Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ  25, Số 1S (2009) 21‐27 
21 
_______ 
Đặc điểm phân bố và biến động năng suất sinh học sơ cấp 
ở vùng biển phía Tây vịnh Bắc Bộ 
Đoàn Bộ* 
Khoa Khí tượng Thủy văn và Hải dương học, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, ĐHQGHN 
Ngày nhận 02 tháng 01 năm 2009 
Tóm tắt. Tổng hợp các kết quả nghiên cứu hiện có về năng suất sinh học sơ cấp (NSSC) ở vịnh 
Bắc Bộ cho thấy: 
1. Vùng biển phía tây vịnh Bắc Bộ là thuỷ vực nhiệt đới ven bờ có sức sản xuất sơ cấp cao, giá trị 
trung bình NSSC thô ở trung tâm và cửa vịnh vào cỡ 100±20 mgC/m3/ngày, gần bờ và cửa sông 
150±50 mgC/m3/ngày, cá biệt có nơi, có lúc đạt trên 300 mgC/m3/ngày. Giá trị cực tiểu NSSC thô 
là 40 mgC/m3/ngày tại cửa vịnh vào tháng 10-1959, nhỏ hơn khoảng 10 lần so với giá trị cực đại 
412 mgC/m3/ngày tại tây nam đảo Cô Tô vào tháng 8-2000. 
2. Phân bố NSSC trong khu vực nghiên cứu có xu thế giảm từ bờ ra khơi, từ bắc vào nam, mùa hè 
lớn hơn mùa đông. Theo độ sâu, NSSC thường đạt cực đại trong lớp nước 10-20m. 
1. Mở đầu∗
Năng suất sinh học sơ cấp (NSSC) là đại 
lượng đặc trưng cho khả năng sản xuất vật chất 
hữu cơ sơ khởi của vùng biển, trong đó sức sản 
xuất sơ cấp của thực vật phù du 
(Phytoplankton) thường chiếm ưu thế. Đây là 
nguồn vật chất cơ sở từ đó các động vật bậc cao 
có thể sử dụng tiếp lên theo các kênh dinh 
dưỡng của hệ sinh thái vùng biển. Trên thực tế, 
những vùng biển có NSSC cao cũng thường là 
những nơi khai thác hải sản cho sản lượng lớn. 
Hiểu biết đầy đủ về các quy luật phân bố, biến 
động của NSSC sẽ có ý nghĩa to lớn đối với 
khoa học và thực tiễn, đặc biệt trong việc đánh 
giá tiềm năng nguồn lợi hải sản của vùng biển. 
Ở vịnh Bắc Bộ, các nghiên cứu về NSSC 
tuy được bắt đầu từ khá sớm (trong Chương 
trình hợp tác Việt-Trung 1959-1960) song cho 
đến nay nội dung này còn chưa nhiều, lại tập 
trung chủ yếu ở một số khu vực biển ven bờ 
phía tây và hầu như chưa có khu vực nào được 
nghiên cứu lặp lại. Do vậy khó có thể tìm ra 
những quy luật chung về phân bố và biến động 
của NSSC vịnh Bắc Bộ. Ngay việc so sánh các 
kết quả nghiên cứu cũng có những bất cập bởi 
sự khác nhau về thời gian, khu vực và nhất là 
phương pháp. 
∗ ĐT: 84-4-35586898. 
 E-mail: 
[email protected] 
Trên cơ sở tập hợp các nghiên cứu hiện có 
từ 1960 đến nay về NSSC ở các khu vực khác 
nhau trong vịnh Bắc Bộ, bài báo đưa ra những 
đánh giá và nhận định về đặc trưng phân bố và 
biến động của quá trình sản xuất vật chất hữu 
cơ sơ khởi của vùng biển, chú trọng nửa phía 
tây vịnh Bắc Bộ. Nghiên cứu này được hoàn 
thành với sự hỗ trợ của Hội đồng Khoa học Tự 
nhiên giai đoạn 2006-2008 trong khuôn khổ đề 
tài nghiên cứu cơ bản mang mã số 705206. 
Đ. Bộ / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự Nhiên và Công nghệ 25, Số 1S (2009) 21‐27 22
2. Tài liệu và phương pháp 
Tài liệu sử dụng trong nghiên cứu này được 
tổng hợp từ các nguồn: 
- Các kết quả tính NSSC theo phương pháp 
độ lệch biến trình ngày ôxy hoà tan của Chương 
trình hợp tác Việt-Trung (1959-1960) và hợp 
tác Việt-Xô (1961-1962) về điều tra khảo sát 
tổng hợp trên toàn vịnh Bắc Bộ [1]. 
- Các kết quả tính NSSC theo phương pháp 
mô hình toán tại vùng biển Ba Lạt-Bạch Long 
Vĩ của đề tài KT-03-10 (1991-1995) [2]. 
- Các kết quả tính NSSC theo phương pháp 
hiệu ứng tiêu hao dinh dưỡng trong quang hợp 
tại vùng triều cửa sông Hồng của đề tài KT-03-
11 (1991-1995) và tại vịnh Hạ Long của dự án 
SIDA/SAREC (1996-1997) [3,4]. 
- Các kết quả tính NSSC theo phương pháp 
bình đen-trắng và phương pháp mô hình toán 
tại vùng biển Quảng Ninh của đề tài KĐL-CIS-
01 (1999-2000) [5,6]. 
- Năm 2003-2004, đề tài KC-09-17 thuộc 
Chương trình Biển KC.09/01-05 đã tiến hành các 
chuyến khảo sát tổng hợp vùng biển vịnh Bắc Bộ, 
phần chủ quyền của Việt Nam, trong đó có việc 
bố trí thí nghiệm xác định NSSC tại 3 trạm liên 
tục 1 ngày đêm bằng phương pháp bình đen-
trắng. Đây là những tư liệu mới nhất bổ sung cho 
việc nghiên cứu NSSC ở vịnh Bắc Bộ [7]. 
3. Kết quả nghiên cứu 
Trên cơ sở tập hợp kết quả từ các nghiên 
cứu hiện có, kể các các nghiên cứu mới nhất 
của đề tài KC-09-17 trong năm 2003-2004 có 
thể thấy và so sánh NSSC ở các khu vực khác 
nhau trong vịnh Bắc Bộ và Biển Đông như 
bảng 1, 2. 
Bảng 1. Giá trị trung bình năng suất sinh học sơ cấp thô (mgC/m3/ngày) tại các khu vực trong vịnh Bắc Bộ (tổng 
hợp các kết quả nghiên cứu hiện có) 
NSSC thô 
(mgC/m3/ngày) 
Các khu vực 
Mùa 
hè 
Mùa 
đông 
Phương pháp 
nghiên cứu 
Nguồn, thời gian 
nghiên cứu 
Ven bờ tây bắc vịnh 121 
Ven bờ tây nam vịnh 105 
Ven bờ đông vịnh 108 
Cửa vịnh 81 
Độ lệch biến trình 
ngày Ôxy hoà tan 
Hợp tác Việt- Trung, 
Việt-Xô điều tra 
VBB 1959-1962 
Lân cận cửa sông Hồng, mùa hè 120 
Khu vực Bạch Long Vĩ (giữa vịnh), mùa hè 80 
Mô hình toán Đề tài KT-03-10 
(8/1994) 
Vùng triều cửa sông Hồng, cuối mùa hè 150 Đề tài KT-03-11 
(10/1994) 
Vịnh Hạ Long, mùa đông 66 
Hiệu ứng dinh 
dưỡng PO4
Dự án SIDA/ 
SAREC (1/1997) 
Xung quanh đảo Cô Tô Quảng Ninh, mùa hè 175 Đề tài KĐL-CIS-01 
(8/2000) 
Đông nam đảo Cát Bà, mùa đông 146 
Bình đen trắng 
Đề tài KĐL-CIS-01 
(12/2001) 
Vùng biển ven bờ Quảng Ninh (độ sâu 
<10m) mùa hè 
228 Đề tài KĐL-CIS-01 
(8/2001) 
Vùng biển thoáng Quảng Ninh mùa hè (độ 
sâu 10-35m) 
194 Đề tài KĐL-CIS-01 
(8/2000) 
Vùng biển thoáng Quảng Ninh mùa đông (độ 
sâu 10-35m) 
 82 
Mô hình toán 
Đề tài KĐL-CIS-01 
(12/2001) 
Vịnh Bắc Bộ (Khu vực Hải Phòng) 147 157 Đề tài KC-09-17 
Đ. Bộ / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự Nhiên và Công nghệ 25, Số 1S (2009) 21‐27 23
Vịnh Bắc Bộ (Khu vực Thanh Hoá) 97 195 
Vịnh Bắc Bộ (Khu vực Quảng Bình) 232 337 
Bình đen trắng (2003-2004) 
Bảng 2. Năng suất sinh học sơ cấp thô (mgC/m3/ngày) tại các khu vực khác nhau trong Biển Đông 
Các khu vực trong Biển Đông NSSC thô 
(mgC/m3/ngày) 
Phương pháp 
nghiên cứu 
Nguồn, thời gian nghiên cứu 
Vùng nước trồi Nam Trung Bộ 
(mùa hè 1993) 
60±45 14C và bình đen-
trắng 
Nguyễn Tác An [8] 
Vùng rạn san hô nam VN 36±25 14C Nguyễn Tác An [8] 
Thềm lục địa nam VN (<200m) 46±16 14C và bình đen-
trắng 
Nguyễn Tác An [8] 
Vùng biển khơi miền Trung 45 Mô hình toán Đoàn Bộ [9-11] 
Vùng biển sâu giữa Biển Đông 
(xuân-hè 1996) 
3±3 Mô hình toán Đoàn Bộ [12] 
Đầm phá Tam Giang-Cầu Hai (mùa 
đông 1995) 
130 Mô hình toán Đoàn Bộ [11] 
Trong đợt khảo sát tháng 10, 11 năm 2003 
do đề tài KC-09-17 thực hiện, NSSC thô ở các 
tầng các trạm dao động từ 131 đến 375 
mgC/m3/ngày, trung bình cho cả 3 trạm đạt 230 
mgC/m3/ngày với xu thế giảm từ bắc vào nam 
và cực đại không rơi vào lớp nước mặt trừ trạm 
22 (hình 1) [7]. Đây là những giá trị khá cao so 
với các nghiên cứu trước đây, song cũng là 
những giá trị đã từng gặp ở vùng biển ven bờ 
phía tây vịnh Bắc Bộ. Hô hấp của thực vật 
chiếm khoảng trên dưới 50% lượng sản phẩm 
do chính nó tạo ra, hiệu quả tự dưỡng đạt 
khoảng 1,8 đến 2,2, chuyển hóa năng lượng tự 
nhiên đạt khoảng 0,01-0,04. 
0
100
200
300
400
Tr¹m 8
(Khu vùc
H¶I Phßng)
Tr¹m 22
(Khu vùc
Thanh Ho¸)
Tr¹m 34
(Khu vùc
Qu¶ng B×nh)
mgC/m3/ngµy
TÇng mÆt TÇng gi÷a TÇng ®¸y
Hình 1. Năng suất sinh học sơ cấp thô (mgC/m3/ngày) tại các trạm liên tục đợt khảo sát tháng 10, 11 năm 2003. 
Trong đợt khảo sát tháng 8 năm 2004, 
NSSC thô ở các tầng các trạm dao động từ 78 
đến 341 mgC/m3/ngày, trung bình cho cả 3 trạm 
đạt 159 mgC/m3/ngày, tương đương với các kết 
Đ. Bộ / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự Nhiên và Công nghệ 25, Số 1S (2009) 21‐27 24
quả nghiên cứu hiện có [7]. Xu thế phân bố 
năng suất sơ cấp ở phía bắc cao hơn phía nam, 
thấp nhất ở khu vực giữa miền khảo sát (hình 
2). Đặc điểm cực đại năng suất không rơi vào 
lớp nước mặt được bảo toàn như ở đợt khảo sát 
tháng 11 năm 2003. Hô hấp của thực vật cũng 
chiếm khoảng trên dưới 50% lượng sản phẩm 
do chính nó tạo ra, hiệu quả tự dưỡng đạt 
khoảng 1,99 đến 2,38 (được coi là tương đương 
với đợt khảo sát trước), chuyển hóa năng lượng 
tự nhiên đạt khoảng 0,006-0,012 (nhỏ hơn so 
với đợt trước do cường độ bức xạ tự nhiên 
trong tháng 8 dồi dào). 
0
100
200
300
Tr¹m 8
(Khu vực 
Hải Phßng)
Tr¹m 19
(Khu vùc 
Thanh Ho¸)
Tr¹m 30
(Khu vùc 
Qu¶ng B×nh
mgC/m3/ngµy
TÇng mÆt TÇng gi÷a TÇng ®¸y
Hình 2. Năng suất sinh học sơ cấp thô (mgC/m3/ngày) tại các trạm liên tục đợt khảo sát tháng 8 năm 2004. 
Mặc dù các tư liệu hiện có về NSSC vịnh 
Bắc Bộ chưa nhiều, song bước đầu cũng có thể 
đưa ra bức tranh phân bố năng suất sinh học sơ 
cấp trong vịnh như hình 3, đồng thời rút ra 
được một số nhận xét cơ bản như sau: 
Đ. Bộ / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự Nhiên và Công nghệ 25, Số 1S (2009) 21‐27 25
105 106 107 108 109 110
105 106 107 108 109 110
17
18
19
20
21
22
17
18
19
20
21
22
Trung Quèc
Lµo
Hµ Néi Qu¶ng Ninh
Tp.H¶i Phßng
Th¸i B×nh
Nam §Þnh
Thanh Hãa
NghÖ An
Hµ TÜnh
Qu¶ng Binh
Qu¶ng TrÞ
Thõa Thiªn HuÕ
§¶o H¶i Nam
§.B¹ch Long VÜ
228
194
145
150
120
121
80
80
108
105
150
140
80
19
4
Hình 3. Sức sản xuất sơ cấp thô (mgC/m3/ngày) tại vịnh Bắc Bộ. 
Về giá trị và xu thế biến động của NSSC: 
- So với các khu vực khác trong Biển Đông 
[8,9,10,11,12], vùng biển phía tây vịnh Bắc Bộ 
là thuỷ vực nhiệt đới ven bờ có sức sản xuất sơ 
cấp cao, NSSC thô ở khu vực trung tâm và cửa 
vịnh (nơi có độ sâu trên 50m) có giá trị trung 
bình cỡ 100±20 mgC/m3/ngày, gần bờ và cửa 
sông 150±50 mgC/m3/ngày, cá biệt có nơi, có 
lúc đạt trên 300 mgC/m3/ngày. 
- Từ 1959 đến nay, NSSC ở vịnh Bắc Bộ 
không có biến động nhiều. Theo giá trị trung 
bình, NSSC lớn nhất và nhỏ nhất ở các khu vực 
khác nhau chỉ hơn kém nhau độ 2-3 lần, các cực 
trị đã gặp cũng chỉ hơn kém nhau khoảng 10 
lần. Cụ thể: cực tiểu NSSC thô là 40 
mgC/m3/ngày tại cửa vịnh tháng 10-1959 (tính 
toán của Nguyễn Tác An qua độ lệch biến trình 
ngày DO [1]) nhỏ hơn khoảng 10 lần so với cực 
đại 412 mgC/m3/ngày tại tây nam đảo Cô Tô 
tháng 8-2000 (tính toán của đề tài KĐL-CIS-01 
theo phương pháp bình đen trắng [6]). Tuy 
nhiên sự biến động như trên còn qúa nhỏ so với 
những biến động NSSC tại các vùng biển ôn 
đới (trên 50 lần) [1]. 
Về phân bố của NSSC: 
- Xu thế chung phân bố theo mặt rộng của 
NSSC ở vùng biển phía tây vịnh Bắc Bộ là 
giảm từ bờ ra khơi, từ bắc vào nam. Khu vực 
tây bắc vịnh (Hải Phòng, Quảng Ninh, Nam 
Định, Thái Bình) có NSSC cao nhất (và cũng 
được nghiên cứu nhiều nhất), khu vực giữa và 
cửa vịnh có NSSC nhỏ hơn (hình 3). Theo độ 
Đ. Bộ / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự Nhiên và Công nghệ 25, Số 1S (2009) 21‐27 26
sâu, NSSC thường đạt cực đại trong lớp nước 
10-20m. 
- NSSC trong mùa hè có giá trị lớn hơn 
trong mùa đông tuy độ chênh lệch không nhiều. 
Về hiệu suất sinh thái của vùng biển: 
Vịnh Bắc Bộ đặc trưng cho vùng biển nhiệt 
đới ven bờ giàu dinh dưỡng. Khả năng tự dưỡng 
của vùng biển luôn lớn hơn 1 (thường đạt trên 
dưới 2) chứng tỏ vật chất hữu cơ (năng lượng) 
ban đầu được tạo ra không những đủ chi dùng cho 
chính sinh vật sản xuất mà còn được tích lũy để 
các sinh vật bậc cao sử dụng theo các kênh dinh 
dưỡng của hệ sinh thái vùng biển. 
Tài liệu tham khảo 
[1] Nguyễn Tác An, Sơ bộ nhận xét về năng suất 
sinh học bậc 1 ở vịnh Bắc Bộ, Tuyển tập Nghiên 
cứu biển, tập II, phần 1, Nha Trang, 2004. 
[2] Đoàn Bộ, Phùng Đăng Hiếu, Nghiên cứu năng 
suất sinh học sơ cấp của thực vật nổi vùng biển 
ven bờ tây vịnh Bắc Bộ, Tuyển tập Hội nghị 
khoa học Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, 
Đại học Quốc gia Hà Nội lần thứ hai, Hà Nội 
23-25 tháng 11 năm 2000, Chuyên ngành Khí 
tượng-Thuỷ văn-Hải dương học, Sở Văn hoá-
Thông tin Hà Nội, 2001. 
[3] Đỗ Trọng Bình, Kết quả tính toán năng suất sinh 
học sơ cấp và hiệu quả sinh thái của thực vật nổi 
vào mùa khô (tháng 1-1997) tại vịnh Hạ Long, 
Tài nguyên và Môi trường Biển, tập IV, NXB 
Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội, 1997. 
[4] Đoàn Bộ, Nguyễn Đức Cự, Nghiên cứu năng 
suất sinh học sơ cấp của thực vật nổi trong hệ 
sinh thái vùng triều cửa sông Hồng, Tài nguyên 
và Môi trường biển, T.3, NXB Khoa học và Kỹ 
thuật, Hà Nội, 1996. 
[5] Doan Bo, A model for nitrogen transformation 
cycle in marine ecosystem, Proceedings 
Extended Abstracts Volume, Theme 1, Session 3: 
Biogeochemical Cycling and Its Impact on 
Global Climate Change, 6Th IOC/WESTPAC 
International Scientific Symposium, 19-23 April 
2004, Hangzhou, China, Published by Marine 
and Atmospheric Laboratory, School of 
Environmental Earth Science, Hokkaido 
University, Japan, 2005. 
[6] Lê Đức Tố và ctv, Báo cáo tổng kết đề tài KĐL-
CIS-01“Điều tra nghiên cứu hệ thống đảo ven 
bờ vịnh Bắc Bộ phục vụ cho việc qui hoạch phát 
triển kinh tế - xã hội bảo vệ chủ quyền và lợi ích 
quốc gia trên biển”, Trung tâm Thông tin-Tư 
liệu Quốc gia, Hà Nội, 2001. 
[7] Nguyễn Thế Tưởng và ctv, Báo cáo tổng kết đề 
tài KC-09-17 “Điều tra tổng hợp điều kiện tự 
nhiên, tài nguyên thiên nhiên và môi trường vịnh 
Bắc Bộ”, Trung tâm Thông tin-Tư liệu Quốc 
gia, Hà Nội, 2005. 
[8] Nguyễn Tác An, Năng suất sinh học sơ cấp và 
hiệu ứng sinh thái của dòng nước trồi ở vùng 
biển Nam Trung Bộ, Các công trình nghiên cứu 
vùng nước trồi mạnh Nam Trung bộ, NXB Khoa 
học và Kỹ thuật, Hà Nội, 1997. 
[9] Đoàn Bộ, Mô hình toán học phân bố sinh vật nổi 
và năng suất sinh học sơ cấp ở vùng nước trồi 
thềm lục địa Nam Trung Bộ, Tạp chí Sinh học, 
Tập 19, số 4 (1997) 35. 
[10] Đoàn Bộ, Mô hình sinh thái thuỷ động lực và 
một số kết quả áp dụng tại biển Việt Nam, Tuyển 
tập Hội nghị khoa học công nghệ biển toàn quốc 
lần thứ 4, Tập 1: Khí tượng-Thuỷ văn, Động lực 
biển... Trung tâm Khoa học Tự nhiên và Công nghệ 
Quốc gia, 1999. 
[11] Đoàn Bộ, Sử dụng mô hình toán trong nghiên 
cứu hệ sinh thái biển ở vùng biển Bình Thuận- 
Ninh Thuận và đầm phá Tam Giang-Cầu Hai, 
Tạp chí khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội, 
 T. XVII, No2 (2000) 7. 
[12] Doan Bo, Liana Mc Manus, et all, Primary 
productivity of phytoplankton in study sea area 
of RP-VN JOMSRE-SCS 1996, Proceedings of 
Scientific Conference on the Philippines - 
Vietnam Joint Oceanographic and Marine 
Scientific Research expedition in the South 
China Sea 1996, Hanoi, 1997. 
Đ. Bộ / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự Nhiên và Công nghệ 25, Số 1S (2009) 21‐27 27
Characteristics of distribution and change of primary 
productivity in the sea area of the West tonkin bay 
Doan Bo 
Faculty of Hydro-Meteorology & Oceanography, College of Science, VNU 
Overview of present study results on primary productivity in Tonkin Bay shows that: 
1. The sea area of the west Tonkin Bay is coastal tropical waters with high primary productivity. 
The mean value of rought primary productivity is about 100±20 mgC/m3/day in the off-shore and open 
sea, 150±50 mgC/m3/day and sometime over 300 mgC/m3/day in the river mouths and near-shore. The 
minimum value of primary productivity (40 mgC/m3/day in open sea in the Oct-1959) is about ten 
times less than its maximum (412 mgC/m3/day in south-west of Coto island in the Aug-2000). 
2. The distribution trend of primary productivity in the sea area of west Tonkin Bay decreases 
from near-shore to off-shore and from north to south. The primary productivity in summer is higher 
than that in winter, and its maximum occurs in the water layer 10-20m depth.