Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
Chuyên Đề Ngoại Khoa 201
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ GÃY LÚN NHIỀU MẢNH ĐỒI GĨT 
BẰNG NẮN KÍN VÀ XUYÊN ĐINH DƯỚI MÀN TĂNG SÁNG 
Trương Trí Hữu*, Võ Phước Minh** 
TĨM TẮT 
Đặt vấn đề: Gãy lún đồi gĩt phạm khớp dưới sên di lệch là loại gãy xương hay gặp. Loại gãy này nếu khơng 
điều trị sẽ dẫn đến thối hĩa khớp dưới sên làm ảnh hưởng đến đời sống kinh tế người bệnh. Mổ mở kết hợp 
xương sử dụng đường mổ ngồi kinh điển thường gây tổn thương phần mềm nặng khĩ lành vết thương. Nghiên 
cứu này chúng tơi chọn phương pháp phẫu thuật nắn kín và cố định nhiều kim K Wire dưới C Arm. 
Mục tiêu nghiên cứu: đánh giá kết quả lâm sàng nắn kín và xuyên kim dưới C Arm gãy phạm đồi gĩt. 
Phương pháp nghiên cứu tiền cứu mơ tả cắt dọc trên 46 bệnh nhân gãy lún nhiều mảnh đồi gĩt, với tổng 
số 51 xương gĩt được phẫu thuật nắn kín và xuyên đinh dưới màn tăng sáng tại bệnh viện Chấn thương Chỉnh 
hình TP HCM từ 01/01/2017 đến 01/08/2018. Sau mổ bệnh nhân được hướng dẫn tập luyện tại phịng. Tập 
khớp cổ chân và khớp bàn chân trước tập sau mổ 6 tuần. bệnh nhân được đánh giá bằng X quang xương gĩt để 
đo gĩc Bưhler và Gissane. 
Tất cả các bệnh nhân đều tái khám theo dõi, đánh giá chức năng lâm sàng của bàn chân bằng thang điểm 
Rowe, đánh giá chức năng chung bằng bảng đánh giá của Hall và Pennal. Số liệu được xử lý và phân tích với 
phần mềm SPSS 18.0. 
Kết quả: Từ ngày 01/01/2017 đến 01/08/2018 chúng tơi tiến hành theo dõi và điều trị 46 bệnh nhân gãy lún 
nhiều mảnh đồi gĩt với tổng cộng 51 xương gĩt được phẫu thuật. Tuổi trung bình 42 (tuổi trung bình là 42). 
Thời gian theo dõi trung bình 12 tháng. Gĩc Boehler sau mổ trung bình 30º. Gĩc Gissane trung bình sau mổ 120 
º Chức năng lâm sàng bàn chân theo thang điểm Rowe 90 % đạt khá- xuất sắc, 5,9% trung bình và 3,9% kém. 
Tất cả 100% trường họp đều lành xương với thời gian lành trung bình 13 tuần. 
Kết luận: nắn kín và xuên kim cố định gãy lún đồi gĩt dưới màn tăng sáng cho kết quả hồi phục tốt ít biến 
chứng và tốt hơn cho loại gãy lún hình lưỡi. 
Từ khĩa: Gãy lún đồi gĩt. 
ABSTRACT 
EVALUATION OF RESULTS IN CLOSED REDUCTION AND PERCUTANEOUS K WIRE PINNING 
OF DEPRESSED CALCANEAL FRACTURES WITH FLUOROSCOPY 
Truong Tri Huu, Vo Phuoc Minh 
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 - No 2- 2019: 201-208 
Background: Depressed intraarticular calcaneal fractures is the most frequently. These fractures without 
treatment frequently result in subtalar osteoarthritis with potentially severe economic impact on the patient. 
Open reduction for osteosynthesis using an extensile lateral approach has traditionally been used to treat 
displaced intra-articular calcaneal fractures, and the surgery is generally delayed until soft tissue swelling has 
subsided. In this study, we choose the method of closed reduction and percutaneous K wire pinning of displaced 
calcaneal fractures with fluoroscopy. 
Objectives: To investigate the clinical outcome of closed reduction and percutaneous K wire pinning of 
displaced intraarticular calcaneal fractures with fluoroscopy. 
*BV Chấn Thương Chỉnh Hình **BV An Bình 
Tác giả liên lạc: TS Trương Trí Hữu. ĐT 0918591576. Email: 
[email protected]. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học 
Chuyên Đề Ngoại Khoa 202
Methods: A prospective review of 46 patients with 51 calcaneal fractures who had percutaneous reduction 
and multiple pinning fixation for displaced intraarticular fracture of calcaneus with fluoroscopy was done. This 
researsh was in HTO, HCM City from 01/01/2017 to 01/08/2018. During this post-op period, the patients were 
educated on how to perform bed exercises for joints above the surgical site, including muscle strengthening and 
body conditioning. Active range of motion exercises for the ankle and forefoot began 6 weeks postoperatively. All 
patients were followed up regularly The patients were assessed with plain calcaneus radiography to measure 
Bưhler’s angle and Gissane ’s angle of the calcaneus. The results were assessed using Rowe score and Bưhler’s 
angle of the calcaneus. Functional assessment involved the use of Rowe scoring system and Hall và Pennal foot 
scoring. statistical analysis was SPSS 18.0 Version. 
Results: we operated 46 cases incuding 51 displaced intraarticular calcaneal fractures from 01/01/2017 to 
01/08/2018. The frequent age of the patients ranged from 30 to 49 years (mean: 42 years). The mean time of 
follow- up was 12 months. The posoperative radiography to measure Bưhler’s angle was 30º and Gissane ’s angle 
of the calcaneus was 120º. The Rowe foot score was 90% of patients achieving fair to excellent 90.2 %, average 
5.9% and fair 3.9%. the rate of bone union was 100% and the time to union averaged 13 weeks 
Conclusion: Closed reduction and percutaneous fixation of intraarticular fracture of calcaneus with 
fluoroscopy offers the prospect of fewer complications and better outcome especially in tongue-type fracture 
Keyword: Depressed intraarticular calcaneal fractures. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Gãy xương gĩt là loại gãy xương hay gặp ở 
độ tuổi lao động (khoảng 90% xảy ra ở độ tuổi 
21-49)(1). So với các bệnh lý gãy xương khác, gãy 
xương gĩt chiếm khoảng 2% trong tất cả các 
bệnh lý gãy xương khác ở người trưởng thành, 
và chiếm khoảng 26% trong gãy xương chi dưới, 
nhưng chiếm 60% các gãy xương vùng cổ bàn 
chân(7). Gãy xương gĩt phạm khớp chiếm 60 – 
75%, trong đĩ khớp dưới sên là nơi chịu lực và 
truyền lực chính của xương gĩt nếu khơng được 
phục hồi giải phẫu tốt sẽ gây ra thối hĩa khớp 
kèm các rối loạn tĩnh và động của tồn bộ bàn 
chân, làm giảm khả năng chịu lực và đi đứng 
hạn chế(6). Chính vì vậy, làm giảm nghiêm trọng 
chất lượng cuộc sống và tăng gánh nặng kinh tế 
cho gia đình và xã hội. Baron(2) cảnh báo gãy 
xương gĩt là một tổn thương nặng và tàn tật, 
tiên lượng xấu. 
Hiện nay, cĩ nhiều phương pháp phẫu thuật 
điều trị gãy xương gĩt phạm khớp: nâng đồi gĩt 
theo phương pháp Essex-Lopresti bằng đinh 
Steinman(3) dưới màn tăng sáng, kết hợp xương 
(KHX) bên trong bằng đường mổ rộng bên ngồi 
hay KHX bằng nẹp vít khĩa ít xâm lấn(11), các 
phương pháp phẫu thuật này khác nhau ở cách 
tiếp cận xương gĩt, vật liệu sử dụng KHX ổ gãy, 
vật liệu cấy ghép.Tuy nhiên, tranh cải vẩn tồn tại 
liên quan đến việc phân loại, điều trị, quản lý 
sau mổ cũng như dụng cụ để KHX cho loại gãy 
này(9). Do đĩ, điều trị gãy xương gĩt vẫn là một 
thách thức đối với phẫu thuật viên chấn thương 
chỉnh hình 
Năm 1952 Essex-Lopresti(3) đưa ra phương 
pháp nắn kín qua da bằng đinh Steinman dưới 
màn tăng sáng và tăng cường bột cẳng bàn chân. 
Ưu điểm của phương pháp này là kỹ thuật đơn 
giản, thời gian phẫu thuật nhanh, hạn chế được 
nhiễm trùng hoại tử mép da. Tuy nhiên, nĩ chỉ 
thích hợp với các loại gãy phạm khớp dưới sên 
cĩ dạng gãy hình lưỡi. 
Gần dây phẫu thuật mở KHX bên trong cho 
những trường hợp gãy lún phạm khớp xương 
gĩt được thực hiện khá rộng rãi. Với lợi thế kiểm 
sốt tốt ổ gãy, thao tác nắn chỉnh mặt khớp dễ 
dàng và chính xác cùng với việc ghép thêm 
xương xốp đã cải thiện rõ rệt việc phục hồi lại 
giải phẫu cho xương gĩt. Tuy nhiên, bên cạnh đĩ 
phương pháp này cũng để lại nhiều vấn đề đáng 
phải quan tâm. Đĩ là tỷ lệ nhiễm trùng và hoại 
tử mép da sau mổ khá cao 16-25%(5), do đặc 
điểm giải phẫu vùng này rất ít phần mềm che 
phủ xương. Kỹ thuật mổ phức tạp địi hỏi phẫu 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
Chuyên Đề Ngoại Khoa 203
thuật viên phải cĩ kinh nghiệm, trang thiết bị hỗ 
trợ phải đồng bộ, chi phí cho cuộc mổ cao, 
khơng phải cơ sở y tế nào cũng thực hiện được. 
Từ những thực tế trên, đề tài “Đánh giá kết 
quả điều trị gãy lún nhiều mảnh đồi gĩt bằng 
nắn kín và xuyên đinh dưới màn tăng sáng” 
được chúng tơi thực hiện dựa trên nguyên lý của 
kỹ thuật Essex-Lopresti. Với ưu điểm kỹ thuật 
đơn giản, cĩ thể nắn chỉnh tốt để phục hồi các 
đường gãy phạm khớp dưới sên, cố định các 
mảnh gãy bằng nhiều đinh nhỏ chống di lệch 
thư phát sau nắn chỉnh và hạn chế được tỷ lệ 
nhiễm trùng, hoại tử mép da do mổ mở gây ra. 
Mục tiêu nghiên cứu 
Đánh giá kết quả lâm sàng và phục hồi giải 
phẫu của xương gĩt trên phim x-quang. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
Tiêu chuẩn chọn bệnh 
Các bệnh nhân được chẩn đốn gãy lún 
nhiều mảnh xương gĩt, dựa trên lâm sàng và X-
quang, CT Scan nếu cĩ. 
Bệnh nhân khơng cĩ chống chỉ định 
phẫu thuật. 
Bệnh nhân từ 16 tuổi trở lên, xương đã 
trưởng thành khơng bệnh lý 
Tiêu chuẩn loại trừ 
Bệnh nhân cĩ bệnh lý về thần kinh: liệt chi 
dưới, rỗng tủy, bệnh phong. 
Bệnh gãy xương hở. 
Bệnh nhân từ chối tham gia nghiên cứu. 
Nơi thực hiện 
Khoa Cấp cứu và khoa Chi dưới bệnh viện 
Chấn thương chỉnh hình – TP. Hồ Chí Minh. 
Phương pháp nghiên cứu 
Phương pháp nghiên cứu tiền cứu mơ tả cắt 
dọc trên 46 bệnh nhân gãy lún nhiều mảnh đồi 
gĩt, với tổng số 51 xương gĩt được phẫu thuật 
nắn kín và xuyên đinh dưới màn tăng sáng tại 
bệnh viện chấn thương chỉnh hình từ 01/01/2017 
đến 01/08/2018. Lập hồ sơ bệnh án theo dõi cho 
từng bệnh nhân, đánh giá chức năng lâm sàng 
của bàn chân bằng thang điểm Rowe(11), đánh giá 
chức năng chung bằng bảng đánh giá của Hall 
và Pennal(4), đo đạt chỉ số gĩc Boehler, gĩc 
Gissane trước và sau mổ đánh giá hình thái giải 
phẫu của xương gĩt. Chụp X quang bàn chân tư 
thế nghiêng và Harris đánh giá sự lành xương. 
Số liệu được xử lý và phân tích với phần 
mềm SPSS 18.0. 
Kỹ thuật mổ 
Dụng cụ cần cĩ 
Đinh kirschner từ 2.4 – 3.0, khoan pin, kiềm 
cắt đinh, màn tăng sang. 
Phương pháp vơ cảm 
Tê tủy sống. 
Tư thế bệnh nhân 
Bệnh nhân được đặc nằm trên bàn mổ với tư 
thế nằm nghiêng 90o về bên chân lành hoặc nằm 
ngữa. Đặc ga-rơ gốc chi. 
Kiểm tra đánh giá các đường gãy bằng màn 
tăng sáng, đo đạc các gĩc Boehler, gĩc Gissane(8). 
Nắn ép hai bên xương gĩt để nắn chỉnh hình 
thái xương gĩt và thao tác được thực hiện liên 
tục trong suốt quá trình nâng đồi gĩt. Xuyên 1 
đinh vào xương gĩt ngay sau lồi củ gĩt hướng 
về phía xương hộp nhưng khơng vướt qua 
đường gãy làm địn bẩy, tiến hành nắn chỉnh các 
di lệch. Kiểm tra dưới màn tăng sáng với các 
bình diện nghiêng, tư thế chụp Harris và 
Broden(2,10) đến khi thấy gĩc Boehler đạt từ 20 – 
40o, chiều cao và độ bè xương gĩt phục hồi càng 
nhiều càng tốt, tiến hành xuyên đinh vào xương 
hộp sau khi mặt khớp dưới sên được phục hồi. 
Một đinh thứ 2 được xuyên vào ở vị trí thấp hơn 
đinh thứ nhất theo hướng song song trục xương 
gĩt vào xương hộp để hỗ trợ cố định ổ gãy. Nếu 
cần thiết cĩ thể xuyên thêm đinh thứ 3, thứ 4 để 
cố định các mảnh gãy. 
Sau phẫu thuật, chân được bĩ bột cẳng bàn 
chân ngay tại phịng mổ, đợi bột khơ tiến hành 
cắt sát chân đinh. Chụp x-quang kiểm tra hai 
bình diện nghiêng và Harris. Sau mổ bệnh nhân 
được tư vấn đi bằng 2 nạng khơng chạm chân 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học 
Chuyên Đề Ngoại Khoa 204
đau, tái khám sau 2 tuần sau mổ, 04 tuần ở lần 
tiếp theo và sau mỗi 06 tuần. Bỏ bột và rút đinh 
sau 10 -12 tuần sau đĩ bắt đầu tập đi nạng chịu 
lực chân đau tăng dần. 
KẾT QUẢ 
Chúng tơi đã theo dõi và điều trị 46 bệnh 
nhân (40 nam và 6 nữ) với tuổi trung bình là 
41,59 tuổi, tập trung nhiều ở lứa tuổi 30 -49 tuổi 
(65,2%). Nguyên nhân của tai nạn chủ yếu là do 
té cao 41 ca (89,1% các trường hợp) và 5 ca 
(10,9% các trường hợp) bị tai nạn lưu thơng. 
13/46 ca (28,3%) gãy xương gĩt 2 bên và 7/46 ca 
(15,2%) cĩ các tổn thương phối hợp khác như 
gãy cột sống, gãy xương chi dưới... Trong 13 ca 
bị gãy xương gĩt 2 bên cĩ 5 ca phải phẫu thuật 
cả hai chân nên tổng số xương gĩt phẫu thuật là 
51 ca. 100% các ca đều đạt lành xương sau 3 – 6 
tháng, trung bình 3,75 tháng. Gĩc Boehler trước 
mổ tất cả các trường hợp đều cĩ số đo ≤ 0o, sau 
mổ gĩc Boehler trung bình 30,80 (Bảng 1). 
Bảng 1. Sự hồi phục gĩc Boehler sau mổ 
Gĩc Boehler Trước mổ Sau mổ 
Số lượng 51 51 
Nhỏ nhất <0 10 
Lớn nhất 0 40 
Trung bình 0 30,80 ± 6,81 
Trung vị 0 30 
Cĩ 30 ca (58,8%) trong số 51 xương gĩt trong 
lơ nghiên cứu khơng đau khi đi bộ liên tục tại 
thời điểm đánh giá lại lần cuối. 14 ca (27,5%) đau 
nhẹ khi chạy nhảy, 5 ca (9,8%) đau khi đi lại làm 
việc nhẹ và 2 ca (3,9%) đau khi làm nặng. 48 ca 
(94,2%) cĩ biên độ vận động khớp cổ chân bằng 
với chân khơng lành. 2 ca (3,92%) cĩ dáng đi 
khập khiểng. 48/15 ca (94,12%) cĩ hoạt động 
bình thường và 5 ca (5,98%) bị hạn chế cơng việc 
trong đĩ cĩ 2 ca (3,92%) phải thay đổi cơng việc. 
Bảng 2: Đánh giá chức năng bàn chân theo Rowe(11) 
Mức độ Số ca Tỷ lệ (%) 
Xuất sắc 37 72,6 
Khá 9 17,6 
Trung bình 3 5,9 
Kém 2 3,9 
Tổng cộng 51 100 
Tỷ lệ khá và xuất sắc là 90,2%, trung bình 
5,9%, cĩ 2 trường hợp (3,9%) kém bị nhân đau 
khi đi lại và cần thay đổi cơng việc (Bảng 2). 
Đánh giá kết quả chung theo tiêu chuẩn Hall 
và Pennal(4) (Bảng 3), với số ca tốt và khá 89,1%, 
trung bình và xấu 10,8%. 
Bảng 3: Kết quả chung theo tiêu chuẩn Hall và 
Pennal(4) 
Kết quả Số ca Tỷ lệ (%) 
Tốt 34 73,9 
Khá 7 15,2 
Trung bình 3 6,5 
Xấu 2 4,3 
Tổng số 46 100 
Các biến chứng 
Trong số 51 trường họp được phẫu thuật. 
Trong đĩ cĩ 9 ca (17,6%) lành xương mà khơng 
cĩ bất kỳ biến chứng nào. 42/51 ca (82,4%) cĩ 
biểu hiệu của rối loạn dinh dưỡng da với da khơ, 
nhăn nheo, bàn chân nhỏ hơn bên lành, tê nhẹ. 
Đây cũng là biến chứng thường gặp nhất của 
việc bĩ bột. Cĩ 2/51 ca (3,9%) nhiễm trùng chân 
đinh được điều trị kháng sinh cắt lọc lành hẳn 
sau 2 tuần khơng để lại di chứng. 
Cĩ 2 trường họp bị lún lại đồi gĩt sau khi 
theo dõi, 3 trường họp (6,5%) phải thay đổi nghề 
nghiệp sau điều trị. 
BÀN LUẬN 
Hầu hết gãy xương gĩt là một chấn thương 
năng lượng cao đi kèm với các tổn thương đi 
kèm cũng như mức độ tổn thương mơ mềm 
vùng gĩt chân khác nhau. Thời gian gần đây 
phẫu thuật mở kết hợp xương bên trong đã 
được sử dụng rộng rãi trong điều trị gãy lún 
đồi gĩt nhằm phục hồi cấu trúc giải phẫu 
xương gĩt, tuy nhiên phẫu thuật thường phải 
trì hỗn cho đến khi mơ mềm bớt sưng nề 
(thường 7 - 14 ngày)(5). Các biến chứng liên 
quan đến mổ mở là các biến chứng liên quan 
đến vết thương, mặc dù cĩ nhiều kỹ thuật 
phẫu thuật tiên tiến, thiết kế tiện lợi cùng với 
các tiến bộ của vật liệu cấy ghép xương, nhưng 
tỷ lệ biến chứng vết mổ vẫn cịn cao. Theo 
Myerson tỉ lệ biến chứng vết thương dao động 
từ 16-25%(8). Essex- Lopresti(3) giới thiệu kỹ 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
Chuyên Đề Ngoại Khoa 205
thuật nắn kín, xuyên đinh qua da dưới màn 
tăng sáng vài thập kỷ trước, nhằm hạn chế các 
biến chứng của việc mổ mở và đã đạt được 
một số thành cơng nhất định. Được chứng 
minh bằng nhiều cơng trình nghiên cứu của 
các tác giả trong và ngồi nước. Tuy nhiên các 
chỉ định của thủ thuật này chỉ giới hạn ở loại 
gãy hình lưỡi, theo phân loại Sander(12) loại IIC 
hoặc ở những bệnh nhân khơng cĩ khả năng 
phẫu thuật. 
Kỹ thuật điều trị gãy lún nhiều mảnh đồi gĩt 
bằng nắn kín và cố định với đinh dưới màn tăng 
sáng là một phẫu thuật xâm lấn tối thiểu, được 
cải biên từ kỹ thuật Essex- Lopresti đã được 
nhiều tác giả trên thế giới sử dụng rộng rãi và 
chứng minh về những lợi ích của kỹ thuật này 
như giảm tỷ lệ biến chứng vết thương, phục hồi 
hình thái giải phẫu xương gĩt, cải thiện chức 
năng bàn chân. 
Gĩc Boehler sau mổ 
Trong 51 xương gĩt được mổ nâng đồi gĩt 
kín dưới màng tăng sáng trong luận văn các ca 
đều cĩ số đo gĩc Boehler ≤ 0o, gĩc Boehler sau 
mổ được cải thiện từ 20o – 40o, cĩ 3 trường hợp 
gĩc Boehler <10o. Trung bình gĩc Boehler sau mổ 
là 30,8o. 
Phục hồi hình lại giải phẫu xương gĩt là cần 
thiết cho chức năng của bàn chân sau và mắc cá 
chân. Sanders(11) báo cáo 82 bệnh nhân được theo 
dõi (8-12 năm) sau phẫu thuật để so sánh với 
phương pháp điều trị khơng phẫu thuật của gãy 
xương gĩt phạm khớp, cho thấy cĩ sự khác biệt 
giữa nhĩm phẫu thuật phục hồi giải phẫu xương 
gĩt với nhĩm khơng phẫu thuật về triệu chứng 
đau, chức năng bàn chân và giảm tỷ lệ thối hĩa 
khớp sau chấn thương. Một khi hình thái giải 
phẫu của xương gĩt phục hồi kém và thối hĩa 
khớp sau chấn thương (thối hĩa khớp dưới sên) 
tiến triển sẽ làm giảm chức năng bàn chân và cần 
phải được điều trị thêm. 
Sự tương quan giữa gĩc Boehler và diễn biến 
lâm sàng trong gãy xương gĩt phạm khớp đã 
được chứng minh. Hay nĩi cách khác, việc phục 
hồi hình thái giải phẫu của bàn chân sau sẽ cho 
kết quả lâm sàng tốt hơn. 
Sự lún trở lại đồi gĩt 
Do xương gĩt là một xương xốp, khi bị gãy 
nhiều mảnh và lún đồi gĩt thì xương bị nát và 
mất xương nhiều vì vậy làm cho xương gĩt trở 
nên rỗng bên trong. Việc nắn kín xuyên đinh 
qua phần vỏ xương cứng cĩ thể nâng được mặt 
khớp, tuy nhiên rất dễ bị lún trở lại khi chân chịu 
lực quá sớm do bệnh nhân chống chân đau sớm 
hoặc do chưa đạt được độ lành xương vững 
chắc, hay do kết hợp xương chưa đủ vững chắc, 
một số trường hợp phẫu thuật viên xuyên đinh 
cố định khơng qua khớp gĩt hộp, về nguyên tắc 
kết hợp xương như vậy khơng vững đây cũng cĩ 
thể xem như 1 nguyên nhân lún lại đồi gĩt. 
Trong lơ nghiên cứu cĩ 2/52 ca (3,92%) bệnh 
nhân bị lún trở lại đồi gĩt sau thời gian theo dõi 
12 tháng. Trong 2 trường hợp này 1 ca do xương 
gĩt gãy nát sau mổ nâng gĩc Boehler lên được 
30o, sau đĩ bị lún lại. Trường hợp cịn lại bệnh 
nhân trẻ tuổi, bị gãy cả hai gĩt, sau mổ gĩc 
Boehler 2 bên 30o, bĩ bột cả 2 chân khi xuất viện 
về bệnh nhân chống chân đi sớm, nên lún lại đồi 
gĩt bên P. cả hai trường hợp lún lại đồi gĩt đều 
khơng cĩ giới hạn về chức năng cổ chân. 
Qua đây cho thấy sự hợp tác của bệnh nhân 
cũng đĩng vai trị rất quan trọng, ảnh hưởng 
đến kết quả điều trị nhất là đối với phẫu thuật 
nắn kín nâng đồi gĩt dưới màn tăng sáng. 
Thời gian lành xương 
Xương gĩt là một xương xốp, dễ lành xương. 
Tỷ lệ khơng lành xương ở xương gĩt rất thấp, 
theo Mann(6) tỷ lệ khơng lành xương ở xương gĩt 
khơng đáng kể do vùng này là xương xốp. Cĩ 
nhiều yếu tố ảnh hưởng đến khả năng lành 
xương: bệnh lý tiểu đường, hút thuốc lá, nhiễm 
trùng sau mổ. Trong nghiên cứu này thời gian 
lành xương sớm nhất là 3 tháng, trễ nhất là 6 
tháng. Thời gian trung bình là 3,75 tháng tháng, 
tỷ lệ lành xương đạt 100%. Việc đánh giá sự lành 
xương chủ yếu dựa vào các yếu tố: triệu chứng 
lâm sàng và hình ảnh can xương trên phim X 
quang. Một bệnh nhân được đánh giá lành 
xương khi trên lâm sàng bệnh nhân chống chân 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học 
Chuyên Đề Ngoại Khoa 206
đi khơng đau và trên phim X-quang can xương 
xĩa mờ các đường gãy. 
Vai trị của ghép xương trong điều trị gãy 
xương gĩt 
Với cấu tạo và giải phẫu của xương gĩt khi 
bị gãy do chấn thương với lực dồn nén sẽ cĩ mất 
xương sau chấn thương. Sự khuyết hổng xương 
sẽ rõ ràng hơn khi tiến hành nâng mặt khớp bị 
lún. Việc lấp đầy khoảng trống xương sau khi 
nâng mặt khớp gĩp phần hỗ trợ thêm về mặt cơ 
học cũng như kích thích sự lành xương nhanh 
hơn. Mặc dù việc sử dụng kỹ thuật nâng đồi gĩt 
kín và cố định bằng đinh dưới màn tăng sáng để 
điều tri gãy xương gĩt cĩ nguy cơ lành xương 
khơng đầy đủ và đặc biệt là tái tạo mặt khớp 
khơng tốt bằng mổ mở kết hợp xương bên trong 
kèm ghép xốp, tuy nhiên chúng tơi cũng đã đạt 
được giải phẫu của xương gĩt một cách tương 
đối (gĩc Boehler trung bình sau mổ 300, lành 
xương đạt 100%) mà khơng sử dụng bất kỳ một 
loại mảnh ghép nào( xương tự thân hay chất 
thay thế xương). Theo Menon(7) xương gĩt cĩ 
mạch máu nuơi phong phú và nhanh lành 
xương với việc tái tạo hủy cốt bào trong vịng 4 – 
8 tuần sau phẫu thuật. Trên thực tế việc ghép 
xương tự thân đã khơng được chứng minh là cĩ 
lợi hơn về mặt hình thái và chức năng. 
Tác giả Mann(6) mơ tả kỹ thuật điều trị gãy 
xương gĩt bằng phẫu thuật xâm lấn tối thiểu 
kèm tăng cường chất thay thế xương hoặc xi 
măng sinh học qua da và đã chứng minh kết 
quả lâm sàng tốt. Tuy nhiên, việc sử dụng các 
chất thay thế xương sẽ làm tăng nguy cơ 
nhiễm trùng. 
Thời gian phẫu thuật 
Thời gian phẫu thuật trung bình 25 phút, 
đây là thời gian phẫu thuật ít hơn đáng kể so 
với mổ mở kết hợp xương bên trong của Lâm 
Quốc Thanh(5) 68 phút, hay của Rowe(11) 155 
phút. Việc rút ngắn thời gian phẫu thuật sẽ 
giảm thiểu nguy cơ phơi nhiễm vết mổ cũng 
như hạn chế đáng kể những tai biến về gây mê 
hồi sức. 
Nhiễm trùng chân đinh 
Trong lơ nghiên cứu cĩ 2/51 trường hợp 
nhiễm trùng chân đinh (3,92%), cĩ dịch mủ chảy 
ra theo chân đinh và 1 ca làm lỏng đinh. Cả hai 
trường hợp được phát hiện sớm và tiến hành rút 
dụng cụ sớm (6 tuần sau mổ), cắt lọc và dùng 
kháng sinh sau 02 tuần ổn định và được bĩ bột 
tăng cường. 
Theo một số cơng trình nghiên cứu trong và 
ngồi nước, cĩ những sự khác biệt đáng kể về tỷ 
lệ này như tác gả Essex- Lopresti(3) tỷ lệ này là 
0%, Trần Đức Vinh(13) với 100 ca nghiên cứu cĩ tỷ 
lệ nhiễm trùng chân đinh là 2% 
Cĩ sự khác biệt như vậy cĩ lẽ một phần do 
lỗi của phẫu thuật viên. Vì phẫu thuật nâng đồi 
gĩt kín dưới màn tăng sáng là 1 phẫu thuật ít 
xâm lần, nguy cơ nhiễm trùng thấp, nên cơng tác 
vơ khuẩn trước, trong và sau cuộc mổ khơng 
được phẫu thuật viên quan tâm đúng mức. Đây 
là một quan điểm sai lầm dễ dẫn đến nguy cơ 
nhiễm trùng chân đinh. 
Một nguyên nhân nữa cũng đáng quan tâm 
đĩlà ý thức giữ vệ sinh của bệnh nhân. Nhiều 
bệnh nhân khơng hề vệ sinh vùng chân đinh 
hàng ngày, chống chân đi sớm làm gãy bột, 
thấm nước và bẩn. Đây cũng là một nguyên 
nhân gây nhiễm trùng đáng phải lưu tâm. 
Với các trường hợp nhiễm trùng chân đinh, 
cần phải được phát hiện kịp thời, điều trị tích 
cực, đặc biệt tốt nhất nên lấy mủ cấy khuẩn làm 
kháng sinh đồ để điều trị hiệu quả hơn. 
Vì vậy phẫu thuật khi làm phẫu thuật này 
cũng phải đảm bảo cơng tác vơ trùng như bao 
cuộc mổ khác. 
Quay lại cơng việc cũ 
Gãy xương gĩt là một tổn thương nghiêm 
trọng, để lại nhiều di chứng nặng nề, làm giảm 
chất lượng cuộc sống của bệnh nhân, tăng gánh 
nặng kinh tế cho gia đình và xã hội nếu việc điều 
trị khơng đạt kết quả tốt. 
Trong luận văn cĩ 46 ca thì cĩ 3 trường hợp 
(chiếm 6,52%) phải thay đổi nghề nghiệp do đau 
và khơng chịu được sức nặng, hay do lớn tuổi ở 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
Chuyên Đề Ngoại Khoa 207
nhà nội trợ. so với các tác giả khác tỷ lệ này cũng 
tương đối phù hợp. 
Qua bảng trên ta thấy tỷ lệ thay đổi cơng 
việc trong gãy xương gĩt khá cao, cĩ thể giải 
thích tỷ lệ thay đổi cơng việc cao như vậy là vì 
bệnh nhân đa phần là ở độ tuổi lao động làm 
những cơng việc nặng nhọc như đi dứng nhiều, 
leo trèo, mang vát nặng. Trong 3 trường hợp 
thay đổi cơng việc của luận văn, đều cĩ tổn 
thương nặng nề về giải phẫu của xương gĩt (gãy 
lún nhiều mảnh độ 3), trong đĩ cĩ 1 trường hợp 
tổn thương gãy cột sống thắt lưng kèm theo, 1 
trường hợp bệnh nhân nữ 60 tuổi sau khi điều trị 
gãy xương gĩt thì nghĩ làm việc ở nhà nội trợ. 
Chính vì vậy, đứng trước 1 bệnh nhân gãy 
xương gĩt nặng khi nắn kín phục hồi giải phẫu 
chưa tốt, bệnh nhân trẻ tuổi cần cân nhắc mổ mở 
để nắn chỉnh đồng thời ghép xương xốp? 
Thối hĩa khớp dưới sên 
Do thời gian nghiên cứu và theo dõi cịn 
ngắn, thời gian theo dõi dài nhất khoảng 16 
tháng chưa đủ để kết luận là cĩ hay khơng cĩ 
thối hĩa khớp dưới sên sau khi phẫu thuật 
nâng đồi gĩt kín dưới màn tăng sáng cố định 
bằng đinh. Theo tác giả Essex- Lopresti để đánh 
giá thối hĩa khớp dưới sên thì phải sau 6 
năm(3), cịn theo Hall(4) thì thời gian này là 10 
năm. Cịn theo tác giả Trần Đức Vinh(13) ghi nhận 
được 4/70 ca (5,7%) sau 3 năm điều trị gãy 
xương gĩt bằng thủ thuật Essex – Lopresti. 
Đánh giá kết quả chung 
Mục tiêu của việc điều trị gãy xương gĩt 
bằng phương pháp nâng đồi gĩt kín và cố đinh 
bằng đinh “K” dưới màn tăng sáng là phục hồi 
lại giải phẫu, nâng mặt khớp lún, cố định vững 
chắc. Do đĩ kết quả đạt được tùy thuộc nhiều 
vào việc phục hồi lại các tổn thương giải phẫu 
của xương gĩt. Việc đánh giá này chủ yếu dựa 
trên theo dõi lâm sàng và hình ảnh học theo 
từng giai đoạn bệnh. 
Sự hài lịng của bệnh nhân cũng là một tiêu 
chí cần thiết để đánh giá điều trị thành cơng hay 
thất bại của gãy xương gĩt. Bảng đánh giá phân 
loại chung theo Hall và Pennal(4) cĩ 4 mức độ: 
Tốt, khá, trung bình và xấu. Chủ yếu dựa vào 
mức độ hài lịng và chức năng của cổ chân. 
Với thời gian theo dõi từ 12-18 tháng 
phương pháp điều trị của chúng tơi cĩ kết quả 
tương đương với một số tác tác giả khác trong và 
ngồi nước. 
Trong kết quả luận văn, tỷ lệ tốt và khá 
89,1% cũng tương đương với 1 số tác giả khác 
Essex – Lopresti 85%(3), King 82%, Trần Đức 
Vinh 81%(13). 
Tỷ lệ trung bình – xấu là 10,8%, cũng khơng 
chênh lệch nhiều so với một số tác giả trong và 
ngồi nước. 
Trong số 10,8% (5/46 ca) xấu- trung bình thì 
cĩ 2 ca khi mổ nâng gĩc Boehler thất bại, gây 
đau khi đi lại và giảm chức năng cổ bàn chân, 3 
ca cịn lại cĩ 2 ca do lún lại gĩc Boehler sau mổ, 1 
ca gĩc Boehler sau mổ <100, cho thấy cĩ mối liên 
quan giữa phục hồi gĩc Boehler với chức năng 
lâm sàng. Những ca cĩ gĩc Boehler > 250, thường 
cĩ dự hậu lâm sàng và phục hồi chức năng cổ 
chân tốt hơn. Với p < 0,05 (paired sample test), cĩ 
ý nghĩa thống kê. 
KẾT LUẬN 
Phương pháp điều trị gãy lún nhiều mảnh 
đồi gĩt bằng nắn kín và xuyên đinh dưới màn 
tăng sáng là một kỹ thuật đơn giản, dễ thực hiện, 
thời gian phẫu thuật nhanh cĩ thể phẫu thuật 
ngay sau chấn thương, rút ngắn được thời gian 
nội trú của bệnh nhân, làm giảm chi phí điều trị. 
Tỷ lệ biến chứng nhiễm trùng khơng đáng kể, 
khơng ảnh hưởng đến kết quả điều trị. Phương 
pháp này giúp phục hồi hình thái xương gĩt 
thơng qua việc cải thiện gĩc Boehler và kết quả 
chức năng lâm sàng hồi phục tốt. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Bajammal S, Tornetta IP, Sander D et al (2005). “Displaced intra-
articular calcaneal fractures”. J Orthop trauma; 19: pp. 360-4 
2. Baron LR, Stragielski FC, Christman AR (2015). “Positioning 
Techniques and Terminology” Foot And Ankle Radiology, 
2E(4):pp.138-181 
3. Essex-Loprest P (1952). “The mechanism, reduction technique, 
and results in fractures of the os calcis”. Br J Surg; 39:pp 395-419 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học 
Chuyên Đề Ngoại Khoa 208
4. Hall MC, and Pennal GF (1960). “Primary subtalar arthrodesis 
in the treatment of severe fractures of the calcaneum”, J. Bone 
Joint Surg.42B: pp 336-343. 
5. Lâm Quốc Thanh (2016). “Đánh giá kết quả điều trị gãy lún 
nhiều mảnh xương gĩt bằng phẫu thuật mở KHX nẹp ốc”. Luận 
văn tốt nghiệp bác sỹ chuyên khoa II, ĐH Y khoa Phạm Ngọc Thạch 
6. Mann RA, Haskell A (2007). “Biomechanic of the Foot and 
Ankle”. Surgery of the Foot and Ankle, 1:pp 19-20 
7. Menon KV, Suresh SS, (2013). “Clinical anatomy and injury 
mechanics” Fracture of Calcaneus, Adobe Acrobat Reader DC, 2, 
pp 6-13 
8. Myerson M, Quill GE Jr. (1993). Late complication of fracture of 
the calcaneus, J Bone Joint Surg [Am], 75-A:pp. 331-341 
9. Jones C, Parekh GS (2012). “The basics of foot and ankle”. Foot 
and Ankle Surgery, 2:pp 10-12 
10. Jone PC, Alastair SE (2007). “Imaging of the Foot and Ankle”. 
surgery of the Foot and Ankle,3:pp71-77 
11. Rowe CR, Sakellarides H, Freeman P, et al (1963), Fractures of os 
calcis: a long term follow-up study of one hundred forty-six 
patients. JAMA; 184:920.. 
12. Sanders R (2000). “Displaced intra-articular fractures of the 
calcaneus". J Bone Joint Surg Am; 82A: pp. 225-250. 
13. Trần Đức Vinh (2007). “Đánh giá kết quả điều trị gãy lún đồi gĩt 
bằng thủ thuật Essex-Lopresti”. Luận văn thạc sỹ Y Khoa, Đại học 
Y Dược TP Hồ Chí Minh. 
Ngày nhận bài báo: 08/11/2018 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 10/12/2018 
Ngày bài báo được đăng: 10/03/2019