Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 107
ĐÁNH GIÁ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN 
ĐẾN SỰ LỰA CHỌN GIẢM ĐAU TRONG CHUYỂN DẠ 
Nguyễn Văn Chinh*, Lê Kim Nguyên** 
TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Giảm cơn đau chuyển dạ được xem là phương pháp hỗ trợ hàng đầu trong quá trình sinh, tuy 
nhiên nó chưa được sản phụ ưu tiên lựa chọn do nhiều lý do. 
Mục tiêu: Xác định các nguồn thông tin chính về giảm đau trong chuyển dạ mà sản phụ được tiếp cận và 
các yếu tố liên quan đến sự lựa chọn của sản phụ. 
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả, đối tượng nghiên cứu là phụ nữ 
sau sinh tại Bệnh viện phụ sản TP. Cần Thơ (BVPSTP) Cần Thơ từ tháng 2-6/2018. 
Kết quả: 385 sản phụ hoàn thành phỏng vấn, trong đó 42 sản phụ đã lựa chọn giảm đau trong chuyển dạ. 
Đa số sản phụ tiếp cận thông tin từ bác sĩ, gia đình/ bạn bè và internet. Các yếu tố ảnh hưởng đến lựa chọn giảm 
đau là sản phụ biết đến kỹ thuật trước khi nhập viện, mong muốn của chính sản phụ và mong muốn của chồng. 
Kết luận: Việc tiếp cận và lựa chọn giảm đau trong chuyển dạ chưa phổ biến. Sự kết hợp mong muốn của 
chồng và các yếu tố khác là quan trọng khi tư vấn phụ nữ mang thai đưa ra quyết định giảm đau. 
Từ khóa: giảm đau ngoài màng cứng, giảm đau sản khoa, chuyển dạ, thông tin y tế 
ABSTRACT 
EVALUATION THE FACTORS ASSOCIATED WITH A WOMAN’S CHOICE TO RELIEF PAIN IN LABOR 
Nguyen Van Chinh, Le Kim Nguyen 
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 – No. 5 - 2019: 107 - 112 
Background: Pain relief during labor is considered a leading method of delivery, but it has not been the 
preferred choice for many reasons. 
Objectives: Identify the main sources of information on labor pain relief methods and factors related to the 
choice of women. 
Materials and method: A cross-sectional study, postpartum women Can Tho Gynecology Obstetrics 
Hospital from February 2018 to June 2018. 
Results: 385 postpartum women answer the questionnaire, including 42 women choose analgesia during 
labor. Doctors, family/friends and the internet are the main sources of information. The main factors affecting the 
choice of pain relief are women who knew the technique before admission, the desire of her own and the desire of 
the husband. 
Conclusion: Approach and selection of pain relief during labor are not common. The combination of 
husband's desire and other factors is important when counseling pregnant women to make decisions about pain 
relief during labor. 
Key words: epidural Analgesia, pain relief in labor, obstetric analgesia, medical information 
*Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh **Đại học Y Dược Cần Thơ 
Tác giả liên lạc: PGS.TS.BS. Nguyễn Văn Chinh ĐT: 0903885497 Email: 
[email protected] 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 108
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Đau trong quá trình chuyển dạ là một trải 
nghiệm vô cùng khó khăn, nhiều sản phụ cảm 
thấy sợ hãi và không muốn sinh ngã âm đạo(13). 
Sợ đau khi sinh con được chứng minh là làm 
tăng tỷ lệ sinh mổ chủ động(12). Đau trong 
chuyển dạ được nhiều chuyên gia đánh giá mức 
độ đau lớn hơn gãy xương cánh tay và ung 
thư(8), nhiều bằng chứng chỉ ra rằng giảm đi cơn 
đau do chuyển dạ có liên quan đến việc làm 
giảm tỷ lệ trầm cảm và đau dai dẳng sau sinh(1,5). 
Kỹ thuật giảm đau bằng gây tê ngoài màng 
cứng được áp dụng trong chuyển dạ lần đầu ở 
nước ta năm 1988. Tùy theo văn hóa, sắc tộc, tín 
ngưỡng mà việc chấp nhận phương pháp giảm 
đau cũng rất khác nhau(9). Các nguồn cung cấp 
thông tin về giảm đau trong chuyển dạ chưa 
được chú trọng, nhiều phụ nữ mang thai nước ta 
vẫn lựa chọn việc sinh mổ chủ động, hoặc sinh 
thường mà không cần đến giảm đau. 
Trong nước có nhiều nghiên cứu về vấn đề 
gây tê ngoài màng cứng (GTNMC) để giảm đau 
trong chuyển dạ, đa phần đánh giá hiệu quả và 
lợi ích của phương pháp, trong khi chưa có 
nghiên cứu nào được thực hiện về vấn đề liên 
quan đến sự lựa chọn của sản phụ. Với mong 
muốn tìm ra các yếu tố tác động đến sự lựa chọn 
giảm đau của các sản phụ, chúng tôi thực hiện 
nghiên cứu tại bệnh viện Phụ sản Thành phố 
(TP) Cần Thơ năm 2018 với mục tiêu. 
Mục tiêu nghiên cứu 
Xác định các nguồn thông tin chính về 
phương pháp giảm đau trong chuyển dạ mà sản 
phụ được tiếp cận. 
Tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến sự lựa 
chọn phương pháp giảm đau trong chuyển dạ 
của sản phụ. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
Các phụ nữ sau sinh tại Bệnh viện Phụ Sản 
TP. Cần Thơ từ tháng 02-06/2018. 
Tiêu chí chọn 
Sản phụ sau sinh thường và sinh mổ mà thời 
điểm nhập viện không có chống chỉ định theo 
dõi sinh ngả âm đạo 
Tiêu chí loại trừ 
Dưới 18 tuổi, thai chết lưu, thai dị tật, có 
chống chỉ định sanh ngả âm đạo, có xảy ra tai 
biến nghiêm trọng trên mẹ và thai nhi (vỡ tử 
cung, cắt tử cung, thai nhi tử vong), không có 
khả năng tư duy để hiểu và trả lời và không 
đồng ý tham gia nghiên cứu. 
Phương pháp nghiên cứu 
Thiết kế nghiên cứu 
Mô tả cắt ngang có phân tích. 
Cỡ mẫu 
Được tính dựa vào công thức ước lượng một 
tỷ lệ, chọn p=0,5 để đạt cỡ mẫu lớn nhất. Do đó 
cỡ mẫu là 385. 
Phương pháp chọn mẫu 
Chọn mẫu thuận tiện 
Nội dung nghiên cứu 
Sản phụ sau sinh được phỏng vấn bằng bộ 
câu hỏi. Nội dung gồm: đặc điểm nhân khẩu 
học, tiền sử sản khoa, nơi khám thai, giảm đau 
lần sinh trước, nguồn cung cấp thông tin, lý do 
muốn hoặc không muốn giảm đau trước khi 
nhập viện và lý do lựa chọn hoặc không lựa 
chọn phương pháp giảm đau trong chuyển dạ. 
Số liệu được nhập và phân tích 
Bằng phần mềm SPSS 18.0. 
KẾT QUẢ 
Tổng cộng 385 sản phụ sau sanh đã hoàn 
thành bộ câu hỏi. 
Một số đặc điểm của đối tượng nghiên cứu 
Nhóm tuổi: nhóm tuổi từ 18-35 chiếm 90,9%. 
Nghề nghiệp: nội trợ và công nhân viên 
chiếm tỉ lệ cao lần lượt là 40,5% và 38,2%. 
Trình độ học vấn: THCS trở lên chiếm 92,7%. 
Số lần sinh: Có 157 (40,8%) sản phụ mang 
thai lần 2 trở lên. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 109
Giảm đau trong lần sinh trước: trong các sản 
phụ mang thai lần 2 trở lên, chỉ có 6 (3,8%) sản 
phụ đã từng được giảm đau trong lần sinh trước. 
Các nguồn thông tin chính mà sản phụ được 
tiếp cận 
Có 244 (63,4%) sản phụ có biết về phương 
pháp giảm đau trong chuyển dạ, trong đó: 
Thông tin được cung cấp từ BS, gia đình/bạn bè 
và internet chiếm tỷ lệ đáng kể với tỷ lệ lần lượt 
là 40,6%, 32,4% và 22,5% (Hình 1). 
Hình 1. Các nguồn thông tin về giảm đau sản phụ 
được tiếp cận 
Các yếu tố liên quan đến sự lựa chọn giảm đau 
trong chuyển dạ 
Bảng 1. Liên quan của tuổi và học vấn với lựa chọn 
giảm đau 
Đặc điểm 
Có giảm 
đau n (%) 
Không giảm 
đau n (%) 
P 
2
/Fisher(*) 
Tuổi 
18 – 35 42 (12) 308 (88) 
0,022* 
>35 0 (0) 35 (100) 
Học 
vấn 
THCS trở xuống 14 (6,3) 208 (93,7) 
0,001 
THPT trở lên 28 (17,2) 135 (82,8) 
Tổng 42 343 
Có mối liên quan giữa tuổi 18-35 với sự lựa 
chọn giảm đau trong chuyển dạ với p <0,05. Có 
mối liên quan giữa trình độ học vấn từ THPT trở 
lên với sự lựa chọn giảm đau trong chuyển dạ 
với p<0,05 (Bảng 1). 
Có mối liên quan giữa có biết về giảm đau 
trước khi nhập viện với sự lựa chọn với p <0,05 
(Bảng 2). 
Có mối liên quan giữa đã được giảm đau ở 
lần sinh trước với lựa chọn giảm đau trong lần 
sinh này với p <0,05 (Bảng 3). 
Bảng 2. Liên qu an của biết đến kỹ thuật trước đây 
với lựa chọn giảm đau 
Đặc điểm 
Có giảm 
đau n (%) 
Không giảm 
đau n (%) 
p 
Biết về giảm đau 
chuyển dạ trước khi 
nhập viện 
Có 36 (14,8) 208 (85,2) 
0,001 
Không 6 (4,3) 135 (95,7) 
Tổng 42 343 
Bảng 3. Liên quan của giảm đau lần sinh trước với 
lựa chọn giảm đau 
Đặc điểm 
Có giảm đau 
n (%) 
Không giảm 
đau n (%) 
p 
(Fisher) 
Giảm đau lần 
sinh trước 
Có 3 (50) 3 (50) 
0,004* 
Không 12 (7,9) 139 (92,1) 
Tổng 15 169 
Bảng 4. Liên quan giữa nguồn thông tin với lựa chọn 
giảm đau 
Đặc điểm 
Có giảm 
đau n (%) 
Không giảm 
đau n (%) 
p 
Nguồn 
cung cấp 
thông tin 
Không biết 6 (4,3) 135(95,7) 
<0,001 
Bác sĩ 24 (24,2) 75 (75,8) 
Gia đình/bạn bè 3 (3,8) 76 (96,2) 
Internet 4 (7,3) 51 (92,7) 
Nguồn khác 5 (45,5) 6 (54,5) 
Tổng 42 343 
Có mối liên quan giữa nguồn cung cấp 
thông tin với lựa chọn giảm đau với p <0,001 
(Bảng 4). 
Bảng 5. Liên quan giữa mong muốn của sản phụ, 
chồng và gia đình với lựa chọn giảm đau 
Đặc điểm 
Có giảm 
đaun (%) 
Không giảm 
đau n (%) 
p 
Mong muốn 
của sản phụ 
Có 36 (13,8) 225 (86,2) 
0,008 
Không 6 (4,8) 118 (95,2) 
Mong muốn 
của chồng 
Đồng ý 40 (60,6) 26 (39,4) 
<0,001 
Không đồng ý 2 (0,6) 317 (99,4) 
Mong muốn 
của gia đình 
Đồng ý 42 (12,5) 293 (87,5) 
0,008 
Không đồng ý 0 (0) 50 (100) 
Tổng 42 343 
Có mối liên quan giữa mong muốn của sản 
phụ với lựa chọn giảm đau với p <0,05. Có mối 
liên quan giữa sự đồng ý của chồng và gia 
đình với lựa chọn giảm đau trong với p lần 
lượt là p <0,001 và p <0,05(Bảng 5). 
Biết kỹ thuật giảm đau trước khi nhập viện, 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 110
mong muốn của sản phụ và sự đồng ý của 
chồng được xác định có liên quan chặt chẽ với sự 
lựa chọn giảm đau trong chuyển dạ (Bảng 6). 
Bảng 6. Các yếu tố liên quan độc lập với sự lựa chọn 
giảm đau 
Biến số OR KTC 95% p 
Mô hình 1 – mô hình phù hợp nhất 
Sự đồng ý của chồng 219 43,5-1102,8 <0,001 
Mô hình 2 
Biết kỹ thuật trước khi nhập viện 11,6 3,6-37,0 <0,001 
Mong muốn của sản phụ 5,8 2,2-15,0 <0,001 
Trước nhập viện, sản phụ mong muốn 
giảm đau với lý do đáng kể nhất là kiểm soát 
đau (70,5%), được khuyến khích bởi thành 
viên trong gia đình/bạn bè (16,9%), 5% được 
BS khuyến khích. Sau nhập viện, lý do chính 
muốn giảm đau là kiểm soát đau (71,4%), tiếp 
theo là được BS khuyến khích (16,7%), các lý 
do còn lại chiếm tỷ lệ rất thấp (Hình 2). 
Trước nhập viện, sản phụ không muốn giảm 
đau với 2 lý do lớn nhất là chi phí cao (46,0%) và 
sợ nguy cơ cho bản thân (35,5%), chỉ có 5,6% do 
mong muốn sanh con tự nhiên. Sau nhập viện, 
mong muốn được sinh con tự nhiên chiếm tỷ lệ 
cao nhất (44,3%), tiếp theo là những nguy cơ có 
thể xảy ra cho bản thân (19,2%), chỉ có 1,2% sản 
phụ lo ngại về chi phí phải chi trả cho kỹ thuật 
(Hình 3). 
Hình 2. Các lý do dẫn đến sản phụ mong muốn giảm đau trước nhập viện và lựa chọn giảm đau sau khi nhập 
viện
Hình 3. Các lý do sản phụ không muốn giảm đau trước nhập viện và không lựa chọn giảm đau sau khi nhập viện 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 111
BÀN LUẬN 
Các nguồn thông tin mà sản phụ được tiếp nhận 
Các nguồn cung cấp thông tin cho sản phụ 
về giảm đau trong chuyển dạ rất đa dạng nhưng 
nhìn chung còn thấp và chưa mang tính hệ 
thống. Các lớp học tiền sản tại cơ sở nghiên cứu 
được tổ chức mỗi tháng một lần nhưng không có 
sản phụ nào trong mẫu nghiên cứu của chúng 
tôi đã tham gia, có thể ước đoán rằng cách thức 
truyền tải thông tin về phương pháp giảm đau 
trong các lớp tiền sản dường như chưa đủ hoặc 
không hiệu quả, đa số các phụ nữ phụ thuộc vào 
bác sĩ để nhận thông tin. So với các nguồn khác, 
thì bác sĩ được xem là kênh thông tin có giá trị, 
chính xác và đáng tin cậy, nhưng ghi nhận của 
chúng tôi (40,6%) thấp hơn nghiên cứu của 
Ezeonu (79,3%)(2). Trong khi đó nguồn thông tin 
từ gia đình/bạn bè chiếm tỷ lệ xấp xỉ với bác sĩ 
nhưng thông tin được mang lại thường mang 
tính chủ quan và bị ảnh hưởng bởi thái độ của 
người cung cấp. Kênh thông tin từ internet là 
công cụ truyền tải chủ động và đơn giản nhưng 
còn hạn chế, chỉ 22,5%, điều này chưa nhấn 
mạnh được vai trò tiềm năng của nó trong việc 
cung cấp thông tin. 
Các yếu tố liên quan đến sự lựa chọn giảm đau 
trong chuyển dạ 
Với phân tích đơn biến, chúng tôi tìm ra tuổi 
và học vấn có liên quan đến sự lựa chọn giảm 
đau trong chuyển dạ. Các yếu tố kinh tế xã hội 
liên quan đến giảm đau là rất đa dạng, như kết 
quả nghiên cứu của Jennifer là học vấn và loại 
hình bảo hiểm(4); của Hueston là tuổi, con so, dân 
tộc và bảo hiểm tư nhân; của Leray là nghề 
nghiệp, sống cùng với chồng(6). Nghiên cứu của 
chúng tôi tiến hành ở một đơn vị thai sản có sẵn 
dịch vụ giảm đau với chi phí không được bảo 
hiểm chi trả, vì thế, một số yếu tố dự đoán tiềm 
năng như tình trạng kinh tế hay bảo hiểm không 
được xác định có mối liên quan với việc quyết 
định giảm đau của sản phụ. 
Tuổi 
Nhóm tuổi từ 18-35 có liên quan đến sự lựa 
chọn với p=0,002, đây là độ tuổi sinh sản lý 
tưởng nhất, sẵn sàng nhất về tâm lý lẫn sinh lý 
của người phụ nữ, khả năng chấp nhận phương 
pháp mới cũng cao hơn. 
Học vấn 
Nhóm sản phụ có trình độ học vấn từ THPT 
trở lên có tỷ lệ lựa chọn giảm đau cao hơn có ý 
nghĩa thống kê (p=0,001), điều này phù hợp với 
nghiên cứu của Sheiner với p <0,001(13) và 
Orejuela với p <0,05(10). 
Biết đến kỹ thuật giảm đau trong chuyển dạ 
trước khi nhập viện 
Nghiên cứu của Goldberg(3) đã khẳng định: 
những người đã có kế hoạch giảm đau trong giai 
đoạn mang thai sẽ làm tăng khả năng chấp nhận 
giảm đau khi chuyển dạ. Vì thế khi sản phụ đã 
từng biết đến hoặc đã từng tìm hiểu về giảm đau 
có liên quan đến việc lựa chọn giảm đau cho 
cuộc sinh của mình. 
Giảm đau trong lần sinh trước 
Chỉ 3,8% sản phụ con rạ trong nghiên cứu 
của chúng tôi được giảm đau trong lần sinh 
trước đây, thấp hơn so với nghiên cứu của 
Nabukenya thực hiện ở Uganda - một nước thu 
nhập thấp ở Châu Phi(7) (12,1%). Tuy vậy điều 
đáng khích lệ là có 50% sản phụ đã giảm đau ở 
lần sinh trước tiếp tục yêu cầu giảm đau trong 
lần sinh này, kết quả này thấp hơn nghiên cứu 
của Harkins J (81%) với p=0,001(4). Có thể nói 
rằng trải nghiệm sinh con trước đây có ảnh 
hưởng tích cực đến những lần sinh con sau này. 
Mong muốn của chính sản phụ 
Tỷ lệ sản phụ muốn giảm đau trước khi 
nhập viện là 67%, thấp hơn so với hầu hết các 
nghiên cứu, như 88% theo ghi nhận của Mary(8), 
80,6% theo nghiên cứu của Ezeonu(2) và 79% theo 
ghi nhận của Palot(11), sự chênh lệch này có thể 
do cách nhìn nhận của mỗi cá nhân và môi 
trường sống, cũng có thể do sản phụ không biết 
rằng có thể làm giảm đi cơn đau chuyển dạ. 
Mong muốn của sản phụ được xác định có mối 
liên quan với sự chấp nhận giảm đau trong 
chuyển dạ (p=0,008), tuy nhiên, với 86,2% sản 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 112
phụ có mong muốn trước đó đã không chọn 
giảm đau cho cuộc sinh của mình cho thấy vẫn 
còn nhiều lý do ảnh hưởng đến quyết định của 
sản phụ. 
Mong muốn của chồng/ gia đình 
Trong số những sản phụ đã được giảm đau 
có 95,2% được sự ủng hộ của chồng, điều này đã 
chứng minh rõ ràng tầm quan trọng của chồng 
trong việc quyết định cuối cùng của sản phụ. Kết 
quả này cao hơn so với nghiên cứu của J Harkins 
được tiến hành ở Hoa Kỳ (61%) (p <0,001)(4). 
Trong khi đó, ý kiến của những người khác 
trong gia đình có khuynh hướng cùng chiều với 
ý muốn của sản phụ. 
Trong mô hình hồi quy đa biến, chỉ có ý 
muốn của chồng là yếu tố duy nhất có mối liên 
quan chặt chẽ (p <0,001, OR=219; KTC 95% 43,5-
1192,8). Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của 
Harkins J (p <0,001, KTC 95% 5,2-122,0)(4). 
KẾT LUẬN 
Các nguồn chính cung cấp thông tin về giảm 
đau: thông tin được cung cấp từ BS, gia đình/ 
bạn bè và internet chiếm tỷ lệ đáng kể với tỷ lệ 
lần lượt là 40,6%, 32,4% và 22,5%. 
Các yếu tố liên quan đến sự lựa chọn: tuổi, 
học vấn, nguồn thông tin, có biết về kỹ thuật 
trước khi nhập viện, đã được giảm đau ở lần 
sinh trước, mong muốn của bản thân sản phụ, 
mong muốn của chồng, mong muốn của gia 
đình (với p <0,05). Trong mô hình hồi quy, mong 
muốn của người chồng, biết về kỹ thuật trước 
khi nhập viện và mong muốn của chính sản phụ 
có liên quan chặt chẽ đến sự lựa chọn giảm đau 
trong chuyển dạ. 
Việc lựa chọn giảm đau trong chuyển dạ 
chưa phổ biến, hầu hết các sản phụ chưa được 
tiếp cận nhiều các thông tin về các phương pháp 
giảm đau trong chuyển dạ. Cần có các biện pháp 
nhằm phổ biến rộng rãi hơn các thông tin về 
phương pháp giảm đau trong chuyển dạ, thông 
qua internet, các lớp tiền sản, đồng thời tăng 
cường sự hỗ trợ của người chồng trong việc giúp 
sản phụ đưa ra quyết định tốt nhất cho cuộc sinh 
của mình. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Ding T, et al (2014). "Epidural labor analgesia is associated with 
a decreased risk of postpartum depression: a prospective cohort 
study". Anesth Analg, 119(2):383-92. 
2. Ezeonu PO, et al (2017). "Perceptions and practice of epidural 
analgesia among women attending antenatal clinic in FETHA". 
Int J Womens Health, 9:905-11. 
3. Goldberg AB, Cohen A, Lieberman E (1999). "Nulliparas' 
preferences for epidural analgesia: their effects on actual use in 
labor". Birth, 26(3):139-43. 
4. Harkins J, et al (2010). "Survey of the Factors Associated with a 
Woman's Choice to Have an Epidural for Labor Analgesia". 
Anesthesiology Research and Practice, 
5. Howell CJ, Dean T, Lucking L, et al (2002). "Randomised study 
of long term outcome after epidural versus non-epidural 
analgesia during labour". British Medical Journal, 325(7360):357. 
6. Le Ray C, Palot M, et al (2008). "Factors associated with the 
choice of delivery without epidural analgesia in women at low 
risk in France". Birth, 35(3):171-8. 
7. Nabukenya MT, Kintu A, Wabule A, et al (2015). "Knowledge, 
attitudes and use of labour analgesia among women at a low-
income country antenatal clinic". BMC Anesthesiology, 15:98. 
8. Nguyễn Duy Tài (2011). "Gây tê Sản khoa", Sản Phụ Khoa - 
Những điều cần biết. NXB Y học TP Hồ Chí Minh, pp.410-419. 
9. Ogboli NE, Adaji S, Bature S, et al (2011). "Pain relief in labor: a 
survey of awareness, attitude, and practice of health care 
providers in Zaria, Nigeria". Journal of Pain Research, 4:227-32. 
10. Orejuela FJ, Garcia T, Green C, et al (2012). "Exploring factors 
influencing patient request for epidural analgesia on admission 
to labor and delivery in a predominantly Latino population". 
Journal of Immigrant and Minority Health, 14(2):287-291. 
11. Palot M, Leymarie F, Jolly DH, et al (2006). "Request of epidural 
analgesia by women and obstetrical teams in four French areas. 
Part II: Management of epidural analgesia". Ann Fr Anesth 
Reanim, 25(6):569-76. 
12. Ryding EL, Lukasse M, et al (2015). "Fear of Childbirth and Risk 
of Cesarean Delivery: A Cohort Study in Six European 
Countries". Birth, 42(1):48-55. 
13. Safari-Moradabadi A, et al (2018). "Factors involved in selecting 
the birth type among primiparous women". J Educ Health 
Promot, 7:55. 
14. Sheiner E, Sheiner EK, et al (2000). "Predictors of 
recommendation and acceptance of intrapartum epidural 
analgesia". Anesth Analg, 90(1):109-13. 
Ngày nhận bài báo: 30/07/2019 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 30/08/2019 
Ngày bài báo được đăng: 10/10/2019