Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019
Hội Nghị Khoa Học BV. Truyền máu Huyết học 292
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ GHÉP TẾ BÀO GỐC TỰ THÂN 
TRONG ĐIỀU TRỊ CHẤN THƯƠNG SỌ NÃO NẶNG 
Nguyễn Viết Quang*, Nguyễn Viết Quang Hiển*, Nguyễn Duy Thăng*, Phan Thị Thùy Hoa*, 
Nguyễn Thị Hảo*, Trần Ngọc Vũ*, Nguyễn Ngọc Quang*, Lê Phước Quang*, Hà Thị Phương Lan*, 
Bùi Thị Diễm Thư*, Ngô Nhật Hoàng**, Phan Thị Diệu Ngân**, Chế Thị Cẩm Hà** 
TÓM TẮT 
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả của tế bào gốc trung mô tự thân qua thang điểm Glasgow và chỉ số BI. 
Đối tượng và phương pháp: Nhóm ghép tế bào gốc gồm 20 bệnh nhân (BN) tuổi từ 14-65 và nhóm đối 
chứng gồm 20 BN tuổi từ 16-62. Các BN có chỉ số Glasgow 5-8 điểm. BN được thu dịch tủy xương ở vùng 
xương chậu trước, tách tế bào đơn nhân với Ficoll-Paque và ghép tế bào trong vòng 2 giờ sau chấn thương bằng 
tiêm tĩnh mạch. Đồng thời tiến hành nuôi tăng sinh tế bào gốc trung mô và ghép lần hai sau 9-13 ngày. Đánh giá 
an toàn của phương pháp qua các chỉ số gan, thận, huyết học. Đánh giá chỉ số BI và Glasgow ở 1, 3 và 6 tháng 
sau điều trị. 
Kết quả: Chỉ số BI và Glasgow tăng rõ rệt ở nhóm ghép tế bào gốc so với nhóm đối chứng, không có biến 
chứng bất thường trong 4-6 tháng sau ghép tế bào. 
Kết luận: Ghép tế bào gốc tự thân an toàn và có hiệu quả tích cực đối với BN chấn thương sọ não cấp tính. 
Từ khóa: tế bào đơn nhân, tế bào gốc trung mô, tủy xương, chấn thương sọ não cấp tính 
ABSTRACT 
EVALUATING TREATMENT EFFECTIVENESS ACUTE TRAUMATIC BRAIN INJURY 
BY USING AUTOLOGOUS BONE MARROW DERIVED STEM CELLS 
Nguyen Viet Quang, Nguyen Viet Quang Hien, Nguyen Duy Thang, Phan Thi Thuy Hoa, Nguyen Thi 
Hao, Tran Ngoc Vu, Nguyen Ngoc Quang, Le Phuoc Quang, Ha Thi Phuong Lan, 
 Bui Thi Diem Thu,Ngo Nhat Hoang, Phan Thi Dieu Ngan, Che Thi Cam Ha 
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 – No. 6 - 2019: 292 – 298 
Objects: To evaluate the effectiveness of autologous stem cell therapy via the BI and Glasgow indexes. 
Methods: Twenty acute traumatic brain injury patients aged 14 and 65 years with autologous stem cells 
transplants and 20 acute traumatic brain injury patients with control. All patients have Glasgow Coma Scale of 
5-8. The patients were treated with autologous mononuclear cells delivered intravenously within 2 hours after 
bone marrow harvesting, mesenchymal stem cells were isolated and expanded in culture before the system 
administrating through vein after 9-13 days. To determine the safety of the procedure, systemic and cerebral 
hemodynamics were monitored during bone marrow harvest; infusion-related toxicity was determined by hepatic 
enzymes and renal function. 
Result: The results have shown significant improvement in the BI and Glasgow indexes compared to the 
control group. There was no abnormal complication within 4-6 months after treatment. 
Conclusion: Autologous stem cell therapy is effective and safe in patients with severe traumatic brain injury. 
Keywords: stem cells, mesenchymal stem cell, bone marrow, acute traumatic brain injury 
*Bệnh viện Trung ương Huế **Đại học khoa học – Đại học Huế 
Tác giả liên lạc: BSCKII. Phan Thị Thùy Hoa ĐT: 0905 997 687 Email: 
[email protected]. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 6* 2019 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học BV. Truyền máu Huyết học 293
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Các nghiên cứu gần đây cho thấy các tế 
bào gốc cư trú trong các ổ gốc trong não có thể 
đóng vai trò phục hồi và tái tạo thần kinh để 
đáp ứng với các tổn thương hoặc bệnh lý của 
thần kinh trung ương. Trong chấn thương sọ 
não (CTSN) cấp tính, tế bào gốc sau ghép giúp 
cải thiện các chỉ số chức năng não bộ, khôi 
phục các tế bào thần kinh bị tổn thương, đồng 
thời điều hòa giảm các đáp ứng viêm(9,10,11). 
Thông qua các hoạt động paracrine, tế bào gốc 
sau ghép đã kích thích kết nối synap từ các tế 
bào thần kinh bị tổn thương và điều chỉnh 
viêm, giảm quá trình apoptosis, giảm nồng độ 
gốc tự do trong não bộ(15). 
Với tiềm năng của các tế bào gốc trong sửa 
chữa tế bào thần kinh bị tổn thương, cũng như 
vào việc điều chỉnh để thúc đẩy khôi phục các ổ 
tế bào thần kinh nội sinh sau CTSN. Chúng tôi 
thực hiện đề tài này với mục tiêu: đánh giá hiệu 
quả của tế bào gốc trung mô tự thân qua thang 
điểm Glasgow và chỉ số BI. 
ĐỐI TƯỢNG PHƯƠNG PHÁP 
Đối tượng nghiên cứu 
Nhóm ghép tế bào gốc: 20 BN tuổi từ 14-65 
tuổi (tuổi trung bình: 34,15±13,70), cân nặng 40-
83kg, 14 nam và 6 nữ. 
Nhóm đối chứng: 20 BN, tuổi từ 16-62 (tuổi 
trung bình: 40,65±13,71), cân nặng từ 45-75kg, 13 
nam và 7 nữ. 
Chọn lựa bệnh nhân (BN) với những tiêu chí 
tương đồng: CTSN cấp tính, chỉ số Glasgow 5-8, 
có máu tụ dưới màng não, xuất huyết não. Cả 
hai nhóm đều được điều trị bằng phương pháp 
thường quy, nhóm ghép tế bào có kết hợp ghép 
tế bào gốc tự thân. 
Tiêu chí loại trừ 
BN đa chấn thương nặng; BN có tiền sử về 
bệnh thần kinh ngoại biên, hạn chế về mặt nhận 
thức, bệnh tự miễn, bệnh viêm mãn tính, ung 
thư, sử dụng thuốc kháng viêm thường xuyên, 
bệnh lý về máu. 
Phương pháp nghiên cứu 
Thiết kế nghiên cứu 
Thử nghiệm lâm sàng, ngẫu nhiên có đối chứng. 
Các bước thực hiện 
Thu nhận tủy xương: 250 ml dịch tủy xương 
được chọc hút từ gai chậu trước trên ở hai phía. 
Phân lập tế bào đơn nhân: thực hiện bằng 
phương pháp ly tâm theo gradient tỷ trọng với 
Ficoll-Paque Plus 1.077g/mL (Miltenyi Biotec Inc). 
Tăng sinh tế bào gốc trung mô: tế bào đơn 
nhân được nuôi cấy trong chai T-flask với mật 
độ 5x104 tế bào/cm2 ở 370C, 5% CO2, độ ẩm 95%. 
Tiêu chí khối tế bào gốc để ghép: nồng độ 
nội độc tố endotoxin <5,0 EU/mL; âm tính với 
nhuộm Gram và các vi sinh vật khác; tỉ lệ tế bào 
sống >90%, âm tính mycoplasma, khả năng tạo 
cụm CFU-F và biệt hóa thành tế bào sụn, mỡ và 
xương (Hình 1). 
Đếm tế bào gốc trung mô (Flow cytometry-
FACS Canto II): tế bào gốc trung mô dương tính 
với CD73, CD90, và CD105 (Hình 2). 
Quy trình ghép tế bào: ghép tế bào đơn nhân 
(lần 1) khoảng 2 tiếng sau khi chọc tủy. Ghép tế 
bào gốc trung mô (lần 2) sau 9-13 ngày. Về liều 
ghép, ghép lần 1 với liều 3-6 x106 tế bào đơn 
nhân/kg và ghép lần 2 với liều 3-6 x106 tế bào gốc 
trung mô. 
Theo dõi chỉ số bạch cầu, gan và thận: trong 
quá trình điều trị chỉ số men gan, thận ở giới hạn 
bình thường, không có hiện tượng sốc phản vệ 
hay các biến chứng khác. Số lượng bạch cầu 
trước ghép là 13,7 K/µl ở nhóm ghép tế bào gốc 
và 13,2 K/µl ở nhóm chứng. Sau 30 ngày, số 
lượng bạch cầu là 8,8 K/µl ở nhóm ghép tế bào 
và ở nhóm chứng là 10,2 K/µl. 
Đánh giá hiệu quả lâm sàng: thang điểm 
Glasgow; chỉ số BI; MRI. 
Y đức 
Nghiên cứu đã được thông qua Hội đồng Y 
đức của Bệnh viện Trung ương Huế số 439-
QĐ/BVH ngày 14 tháng 9 năm 2018. 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019
Hội Nghị Khoa Học BV. Truyền máu Huyết học 294
Hình 1. Cụm CFU-F và biệt hóa thành tế bào sụn, mỡ và xương 
Hình 2. Kết quả dấu ấn miễn dịch tế bào trung mô sau nuôi cấy (CD73, CD90, và CD105 dương tính 90-98%) 
KẾT QUẢ 
Kết quả chỉ số Glasgow 
Bảng 1. Chỉ số Glasgow của BN ghép tế bào gốc so với nhóm đối chứng 
Nhóm ghép tế bào gốc Nhóm chứng 
STT Tuổi 
Trước 
điều trị 
Sau điều trị 
STT Tuổi 
Trước 
điều trị 
Sau điều trị 
1 tháng 3 tháng 6 tháng 1 tháng 3 tháng 6 tháng 
1 49 5 8 10 12 1 47 6 6 8 11 
2 24 6 8 10 12 2 48 6 6 8 11 
3* 49 6 6 8 10 3 58 6 6 8 11 
4 27 8 9 11 13 4 62 8 8 8 9 
5* 65 6 6 8 10 5 47 6 8 8 8 
6 26 6 7 9 11 6 18 7 7 10 12 
7 14 8 8 10 14 7 54 8 8 10 12 
8 48 5 6 11 13 8 49 8 8 10 11 
9* 49 6 8 9 11 9 54 6 6 9 11 
10 39 5 7 11 13 10 24 6 6 9 13 
11 38 5 6 8 10 11 16 8 8 10 12 
12 63 8 9 11 12 12 20 8 8 9 10 
13 55 7 9 10 11 13 41 6 6 8 10 
14 53 5 6 8 9 14 38 8 8 10 12 
15 51 5 7 9 9 15 33 8 8 10 10 
16 33 5 6 9 12 16 47 6 6 8 8 
17 26 6 6 9 13 17 53 6 6 8 8 
18 39 8 10 12 14 18 41 7 8 8 9 
19 44 8 8 10 12 19 30 6 8 12 13 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 6* 2019 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học BV. Truyền máu Huyết học 295
Nhóm ghép tế bào gốc Nhóm chứng 
STT Tuổi 
Trước 
điều trị 
Sau điều trị 
STT Tuổi 
Trước 
điều trị 
Sau điều trị 
1 tháng 3 tháng 6 tháng 1 tháng 3 tháng 6 tháng 
20 51 8 8 9 12 20 33 6 6 8 10 
Mean ± SD 
34,15 
±13,70 
6,30 ± 
1,26 
7,4 ± 1,27 
9,60 ± 
1,19 
11,65 ± 
1,50 
Mean ± SD 
40,65± 
13,71 
6,80 ± 
0,95 
7,05 ± 
1,00 
8,95 ± 
1,15 
10,55 ± 
1,57 
Kết quả chỉ số Barthel (BI) 
Bảng 2. Chỉ số Barthel (BI) của BN ghép tế bào gốc so với nhóm đối chứng 
Nhóm ghép tế bào gốc Nhóm chứng 
STT Tuổi 
Sau điều trị 
STT Tuổi 
Sau điều trị 
1 tháng 3 tháng 6 tháng 1 tháng 3 tháng 6 tháng 
1 49 19 26 40 1 47 12 21 34 
2 24 20 25 39 2 48 13 22 33 
3* 49 13 21 26 3 58 13 22 34 
4 27 22 34 52 4 62 21 20 23 
5* 65 12 20 26 5 47 20 21 21 
6 26 19 23 35 6 18 21 26 39 
7 14 21 26 62 7 54 19 26 38 
8 48 11 35 52 8 49 19 25 33 
9* 49 19 23 35 9 54 12 23 32 
10 39 19 33 53 10 24 11 22 52 
11 38 13 20 27 11 16 21 27 39 
12 63 23 34 42 12 20 20 23 25 
13 55 22 26 34 13 41 13 21 26 
14 53 13 21 24 14 38 20 26 38 
15 51 19 24 24 15 33 21 25 27 
16 33 11 23 37 16 47 13 21 21 
17 26 12 22 50 17 53 12 20 20 
18 39 26 39 62 18 41 21 21 23 
19 44 21 26 39 19 30 20 39 51 
20 51 20 22 42 20 33 12 20 26 
Mean±S
D 
34,15±13,70 17,75±4,56 26,15±5,68 40,05±11,93 Mean±SD 40,65±13,71 16,70±4,12 23,55±4,30 31,75±9,27 
Kết quả chụp cộng hưởng từ (MRI) 
Hình 3. Kết quả MRI sau 1 tháng ghép tế bào gốc 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019
Hội Nghị Khoa Học BV. Truyền máu Huyết học 296
Hình 4. Kết quả MRI sau 3 tháng ghép tế bào gốc 
BÀN LUẬN 
Nhóm BN ghép tế bào gốc sau 4 tuần-6 
tháng điều trị cho thấy sự cải thiện về chỉ số 
Glasgow và chỉ số BI so với nhóm BN đối chứng. 
Chỉ số Glasgow trung bình sau 6 tháng điều trị 
của nhóm ghép tế bào gốc là 11,65 ± 1,50 và của 
nhóm chứng là 10,55±1,57. Chỉ số BI trung bình 
sau 6 tháng điều trị của nhóm ghép tế bào gốc là 
40,05±11,93 và của nhóm chứng là 31,75±9,27. 
Kết quả hình ảnh CT của các BN ở cả 2 nhóm 
nghiên cứu đều được nhận định tại thời điểm 
nhập viện (trước mổ) và hình ảnh MRI tháng 1, 3 
và 6 tháng sau điều trị. 
Kết quả Hình 3 và 4 cho thấy sự bảo toàn về 
cấu trúc não khi cấu trúc đường giữa từ di lệch 
7mm trở về bình thường. Không có sự thay đổi 
đáng kể về thể tích nội sọ hay dịch não tủy. 
Sau CTSN cơ học nguyên phát, tổn thương 
tế bào thần kinh thứ phát hoặc phản ứng viêm 
chậm và mất tế bào phát triển trong một vài giờ, 
ngày, tuần hoặc tháng, liên quan đến những 
thay đổi sinh hóa và phân tử trong các vùng mô 
tổn thương xảy ra ngay lập tức hoặc tiến triển xa 
vị trí thương tổn(8). Đặc biệt, trong CTSN nặng 
thường gây ra rối loạn chức năng nhiều cơ quan, 
mô, tổn thương hoặc chết, do đó các biến chứng 
của CTSN không chỉ giới hạn ở các hậu quả thần 
kinh(9,10,11). Phản ứng viêm sau CTSN cũng không 
chỉ có ở vị trí chấn thương hoặc ở não bị tổn 
thương-viêm dây thần kinh, mà còn liên quan 
đến phản ứng viêm toàn thân. 
Các tác dụng sớm, chậm và toàn thân của 
CTSN cấp tính là kết quả của các chất trung gian 
gây viêm khởi phát phản ứng viêm toàn thân và 
thậm chí sau đó bổ sung các khiếm khuyết và rối 
loạn đông máu(4). Các chất trung gian gây viêm 
như cytokine, gốc tự do và kích hoạt các tế bào 
miễn dịch có liên quan đến sự phát triển chấn 
thương thứ phát sau chấn thương não. 
Trong nghiên cứu này, chúng tôi ghép kết 
hợp tế bào đơn nhân và tế bào gốc trung mô 
thông qua tiêm tĩnh mạch, kết quả đánh giá sau 
6 tháng điều trị cho thấy hiệu quả về cải thiện 
chất lượng sống và an toàn cho các BN CTSN 
cấp tính. Các BN tái khám cho thấy không có tổn 
hại đến các cơ quan như gan, thận, hệ tuần hoàn 
hay chức năng não bộ, bên cạnh đó các chỉ số 
chức năng liên quan như BI và Glasgow tăng 
đáng kể so với nhóm BN không ghép. Việc cải 
thiện nhanh chóng của BN sau trị liệu tế bào gốc 
do phối hợp phù hợp giữa các yếu tố về thời 
điểm ghép, liều ghép và cách ghép tế bào. 
Cụ thể về thời điểm ghép: trong CTSN nặng 
có thể gây ra các phản ứng viêm toàn thân, có 
thể gây tổn thương cho các cơ quan không bị 
ảnh hưởng ban đầu và có khả năng làm nặng 
thêm tổn thương so với thời điểm khởi phát. 
Trong nghiên cứu này, chúng tôi đặc biệt tập 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 6* 2019 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học BV. Truyền máu Huyết học 297
trung theo dõi số lượng bạch cầu trung tính, từ 
các BN bị CTSN có ghép tế bào gốc và so sánh 
với các giá trị này với nhóm chứng. Kết quả cho 
thấy ở nhóm ghép tế bào gốc sau 3 ngày điều trị, 
số lượng bạch cầu đã giảm nhiều về trị số chuẩn 
nhờ vào khả năng hoạt động của tế bào gốc 
trong điều hòa miễn dịch nguyên phát. Các 
nghiên cứu liên quan đến các đáp ứng viêm của 
BN CTSN cấp tính cho thấy rằng các phản ứng 
viêm ở vị trí vết thương liên quan đến sự tăng 
lên nhanh chóng các cytokine tiền viêm,số lượng 
bạch cầu trung tính,..(4,6). Như vậy, tế bào đơn 
nhân sau ghép đã hoạt động và đáp ứng tiết các 
cytokine đúng thời điểm và sau đó sẽ giảm dần 
trong vòng 72 giờ sau CTSN. 
Sau ghép lần 1 khoảng 9-13 ngày, tiến hành 
ghép tế bào gốc trung mô, kết quả cho thấy số 
lượng bạch cầu tiếp tục tăng nhằm đáp ứng tín 
hiệu viêm từ vị trí tổn thương. Các tế bào gốc 
trung mô tiếp tục tham gia điều hòa miễn dịch, 
làm giảm phản ứng viêm và giảm sản xuất, xâm 
nhập các dòng bạch cầu vào vị trí tổn thương. 
Việc tế bào gốc sau ghép đáp ứng điều tiết các 
cytokine sau CTSN tăng đạt đỉnh trong quá trình 
viêm sớm từ 3-10 ngày, cho thấy thời điểm tác 
động bằng ghép tế bào là rất quan trọng, có thể 
ảnh hưởng đến hiệu quả điều trị. 
Sau 1 tháng, số lượng bạch cầu giảm rõ rệt 
và duy trì tại trị số chuẩn. Điều này cho thấy tác 
dụng bảo vệ các tế bào thần kinh và mô não khỏi 
bị tổn thương hoặc hạn chế các thương tổn thứ 
phát. Các yếu tố này được Cabonara và cộng sự 
kết luận trong các nghiên cứu về đánh giá hiệu 
quả điều trị CTSN cấp tính bằng tế bào gốc 
trung mô trong việc bảo vệ tế bào thần kinh(1). 
Chúng tôi tiến hành ghép tế bào lần thứ nhất 
ngay sau khi BN chấn thương với một liều lượng 
vừa đủ với mục đích can thiệp ngay giai đoạn 
viêm sớm của tế bào thần kinh, đưa vào các tế 
bào gốc có khả năng điều hòa giảm các lượng 
cytokine viêm và tăng các cytokine kháng viêm. 
Tiếp tục quá trình này là việc ghép tế bào gốc 
trung mô trong thời gian sớm nhất có thể 9-13 
ngày, nhằm mục đích các tế bào này sẽ di 
chuyển đến các vị trí tổn thương do trải qua quá 
trình tổn thương thứ phát cũng như xâm nhập 
vào các vị trí ổ tế bào gốc thần kinh – nơi ở của 
các tế bào gốc tiền thân ở trạng thái không hoạt 
động. Khi đến tại ổ tế bào gốc thần kinh, các tế 
bào gốc trung mô có thể sinh sống để tham gia 
khôi phục và biệt hóa tạo thành các tế bào thần 
kinh mới, bảo vệ chúng khỏi sự apoptosis, kiểm 
soát sự tăng sinh của tế bào. Nghiên cứu của 
Ohtaki H, và cộng sự chứng minh rằng tế bào 
gốc có khả năng tiết ra các yếu tố cận tiết như các 
yếu tố tăng trưởng và các cytokine kháng viêm 
giúp bảo vệ các tế bào ở vùng tổn thương, giảm 
các đáp ứng miễn dịch ở vị trí tổn thương, từ đó 
các mô tổn thương não có thể được bảo vệ và hồi 
phục chức năng tăng nhanh(2,7,12). 
Như vậy, ghép tế bào gốc trung mô với 
những tiềm năng như khả năng homing đến vị 
trí vết thương, khả năng điều hòa miễn dịch và 
khả năng chuyển biệt hóa thành tế bào thần 
kinh bởi các yếu tố cận tiết đã truyền về các 
chemokine, selectins và integrins được tiết ra 
bởi lớp nội mô(13). Tác động này là đặc trưng 
của tế bào gốc trung mô nhờ vào khả năng di 
chuyển đến vết thương. Nghiên cứu của Li và 
cộng sự cho thấy việc ghép tế bào gốc trung 
mô sau khi chấn thương 2-7 ngày có những 
tiến triển tích cực(8). 
Các tế bào gốc trung mô dưới sự tác động 
của các yếu tố cytokine có khả năng homing đến 
các vị trí tổn thương ở não. Tại đây chúng sẽ 
điều hòa các đáp ứng miễn dịch, cụ thể là giảm 
sự hoạt động của các tế bào lympho T CD4 và 
CD8, tăng chuyển hóa thành tế bào T-reg, ức chế 
sự trường thành của tế bào NK, tăng tiết các 
cytokine kháng viêm và giảm nồng độ các 
cytokine tiền viêm. Bên cạnh đó, khả năng 
chuyển biệt hóa từ tế bào gốc trung mô thành 
các tế bào đệm thần kinh hay các tế bào neuron 
dưới sự tác động của vi môi trường tại não sẽ 
giúp thay thế các tế bào đệm bị tổn thương, hỗ 
trợ hồi phục lại chức năng mô não. 
Mặc dù nghiên cứu của chúng tôi chỉ mới 
thống kê trên 20 BN ghép tế bào gốc, tuy nhiên 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019
Hội Nghị Khoa Học BV. Truyền máu Huyết học 298
kết quả cho thấy những hiệu quả tích cực từ tế 
bào gốc. Nhóm nghiên cứu rất mong muốn cung 
cấp một liệu pháp nhằm nâng cao chất lượng 
sống cho các BN sau CTSN nghiêm trọng cũng 
như giảm gánh nặng cho gia đình và xã hội. 
KẾT LUẬN 
Sau 6 tháng điều trị, nhóm ghép tế bào gốc 
có chỉ số Glasgow trung bình là 11,65±1,50 và 
nhóm chứng là 10,55±1,57. Nhóm ghép tế bào 
gốc có chỉ số BI trung bình là 40,05 ±11,93 và 
nhóm chứng là 31,75±9,27. 
Hình ảnh MRI sau 1, 3, 6 tháng sau ghép tế 
bào gốc cho thấy sự bảo toàn về cấu trúc não và 
không có sự thay đổi đáng kể về thể tích nội sọ 
hay dịch não tuỷ. 
Liều ghép 3-6 x 106 tế bào đơn nhân/kg cân 
nặng và 3-6x106 tế bào gốc trung mô là an toàn 
và có tác dụng trong điều trị CTSN cấp tính. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Carbonara M, Fossi F, Zoerle T, et al (2018). Neuroprotection in 
Traumatic Brain Injury: Mesenchymal Stromal Cells can 
Potentially Overcome Some Limitations of Previous Clinical 
Trials, Front Neurol, pp.9. 
2. Chopp M, Li Y, Zhang ZG (2009). Mechanisms underlying 
improved recovery of neurological function after stroke in the 
rodent after treatment with neurorestorative cell-based 
therapies. Stroke, 40(3 suppl):S143-S145. 
3. Dekmak A, Mantash S, Shaito A, Toutonji A, Ramadan N, 
Ghazale H, et al (2018). Stem cells and combination therapy for 
the treatment of traumatic brain injury. Behav Brain Res, 340:49–
62. 
4. Harting MT, Jimenez F, Adams SD, Mercer DW, Cox CS (2008). 
Acute, regional inflammatory response after traumatic brain 
injury: Implications for cellular therapy. Surgery, 144(5):803-813. 
5. Hasan A, Deeb G, Rahal R, Atwi K, Mondello S, Marei HE, et al 
(2017). Mesenchymal stem cells in the treatment of traumatic 
brain injury. Front Neurol, doi: 10.3389/fneur.2017.00028. 
6. Israelsson C, Bengtsson H, Kylberg A, et al (2008). Distinct 
cellular patterns of upregulated chemokine expression 
supporting a prominent inflammatory role in traumatic brain 
injury. J Neurotrauma, 25(8):959-974. 
7. Lee ST, Chu K, Jung KH, et al (2008). Anti-inflammatory 
mechanism of intravascular neural stem cell transplantation in 
haemorrhagic stroke. Brain, 131(Pt 3):616-629. 
8. Li L, Jiang Q, Qu CS, Ding GL, Li QJ, Wang SY, et al (2011). 
Transplantation of marrow stromal cells restores cerebral blood 
flow and reduces cerebral atrophy in rats with traumatic brain 
injury: in vivo MRI study. J Neurotrauma, 28(4):535–545. 
9. Lu D, Mahmood A, Wang L, Li Y, Lu M, Chopp M (2001). Adult 
bone marrow stromal cells administered intravenously to rats 
after traumatic brain injury migrate into brain and improve 
neurological outcome. Neuroreport, 12(3):559-563. 
10. Mahmood A, Lu D, Lu M, Chopp M (2003). Treatment of 
traumatic brain injury in adult rat with intravenous 
administration of human bone marrow stromal cells. 
Neurosurgery, 53(3):679-703. 
11. Mahmood A, Lu D, Qu C, et al (2005). Human marrow stromal 
cell treatment provides long-lasting benefit after traumatic brain 
injury in rats. Neurosurgery, 57(5):1026-1031. 
12. Ohtaki H, Ylostalo JH, Foraker JE, et al (2008). Stem/progenitor 
cells from bone marrow decrease neuronal death in global 
ischemia by modulation of inflammatory/immune responses. 
Proceedings of the National Academy of Sciencces, 105(38):14638-
14643. 
13. Pati S, Muthuraju S, Hadi AR, Huat TJ, et al (2016). Neurogenic 
plasticity of mesenchymal stem cell, an alluring cellular 
replacement for traumatic brain injury. Current Stem Cell 
Research & Therapy, 11(2):149-157. 
14. Tian C, Wang X, Wang X, Wang L, Wang X, Wu S, Wan Z 
(2013), Autologous bone marrow mesenchymal stem cell 
therapy in the subacute stage of traumatic brain injury by 
lumbar puncture. Exp Clin Transplant, 11(2):176-81. 
15. Woodbury D, et al (2000). Adult rat and human bone marrow 
stromal cells differentiate into neurons, Jounal of Neuroscience 
Research, 61(4):364-370. 
Ngày nhận bài báo: 15/08/2019 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 21/08/2019 
Ngày bài báo được đăng: 15/10/2019