Đánh giá hiệu quả của BIS trong gây mê phẫu thuật bụng ở người cao tuổi

Tài liệu Đánh giá hiệu quả của BIS trong gây mê phẫu thuật bụng ở người cao tuổi: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * PB Tập 21 * Số 3 * 2017 Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Nguyễn Tri Phương năm 2016 44 ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CỦA BIS TRONG GÂY MÊ PHẪU THUẬT BỤNG Ở NGƯỜI CAO TUỔI Nguyễn Văn Chinh*, Chung Nguyễn Anh Hùng* TÓM TẮT Ổn định mạch, huyết áp trong lúc đặt nội khí quản, giảm tiêu thụ lượng thuốc mê khi theo dõi độ mê dưới hướng dẫn của BIS đã được chứng minh trong nghiên cứu gây mê phẫu thuật bụng. Vì thế chúng tôi thiết kế nghiên cứu này nhằm kiểm tra có hay không có theo dõi độ mê bằng chỉ số BIS giúp giảm lượng thuốc mê propofol, ổn định mạch, huyết áp trong quá trình khởi mê cũng như giảm lượng sevoflurane duy trì mê ở phẫu thuật bụng người cao tuổi. Phương pháp nghiên cứu: Chúng tôi thực hiện nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng trên 66 bệnh nhân người cao tuổi từ 65-85 được phẫu thuật ở bụng, tất cả khởi mê bằng phương pháp gây mê tĩnh mạch kiểm soát nồng độ đích propofol và duy trì mê bằng sevoflurane. Nhóm BI...

pdf7 trang | Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 12/07/2023 | Lượt xem: 85 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá hiệu quả của BIS trong gây mê phẫu thuật bụng ở người cao tuổi, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * PB Tập 21 * Số 3 * 2017 Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Nguyễn Tri Phương năm 2016 44 ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CỦA BIS TRONG GÂY MÊ PHẪU THUẬT BỤNG Ở NGƯỜI CAO TUỔI Nguyễn Văn Chinh*, Chung Nguyễn Anh Hùng* TÓM TẮT Ổn định mạch, huyết áp trong lúc đặt nội khí quản, giảm tiêu thụ lượng thuốc mê khi theo dõi độ mê dưới hướng dẫn của BIS đã được chứng minh trong nghiên cứu gây mê phẫu thuật bụng. Vì thế chúng tôi thiết kế nghiên cứu này nhằm kiểm tra có hay không có theo dõi độ mê bằng chỉ số BIS giúp giảm lượng thuốc mê propofol, ổn định mạch, huyết áp trong quá trình khởi mê cũng như giảm lượng sevoflurane duy trì mê ở phẫu thuật bụng người cao tuổi. Phương pháp nghiên cứu: Chúng tôi thực hiện nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng trên 66 bệnh nhân người cao tuổi từ 65-85 được phẫu thuật ở bụng, tất cả khởi mê bằng phương pháp gây mê tĩnh mạch kiểm soát nồng độ đích propofol và duy trì mê bằng sevoflurane. Nhóm BIS gồm 33 trường hợp và điều chỉnh độ mê theo sơ đồ Gurman. Nhóm không BIS gồm 33 trường hợp và điều chỉnh độ mê dựa trên các dấu hiệu lâm sàng. Xử lý số liệu bằng phần mền thống kê STATA 13,0. Kết quả: Lượng propofol trung bình trong giai đoạn khởi mê nhóm bệnh nhân có sử dụng BIS (55,2 ± 6,2) mg, ít hơn nhóm bệnh nhân không sử dụng BIS (67,2 ± 8,1) mg, với p = 0,001, sự thay đổi mạch và huyết áp trong quá trình khởi mê cả hai nhóm hầu như ít thay đổi, có mối tương quan tuyến tính nghịch, vừa giữa BIS và nồng độ propofol tại não trong quá trình khởi mê (r = -0,53, p = 0,001), phương trình hồi qui tuyến tính BIS = 89 - 13×Ce-propofol, lượng sevoflurane trung bình tiêu thụ trong nhóm bệnh nhân sử dụng BIS giảm 20% so với nhóm bệnh nhân không sử dụng BIS, với p = 0,003. Kết luận: Nhờ có BIS theo dõi độ sâu trong gây mê tĩnh mạch kiểm soát nồng độ đích rất có hiệu quả và an toàn trong quá trình khởi mê ở người cao tuổi, giảm 20% lượng sevoflurane trong duy trì mê. Từ khóa: Chỉ số lưỡng phổ, phẫu thuật bụng, propofol, sevoflurane, kiểm soát nồng độ đích, nồng độ propofol huyết tương, nồng độ propofol tại não. ABSTRACT THE EFFECT OF ANESTHETIC BISPECTRAL INDEX IN MONITORING ABDOMINAL SURGERY FOR ELDERLY PATIENTS Nguyen Van Chinh, Chung Nguyen Anh Hung * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement of Vol. 21 - No 3 - 2017: 44 - 49 Background: Stable pulse, blood pressure during intubation, reducing consumption when the monitor of anesthesia under the guidance of BIS has been proven in anesthesia abdominal surgery. So we designed this study to examine whether or not there is monitoring indicators of anesthesia with BIS reduces the anesthetic protocol, stable pulse, blood pressure during induction and maintenance of anesthesia reduces sevofluane abdominal surgery in elderly. Methods: We performed clinical trial randomized 66 patients controlled on elderly people from 65-85 abdominal surgery, all of induction of anesthesia with intravenous protocol target concentration control and maintaining anesthesia with sevoflurane. BIS group includes 33 cases and adjust the scheme German maze. Non- BIS group includes 33 cases and adjust the maze based on clinical signs. The data analysis using STATA software * Khoa phẫu thuật - Gây mê hồi sức Bệnh viện Nguyễn Tri Phương Tác giả liên lạc: BS Chung Nguyễn Anh Hùng ĐT: 0936666720 Email: chungnguyenanhhung@yahoo.com.vn Y Học TP. Hồ Chí Minh * PB Tập 21 * Số 3 * 2017 Nghiên cứu Y học Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Nguyễn Tri Phương năm 2016 45 13.0. Results: The average amount of protocol in the induction phase patients using BIS (55.2 ± 6.2) mg less than the group of patients not using BIS (67.2 ± 8.1) mg with p = 0.001, changes in pulse and blood pressure during induction of anesthesia both groups hardly changed, with a linear inverse correlation, just between BIS and protocol concentrations in the brain in the process of induction (r = -0.53, p = 0.001), the linear regression equation BIS = 89 -13 × Ce-propofol, sevoflurane average amount consumed in the group of patients using BIS decreased 20%, with p = 0.003. Conclusion: Thanks to BIS monitor depth of anesthesia, intravenously control target levels are very effective and safe during induction of anesthesia in the elderly, 20% reduction in the amount maintained sevoflurane anesthesia. Keywords: bispectral index, abdominal surgery, protocol, sevoflurane, target controlled infusion, Cp- protocol, Ce-propofol. ĐẶT VẤN ĐỀ Phẫu thuật người cao tuổi có nhiều nguy cơ trong quá trình khởi mê, nếu liều thuốc mê quá thấp sẽ làm huyết áp tăng vọt, nhịp tim nhanh, cử động, nhớ, khó đặt nội khí quản, ngược lại nếu liều quá cao sẽ ức chế hô hấp, tụt huyết áp nghiêm trọng dẫn đến thiếu máu não, nguy cơ tử vong cao. Vì vậy để hiệu quả chúng tôi dùng máy bơm tiêm truyền tĩnh mạch propofol (TCI- propofol) để khởi mê từ từ. Nhưng gây mê kiểm soát nồng độ đích người cao tuổi chỉ ước lượng khoảng nồng độ propofol trong giới hạn cho phép nhưng không xác định nồng độ propofol lên não chính xác là bao nhiêu (vì sai số giữa nồng độ máy tính toán và nồng độ thật sự thuốc mê có thể 20-3)(2) chính vì thế theo hướng dẫn của BIS giúp kiểm soát nồng độ propofol hiệu quả khi khởi mê, ổn định mạch, huyết áp, đảm bảo độ mê đủ sâu để tiến hành đặt nội khí quản an toàn và trong quá trình duy trì mê tránh nguy cơ thức tỉnh, giảm lượng thuốc mê thể khí, thiết lập nguyên tắc dùng thuốc vận mạch, xử trí thay đổi huyết động một cách kịp thời(13,12,11). Mục tiêu nghiên cứu Xác định tổng lượng trung bình propofol trong quá trình khởi mê cả hai nhóm. Đánh giá sự thay đổi mạch, huyết áp trong quá trình khởi mê cả hai nhóm. Xác định mối tương quan giữa BIS với nồng độ thuốc mê propofol tại não (Ce-propofol) trong quá trình khởi mê. Lượng sevoflurane tiêu thụ trung bình trong quá trình duy trì mê cả hai nhóm. ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Phương pháp nghiên cứu Thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng, không mù. Đối tượng nghiên cứu Tất cả bệnh nhân từ 65-85 tuổi, được phẫu thuật bụng từ tháng 11-2015 đến 6-2016, tại Bv Nguyễn Tri Phương, có ASAII-III, thời gian phẫu thuật < 4 giờ, không dị ứng với propofol, không suy tim nặng (phân suất tống máu < 35%), BMI < 23, men gan (SGOT, SGPT) < 2 lần bình thường, Creatinine máu < 200umol/l, không rối loạn đông máu, nghe và trả lời bằng tiếng Việt. Phương pháp tiến hành Tại phòng phẫu thuật bệnh nhân được gắn các thiết bị theo dõi như ECG, Sp02, đặt đường truyền tĩnh mạch kim 18G, huyết áp động mạch không xâm lấn. Nhóm bệnh nhân theo dõi độ mê bằng BIS chuẩn bị như sau: lau trán bênh nhân bằng alcool, đợi khô để dán điện cực như đề nghị của nhà sản xuất, trong gây mê nên duy trì BIS 40-60. Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * PB Tập 21 * Số 3 * 2017 Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Nguyễn Tri Phương năm 2016 46 Bệnh nhân được chia thành hai nhóm: 33 trường hợp được theo dõi bằng BIS (nhóm I), 33 trường hợp theo dõi độ mê dựa trên dấu hiệu lâm sàng (nhóm II). Tất cả bệnh nhân hai nhóm được khởi mê từ từ bằng TCI, cài đặt nống độ propofol ban đầu Cp = 2mcg/ml, sau mỗi phút tăng lên 0,5 mcg/ml. Đối với nhóm I, khi BIS = 50 chích dãn cơ rocuronium 0,5 mg/kg đợi 3 phút đặt nội khí quản, còn nhóm II khi OAAS=1 (Observer’s Assessment of Alertness Sedation: thang điểm đánh giá mức độ an thần dựa trên quan sát, chích dãn cơ rocuronium 0,5 mg/kg cũng đợi 3 phút đặt nội khí quản. Cả 2 nhóm bệnh nhân được duy trì thuốc mê thể khí sevoflurane và oxy, với lưu lượng khí mới 2 lít/phút và có theo dõi nồng độ khí mê, EtCO2 bằng máy gây mê Dragger. Nhóm I điều chỉnh độ mê theo sơ đồ Gurman, nhóm II chỉnh độ mê dựa trên dấu hiệu lâm sàng và duy trì mạch, huyết áp trong khoảng ± 20% so với giá trị ban đầu. Dùng các thuốc vận mạch như nicardipine, ephedrine khi cần,tắt sevoflurane sau khi đóng da xong. Ghi nhận các trị số nồng độ Cp-propofol, Ce-propofol, mạch, huyết áp tại các thời điểm khởi mê, % sevoflurane tại các thời điểm duy trì mê và BIS tại các thời điểm suốt quá trình phẫu thuật. Phân tích và xử lý số liệu Tất cả phương pháp thống kê và phân tích được thực hiện bằng phần mềm STATA 13,0. Biến số định lượng có phân phối chuẩn được trình bày bằng giá trị trung bình, độ phân tán với độ lệch chuẩn. Nếu không có phân phối chuẩn được trình bày bằng giá trị trung vị, và mô tả độ phân tán bằng giá trị lớn nhất và nhỏ nhất hoặc bằng khoảng tứ phân vị. Các biến số định tính được trình bằng bằng tần số và tỉ lệ phần trăm. So sánh sự khác biệt giữa các tỉ lệ (biến số định tính) dùng phép kiểm chi bình phương (2). So sánh sự khác biệt giữa các trung bình (biến số định lượng) của 2 mẫu độc lập dùng phép kiểm t, nếu có giá trị phân phối chuẩn. Nếu biến số không có phân phối chuẩn sử dụng kiểm Mann- Whitney thay thế cho phép kiểm t với hai mẫu độc lập. Hệ số tương quan r (theo Pearson) để đánh giá sự tương quan giữa 2 biến số định lượng liên tục. P < 0,05 được coi là sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. KẾT QUẢ Bảng 1: Đặc điểm chung của bệnh nhân trước phẫu thuật. Đặc điểm Nhóm BIS Không BIS p Giới tính Nam (TH, %) 16 (48,48) 19 (57,58) 0,459 Nữ (TH, %) 17 (51,52) 14 (42,42) Tuổi (năm) TB ± ĐLC 71,6 ± 5,5 70,8 ± 6,8 0,6074 Cân nặng (kg) TB ± ĐLC 46,2 ± 5,1 44,6 ± 5,4 0,2489 BMI (kg/m 2 ) TB ± ĐLC 18,7 ± 1,8 18,7 ± 1,7 0,6974 TB: trung bình ĐLC: độ lệch chuẩn TH : trường hợp Bảng 2: Lượng propofol trung bình trong quá trình khởi mê của hai nhóm. Đặc điểm Nhóm BIS Không BIS p Liều propofol (mg) TB ± ĐLC 55,2 ± 6,2 67,2 ± 8,1 0,001 Bảng 3: Sự thay đổi mạch tại các thời điểm của hai nhóm trong quá trình khởi mê. Thời điểm Mạch Nhóm BIS (lần/phút) Không BIS (lần/phút) p T2 72 ± 0,9 69,3 ± 0,7 0,02 T3 71 ± 0,8 69,6 ± 0,9 0,34 T4 70 ± 0,6 68,7 ± 0,8 0,25 T5 69,6 ± 0,8 68,5 ± 0,7 0,29 T6 69,6 ± 0,8 67,2 ± 0,6 0,02 Bảng 4: Sự thay đổi huyết áp trung bình tại các thời điểm của hai nhóm trong quá trình khởi mê. Thời điểm HATB Nhóm BIS (mmHg) Không BIS (mmHg) p T2 100 ± 8 97 ± 7 0,07 T3 95 ± 8 93 ± 6 0,65 T4 90 ± 7 88 ± 7 0,22 T5 88 ± 6 85 ± 7 0,09 T6 88 ± 6 76 ± 6 0,001 Y Học TP. Hồ Chí Minh * PB Tập 21 * Số 3 * 2017 Nghiên cứu Y học Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Nguyễn Tri Phương năm 2016 47 Bảng 5: Nồng độ propofol tại não (Ce- propofol) và BIS tại các thời điểm khởi mê. Thời điểm Ce propofol (mcg/ml) BIS T3 TB ± ĐLC 1,1 ± 0,1 87,4 ± 3,1 NN-LN 9 – 1,3 82 - 91 T4 TB ± ĐLC 1,4 ± 0,26 79,7 ± 5,0 NN-LN 1,1 - 1,7 74 - 86 T5 TB ± ĐLC 1,7 ± 0,3 68,5 ± 4,7 NN-LN 1,3 - 2,1 64 - 74 T6 TB ± ĐLC 2,0 ± 0,4 50 NN-LN 1,5 – 2,5 NN: nhỏ nhất LN: lớn nhất Bảng 6: Lượng sevoflurane trung bình trong giai đoạn duy trì mê cả hai nhóm. Nhóm BIS Không BIS p Lượng sevoflurane (ml/giờ) 23,9 ± 6,2 29,9 ± 9,2 0,003 BÀN LUẬN Lượng thuốc propofol trong giai đoạn khởi mê với TCI có sử dụng BIS và không sử dụng BIS. Trong nghiên cứu này, chúng tôi đánh giá khởi mê bằng propofol dưới hướng dẫn của BIS, tổng liều propofol trung bình (bảng 2) nhóm bệnh nhân có sử dụng BIS (55,2 ± 6,2) mg, còn nhóm bệnh nhân không có sử dụng BIS (67,2 ± 8,1) mg khi khởi mê. Tác giả Ercan Gurses và cs(4), thấy rằng nhóm dùng BIS giảm được 43% lượng propofol trong giai đoạn khởi mê so với nhóm dùng dấu hiệu lâm sàng để theo dõi độ mê lần lượt với lượng propofol là 84,3 ± 11,4 mg so với 147 ± 12,1 mg (nhóm không có sử dụng BIS). Nghiên cứu của Liu SS và cs(10), khi phân tích kết quả thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên đánh giá hiệu quả của BIS trong gây mê phẫu thuật về trong ngày ở bệnh nhân cao tuổi: tác giả thấy sự tiêu thụ propofol ít hơn có ý nghĩa trong nhóm được gây mê bằng BIS so với nhóm chứng (1253 mg so với 946 mg ở nhóm BIS). Theo Gan TJ, Glass PS và cs(5), trong một thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên, có nhóm chứng, mù, đa trung tâm về BIS cho thấy giảm 23% propofol sử dụng và giúp điều chỉnh propofol trong phẫu thuật (nhóm BIS lượng propofol truyền là 116 mcg/kg/phút so với nhóm không BIS là 136 mcg/kg/phút). Tác giả Villeret I và cs(15), với nồng độ Ce- propofol 0,9 mcg/ml có thể sử dụng an toàn để gây mê đặt nội khí quản với bệnh nhân người cao tuổi. Tại Việt Nam, tác giả Châu Thị Mỹ An và cs(3), cho thấy liều khởi mê 1,6 - 2,1 mg/kg, p = 0,001). Nguyễn Văn Chinh và cs (13), đánh giá sự thay đổi BIS trong gây mê TCI trên phẫu thuật tổng quát đã cho thấy liều khởi mê 1,47 ± 0,06 mg/kg. Nguyễn Thị Như Hà và cs(11), liều trung bình trong lúc khởi mê (100 ± 1,2) mg ở nhóm sử dụng BIS, so với (125 ± 2,1) mg nhóm không sử dụng BIS. Đánh giá sự thay đổi mạch, huyết áp trung bình quá trình khởi mê của hai nhóm Sự thay đổi mạch Trong quá trình khởi mê cả hai nhóm, một nhóm có hướng dẫn sử dụng BIS để theo dõi và một nhóm được đánh giá dựa vào mức độ an thần theo thang điểm OAAS, vì có lẽ chúng tôi khởi mê từ từ theo từng nấc nên từ giai đoạn T3 đến giai đoạn T5 (bảng3) mạch hầu như không thay đổi, giai đoạn T2 mạch cao hơn nhẹ ở nhóm bệnh nhân sử dụng BIS (nhóm bệnh nhân sử dụng BIS: 72 ± 0,9; nhóm bệnh nhân không sử dụng BIS: 69,3 ± 0,7, p = 0,02), nhưng đến giai đoạn T6 (BIS: 69,6 ± 0,8; không BIS: 67,2 ± 0,6, p = 0,02) mạch ở nhóm BIS giảm nhẹ, còn nhóm không sử dụng BIS thì BN ngủ sâu hơn nhiều vì có thể do đánh giá chủ quan dựa vào mức độ an thần (OAAS=1) của chúng tôi ở mỗi bệnh nhân khác nhau. Nghiên cứu của Ali Z, Parabhakar và cs (2009)(1), thực hiện trên 90 bệnh nhân chia ngẫu nhiên 3 nhóm, so sánh hiệu quả của 3 kỹ thuật gây mê (sevoflurane (s), isoflurane (i), gây mê kiểm soát nồng độ đích bằng propofol (p), đánh giá dựa trên huyết động và tính hồi phục cho những bệnh nhân u tuyến yên được phẫu thuật nội soi qua đường mũi dưới sự hướng dẫn của BIS. Tác giả đã kết luận bệnh nhân sử dụng Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * PB Tập 21 * Số 3 * 2017 Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Nguyễn Tri Phương năm 2016 48 nhóm propofol thì ổn định mạch, huyết áp khi đặt nội khí quản. Sự thay đổi về huyết áp trung bình Trong nghiên cứu của chúng tôi sự thay đổi huyết áp tương đối ổn định, huyết áp trung bình từ thời điểm T3 đến T5 thay đổi nhưng không có ý nghịa thống kê (bảng 4), nhưng đến thời điểm T6 (BIS: 88 ± 6 mmHg; không BIS:76 ± 6 mmHg, p = 0,001) thì huyết áp trung bình nhóm bệnh nhân không sử dụng BIS giảm nhiều hơn có thể là lúc này lượng propofol lên não nhiều hơn, bệnh nhân ngủ sâu hơn. Tác giả Liu SH và cs (10), nhận thấy huyết áp trung bình khi khởi mê nhóm S1 (Ce-propofol: 2,7 mcg/ml) thấp hơn nhẹ so với nhóm S3 (Ce- propofol: 2,8 mcg/ ml). Tác giả Jung và cs(8), mô tả một trường hợp 79 tuổi tụt huyết áp nặng (60/30 mmHg) kèm theo ngưng thở 6 phút và mạch còn 30 lần/phút, cũng như tác giả XU Chuan-Ya và cs(16), cũng báo cáo có 7 trường hợp tụt huyết áp sau khi tiêm propofol. Điều này có thể lý giải do thiết kế nghiên cứu khác nhau, chúng tôi dùng hệ thống kiểm soát nồng độ đích TCI còn tác giả truyền liên tục hay lập lại. Xét về mối tương quan giữa BIS và nồng độ propofol tại não trong giai đoạn khởi mê. Nghiên cứu của chúng tôi thấy tương quan giữa BIS và nồng độ propofol tại não (Ce - propofol) (bảng 5) là mối tương quan nghịch, vừa (r = -0,53, p = 0,001), phương trình hồi qui tuyến tính BIS= 89 -13× Ce-propofol. Tác giả Irwin và cs(6), khi nghiên trên 60 bệnh nhân phẫu thuật tổng quát, đã thấy được sự liên quan giữa nồng độ hiệu quả của propofol 50 (CP50) là 2,66 mcg/ml, tương ứng với giá trị BIS là 68. Nguyễn Thị Như Hà và cs(11), nghiên cứu đánh giá hiệu quả của BIS trong gây mê phẫu thuật tim trên người lớn đã thấy có mối tương quan nghịch, yếu giữa BIS và nồng độ propofol tại não Ce -propofol (r = -0,27, p = 0,027) trong giai đoạn khởi mê. Lượng thuốc sevoflurane sử dụng trong quá trình duy trì mê của hai nhóm. Lượng sevoflurane trong nghiên cứu của chúng tôi giảm 20%. Jeliish WS và cs(7), sevoflurane thích hợp hơn propofol trong quá trình duy trì mê phẫu thuật nội soi ở bệnh nhân cao tuổi. Tác giả Nabaweya và cs(9), 60 bệnh nhân cao tuổi phẫu thuật tổng quát, đã giảm 32% lượng sevoflurane với BIS: 50-60 ở giai đoạn duy trì và BIS: 55-70 gần kết thúc cuộc phẫu thuật. Tác giả Sebel PS và cs(14), bệnh nhân phẫu thuật tổng quát đã giảm 20-30% lượng sevoflurane. Tác giả Nguyễn Thị Như Hà và cs(11), nghiên cứu hiệu quả của theo dõi BIS trên sự tiêu thụ sevoflurane trong phẫu thuật tim người lớn đã tiết kiệm 17% lượng thuốc mê sevoflurane. KẾT LUẬN Trong phẫu thuật bụng ở người cao tuổi, khi theo dõi độ mê bằng chỉ số BIS với phương pháp gây mê tĩnh mạch kiểm soát nồng độ đích rất có hiệu quả và an toàn trong quá trình khởi mê ở người cao tuổi, giảm 20% lượng sevoflurane trong duy trì mê. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Ali Z, Prabhakar H, Bithal PK, Dash HH (2009), “Bispectral index-guided administration of anesthesia for transsphenoidal resection of pituitary tumors: a comparison of 3 anesthetic techniques”, J Neurosurg Anesthesiol, 21, pp.10-15. 2. Cazalà JB. et al (2009), “Anesthetic agents used in TCI”, Fresenius Vial, 2, pp. 33. 3. Châu Mỹ An, Nguyễn Ngọc Anh (2011), “Gây mê tĩnh mạch toàn diện bằng propofol kiểm soát nồng độ đích trong phẫu thuật bụng ”, Y học thành phố Hồ Chí Minh, 15 (3), tr.179-181. 4. Ercan Gurses, et al (2004) “Assessing Propofol Induction of Anesthesia Dose Using Bispectral Index Analysis”, Anesth Analg, 98, pp. 128-31. 5. Gan TJ, Glass PS, Windsor A, et al (1997) “Bispectral index monitoring allows faster emergence and improved recov-ery from propofol, alfentanil, and nitrous oxide anesthesia”, Anesthesiology, 84, pp. 808-815. 6. Irwin MG, Hui TW, Milne SE & Kenny GN (2002) “Propofol effective concentration 50 and its relationship to bispectral index”. Anaesthesia, 57, pp. 242–248. 7. Jellish WS, Lien CA, Fontenot HJ, Hall R (1996) “The comparative effects of sevoflurane versus propofol in the Y Học TP. Hồ Chí Minh * PB Tập 21 * Số 3 * 2017 Nghiên cứu Y học Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Nguyễn Tri Phương năm 2016 49 induction and maintenance of anesthesia in adult patients.”, Anesth Analg, 82, pp.479-485. 8. Jung M, Hofmann C, Kiesslich R, Brackertz A (2000). “Improved sedation in diagnostic and therapeutic ERCP: propofol is an alternative to midazolam.” Endoscopy, 32, pp. 233-238. 9. Kamal NM, Omar SH et al (2009) “Bispectral index monitoring tailors clinical anesthetic delivery and reduces anesthetic drug consumption”. J.Med. Sci, 9, pp.10-16. 10. Liu SH, Wei W, Ding GN (2009) “Relationship between depth of anesthesia and effect-site concentration of propofol during induction with the target-controlled infusion technique in elderly patients”, Chinese Medical Journal, 122, pp.935-940. 11. Nguyễn Thị Như Hà, Nguyễn Thị Qúy (2013), “Đánh giá lợi ích của BIS trong việc theo dõi độ sâu gây mê trong quá trình phẫu thuật tim hở”, Y học thành phố Hồ Chí Minh, 885 (21), tr.97. 12. Nguyễn Thị Quý (2012) “Gây mê tĩnh mạch với kiểm soát nồng độ đích” Tạp chí Y Học thành phố Hố Chí Minh, 16 (2), tr.15-27. 13. Nguyễn Văn Chinh, Nguyễn Văn Chừng (2013), “Theo dõi BIS trong gây mê tĩnh mạch kiểm soát nồng độ đích”, Tạp chí Y Học, Đại Học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh, 17 (1), tr.169- 173. 14. Sebel PS, (2001) “Can you monitor depth of anesthesia”. International Anesthesia Reserch Society Review Course Lectures, pp. 95-97. 15. Villeret I, Laffon M, Ferrandière M, et al “Which propofol target concentration for ASA III elderly patients for conscious sedation combined with regional anaesthesia?” Ann Fr Anesth Reanim. 22 (3), pp.196-201. 16. XU Chuan-ya, WU Xin-min, LU Wei, (2010), “Effect of remifentanyl on propofol pharmacokinetics with target controlled infusion in elderly patients” Beijing Da Xue Xue Bao, 42(6) pp.734-738. Ngày nhận bài báo: 20/10/2016 Ngày phản biện nhận xét bài báo: 28/11/2016 Ngày bài báo được đăng: 10/04/2017 Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * PB Tập 21 * Số 3 * 2017 Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Nguyễn Tri Phương năm 2016 50 KHẢO SÁT TỶ LỆ RỐI LOẠN CHỨC NĂNG TUYẾN GIÁP TRÊN THAI PHỤ TẠI BỆNH VIỆN NGUYỄN TRI PHƯƠNG Trần Quang Khánh*,Thái Văn Hùng* TÓM TẮT Mục tiêu nghiên cứu: Xác định tỷ lệ rối loạn chức năng tuyến giáp trên thai phụ tại Bệnh viện Nguyễn Tri Phương và một số yếu tố khác có liên quan. Phương pháp nghiên cứu: Đoàn hệ.Chúng tôi thử nghiệm TSH, FT4 và TPOab ở 281 thai phụ đến khám thai lần đầu tiên. Chúng tôi phân nhóm thai phụ có nguy cơ cao có rối loạn chức năng tuyến giáp và nhóm nguy cơ thấp dựa theo khuyến cáo của Hiệp hội Nội tiết Hoa Kỳ năm 2012. Tất cả các thai phụ được theo dõi đến lúc sanh và ghi nhận các kết cuộc trên mẹ và con. Thực hiện phân tích dữ liệu theo phần mềm SPSS 16.0. Kết quả: Tỷ lệ rối loạn chức năng tuyến giáp thai kỳ là 20,6% trong đó tỉ lệ Basedow 2,8%, cường giáp khác 9,3%, suy giáp rõ 0,7% suy giáp dưới lâm sàng 1,1%,TPOab(+) là 9,3%.Thai phụ có tiền sử bản thân mắc bệnh lý tuyến giáp làm tăng nguy cơ cường giáp(33.3 v10,6%.p=0,012), suy giáp(11,1 vs 1,1%. p=0,000) và TPOab(+)(3,9 vs 7,2%. P=0,000). Thai phụ có bệnh lý bướu giáp lan tỏa hoặc bướu giáp nhân trên lâm sàng làm tăng nguy cơ cường giáp(40,9 vs 9,7 %.p=0,000),suy giáp (4,5 vs 1,6%.p=0,037) và TPOab(+)(31,8 vs 7,4%. P=0,001).Tỷ lệ sẩy thai là 3,4% và tăng nguy cơ sanh non, sơ sinh nhẹ cân ở thai phụ có RLCNTGTK. Kết luận: Chúng tôi đề nghị tầm soát bằng xét nghiệm TSH cho tất cả sản phụ đến khám thai lần đầu trong 3 tháng đầu thai kỳ. Từ khóa: Rối loạn chức năng tuyến giáp thai kỳ. ABSTRACT PREVALENCE OF THYROID DYSFUNCTION DURING PREGNANCY IN NGUYEN TRI PHUONG HOSPITAL Tran Quang Khanh,Thai Van Hung * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement of Vol. 21 - No 3 - 2017: 50 - 55 Objectives: Determine the prevalence of thyroid dysfunction during early pregnancy and some other factors related. Method: Cohort. We tested TSH, FT4 and Topaz in 281 pregnant women attending antenatal clinic for the first time. We subgroup of high-risk pregnant women with thyroid dysfunction and low-risk groups based on the recommendations of the Endocrine society in 2012. All women were monitored and recorded the outcome on the mother and child at birth. Perform data analysis by software SPSS 16.0. Results: The prevalence of thyroid dysfunction was 16.4% overall, in which the ratio Topaz (+) was 9.3%, 2.8% of Based and other hyperthyroidism 9.3%. Pregnant women with a history of thyroid nodular itself increases the risk of hyperthyroidism (33.3 vs. 10.6%.p=0.012), hypothyroidism (11.1 vs. 1.1%.p=0.000) and Topaz (+) (38.9 vs. 7.2%. P=0.000). Pregnant women with thyroid disease or diffuse goiter increases the risk of hyperthyroidism (40.9 vs. 9.7%.p=0.000), hypothyroidism (4.5 vs. 1.6%.p=0.037) and Topaz (+) (31.8 vs. 7.4%. P=0.001).The rate of miscarriage in women with thyroid dysfunction was 3.4% and increase the risk of preterm birth, low birth weight in newborn. * Bệnh viện Nguyễn Tri Phương Tác giả liên lạc: BS CKII Thái Văn Hùng ĐT: 0903787470 Email: thaihungntp@gmail.com

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfdanh_gia_hieu_qua_cua_bis_trong_gay_me_phau_thuat_bung_o_ngu.pdf
Tài liệu liên quan