Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 2 * 2017
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy năm 2017 44
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ NÂNG MŨI KẾT HỢP CHỈNH ĐẦU MŨI 
BẰNG SILICON DẺO QUA ĐƯỜNG MỔ MŨI HỞ - KỸ THUẬT CÁ NHÂN 
Đỗ Quang Hùng*, Phan Thị Hồng Vinh**, Chu Đình Khang*, Lâm Quang An* 
TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Có nhiều vật liệu gồm các vật liệu tự thân và các vật liệu nhân tạo đã được dùng để nâng cao 
sống mũi. Silicone dẻo được ghi nhận trong y văn là một trong những vật liệu lâu đời và đã được sử dụng bởi rất 
nhiều phẫu thuật viên. Sử dụng sililcon để nâng sống mũi là phẫu thuật phổ biến được thực hiện khá rộng rãi tại 
Việt Nam. 
Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá hiệu quả của kỹ thuật nâng cao sống mũi kết hợp chỉnh hình đầu mũi dẽo 
chỉ sử dụng thanh silicone qua đường mổ mũi hở - là một kỹ thuật cải tiến so với nâng mũi thông thường bằng 
silicone qua đường mổ kín một hoặc hai bên. 
Đối tượng-phương pháp: Tiến cứu mô tả các trường hợp bệnh. Bệnh nhân có mũi thấp và không quá ngắn 
thỏa tiêu chuẩn chọn bệnh được đưa vào nghiên cứu. Có 52 trường hợp tham gia nghiên cứu từ 08/2015 đến 
08/2016. Bệnh nhân được phẫu thuật nâng mũi kết hợp chỉnh đầu mũi bằng silicone dẻo qua đường mổ hở. 
Kết quả: 52 bệnh nhân được phẫu thuật. Cả 52 trường hợp được chỉnh đầu mũi bằng mũi khâu phần đuôi L 
vào giữa 2 sụn cánh mũi bên dưới. Có 03 trường hợp lộ sống vùng niêm mạc mũi được lấy bỏ silicone. Tỉ lệ hài 
lòng lúc 01 tháng và 06 tháng lần lượt là 80% và 85%. 
Kết luận: Nâng mũi kết hợp có chỉnh hình đầu mũi bằng silicone qua đường mổ hở. 
Từ khóa: Mũi thấp, sụn tự thân, silicone, làm dài mũi. 
ABSTRACT 
EVALUATE THE OUTCOME OF NASAL AUGMENTATION COMBINED WITH TIP-PLASTY USING 
SILICONE IMPLANT THROUGH OPENED INCISION 
Do Quang Hung, Phan Thi Hong Vinh, Chu Dinh Khang, Lam Quang An 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement Vol. 21 - No 2 - 2017: 44 - 47 
Objectives: There are variety of material for nasal augmentation like autologous grafts and artificial grafts. 
Silicone implant was mentioned in literature as one of the pioneer for nasal augmentation. Nasal augmentation 
using silicone implant is a popular in Viet Nam. 
Objectives: Evaluate these outcomes of nasal augmentation combined with tip-plasty only using silicone 
implant. 
Methods: Prospective case-series. Participants were52 patients admitted at Department of Plastic & 
Aesthetic Surgery Choray Hospital, who underwent nasal augmentation combined with tip-plasty using silicone 
implant through opened incision from Aug 2015 to Aug 2016. 
Results: After surgery, 52 patients were operated and had tip-plasty using suture of the L-shape silicone 
implant to the medial crus of the lower lateral cartilage. There were 03 extrusion implant inside the nasal cavity. 
The patient’s satisfaction at 01 month and 06 months were 80% and 85% respectively. 
Conclusions: Nasal augmentation combined with tip-plasty using silicone implant through opened incision 
* Khoa Tạo hình thẩm mỹ, Bệnh viện Chợ Rẫy. 
** Bộ môn Phẫu thuật Tạo hình thẩm mỹ, Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch. 
Tác giả liên lạc: TS.BS. Đỗ Quang Hùng, ĐT: 0903718442, Email: 
[email protected]. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 2 * 2017 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy năm 2017 45
was a safe and effective technique in nasal augmentation. 
Keywords: Low dorsal nose, autogenously cartilages, lengthening the short nose. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Sự khác nhau giữa mũi người Châu Á và 
người Châu Âu đã được mô tả từ rất lâu. Mũi 
người Châu Á có đặc điểm tháp mũi rộng và 
thấp, đầu mũi to, da và mô dưới da dày, cánh 
mũi loe rộng, khung sụn mũi mỏng và yếu. Đây 
là những đặc điểm người Châu Á mong muốn 
được cải thiện thông qua chỉnh hình mũi. 
Kỹ thuật tạo hình mũi đa dạng bao gồm sử 
dụng vật liệu tự thân và vật liệu nhân tạo. Nếu 
sử dụng đơn thuần vật liệu tự thân như sụn 
vách ngăn, sụn vành tai có thể tránh được biến 
chứng như thủng đầu mũi, nhiễm trùng mũi sau 
phẫu thuật(6). Tuy nhiên lại không đủ vật liệu để 
nâng cao mũi cũng như đòi hỏi thời gian phẫu 
thuật lâu hơn và có khả năng để lại di chứng nơi 
cho vật liệu. Sử dụng vật liệu nhân tạo có tỉ lệ 
biến chứng nhiều hơn do phản ứng đối với vật lạ 
của cơ thể. Mặc dù vậy, sử dụng vật liệu nhân 
tạo giúp tiết kiệm thờ gian, luôn có sẵn và không 
bị ảnh hưởng đến nơi cho vật liệu. 
Tác giả Chuangsuwanich và cs phẫu thuật 
cho 548 bệnh nhân mũi thấp silicone từ 1995 đến 
2009, và theo dõi trong 5 năm cho kết khá tốt: 
86,8% có sống mũi cao và đẹp sau phẫu thuật và 
tỉ lệ hài lòng là 94,9%. Có 6,5% có biến chứng 
gồm 4,9% lệch, 0,7% thủng, 0,5% tụ máu và 0,3% 
nhiễm trùng(2). Tác giả Deva và cs phẫu thuật cho 
422 bệnh nhân nâng mũi bằng silicone từ 1985 
đến 1995 cho thấy tỉ lệ hài lòng ở bệnh nhân là 
84,2% và không ghi nhận có biến chứng nhiễm 
trùng(3). 
Sử dụng sililcon để nâng sống mũi là phẫu 
thuật phổ biến được thực phổ rộng rãi tại Việt 
Nam. Trong nghiên cứu này, chúng tôi đánh giá 
hiệu quả của kỹ thuật nâng mũi kết hợp chỉnh 
hình đầu mũi chỉ sử dụng thanh silicone dẽo qua 
đường mổ mũi hở - là một kỹ thuật cải tiến so 
với nâng mũi thông thường bằng silicone qua 
đường mổ kín rạch một hoặc hai bên. 
PHƯƠNG PHÁP 
Thiết kế nghiên cứu 
Tiến cứu mô tả cả các trường hợp bệnh. 
Đối tượng 
Tất cả bệnh nhân mũi thấp nhập khoa Tạo 
hình - Thẩm mỹ, Bệnh viện Chợ Rẫy từ 08/2015 
đến 08/2016 thỏa tiêu chuẩn chọn bệnh và loại 
trừ với: 
Tiêu chuẩn chọn bệnh 
Những bệnh nhân thỏa một trong 2 tiêu 
chuẩn sau: 
Bệnh nhân than phiền có mũi thấp. 
Người xung quanh bệnh nhân thấy mũi 
bệnh nhân thấp. 
Tiêu chuẩn loại trừ 
Không có triệu chứng nghẹt mũi, tiền căn 
chấn thương mũi, phẫu thuật vách ngăn, phẫu 
thuật mũi và mũi xoang trước đây. 
Đồng ý phẫu thuật theo phương pháp nâng 
mũi kèm chỉnh đầu mũi có sử dụng sụn tự thân 
qua đường mổ hở. 
Mũi ngắn mức độ nhiều. 
Có 52 trường hợp có mũi thấp thỏa tiêu 
chuẩn chọn bệnh được đưa vào nghiên cứu, 
nhập khoa Tạo hình Thẩm mỹ Bệnh viện Chợ 
Rẫy. 
Tiến hành nghiên cứu 
Các bệnh nhân này sẽ được hỏi về lý do 
chính để đi phẫu thuật mũi, được chụp hình 
trước phẫu thuật và sau phẫu thuật 1 tháng và 6 
tháng ở 5 tư thế: thẳng, nghiêng, chếch trái, 
chếch phải và nền mũi. 
Bệnh nhân được phẫu thuật theo phương 
pháp nâng cao sống mũi kèm chỉnh đầu mũi chỉ 
sử dụng sụn thanh silicon dẽo qua đường mổ 
hở. Tất các các đặc điểm về dịch tể, phương pháp 
phẫu thuật, thời gian phẫu thuật, biến chứng 
được ghi nhận. Sau đó, bệnh nhân sẽ được 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 2 * 2017
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy năm 2017 46
phỏng vấn trực tiếp về mức độ hài lòng sau 
phẫu thuật 1 tháng và 6 tháng. 
Phương pháp phẫu thuật 
Bệnh nhân được tiền mê, gây tê tại chỗ bằng 
Lidocain 2%. 
Chúng tôi sử dụng đường rạch V ngược qua 
trụ mũi. Trong quá trình phẫu thuật, hai thành 
phần được bóc tách và kéo dài gồm da – mô 
mềm và khung sụn mũi. Da – mô mềm được bóc 
tách cẩn thận sát màng sụn cánh mũi bên dưới 
và cánh mũi bên trên. Tiếp đó, lấy một phần mô 
xơ mỡ vùng đầu mũi để làm thon nhỏ và mỏng 
vùng đầu mũi. 
Bóc tách khớp giữa sụn cánh mũi bên trên và 
sụn cánh mũi bên dưới để làm dài đầu mũi. 
Ngoài ra, bóc tách phần trụ ngoài của sụn cánh 
mũi bên dưới ra khỏi mô dưới da cánh mũi để 
làm di động đầu mũi tối đa. 
Tiếp theo, tách rời phần trụ trong của 2 sụn 
cánh mũi bên dưới đến sát gai mũi. Đốt cầm 
máu kỹ lưỡng. 
Tiến hành gọt sống mũi silicone hình chữ L 
có độ dài, bề dày đủ. Phần chân của chữ L sẽ 
được làm thon mỏng để có thể khâu vào giữa 2 
trụ trong của sụn cánh mũi bên dưới. 
Đặt sống mũi vào khoang dưới màng xương 
và khâu phần chân của thanh silicone vào giữa 
hai trụ trong của sụn cánh mũi bên dưới để làm 
kéo dài và thay đổi một phần độ nhô đầu mũi. 
Dùng một phần mô xơ mỡ lấy từ đầu mũi để 
che một phần silicone vùng đầu mũi. 
Phủ da, khâu lại đường rạch da và băng ép. 
KẾT QUẢ 
Tất cả 52 bệnh nhân được theo dõi tối thiểu 6 
tháng, thời gian theo dõi nhiều nhất là 18 tháng. 
Toàn bộ 52 trường hợp (100%) là bệnh nhân nữ. 
Tuổi trung bình trong nhóm nghiên cứu là 22,5 
tuổi (17-46). 
52 trường hợp mũi thấp được phẫu thuật 
chỉnh đầu mũi và nâng mũi bằng silicone. Tất 
cả silicone đều có hình dạng L, được gọt mỏng 
khoảng 5-6 mm và có chiều dài trung bình là 
4,8cm (4,5cm - 5,2cm). Cực trên của thanh 
silicone nằm ngang tầm với nếp mí đôi khi 
mắt mở. 
Tất cả thanh silicone được đặt dưới màng 
xương và được khâu phần chữ L cố định vào 
giữa hai trụ trong của sụn cánh mũi bên dưới tì 
lên gai mũi. 
Biến chứng 
Có 03 trường hợp có lộ sống vùng niêm 
mạc vách ngăn và đã được xử trí bằng lấy bỏ 
thanh silicone. 
Mức độ hài lòng 
Tỉ lệ hài lòng lúc xuất viện, sau xuất viện 1 
tháng và 6 tháng lần lượt là 80% và 85%. 
BÀN LUẬN 
Những bệnh nhân Châu Á có nhu cầu chỉnh 
sửa mũi thường chỉ nghĩ đến việc nâng cao sống 
mũi mà không để ý đến tình trạng mũi đầu mũi. 
Vì thế, đối với những trường hợp mũi ngắn thì 
việc nâng cao mũi đơn thuần bằng bằng vật liệu 
nhân tạo không thể giúp họ có được kết quả 
mong muốn. Những trường hợp này cần phải 
đánh giá mức độ của đầu mũi và các cấu trúc 
giải phẫu có liên quan(8,9,10). 
Hầu hết bệnh nhân châu Á có mũi thấp và 
đầu mũi to nên nếu chỉ đặt silicone đơn thuần 
thì cho kết quả không cao. Việc can thiệp đầu 
mũi bắt buộc phải sử dụng đường mổ mũi hở để 
tiếp cận. Để chỉnh sửa đầu mũi có thể dùng sụn 
tự nhân lấy từ vách ngăn hoặc sụn vành tai. Tuy 
nhiên việc lấy sụn tự thân làm kéo dài thời gian 
phẫu thuật cũng như có khả nâng biến dạng nơi 
cho sụn(1,4). 
Trong kỹ thuật này, chúng tôi chọn đường 
mổ hở nhằm chỉnh sửa đầu mũi hiệu quả. Khi 
chúng tôi giải phóng khớp giữa sụn cánh mũi 
bên trên và sụn cánh mũi bên dưới cũng như bóc 
mô liên kết của phần ngoài sụn cánh mũi bên 
dưới, đầu mũi trở nên di động rất nhiều. Chúng 
tôi dùng phần đuôi chữ L của thanh silicone để 
khâu vào giữa hai phần đuôi sụn cánh mũi bên 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 2 * 2017 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy năm 2017 47
dưới thì không những làm thay đổi độ dài của 
mũi mà còn thay đổi một phần độ nhô của mũi(1). 
Để thực hiện chỉnh hình đầu mũi, có thể 
dùng sụn tự thân để làm các mảnh ghép “strut”, 
“shield” hay “cap”. Tuy nhiên, bệnh nhân sẽ 
phải chịu thêm đường rạch da nơi lấy sụn và kéo 
dài thời gian phẫu thuật. Chỉ đơn thuần sử dụng 
silicone dẻo, chúng tôi có thể gia cố vùng trụ mũi 
cũng như chỉnh hình đầu mũi nhằm mang lại 
kết quả gần tương đương với kỹ thuật sử dụng 
sụn tự thân. 
Ngoài ra, vì không phải lấy sụn vách ngăn 
hay sụn vành tai nên thời gian phẫu thuật cũng 
giảm đáng kể giúp hạn chế nguy cơ nhiễm trùng 
do phơi nhiễm. 
Mặt khác, nếu chỉ nâng mũi đơn thuần 
bằng silicone dẻo thì những trường hợp có 
đầu mũi to sẽ không mang lại kết quả tốt(7,8,11). 
Mặt khác, sống mũi silicone có khuynh hướng 
di động và có thể bị lệch. Trong quá trình 
khâu phần chân silicone vào trụ trong của hai 
sụn cánh mũi bên dưới sẽ giúp ổn định thanh 
silicone và tránh được sự di lệch. Ngoài ra, 
thêm môt lớp mỏng mô mềm vào đầu mũi 
giúp làm giảm độ cứng của đầu mũi nhằm 
tăng tính thẩm mỹ cho bệnh nhân. 
Kỹ thuật này được thực hiện vào 08/2015. 
Đến nay, với những trường hợp theo dõi 18 
tháng vẫn chưa ghi nhận có biến chứng do phẫu 
thuật này gây ra. Bên cạnh đó, tỉ lệ mong muốn 
mổ lại sau phẫu thuật không nhiều và mức độ 
hài lòng của bệnh nhân cao. 
KẾT LUẬN 
Kỹ thuật nâng cao sống mũi kết hợp chỉnh 
đầu mũi bằng thanh silicone dẻo qua đường mổ 
hỡ là phương pháp hiệu quả, an toàn và nhanh 
chóng giúp chỉnh sửa các trường hợp mũi thấp 
và đầu mũi to. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Ahn J, Honrado C, Horn C (2004), "Combined silicone and 
cartilage implants: augmentation rhinoplasty in Asian 
patients". Arch Facial Plast Surg, 6(2), 120-123. 
2. Chuangsuwanich A, Lohsiriwat V (2013), "Augmentation 
rhinoplasty with custom-made S-shape silicone implant in 
Asians: A 15-year experience". Indian J Plast Surg, 46(3), 533-
537. 
3. Deva AK, Merten S, Chang L (1998), "Silicone in nasal 
augmentation rhinoplasty: a decade of clinical experience". 
Plast Reconstr Surg, 102(4), 1230-1237. 
4. Erlich MA, Parhiscar A (2003), "Nasal dorsal augmentation 
with silicone implants". Facial Plast Surg, 19(4), 325-330. 
5. Kapil SA, Manoj VB, Charudatta SN, Shikha G, Anup 
VS, Vyoma D (2015), “Ride-on” technique and other simple 
and logical solutions to counter most common complications 
of silicone implants in augmentation rhinoplasty. Indian J Plast 
Surg, 48(2), 172-177. 
6. Kim YK, Shin S, Kang NH, Kim JH (2017), "Contracted Nose 
after Silicone Implantation: A New Classification System and 
Treatment Algorithm". Arch Plast Surg, 44(1), 59-64. 
7. Lee SB, Min HJ (2016), "Circumferential Calcification of 
Silicone Implant Misunderstood as a Bony Substitute". J 
Craniofac Surg, 27(1), e81-82. 
8. Nguyen AH, Bartlett EL, Kania K, Bae SM (2015), "Simple 
Implant Augmentation Rhinoplasty". Semin Plast Surg, 29(4), 
247-254. 
9. Park HS (2001), "Lambda-shaped implant for augmentation of 
anterior nasal spine in Asian rhinoplasty as an ancillary 
procedure". Aesthetic Plast Surg, 25(1), 8-14. 
10. Tham C, Lai YL, Weng CJ, Chen YR (2005), "Silicone 
augmentation rhinoplasty in an Oriental population". Ann 
Plast Surg, 54(1), 1-5; discussion 6-7. 
11. Wang JH, Lee B J, Jang YJ (2007), "Use of silicone sheets for 
dorsal augmentation in rhinoplasty for Asian noses". Acta 
Otolaryngol Suppl(558), 115-120. 
Ngày nhận bài báo: 15/02/2017 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 28/02/2017 
Ngày bài báo được đăng: 05/04/2017