Tài liệu Đánh giá kết quả phẫu thuật điều trị chứng táo bón do sa trực tràng kiểu túi: ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ PHẪU THUẬT ĐIỀU TRỊ CHỨNG TÁO BÓN 
DO SA TRỰC TRÀNG KIỂU TÚI 
Nguyễn Đình Hối*, Dương Phước Hưng*, Nguyễn Văn Hậu*, Trần Văn Phơi*, 
 Nguyễn Trung Tín*, Nguyễn Hoàng Bắc* 
 TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Sa trực tràng kiểu túi là tình trạng thoát vị thành trước trực tràng vào âm đạo. Để xác 
định thương tổn này cần phải có phương tiện chẩn đoán hình ảnh là X quang trực tràng hoạt động. Về 
điều trị, cần đánh giá kết quả điều trị qua các phương pháp phẫu thuật: phục hồi thành sau âm đạo bằng 
mảnh ghép, khâu phục hồi cơ nâng hậu môn qua trực tràng. 
Phương pháp: -Tiêu chuẩn chọn bệnh: các bệnh nhân đến khám ở khoa hậu môn có triệu chứng 
khó đi cầu, thăm âm đạo phát hiện túi sa trực tràng vào âm đạo. -Xác định chẩn đoán với X quang trực 
tràng hoạt động. -Đánh giá kết quả điều trị của 2 phương pháp phẫu thuật: phục hồi thành sau âm ...
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 7 trang
7 trang | 
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 04/07/2023 | Lượt xem: 618 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá kết quả phẫu thuật điều trị chứng táo bón do sa trực tràng kiểu túi, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ PHẪU THUẬT ĐIỀU TRỊ CHỨNG TÁO BÓN 
DO SA TRỰC TRÀNG KIỂU TÚI 
Nguyễn Đình Hối*, Dương Phước Hưng*, Nguyễn Văn Hậu*, Trần Văn Phơi*, 
 Nguyễn Trung Tín*, Nguyễn Hoàng Bắc* 
 TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Sa trực tràng kiểu túi là tình trạng thoát vị thành trước trực tràng vào âm đạo. Để xác 
định thương tổn này cần phải có phương tiện chẩn đoán hình ảnh là X quang trực tràng hoạt động. Về 
điều trị, cần đánh giá kết quả điều trị qua các phương pháp phẫu thuật: phục hồi thành sau âm đạo bằng 
mảnh ghép, khâu phục hồi cơ nâng hậu môn qua trực tràng. 
Phương pháp: -Tiêu chuẩn chọn bệnh: các bệnh nhân đến khám ở khoa hậu môn có triệu chứng 
khó đi cầu, thăm âm đạo phát hiện túi sa trực tràng vào âm đạo. -Xác định chẩn đoán với X quang trực 
tràng hoạt động. -Đánh giá kết quả điều trị của 2 phương pháp phẫu thuật: phục hồi thành sau âm đạo 
bằng mảnh ghép, khâu phục hồi cơ nâng hậu môn qua trực tràng. 
Kết quả: Từ 19/03/2004 đến 30/11/2004: 56 ca chẩn đoán và phẫu thuật sa trực tràng kiểu túi qua 
lâm sàng và X quang trực tràng hoạt động, lứa tuổi mắc bệnh từ 19 đến 84 tuổi, 26 ca ở lứa tuổi thanh 
niên, 18 ca chưa sanh đẻ, 13 ca sanh trên 3 lần, 25 ca sanh 1-2 con. 36 ca phẫu thuật phục hồi thành sau 
âm đạo bằng mảnh ghép, 19 khâu phục hồi cơ nâng hậu môn qua trực tràng. Biến chứng sau mổ: 1 ca rò 
trực tràng âm đạo, 1 ca chảy máu sau mổ 2 tuần. Kết quả tốt, cải thiện được triệu chứng khó đi cầu 23 
ca/23 ca đến tái khám. 
 Kết luận: X quang trực tràng hoạt động là phương tiện chẩn đoán chính xác thương tổn sa trực 
tràng kiểu túi. Phẫu thuật phục hồi thành sau âm đạo bằng mảnh ghép, khâu phục hồi cơ nâng hậu môn 
qua trực tràng cho kết quả tốt, ít biến chứng. 
SUMMARY 
ASSESSMENT OF SURGICAL MANAGEMENT 
FOR CONSTIPATION DUE TO RECTOCELE 
Nguyen Dinh Hoi, Duong Phuoc Hung, Nguyen Van Hau, Tran Van Phoi, Nguyen Trung Tin, 
Nguyen Hoang Bac * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 9 * Supplement of No 1 * 2005: 10 – 16 
Introduction: Rectocele is hernia of the anterior rectal wall into the vagina. Defecography is the 
Xray method to evaluate this defect. Assessment of two surgical approaches: transperineal-vaginal mesh 
graft and transanal myorrhaphy for surgical repair. 
Methods: Criteria for surgery include the patients who had difficult evacuation and rectocele in the 
vagina during digital examination. Evaluate of rectocele by defecography Assessment of two surgical 
approaches: transperineal-vaginal mesh graft and transanal myorrhaphy for surgical repair. 
Results Since March 19,2004 to November 30, 2004, of the 56 patients who had rectocele were 
evaluated by defecography and surgical repaired, the age from 19 to 84; 18 patients who have not child-
bearing yet, 13 patients who had more three times of child-birth, 25 patients who had from 1 to 2 times of 
child-birth; 36 patients who had transperineal-vaginal mesh graft, 19 patients who had trans-anal 
* Bệnh viện Đại học Y Dược TPHCM 
 10 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 9 * Phụ bản của Số 1 * 2005
myorrhaphy. 1 patients who had recto-vagina fistula, 1 bleeding two-weeks post-operation. Excellent 
result, improve the evacuation in 23 cases / 23 cases who had visited the office. 
Conclusion Transperineal-vaginal mesh graft and transanal myorrhaphy for surgical repair of 
rectocele improve the difficult evacuation, good result and less complications 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Sa trực tràng kiểu túi (rectocele) là tình trạng 
thoát vị thành trước trực tràng vào âm đạo. Bệnh 
thường thấy ở người phụ nữ sanh đẻ nhiều lần, hơn 
40% phụ nữ sanh đẻ nhiều có khối sa trực tràng kiểu 
túi lớn hơn 1cm. Tuy nhiên cũng có nhiều bệnh nhân 
có sa trực tràng kiểu túi nhưng không có triệu chứng. 
Khi người phụ nữ bị sa trực tràng kiểu túi đến khám 
phụ khoa, bác sĩ hầu như không để ý đến triệu chứng 
ở hậu môn trực tràng. Ngược lại, khi các phụ nữ này 
đến khám hậu môn trực tràng thì các bác sĩ không 
quan tâm đến các triệu chứng ở âm đạo3. 
Do có nhiều bàn cãi về thương tổn này, nên cần 
phải có các phương tiện chẩn đoán hình ảnh để 
chứng minh. Khoa hậu môn trực tràng BVĐHYD 
TPHCM đã thực hiện phương pháp chụp X quang 
trực tràng hoạt động (Cinedefecography) để chứng 
minh thương tổn sa trực tràng kiểu túi. 
MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU 
-Phương pháp chụp X quang trực tràng hoạt 
động trong phát hiện sa trực tràng kiểu túi. 
-Đánh giá kết quả điều trị phẫu thuật bệnh sa 
trực tràng kiểu túi. 
PHƯƠNG PHÁP 
-Tiêu chuẩn chọn bệnh: các bệnh nhân đến 
khám ở khoa hậu môn có triệu chứng khó đi cầu 
(phải rặn nhiều, cảm giác đi cầu không hết phân, 
cảm giác khó chịu ở vùng âm đạo và tầng sinh môn, 
phải uống thuốc xổ hay dùng tay móc phân ...), thăm 
âm đạo phát hiện túi sa trực tràng vào âm đạo. 
-Xác định chẩn đoán với X quang trực tràng hoạt 
động. Đánh giá kết quả theo phân loại Marti (7) 
-Đánh giá kết quả điều trị của 2 phương pháp 
phẫu thuật (phục hồi thành sau âm đạo bằng mảnh 
ghép, khâu phục hồi cơ nâng hậu môn qua trực 
tràng) dựa trên sự cải thiện triệu chứng khó đi cầu. 
KẾT QUẢ 
Trong thời gian 8 tháng từ 19/03/2004 đến 
30/11/2004, chúng tôi thực hiện phẫu thuật cho 56 ca 
sa trực tràng kiểu túi (chỉ có ở giới nữ), kết quả như 
sau: 
Tuổi 
15-30 t 13 
31-45 t 26 
45-60 t 14 
>60 t 3 
Tiền sử sản khoa sanh qua đường tự 
nhiên 
0 18 
1 lần 13 
2 lần 12 
3 lần 5 
4 lần 5 
>4 lần 3 
Tiền sử táo bón 
< 1 năm 10 
1-3 năm 20 
3-6 năm 11 
6-9 năm 3 
>9 năm 12 
Triệu chứng khó đi cầu: tất cả 56 bệnh 
nhân đều có ít nhất 2 triệu chứng theo 
tiêu chuẩn Rome II 
Cảm giác đi cầu không hết phân 53/56 
Phải rặn nhiều khi đi cầu 52/56 
Nặng vùng tầng sinh môn 45/56 
Phải móc phân khi đi cầu 12/56 
Phải bơm thuốc mới đi cầu được 9/56 
Phải uống thuốc xổ 27/56 
Đi cầu < 3 lần /tuần 27/56 
 11
Thăm trực tràng phát hiện túi phồng 
vào âm đạo 
56/56 ca 
X quang trực tràng hoạt động 
Kết quả X quang đều có hình ảnh túi sa trực 
tràng vào âm đạo. Chúng tôi phân loại kết quả theo 
phân loại của tác giả Marti, 
-Loại I: Túi sa hình ngón tay hay thoát vị đơn độc 
qua vách trực tràng âm đạo. 
-Loại II: Túi sa lớn, giãn vách trực tràng âm đạo, 
niêm mạc thành trước trực tràng sa vào âm đạo, túi 
cùng Douglas hạ thấp, đôi khi có kèm theo sa ruột 
non vào túi cùng. 
-Loại III: Sa trực tràng kiểu túi có kèm theo lồng 
trực tràng ống hậu môn hay sa trực tràng. 
Loại I Loại II Loại III 
Bảng phân loại X quang theo Marti 
Marti I 
B/n Hoàng T Nguyệt A 47t & B/n Tạ Thị N. 49t 
Marti II 
B/n Trần Thị L. 44t & B/n Trịnh Ngọc C.42t 
Marti III 
B/n Từ Kim L. 24t & B/n Hứa Thị H. 50t 
Kết quả X quang trực tràng hoạt động dựa theo 
phân loại của Marti lô nghiên cứu của chúng tôi: 
-Marti I 33 ca (59%) 
-Marti II 8 ca (14%) 
-Marti III 15 ca (27%) 
Điều trị 
- Chỉ định phẫu thuật: khi có 3 yếu tố sau 
Có ít nhất 2 triệu chứng táo bón theo tiêu chuẩn 
Rome II 
Túi phồng to trên 3 cm 
Còn sự hiện diện túi phồng ngấm barýt sau khi 
rặn hết 
- Chúng tôi thực hiện mổ 56 ca. 
- Phương pháp mổ: 
Mổ qua đường âm đạo: 
- Khâu phục hồi cơ nâng hậu môn 1 ca 
- Đặt mảnh ghép Prolene 27 ca 
 12 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 9 * Phụ bản của Số 1 * 2005
- Đặt mảnh ghép Vicryl 9 ca 
Mổ qua đường trực tràng: 
- Khâu phục hồi cơ nâng 7 ca 
- Khâu phục hồi cơ nâng + Delorme 12 ca 
Kết quả 
Chúng tôi chỉ theo dõi được 23 ca /56 ca. Không 
có trường hợp nào có biến chứng nhiễm trùng và 
máu tụ thành âm đạo, cải thiện triệu chứng khó đi 
cầu cả 23 ca có tái khám. Có 2 trường hợp có biến 
chứng sau mổ là 1 ca bị rò trực tràng âm đạo sau mổ 
2 tuần, chúng tôi đã mổ lại kết quả đã hết rò sau 1 
tháng theo dõi, 1 ca chảy máu qua âm đạo sau mổ 2 
tuần do bệnh nhân đi đánh cầu lông và đã được khâu 
cầm máu, kết quả ổn định không chảy máu lại. 
BÀN LUẬN 
Sa trực tràng kiểu túi là tình trạng thoát vị của 
trực tràng qua chổ yếu của vách trực tràng âm đạo 
theo hướng vào âm đạo. Xảy ra đa số ở phụ nữ nhưng 
vẫn có 1 số trường hợp xảy ra ở phái nam thoát vị qua 
cân Denouvillier. 
Sự bất thường về cơ thể học của vách trực tràng 
âm đạo do nhiều nguyên nhân khác nhau(7): 
-Sự suy yếu vách trực tràng âm đạo bẩm sinh ở 
phụ nữ trẻ chưa sanh đẻ 
-Sự suy yếu vách trực tràng âm đạo mắc phải xảy 
ra ở phụ nữ sau sanh đẻ và sang chấùn trong lúc sanh. 
-Do hậu quả cuối cùng của sự rặn quá sức do táo 
bón mạn tính. 
Khối sa trực tràng kiểu túi càng to dần là do hậu 
quả của sự thoát phân khó khăn, táo bón mạn tính. 
Bệnh nhân có cảm giác có khối phồng lên ở âm đạo 
và khối phân tồn tại ở khối này ở âm đạo hay tầng 
sinh môn, với ngón tay đè lên khối này ở âm đạo và 
tầng sinh môn sẽ giúp cho sư thoát phân được dễ 
dàng hơn. Nếu triệu chứng này kéo dài nhiều năm và 
sau thời kỳ mãn kinh, lúc đó thành âm đạo và tầng 
sinh môn teo lại, khối sa này sẽ dài và to hơn làm 
phần trước của cơ vòng dãn ra. Hậu quả là mất tự chủ 
đi cầu, mót cầu và đi cầu khẩn cấp. Ngoài ra việc rặn 
gắng sức kéo dài làm sàn chậu dãn và sa xuống nhiều 
hơn, dẫn đến căng dãn thần kinh vùng chậu gây ra 
tình trạng đi cầu mất tự chủ(7). 
Về cơ chế gây bệnh, sa trực tràng kiểu túi giống 
như tình trạng sa đáy chậu, tùy thuộc nhiều vào yếu 
tố nguy cơ về bệnh lý thần kinh và suy yếu của mô 
liên kết1. Yếu tố ảnh hưởng đến sự sa này tùy thuộc 
vào tuổi, số lần sinh nở, béo phì, táo bón, có tiền sử 
phẫu thuật vùng chậu, hút thuốc và bệnh lý hô hấp 
mạn tính. Yếu tố sản khoa như thời gian sanh đẻ kéo 
dài và cơ chế chấn thương trực tiếp đến vách trực 
tràng âm đạo và cơ vùng đáy chậu, kèm theo sang 
chấn thần kinh ở các cơ nâng đỡ đáy chậu sẽ gây ra 
hậu quả yếu và dãn thành sau âm đạo và thành trước 
trực tràng. Về phần các nhà hậu môn học thì sự thoát 
phân khó khăn như rặn nhiều và gắng sức khi đi cầu 
sẽ làm đáy chậu sa xuống và kéo theo sang chấn thần 
kinh vùng đáy chậu này4, trên 25% phụ nữ có tình 
trạng rối loạn đi cầu bị sa trực tràng kiểu túi(2). Các 
hiện tượng này kéo dài nhiều năm sẽ tạo nên tình 
trạng sa trực tràng kiểu túi. 
Trong lô nghiên cứu của chúng tôi dù số liệu còn 
ít nhưng đặc biệt có các trường hợp chưa sanh đẻ qua 
đường âm đạo vẫn có sa trực tràng kiểu túi (18/56) 
(32%), xảy ra nhiều ở lứa tuổi 30-45 tuổi là lứa tuổi ít 
được mô tả trên y văn (26/56) (46%), tỷ lệ sanh nhiều 
lần cũng chiếm tỷ lệ thấp (13/56 sanh trên 3 lần) 
(23%), tỷ lệ sanh 1-2 lần chiếm tỷ lệ ca0 (25/56) 
(45%). Do số liệu còn ít, chưa thuyết phục nhưng 
cũng làm chúng tôi chú ý đến nguyên nhân khác với 
nguyên nhân sanh đẻ nhiều lần, như tình trạng rối 
loạn đi cầu kéo dài. Theo Van Dam JH và 
W.R.Schouten(11), trong báo cáo về sa trực tràng kiểu 
túi ở Phần Lan, có 89 ca từ 1988-1996 có tuổi trung 
bình 55 (35-81 tuổi). Trong báo cáo Van Larrhoven10 
1999 có 26 ca mổ sa trực tràng kiểu túi 1990-1995 với 
tuổi trung bình 50 tuổi (31-81 tuổi). 
Triệu chứng sa trực tràng kiểu túi bao gồm triệu 
chứng của hậu môn trực tràng và âm đạo, đặc biệt ở 
người lớn tuổi và phụ nữ sanh nhiều. Tuy nhiên 
người ta vẫn phát hiện sa trực tràng kiểu túi ở cả 
những phụ nữ không sanh qua ngã âm đạo. Những 
triệu chứng đó là: cảm giác có khối phồng ở âm đạo, 
táo bón, cảm giác đi cầu không hết phân, cần dùng 
 13
tay làm các động tác để dễ dàng thoát phân, không tự 
chủ đi cầu, đau hậu môn, đi cầu có máu, rối loạn 
chức năng tình dục và đau lưng. Trong lô bệnh của 
chúng tôi triệu chứng táo bón là triệu chứng có trên 
tất cả các trường hợp (100%), tỷ lệ táo bón trên 3 
năm 26 (46%), có 12 trường hợp trên 10 năm (21%). 
Triệu chứng cảm giác đi cầu không hết phân (53 ca –
94%) và phải rặn nhiều khi đi cầu (52ca-93%). Trong 
56 ca có 27 ca (48%) phải uống thuốc xổ mới đi cầu 
được, 12 ca(21%) phải dùng tay để giúp cho sự thoát 
phân và 9 ca (16%) phải bơm thuốc mới đi cầu được. 
Những triệu chứng về âm đạo, ảnh hưởng đến hoạt 
động tình dục rất khó khai thác ở bệnh nhân do tính 
kín đáo của phụ nữ Việt Nam. Do đó các triệu chứng 
này không thấy xuất hiện trong báo cáo (như giao 
hợp đau, khó khăn trong giao hợp ...) 
Hiện nay chưa có bản tiêu chuẩn trong nghiên 
cứu sa trực tràng kiểu túi bởi vì có nhiều đặc thù cá 
biệt về triệu chứng ở các phụ nữ. Đánh giá kết quả 
phẫu thuật cũng rất khó khăn do sự không đồng nhất 
trong nghiên cứu dân cư 3. Đánh giá tình trạng sa 
trực tràng kiểu túi dựa trên bệnh sử chi tiết của triệu 
chứng và các thăm khám lâm sàng vùng chậu và hậu 
môn, tuy nhiên để đánh giá chính xác thương tổn 
phải dựa trên các phương tiện chẩn đoán cận lâm 
sàng như đo các thông số áp lực hậu môn trực tràng 
(anorectal manometry), siêu âm đầu dò trong lòng 
hậu môn (endoanal ultrasonography) và X quang trực 
tràng hoạt động(cinedefecography). Trên lâm sàng để 
đánh giá khối sa từ trực tràng vào âm đạo, ta phải 
khám khi bệnh nhân đang rặn gắng sức ở tư thế ngồi 
xỗm hay đứng. Đo khối sa vào âm đạo phải dựa trên 
mốc là vết tích màng trinh, ví dụ như sa trực tràng 
kiểu túi độ 1 là phần xa khối phồng trên thành sau 
âm đạo là > 1cm trên mốc màng trinh và độ 4 là 
khối phồng chiếm hết chiều dài thành sau âm đạo. 
Theo Kevin có 8% sa trực tràng kiểu túi không phát 
hiện được trên khám lâm sàng và 4% trên X quang 
đại tràng hoạt động(5). Trong 56 ca của chúng tôi đều 
phát hiện được sa trực tràng kiểu túi trước khi làm X 
quang trực tràng hoạt động, kích thước khối sa này 
đều trên 3 cm. Do đó nếu chúng ta hỏi bệnh sử có 
các triệu chứng như táo bón > 1 năm, phải rặn nhiều 
khi đi cầu, cảm giác đi cầu không hết phân, phải 
dùng thuốc hay thủ thuật mới đi cầu được, cảm giác 
nặng khó chịu ở âm đạo hay tầng sinh môn thì ta 
phải thăm khám hậu môn để phát hiện khối sa này 
và gửi bệnh nhân đi làm X quang trực tràng hoạt 
động để chứng minh thương tổn trên hình ảnh một 
cách khách quan. 
-X quang trực tràng hoạt động: giúp ta xác định 
thương tổn sa trực tràng kiểu túi dựa trên: kích thước 
và vị trí của khối phồng vào âm đạo, sự trống đi của 
khối phồng sau khi đi cầu, sự sa thấp của tầng sinh 
môn, lồng trong trực tràng và dấu hiệu X quang của 
sự tắc nghẻn khối phân. Kích thước của khối sa trực 
tràng kiểu túi được đo bằng chiều sâu của khối phồng 
so vơiù điểm mốc là đường thẳng đi dọc thành trước 
của trực tràng. Ngày nay vẫn còn nhiều tranh cải đầy 
mâu thuẩn về sự tương quan giữa kích thước và triệu 
chứng của sa trực tràng kiểu túi, có trường hợp khối 
phồng rất to trên X quang đại tràng hoạt động nhưng 
triệu chứng lại rất nghèo nàn và ngược lại. Chúng tôi 
tiến hành chụp X quang trực tràng hoạt động cho tất 
cả bệnh nhân đến khám có triệu chứng khó đi cầu 
>1 năm và trên lâm sàng phát có túi sa trực tràng 
vào âm đạo. Trong 56 ca phẫu thuật sa trực tràng 
kiểu túi, chúng tôi phân loại thương tổn X quang dựa 
theo phân loại của tác giả Marti như sau: 
-Loại I: Túi sa hình ngón tay hay thoát vị đơn độc 
qua vách trực tràng âm đạo. 
-Loại II: Túi sa lớn, giãn vách trực tràng âm đạo, 
niêm mạc thành trước trực tràng sa vào âm đạo, túi 
cùng Douglas hạ thấp, đôi khi có kèm theo sa ruột 
non vào túi cùng. 
-Loại III: Sa trực tràng kiểu túi có kèm theo lồng 
trực tràng ống hậu môn hay sa trực tràng. 
Kết quả X quang trực tràng hoạt động trong lô 
bệnh của chúng tôi là Marti I có 33 ca (59%), Marti 
II có 8 ca (14%), Marti III có 15 ca (27%). Trong 15 
ca thuộc nhóm Marti III, chúng tôi có 12 ca ngoài 
khâu cơ nâng hậu môn qua ngã trực tràng, chúng 
tôi kết hợp làm phẫu thuật Delorme, còn 3 ca còn 
lại do trong thời gian đầu chúng tôi chưa mạnh 
dạn thực hiện. 
 14 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 9 * Phụ bản của Số 1 * 2005
-Đo các thông số áp lực hậu môn trực tràng 
(Anorectal manometry), Mellegren(8) chứng minh có 
sự tăng áp lực lúc nghĩ giữa phụ nữ có và không có sa 
trực tràng kiểu túi. Tuy nhiên vẫn chưa có ghi nhận 
sự khác biệt áp lực lúc nghĩ và áp lực nhíu tối đa. 
Chúng tôi thực hiện chưa đầy đủ lô bệnh trên, do đến 
tháng 10 chúng tôi mới có máy đo áp lực cơ vòng nên 
không có nhận định tiêu chuẩn này. 
-Siêu âm đầu dò trong lòng hậu môn: xác nhận 
2/3 phụ nữ sa trực tràng kiểu túi có tổn thương ở cơ 
vòng trong và ngoài(9). Trong lô bệnh của chúng tôi 
chỉ thực hiện được 23 ca siêu âm lòng hậu môn, kết 
quả tất cả các ca đều có bất thường như hính ảnh 
khuyết ở thành trước vách trực tràng hay sự dầy lên 
của cơ thắt trong, có lẽ bước đầu trong chẩn đoán 
hình ảnh siêu âm của sa trực tràng kiểu túi chưa được 
phối hợp kỹ giữa lâm sàng và siêu âm, chúng tôi đang 
kết hợp với siêu âm để thống nhất hình ảnh thương 
tổn của sa trực tràng kiểu túi. 
-Về điều trị sa trực tràng kiểu túi, phục hồi thành 
sau âm đạo là phương pháp được chọn. Có nhiều 
đường vào để thực hiện phương pháp này: 
+Qua đường âm đạo (Posterior vaginal repair) 
+Qua đường hậu môn (Transanal rectocele 
repair) 
Chọn lựa đường vào tùy thuộc vào phẫu thuật 
viên, tuy nhiên với đường vào qua hậu môn thường 
không áp dụng được ở trường hợp sa trực tràng kiểu 
túi cao và rộng. Trong 56 ca mổ của chúng tôi có 37 
ca (66%) mổ qua đường âm đạo gồm khâu phục hồi 
cơ nâng hậu môn 1 ca, đặt mảnh ghép Prolene 27 ca 
(73%), đặt mảnh ghép Vicryl 9 ca (24%). Mổ qua 
đường trực tràng 19 ca, trong đó khâu phục hồi cơ 
nâng 7 ca, khâu phục hồi cơ nâng + PT Delorme 12 
ca (các trường hợp có kèm theo lồng trực tràng ống 
hậu môn theo phân loại Marti III). 
Tỷ lệ tái phát 24% sau 42 tháng (theo Kahn và 
Staton 4). Do tỷ lệ tái phát cao nên các tác giả đã thực 
hiện đặt mãnh ghép tăng cường (mesh), theo Goh 3 
có 43 ca có đặt mãnh gạc theo dõi 12 tháng không có 
ca nào tái phát. 
Trong 56 ca của chúng tôi, có 1 ca chúng tôi 
khâu cơ nâng hậu môn, còn 36 ca còn lại chúng tôi 
đều đặt mảnh ghép, trong đó có 2 trường hợp đặt 
mảnh ghép cả thành trước và sau âm đạo (trường hợp 
sa bàng quang đi kèm). Chúng tôi theo dõi sau mổ 
được 23 ca, không có trường hợp nào có biến chứng 
nhiễm trùng và máu tụ ở thành âm đạo, cải thiện 
triệu chứng táo bón 23/23 ca tái khám, có 1 ca bị rò 
âm đạo trực tràng sau mổ 2 tuần, 1 ca xuất huyết âm 
đạo sau 2 tuần do bệnh nhân chơi thể thao cầu lông, 
cả 2 ca được mổ lại kết quả hết rò và chảy máu ổn 
định. Do thời gian theo dõi còn ngắn và số ca tái 
khám còn chưa đạt nên chưa thể kết luận, chúng tôi 
sẽ gọi tái khám tất cả bệnh nhân sau 1 năm phẫu 
thuật để có thể đánh giá kết quả tốt hơn. 
KẾT LUẬN 
-Với những bệnh nhân có táo bón trên 1 năm và 
có triệu chứng rối loạn đi cầu cần thực hiện phương 
tiện chẩn đoán hình ảnh như chụp X quang trực 
tràng hoạt động để tìm ra nguyên nhân gây táo bón. 
-X quang trực tràng hoạt động cho kết quả đáng 
tin cậy trong chẩn đoán nguyên nhân tắc nghẽn 
đường ra do sa trực tràng kiểu túi. 
-Phẫu thuật qua ngã âm đạo có đặt mảnh ghép, 
và qua ngã trực tràng cho kết quả tốt và ít biến 
chứng. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1 Brubaker L. Rectocele. Curr. Op. Obstet. Gynecol 
1996;8:376-9. 
2 Infantino A, Masin A, Melega E, Dodi G. Does surgery 
resolve outlet obstruction. Int, J. Colorectal Dis. 1995; 
10:97-100. 
3 Goh JTW, Tjandra JJ, Carey MP.. How could 
management of rectoceles be optimized. ANZ. J. Surg. 
2002; 72: 896-901. 
4 Kahn MA, Stanton SL. Techniques of rectocele repair 
and their effects on bowel function. Int. Urogenycol. J. 
1998;9:37-47. 
5 Kelvin FM, Maglinte DD, Hornback JA. Pelvic 
prolapse: Assessment with evacuation proctography 
(defecography). Radiology 1992; 184: 547-51. 
6 Kenton K, Shott S, Blubaker L. The anatomic and 
functional variability of rectoceles in women. Int. 
Urogynecol. J. 1999; 10:96-9. 
7 Marti M.C., Roche B., Déléaval J.. Rectoceles: Value of 
videodefaecography in selection of treatment policy. 
Colorectal disease 1999. 1, 324-329 
 15
8 Mellegren A, Lopez A, Schultz I. Rectocele is 
associated with paradoxical anal sphincter reaction. 
Int. J. Colorectal Dis. 1998; 13: 13-16. 
10 Van Laarhoven. C.J, Bartram, CI. Relationship 
between anatomic and symptomatic lond-term results 
after rectocele repair for impaired defecation. Dis. 
Colon Rectum 1999; 42: 204-210. 9 Tjandra J, Tang C, Dwyer P. Patients with rectocele 
often have unsuspected anal sphincter defects. Dis. 
Colon Rectum 1998; 41: 4. 
11 Van Dam JH, Schouten W.R.. Analysis of patients 
with poor outcome of rectocele repair. Dis Colon 
Rectum, November 2000,1556-60 
 16 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 danh_gia_ket_qua_phau_thuat_dieu_tri_chung_tao_bon_do_sa_tru.pdf danh_gia_ket_qua_phau_thuat_dieu_tri_chung_tao_bon_do_sa_tru.pdf