trình kết hợp điều trị 
nội, ngoại khoa tại bệnh viện chúng tôi. 
Mục tiêu 
Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm 
sàng cường tuyến cận giáp tứ phát trên bệnh 
nhân suy thận mạn tính. 
Đánh giá kết quả sớm trong phẫu thuật cắt 
tuyến cận giáp. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Thiết kế nghiên cứu 
Nghiên cứu hồi cứu, mô tả loạt ca. 
Đối tượng nghiên cứu 
Bệnh nhân đang điều trị tại khoa thận nhân 
tạo và khoa nội thận Bệnh viện Chợ Rẫy. 
Tiêu chuẩn chọn bệnh 
Các trường hợp cường tuyến cận giáp thứ 
phát trên bệnh nhân suy thận mạn được chẩn 
đoán và được phẫu thuật. Có tái khám đánh giá 
lại các chỉ số theo dõi (nông độ canxi, PTH, biến 
chứng) trong vòng 1 tháng sau mổ. 
Tiêu chuẩn loại trừ 
Những trường hợp cắt tuyến cận giáp không 
do cường tuyến cận giáp thứ phát có suy thận 
mạn tính. Hoặc không tái khám sau phẫu thuật. 
Thời gian, địa điểm 
Nghiên cứu tiến hành từ tháng 1/2016 đến 
12/2018 tại khoa Ngoại Lồng Ngực Bệnh viện 
Chợ Rẫy. 
KẾT QUẢ 
Trong thời gian nghiên cứu tiến hành tại 
bệnh viện Chợ Rẫy từ tháng 1/2016 đến tháng 
12/2018, có 24 trường hợp được chẩn đoán 
cường tuyến cận giáp thứ phát trên bệnh nhân 
suy thận mạn và được chỉ định phẫu thuật cắt 
tuyến cận giáp tại khoa Ngoại Lồng ngực và 
theo dõi trong 1 tháng sau phẫu thuật. 
Đặc điểm chung 
Tỉ lệ nam: nữ là 3: 1. 
Tuổi trung bình: 39,5 ± 12,6. 
Đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng 
Bảng 1: Đặc điểm lâm sàng 
Biểu hiện lâm sàng số lượng tỉ lệ 
Biến dạng nhiều xương 
(Hội chứng Sagliker) 
3 12,5% 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019
Chuyên Đề Tiết Niệu – Thận Học 288
Giai đoạn (GĐ) STM số lượng tỉ lệ 
GĐ 5 24 100% 
Thời gian ĐT thay thế thận. số lượng tỉ lệ 
> 5 năm 18 75% 
 5 năm 6 25% 
ĐT thay thế thận. số lượng tỉ lệ 
Chạy thận nhân tạo 18 75% 
Thẩm phân phúc mạc 6 25% 
Bảng2: Đặc điểm sinh hóa máu và mật độ xương 
Canxi máu 
(mmol/l) (2,2-2,6) 
STM GĐ 5: 
(2,1-2,3) 
PTH (pg/ml) 
(10-65) 
STM GĐ 5: 
 (150-300) 
Phospho 
(mg/dl) 
(3,7-4,3) 
Độ loãng 
xương 
(T- score) 
(<-2,5) 
2,02 ± 0,28 1412 ± 150 6,5±0,8 100% (5 BN) 
Bảng3: Đặc điểm siêu âm và xạ hình tuyến cận giáp 
Chẩn đoán xác định 
Tỷ lệ 
01 u 02 u 
siêu âm 17 7 100% 
xạ hình 5 19 (80%) 100% 
Bảng 4: Kết quả phẫu thuật 
 Cắt 3 tuyến Cắt 4 tuyến Thời gian 
Phẫu thuật (PT) 21 (87,5%) 03(12,5%) 70,11 ph 
Bảng 5: Cận lâm sàng sau mổ 
 Canxi mmol/l (2,1-2,3) PTH pg/ml (150-300) 
Sau PT 2,0 ± 0,1 191 ± 102 
Tăng 2 (8,3%) 
Giảm 8 (33,3%) 3 (12,5%) 
P <0,05 <0,05 
Bảng 6: Biến chứng sau phẫu thuật 
Biến chứng số lượng tỷ lệ 
Khàn tiếng 0 0% 
Tụ máu 0 0% 
Tụ dịch 2 8,3% 
Nhiễm trùng 0 0% 
Bảng 7: Đánh giá kết quả phẫu thuật 
 số lượng tỷ lệ 
Không biến chứng và đạt mục tiêu PT 21 87,5% 
Có biến chứng hoặc không đạt mục 
tiêu phẫu thuật 
3 12,5% 
Tử vong 0 0% 
BÀN LUẬN 
Qua nghiên cứu 24 trường hợp phẫu thuật 
cắt tuyến cận giáp trong điều trị cường tuyến 
cận giáp thứ phát trên bệnh nhân suy thận mạn 
tính, chúng tôi thấy trong nhóm nghiên cứu 
phần lớn bệnh nhân đang ở lứa tuổi trung niên 
với độ tuổi trung bình là 39,5 ± 12,6 tuổi, trong 
đó nam giới có tỉ lệ bệnh nhiều hơn nữ giới (tỉ lệ 
nam: nữ là 3:1). 
Có thể lý giải cho điều này là do trong suy 
thận mạn, giới nam thường bị hơn nữ, như trong 
nghiên cứu của tác giả Nguyễn Duy Cường(6), tỷ 
lệ nam: nữ là 1,4:1, hay trong nghiên cứu của 
Geoffrey 5, nữ giới chiếm 46%. 
Tuổi trung bình của nghiên cứu chúng tôi 
khá tương đồng với các tác giả khác như Skalli 
42 ± 13 tuổi(9), Nguyễn Duy Cường 46 ± 14,7 tuổi. 
Tất cả bệnh nhân đến với chúng tôi là suy 
thận mạn giai đoạn 5, đã có điều trị thay thế 
thận, 75% chạy thận nhân tạo, 75% trên 5 năm, 
tuy nhiên sự khác biệt về thời gian và phương 
pháp điều trị thay thế thận không có ý nghĩa 
thông kê (p=0,51). So sánh với nghiên cứu của 
Nguyễn Duy Cường, ghi nhận trong nhóm bệnh 
lọc máu trên 5 năm có 51,4%, và nhóm lọc máu 
dưới 5 năm không có trường hợp nào, sự khác 
biệt có ý nghĩa thống kê p<0,05. Như vậy người 
bệnh lọc máu trên 5 năm có nguy cơ CTCG thứ 
phát, đây sẽ là một yếu tố tiên lượng để bác sỹ 
lâm sàng giúp tầm soát và quản lý bệnh lý 
CTCG tốt hơn. 
Trong Bảng 1, nghiên cứu về các đặc điểm 
lâm sàng, chúng tôi có tới 12,5% trường hợp 
bệnh nhân có tình trạng biến dạng xương, trong 
đó có 03 trường hợp có biểu hiện của hội chứng 
Saligker, đây cũng là một vấn đề cần lưu ý trong 
việc phát hiện và chẩn đoán sớm cho bệnh nhân. 
Cho thấy việc cần thiết có sự kết hợp sớm 
của điều trị nội khoa và ngoại khoa cho bệnh 
nhân, để nhằm giảm hoặc ngăn chặn tình trạng 
biến dạng xương trên các bệnh nhân cường 
tuyến cận giáp có suy thận mạn tính. 
Trong Bảng 2, kết quả nghiên cứu của chúng 
tôi cho thấy tất cả các bệnh nhân đều có các chỉ 
số phù hợp với chẩn đoán và chỉ định phẫu 
thuật cường tuyến cận giáp thứ phát, bao gồm 
tăng PTH (1412±150 pg/ml), giảm canxi máu 
(2,02±0,28 mmol/ml), tăng phospho máu 
(6,5±0,8mg/dl) và 100% (5 bệnh nhân) có đo mật 
độ xương bị loãng xương(2,5). 
So sánh với các tác giả khác nhận thấy các 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Tiết Niệu – Thận Học 289
chỉ số này có xu hướng diễn tiến xấu hơn so với 
các tác giả khác như Bảng 8. 
Bảng 8: So sánh với các tác giả khác 
 PTH Canxi 
Kerstin
(3)
 850 2,5 
Mihai
(4)
 1640 2,6 
Gagne
(2)
 928 2,6 
Để chuẩn bị cho phẫu thuật, chúng tôi có sử 
dụng siêu âm và xạ hình tuyến cận giáp để xác 
định tuyến cận giáp cần cắt bỏ, kết quả cho thấy 
xạ hình tuyến cận giáp có khả năng chẩn đoán 
tốt hơn, giúp phẫu thuật viên xác định tuyến cận 
giẫu cắt bỏ nhanh, giảm thời gian phẫu thuật. 
Sau phẫu thuật, tất cả các trường hợp đều có 
các chỉ số PTH. Trong đó phần lớn PTH giảm về 
ngưỡng yêu cầu (79,2%), có 3 trường hợp 
(12,5%) chỉ số PTH giảm thấp do bệnh nhân có 
hội chứng Sagliker, theo khuyến cáo của nhiều 
tác giả, chúng tôi cắt bỏ 4/4 tuyến cận giáp(8). Có 
2 trường hợp (8,3%) còn tăng PTH trên 
300pg/ml, nhưng dưới ngưỡng chỉ định phẫu 
thuật nên chúng tôi quyết định theo dõi tiếp tục 
kết hợp điều trị nội khoa. Vì vậy chúng tôi nhận 
thấy có 91,7% bệnh nhân đạt hiệu quả sau phẫu 
thuật. So sánh với các tác giả khác nhận thấy tỷ 
lệ bệnh nhân đạt hiệu quả khá tương đồng như 
Mihai(4) 97%, Skalli 95%(9), Gagne 85%(2). 
Chỉ số can xi máu đạt mục tiêu điều trị (2,1-
2,3 mmol/l) là 66,7%, nồng độ canxi máu giảm 
dưới ngưỡng yêu cầu chiếm 33,3%, nhưng 
không có triệu chứng hạ canxi máu nên có thể 
xuất viện. Đối với các nghiên cứu khác cũng có 
ghi nhận tương tự: Skalli 87%(9), Gagne 70%(2). 
Như vậy qua Bảng 6, sau phẫu thuật chúng 
tôi chỉ gặp 2 trường hợp bị tụ dịch vết mổ (8,3%) 
có thể do trên bệnh nhân suy thận mạn, có tình 
trạng dư nước trong mô kẽ nên dễ bị tụ dịch 
hơn. Các nghiên cứu của tác giả khác không ghi 
nhân biến chứng sau phẫu thuật(7,9). 
Từ những kết quả đạt được, chúng tôi đang 
tiếp tục cùng nhau hợp tác để điều trị bệnh lý 
cường tuyến cận giáp trên các bệnh nhân suy 
thận mạn tính ngày càng tốt và sớm hơn. 
Các bác sĩ khoa thận nhân tạo cũng như 
khoa nội thận bệnh viện chúng tôi cũng đã có 
những đánh giá sớm cho các bệnh nhân thông 
qua các xét nghiệm cận lâm sàng ở những bệnh 
nhân có các tình trạng như đau nhức xương, 
biến dạng xương, đặc biệt những trường hợp 
chạy thận hay thẩm phân phúc mạc trên 5 năm. 
Chúng tôi đã cùng nhau hội chẩn và xét chỉ 
định phẫu thuật cho các bệnh nhân không đáp 
ứng với các điều trị nội khoa, nhằm giải quyết 
sớm và ngăn chặn những trường hợp gây ra 
biến dạng xương nặng nề. 
Từ đầu năm 2019 đến nay, chúng tôi đang 
tiếp tục cho nhiều bệnh nhân hơn, có khoảng 
gần 20 bệnh nhân nữa đã được chỉ định phẫu 
thuật, không có trường hợp nào có tình trạng 
biến dạng xương nặng như 02 trường hợp có hội 
chứng Saligker trong báo cáo năm 2017. Từ đó 
cho thấy, quy trình có thể áp dụng thực tiễn lâm 
sàng và cần có những đóng góp ý kiến của 
những bác sĩ nội khoa cũng như ngoại khoa cho 
quy trình chúng tôi càng chi tiết và chặt chẽ hơn. 
KẾT LUẬN 
Qua nghiên cứu 24 trường hợp phẫu thuật 
cắt tuyến cận giáp trong điều trị cường tuyến 
cận giáp thứ phát trên bệnh nhân suy thận mạn, 
tại khoa Ngoại Lồng ngực bệnh viện Chợ Rẫy, 
chúng tôi nhận thấy bệnh nhân suy thận mạn 
giai đoạn 5, khi có chỉ định phẫu thuật đã có tình 
trạng cường tuyến cận giáp lâu năm, có biến 
chứng trên xương (loãng xương, biến dạng 
xương), chuyển hoá canxi, phospho bị rối loạn, 
cần kết hợp điều trị cả nội khoa và ngoại khoa. 
Qua kết quả nghiên cứu cho thấy, các biến 
chứng ngoại khoa gần như không đáng kể trong 
phẫu thuật cắt tuyến cận giáp, bên cạnh đó phẫu 
thuật cắt tuyến cận giáp cũng không là phẫu 
thuật quá phức tạp hay khó khăn về mặt ngoại 
khoa. Vì thế, chúng tôi, những người phẫu thuật 
viên, nhận thấy cần có sự kết hợp tốt trong điều 
trị nội khoa và ngoại khoa, đặc biệt xây dựng 
một quy trình hoàn thiện cho các trường hợp 
cường cận giáp trên bệnh nhân suy thận mạn, 
phẫu thuật cắt tuyến cận giáp cũng là một trong 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019
Chuyên Đề Tiết Niệu – Thận Học 290
những phương pháp điều trị có thể mang lại 
nhiều kết quả khả quan hơn cho bệnh nhân. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Đặng Thị Việt Hà (2016). "Nghiên cứu tình trạng cường cận 
giáp thứ phát ở bệnh nhân suy thận mạn chưa điều trị thay thế". 
Y học Việt Nam, 44:80-81. 
2. Gagne M (1991). "Subtotal parathyroidectomy versus total 
parathyroidectomy and autotransplantation in secondary 
hyperparathyroidism: a randomized trial". World journal of 
surgery, 15:745-750. 
3. Kerstin T (2014). "Reoperative Parathyroid Surgery" in Thyroid 
and parathyroid diseases. Thieme medical publisher, pp.235-240. 
4. Mihai R, et al (2014). "Surgical management of 
hyperparathyroidism". Surgery, pp.548-551. 
5. National Kidney Foundation (2003). K/DOQI clinical practice 
guidelines for bone metabolism and disease in chronic kidney 
disease. Am J Kidney Dis; 42(4 Suppl 3):S1-201. 
6. Nguyễn Duy Cường (2014). "Nghiên Cứu Tình Trạng Cường 
Cận Giáp Thứ Phát Bệnh Nhân Thận Nhân Tạo Tại Bệnh Viện 
Đa Khoa Tỉnh Thái Bình". Y Học Thực Hành, 4:19-21. 
7. Nguyễn Thị Huyền (2009). "Nghiên cứu tình trạng cường cận 
giáp trạng thứ phát và tìm hiểu một số yếu tố liên quan ở bệnh 
nhân suy thận mạn chưa điều trị thay thế". Y học lâm sàng, 
pp.37-41. 
8. Sagliker Y (2008). "International study on Sagliker syndrome 
and uglifying human face appearance in severe and late 
secondary hyperparathyroidism in chronic kidney disease 
patients". J Ren Nutr, 18:114-7. 
9. Skalli Z (2015). "Kinetics of parathyroid hormone after 
parathyroidectomy in chronic hemodialysis patients". Saudi J 
Kidney Dis Transpl, 16:1199-204. 
10. Trần Ngọc Lương (2016). "Bước đầu đánh giá kết quả phẫu 
thuật cắt gần hoàn toàn tuyến cận giáp điều trị cường cận giáp 
thứ phát do suy thận mạn". Y học Quân sự, pp.149-154. 
Ngày nhận bài báo: 01/04/2019 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 05/05/2019 
Ngày bài báo được đăng: 10/06/2019