Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân năm 2018 103
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CỦA PHẪU THUẬT LEFORT 
TRONG ĐIỀU TRỊ SA TẠNG CHẬU Ở PHỤ NỮ LỚN TUỔI 
Nguyễn Văn Ân*, Phạm Hữu Đoàn*, Huỳnh Đoàn Phương Mai* 
TÓM TẮT 
Giới thiệu: Sa tạng chậu gây ra triệu chứng không thoải mái kéo dài cho bệnh nhân, khối sa lớn vượt 
ra ngoài âm đạo gây cản trở vận động. Có nhiều phương pháp điều trị sa tạng chậu khác nhau tùy mức độ 
sa và tình trạng của bệnh nhân. Đối với những bệnh nhân lớn tuổi, không còn giao hợp thì khâu bít âm đạo 
là sự lựa chọn tối ưu. 
Kết quả: thực hiện khâu bít âm đạo trên 9 bệnh nhân sa tạng chậu độ IV, thời gian phẫu thuật trung bình 37 
phút (25-45 phút), lượng máu mất 83 ml (50-150 ml). Không có trường hợp nào bị tổn thương bàng quang, trực 
tràng hoặc tử vong sau mổ. Tất cả các bệnh nhân đều cảm thấy hài lòng sau phẫu thuật. 
Kết luận: Khâu bít âm đạo có hiệu quả điều trị khối sa âm đạo và sự hài lòng của bệnh nhân. 
Từ khóa: Sa tạng chậu, khâu bít âm đạo kỹ thuật LeFort 
ABSTRACT 
OBLITERATIVE LEFORT COLPOCLEISIS FOR PELVIC ORGAN PROLAPSE IN ELDERLY WOMEN 
Nguyen Van An, Pham Huu Doan, Huynh Doan Phuong Mai 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement Vol. 22 - No 2- 2018: 103 - 107 
Introduction: Pelvic organ prolapse causes significant chronic discomfort for the patient which with time 
becomes an object of distress. As the prolapse increases in severity the tissues prolapsing out of the vaginal orifice 
will result in a mechanical impediment to walking. There are various modalities of treatment for pelvic organ 
prolapse. For older patients who do not desire vaginal function, colpocleisis may be an appropriate choice. 
Result: Colpocleisis was performed in 9 elderly patients’ pelvic organ prolapse stage IV. The mean operating 
time was 37 minutes (25–45 mins). The mean blood loss was 83 (50-150 ml). No intraoperative injury or death 
occurred. All patients reported that they were satisfied. 
Conclusion: Colpocleisis was effective in resolving prolapse and pelvic symptoms and was associated with 
high patient satisfaction. 
Key words: Pelvic Organs Prolapse, LeFort Colpocleisis 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Sa tạng chậu là một bệnh lý thường gặp, ảnh 
hưởng đến chất lượng cuộc sống của hàng triệu 
phụ nữ trên toàn thế giới. Phẫu thuật điều trị sa 
tạng chậu bao gồm 2 nhóm: phẫu thuật tái tạo 
(khôi phục giải phẫu âm đạo và chức năng giao 
hợp) hoặc phẫu thuật xóa bỏ (khâu bít âm đạo). 
Phẫu thuật tái tạo sàn chậu ngả âm đạo và phẫu 
thuật khâu bít âm đạo được chứng minh giảm 
chi phí điều trị và rút ngắn thời gian phẫu thuật, 
thời gian nằm viện, và thời gian để trở lại hoạt 
động hàng ngày so với các phương pháp phẫu 
thuật ngã bụng(5). Các phẫu thuật tái tạo sàn chậu 
như treo sàn chậu vào mỏm nhô, cố định tử 
cung vào dây chằng cùng gai, đặt lưới nâng đỡ 
thành âm đạo có tỷ lệ thành công cao nhưng tồn 
tại nhiều nguy cơ liên quan phẫu thuật nên 
không thích hợp với các bệnh nhân quá lớn tuổi. 
Đối với những bệnh nhân lớn tuổi có nhiều bệnh 
* Bệnh viện Bình Dân. 
Tác giả liên lạc: BS. Huỳnh Đoàn Phương Mai ĐT: 01203723687 Email: 
[email protected] 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân năm 2018 104
lý nội khoa khác đi kèm, những người không 
còn nhu cầu hoạt động tình dục và những người 
muốn tránh phẫu thuật cắt bỏ tử cung thì phẫu 
thuật khâu bít âm đạo được xem là sự lực chọn 
tối ưu. Thuật ngữ khâu bít âm đạo (colpocleisis) 
được thực hiện đầu tiên vào năm 1823 khi 
Gerardin miêu tả việc bóc tách thành trước và 
sau âm đạo, sau đó khâu chúng lại vị trí màng 
trinh. Tuy nhiên đến năm 1877, kỹ thuật này 
được Leon LeFort báo cáo kết quả rộng rãi. 
Trong bài báo của Le Fort, ông mô tả kỹ thuật 
khâu bít âm đạo một phần, không cắt bỏ tử cung. 
Kỹ thuật của ông dựa trên giả thiết việc khâu 
chồng nếp các thành âm đạo có thể ngăn ngừa tử 
cung sa ra ngoài, nhưng nếu âm hộ quá rộng có 
thể dẫn đến kết qủa không thành công(6). Cho 
đến ngày nay, lý thuyết của LeFort vẫn được 
chấp nhận và thực hiện rộng rãi trên toàn thế 
giới. Chúng tôi thực hiện nghiên cứu này nhằm 
đánh hiệu quả và tính an toàn của phẫu thuật 
khâu bít âm đạo ở những phụ nữ lớn tuổi tại 
đơn vị Niệu Nữ bệnh viện Bình Dân. 
ĐÔI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Nghiên cứu mô tả hàng loạt ca. 
Thời gian nghiên cứu: tháng 1/2016 – 
tháng 8/2017. 
Tiêu chuẩn chọn mẫu 
Bệnh nhân sa tạng chậu mức độ nặng 
(III, IV). 
Lớn hơn 70 tuổi. 
Mắc nhiều bệnh lý nội khoa. 
Bệnh nhân không còn hoạt động tình dục. 
Tiêu chuẩn loại trừ 
Viêm loét cổ tử cung và âm đạo chưa điều 
trị ổn. 
Nghi ngờ bệnh lý phụ khoa ác tính. 
Cách thực hiện. 
Bệnh nhân được gây tê tủy sống, nằm tư thế 
sản phụ khoa. 
Đánh dấu vị trí thành trước và thành sau âm 
đạo 2 hình thang / chữ nhật tùy kích thước của 
khối sa. Bóc tách biểu mô âm đạo thành trước và 
thành sau. Lúc bóc tách lưu ý có thể làm thủng 
bàng quang hoặc trực tràng vì sa tạng chậu mức 
đô nặng thành âm đạo rất lỏng lẻo, các cấu trúc 
mạc nâng đỡ đã bị rách gần như hoàn toàn. 
Hình 1: biểu mô âm đạo thành trước sau khi bóc tách. 
Khâu 2 đáy hình thang / chữ nhật ở vị trí gần cổ tử 
cung để đẩy lộn cổ tử cung vào trong. 
Hình 2: khâu lộn mép cổ tử cung. Khâu xếp nếp 
thành trước và thành sau âm đạo (mạc mu cổ ở phía 
trước và mạc trực tràng âm đạo lúc này đã bị rách) 
chồng lên nhau từ vị trí gần cổ tử cung. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân năm 2018 105
Hình 3: khâu xếp nếp thành trước và thành sau âm 
đạo. 
Khâu lại thành âm đạo trước và sau, đặt dẫn 
lưu penrose 
Tất cả các mũi khâu của chúng tôi bằng chỉ 
Vicryl và khâu mũi rời để có thể dẫn lưu dịch 
trong thời gian hậu phẫu. 
Trước khi kết thúc phẫu thuật, nội soi bàng 
quang và thăm khám trực tràng kiểm tra để 
đảm bảo không khâu vào thàng bàng quang 
trực tràng. 
Hình 4: Âm đạo bệnh nhân sau khi kết thúc 
phẫu thuật. 
Bệnh nhân được theo dõi hậu phẫu, rút 
thông tiểu và penrose 1 ngày sau phẫu thuật. 
KẾT QUẢ 
Mẫu nghiên cứu của chúng tôi có 9 bệnh 
nhân sa tạng chậu mức độ IV (phân độ POPQ), 
với các đặc điểm được mô tả trong bảng 1. 
Bảng 1: Đặc điểm mẫu nghiên cứu. 
Đặc điểm Giá trị 
Tuổi 
70-79 
80-89 
>90 
76,35 tuổi 
5 TH (55,5%) 
3 TH (33,3%) 
1 TH (11,2%) 
Sinh con ngả âm đạo 6,76 lần (4-9) 
Tiền căn phẫu thuật sa tạng chậu 0 
Bệnh lý nội khoa 
Tăng huyết áp 
Đái tháo đường 
Thiếu máu cơ tim 
4 TH (44,4%) 
3 TH (75%) 
2 TH (50%) 
4 TH (100%) 
Số bệnh nội khoa đi kèm 
1 bệnh 
≥ 2 bệnh 
1 TH (11,1%) 
2 TH (88,9%) 
Tất cả các bệnh nhân trong mẫu nghiên cứu 
của chúng tôi đều đến khám vì khối sa lớn ở âm 
đạo cản trở vận động, gây trở ngại khi đi tiểu và 
đại tiện. Hai bệnh nhân có loét âm đạo, được 
điều trị trước phẫu thuật (22%). Năm bệnh nhân 
được điều trị trước đó bằng vòng nâng âm đạo 
nhưng bệnh nhân và thân nhân mong muốn 
được điều trị chữa lành. 
Thời gian phẫu thuật trung bình 37 phút (25-
45 phút). Lượng máu mất trung bình 83 ml (50-
150ml), không có bệnh nhân nào cần phải truyền 
máu trong và sau mổ. Trong phẫu thuật không 
có trường hợp nào ghi nhận có tổn trương trực 
tràng nên các bệnh nhân được khuyến khích ăn 
và vận động sớm sau phẫu thuật, không cần 
nuôi ăn tĩnh mạch. Thời gian nằm viện sau phẫu 
thuật trung bình 3,5 ngày (2-7 ngày). Hai bệnh 
nhân có tiền căn loét âm đạo trước đó, dù đã 
điều trị ổn định tình trạng loét âm đạo nhưng 
hậu phẫu bệnh nhân vẫn được dùng kháng sinh 
điều trị kéo dài 7 ngày và theo dõi hậu phẫu 
chúng tôi không ghi nhận bệnh nhân có dấu 
hiệu nhiễm khuẩn tiến triển trên lâm sàng và cận 
lâm sàng. 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân năm 2018 106
Các bệnh nhân được theo dõi hậu phẫu sau 1 
tháng và 3 tháng ghi nhận các triệu chứng rối 
loạn đường tiểu dưới mới xuất hiện và sự hài 
lòng của bệnh nhân. 100% bệnh nhân đều hài 
lòng với kết quả phẫu thuật, không có bệnh 
nhân nào tiểu khó hoặc tiểu không kiểm soát khi 
gắng sức xuất hiện sau phẫu thuật. 
BÀN LUẬN 
Sa tạng chậu gây ra tình trạng không thoải 
mái kéo dài cho bệnh nhân do cảm giác nặng 
vùng chậu, khối sa lớn lồi ra ngoài âm đạo gây 
khó khăn khi vận động, đi tiểu và đại tiện. 
Theo thời gian sa tạng chậu trở thành nguyên 
nhân làm hạn chế vận động và các hoạt động 
sinh hoạt thường nhật. Với sa tạng chậu mức 
độ III, IV các cấu trúc mô tràn ra từ lỗ âm đạo 
sẽ dẫn đến một trở ngại cơ học khi đi bộ. Một 
số trường hợp khối sa âm đạo kéo theo niệu 
quản làm niệu quản gập góc gây 2 thận ứ 
nước, diễn tiến đến suy thận(2). Đối với bệnh 
nhân trên 70 tuổi, dụng cụ nâng âm đạo được 
chọn lựa cho những bệnh nhân trì hoãn phẫu 
thuật hoặc không thể phẫu thuật. Tuy nhiên, 
sử dụng dụng cụ nâng âm đạo cũng đem lại 
một số vấn đề bất tiện cho bệnh nhân. Có một 
số bệnh nhân không thể tìm được kích thước 
dụng cụ nâng thích hợp cho âm đạo. Trong 
quá trình mang dụng cụ nâng âm đạo có thể bị 
viêm loét âm đạo nếu không được vệ sinh 
đúng cách(2). Đối với những bệnh nhân lớn 
tuổi, việc vệ sinh dụng cụ nâng âm đạo định 
kì cũng là một “gánh nặng” vì bệnh nhân 
không thể tự thực hiện được, cần nhờ người 
thân thực hiện giúp. Các biến chứng do dụng 
cụ nâng âm đạo trực tiếp gây ra thì hiếm gặp, 
chủ yếu là do bệnh nhân không tuân thủ được 
quy trình chăm sóc. Chăm sóc không đúng 
cách có thể dẫn đến loét âm đạo. Vì thế bệnh 
nhân và người nhà luôn hy vọng vào 1 
phương pháp điều trị có thể “chữa lành” được 
bệnh lý. Một nghiên cứu về tỷ lệ bệnh tật và tỷ 
lệ tử vong của phẫu thuật âm đạo ở phụ nữ 
lớn tuổi kết luận rằng mặc dù tuổi tác không 
phải là chống chỉ định phẫu thuật nhưng có 
thể gây tăng nguy cơ phẫu thuật đối với phụ 
nữ(7). Như đã nói trên, bệnh lý sa tạng chậu chỉ 
ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của bệnh 
nhân chứ không nguy hiểm đến tính mạng. 
Nên việc điều trị “chữa lành” sa tạng chậu ở 
phụ nữ lớn tuổi vẫn còn là một thách thức đối 
với các bác sĩ lâm sàng, cần cân nhắc giữa hiệu 
quả đem lại và yếu tố nguy cơ mà bệnh nhân 
phải chấp nhận. 
Tuổi trung bình trong nhiên cứu của chúng 
tôi là 76,35 tuổi, trong đó có 44,4% các bệnh nhân 
đều có các bệnh lý nội khoa đi kèm, chủ yếu là 
bệnh lý tim mạch. Tuổi trung bình trong nghiên 
cứu của Abbasy là 62 (50-85 tuổi)(1), của Soo 
Cheng là 81 tuổi (70-96) với 27,3% có bệnh lý nội 
khoa đi kèm trong đó chủ yếu là tăng huyết áp(6). 
Thời gian phẫu thuật trung bình của chúng tôi là 
37 phút (25 – 45 phút), lượng máu mất trung 
bình là 83 ml (50 – 150). Nghiên cứu của Soo 
Cheng có thời gian phẫu thuật trung bình là 78 
phút (30 – 135 phút), lượng máu mất trung bình 
là 123 ml (50 – 300 ml). Thời gian nằm viện trung 
bình 2,6 ngày (1-5 ngày)(6). Tuổi trung bình trong 
nhóm bệnh nhân của Krissi là 77 tuổi (61-92), 
29,8% có tiền căn cắt tử cung trước đó. Thời gian 
phẫu thuật trung bình là 60 phút (40 – 80). Thời 
gian nằm viện 3,5 ngày (2- 9 ngày). Sau phẫu 
thuật có 2 bệnh nhân bị nhiễm khuẩn và được 
điều trị thành công bằng kháng sinh. Tất cả các 
bệnh nhân đều hài lòng sau mổ(4). 
Với thời gian theo dõi trung bình 48 tháng 
sau phẫu thuật khâu bít âm đạo ở những phụ nữ 
trên 70 tuổi, nghiên cứu của Fitzgerald năm 2008 
có 27,3% bệnh nhân đã chết vì các bệnh lý nội 
khoa khác tại thời điểm phỏng vấn qua điện 
thoại. Kết quả của nghiên cứu này nhấn mạnh 
rằng kết quả giải phẫu lâu dài sau phẫu thuật 
không phải là mối quan tâm lớn trong điều trị sa 
tạng chậu ở những phụ nữ lớn tuổi. Thay vào 
đó, chọn lựa kỹ thuật mổ có tỷ lệ tử vong trong 
lúc mổ và chu phẫu thấp, kết quả sau mổ đem lại 
cho bệnh nhân sự hài lòng và cải thiện chất 
lượng cuộc sống là những vấn đề được cân nhắc 
chính. Trong nghiên cứu của Fitzgerald, 59,1% 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân năm 2018 107
bệnh nhân có từ hai bệnh lý nội khoa đi kèm và 
không có tử vong xảy ra trong lúc phẫu thuật và 
thời gian hậu phẫu gần(3). Zebede báo cáo tỷ lệ tử 
vong 1,3% khi theo dõi 325 phụ nữ cao tuổi trong 
vòng 3 tháng sau khi khâu bít âm đạo(7). Bệnh 
nhân tử vong với các bệnh lý nội khoa nặng bao 
gồm thuyên tắc phổi, nhồi máu cơ tim và sốc 
nhiễm trùng. Tỷ lệ tử vong sau phẫu thuật và 
giảm nguy cơ tử vong là những vấn đề chính khi 
chọn lựa phương pháp phẫu thuật đối với người 
cao tuổi. Tác giả khuyến cáo các biện pháp dự 
phòng huyết khối trong khi phẫu thuật: kê cao 
chân, mang vớ và khuyên bệnh nhân nên vận 
động sớm sau mổ là bắt buộc, đặc biệt đối với 
phụ nữ mắc bệnh tim mạch(7). 
Tỷ lệ thất bại hoặc tái phát sau phẫu thuật 
khâu bít âm đạo xảy ra rất hiếm nếu phẫu thuật 
loại bỏ được phần lớn thành âm đạo. Tuy nhiên, 
khi bóc tách quá nhiều niêm mạc âm đạo và 
khâu gấp nếp thành âm đạo gần nếp niệu đạo – 
bàng quang sẽ làm cho góc niệu đạo – bàng 
quang được đưa xuống gần hậu môn, và một số 
bệnh nhân xuất hiện tiểu không kiểm soát khi 
gắng sức hoặc tiểu khó. Để tránh vấn đề này, 
Fitzgerald khuyến cáo chỉ bóc tách hai phần ba 
thành trước âm đạo. Mặc dù vẫn có thể rút niệu 
đạo nhẹ, điều này thường không gây khó chịu 
cho bệnh nhân và đồng thời làm giảm tỷ lệ tiểu 
không kiểm soát sau phẫu thuật(3). Tiểu không 
kiểm soát mới suất hiện sau khâu bít âm đạo có 
thể gặp ở 8-30% bệnh nhân. Nghiên cứu của 
chúng tôi và Abbassy không thấy có bệnh nhân 
nào xuất hiện tiểu không kiểm soát sau mổ. 
Abbassy cho rằng việc điều trị dự phòng tiểu 
không kiểm soát tiềm ẩn đồng thời trong tất cả 
các trường hợp khâu bít âm đạo sẽ làm tăng tỷ lệ 
tồn lưu nước tiểu sau mổ so với phẫu thuật điều 
trị tiểu không kiểm soát có chọn lọc ở bệnh nhân 
có các triệu chứng sau đó(1). 
KẾT LUẬN 
Kết luận, nghiên cứu của chúng tôi một lần 
nữa đã chứng minh rằng khâu bít âm đạo theo 
kỹ thuật LeFort đạt tỷ lệ thành công cao và 
đem lại sự hài lòng cho đa số các bệnh nhân. 
Khâu bít âm đạo nên được coi là một trong 
những lựa chọn phẫu thuật để điều trị sa tạng 
chậu mức độ nặng ở bệnh nhân cao tuổi 
không còn khả năng quan hệ tình dục vì phẫu 
thuật này không cần phải cắt bỏ tử cung, 
không đòi hỏi bóc tách mô rộng, không cần đi 
vào ổ bụng nên thời gian hồi phục sau mổ 
ngắn, ít biến chứng trong và chu phẫu. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Abbasy S, Lowenstein L, Pham T et al. (2009). Urinary 
retention is uncommon after colpocleisis with concomitant 
mid-urethral sling. Int Urogynecol J Pelvic Floor Dysfunct, vol. 
20(2): pp. 213. 
2. Farthman J et al (2017). Pelvic organ prolapse surgery in 
elderly patients. Arch Gynecol Obstet, vol. 10: pp. 110-112. 
3. Fitzgerald M, Richter H, Bradley C et al. (2008). Pelvic 
support, pelvic symptoms and patient satisfaction after 
colpocleisis. Int Urogynecol J Pelvic Floor Dysfunct, vol. 19: pp. 
1603-1609. 
4. Krissi H, Aviram A, Eitan R et al (2015). Risk factors for 
recurrence after LeFort colpocleisis for severe pelvic organ 
prolapse in elderly women. International Journal of Surgery, vol. 
20: pp. 75-79. 
5. Menard P, Mulfinger C, Estrade P et al. (2008). Pelvic organ 
prolapse in women aged more than 70 years; a literature 
review. Gynecol Obstet Fertil, vol. 36: pp. 67-73. 
6. Soo-Cheen Ng, Gin-Den Chen (2016). Obliterative LeFort 
colpocleisis for pelvic organ prolapse in elderly women aged 
70 years and over. Taiwanese Journal of Obstetrics & Gynecology, 
vol. 55: pp. 68 – 71 
7. Toglia R, Nolan E et al (2003). Morbidity and mortality rates of 
elective gynaecologic surgery in the elderly woman. Am J 
Obstet Gynaecol, vol. 189: pp. 1584-1589. 
Ngày nhận bài báo: 10/10/2017 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 25/11/2017 
Ngày bài báo được đăng: 25/03/2018