Tài liệu Đa dạng thực phẩm trong bữa ăn của đồng bào các dân tộc tại một số tỉnh miền núi phía Bắc: VIỆN KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM 
812 
ĐA DẠNG THỰC PHẨM TRONG BỮA ĂN CỦA ĐỒNG BÀO CÁC DÂN TỘC 
TẠI MỘT SỐ TỈNH MIỀN NÚI PHÍA BẮC 
 Lê Thị Quyên, Vũ Đăng Toàn 
Trung tâm Tài nguyên Thực vật 
TÓM TẮT 
Đa dạng thực phẩn trong bữa ăn hàng ngày nhằm đảm bảo được dinh dưỡng cân bằng. Đa 
dạng thực phẩm của các hộ nông dân của ba tỉnh Hà Giang, Sơn La, Lào Cai được điều tra bằng sử 
dụng bảng câu hỏi. Thực phẩm được tiêu thụ tại cả 3 tỉnh có các nhóm lương thực (lúa, ngô), nhóm 
rau, nhóm protein (cá, thịt, sữa), nhóm quả. Các nhóm lúa, rau được 100% các hộ sử dụng thường 
ngày, các nhóm cá, thịt, sữa và nhóm quả chỉ có hơn 10% số hộ được sử dụng. Người dân ăn đủ 
ngày 3 bữa và không có bữa phụ. Các nhóm thực phẩm được sử dụng của Hà Giang, Lào Cai và 
Sơn La lần lượt là 3,60; 4,23 và 2,97. Qua kết quả cho thấy đa dạng thực phẩm trong bữa ăn hàng 
ngày của người dân còn rất thấp so với yêu cầu là 8/16 nhóm thực phẩm theo khuyến cáo của FAO. 
Từ khóa: Đa dạng thực phẩm, bữa ă...
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 6 trang
6 trang | 
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 500 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Đa dạng thực phẩm trong bữa ăn của đồng bào các dân tộc tại một số tỉnh miền núi phía Bắc, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VIỆN KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM 
812 
ĐA DẠNG THỰC PHẨM TRONG BỮA ĂN CỦA ĐỒNG BÀO CÁC DÂN TỘC 
TẠI MỘT SỐ TỈNH MIỀN NÚI PHÍA BẮC 
 Lê Thị Quyên, Vũ Đăng Toàn 
Trung tâm Tài nguyên Thực vật 
TÓM TẮT 
Đa dạng thực phẩn trong bữa ăn hàng ngày nhằm đảm bảo được dinh dưỡng cân bằng. Đa 
dạng thực phẩm của các hộ nông dân của ba tỉnh Hà Giang, Sơn La, Lào Cai được điều tra bằng sử 
dụng bảng câu hỏi. Thực phẩm được tiêu thụ tại cả 3 tỉnh có các nhóm lương thực (lúa, ngô), nhóm 
rau, nhóm protein (cá, thịt, sữa), nhóm quả. Các nhóm lúa, rau được 100% các hộ sử dụng thường 
ngày, các nhóm cá, thịt, sữa và nhóm quả chỉ có hơn 10% số hộ được sử dụng. Người dân ăn đủ 
ngày 3 bữa và không có bữa phụ. Các nhóm thực phẩm được sử dụng của Hà Giang, Lào Cai và 
Sơn La lần lượt là 3,60; 4,23 và 2,97. Qua kết quả cho thấy đa dạng thực phẩm trong bữa ăn hàng 
ngày của người dân còn rất thấp so với yêu cầu là 8/16 nhóm thực phẩm theo khuyến cáo của FAO. 
Từ khóa: Đa dạng thực phẩm, bữa ăn, dinh dưỡng, miền núi phía Bắc 
I. ĐẶT VẤN ĐỀ 
 Trong những năm gần đây, vấn đề dinh 
dưỡng và thực phẩm được quan tâm đặc biệt và 
trở thành lĩnh vực được ứng dụng rộng rãi 
trong công tác chăm sóc sức khỏe, nâng cao 
chất lượng cuộc sống con người, đặc biệt là 
đồng bào các dân tộc vùng cao, những nơi mà 
không có đủ lương thực, thực phẩm để sử dụng 
hoặc không có tiền để mua (Đỗ Văn Hàm, 
2007). Dinh dưỡng được xác định qua nguồn 
thực phẩm sử dụng, cũng như khẩu phần ăn 
hàng ngày. Mỗi loại thực phẩm chứa các chất 
dinh dưỡng khác nhau nên chế độ ăn uống cần 
đa dạng để cung cấp đủ chất dinh dưỡng cho cơ 
thể (Nguyễn Ý Đức, 2000). 
 Sơn La, Hà Giang, Lào Cai là những 
tỉnh thuộc miền núi biên giới phía Bắc của 
Việt Nam. Hoạt động kinh tế của người dân 
tại những vùng này chủ yếu vẫn là dựa vào 
sản phẩm nông nghiệp tự cung tự cấp, chăn 
nuôi và một phần thu nhập qua sản phẩm của 
rừng nên hộ nghèo vẫn phổ biến (Tổng cục 
Thống kê, 2011), tỷ lệ hộ nghèo tương ứng tại 
3 tỉnh Sơn La, Hà Giang, Lào Cai là 23,94%; 
23,21%; 17,94%. (Bộ Lao động- Thương binh 
và Xã hội, 2014). Những tỉnh miền núi cũng 
là nơi mà có tỷ lệ suy dinh dưỡng khá cao, 
người dân địa phương cũng chưa quan tâm 
nhiều đến vấn đề thực phẩm và thành phần 
bữa ăn cũng như lượng dinh dưỡng họ tiêu 
thụ (Đỗ Văn Hàm, 2007). 
 Nghiên cứu sự đa dạng nguồn thực phẩm 
cũng như khẩu phần ăn của người dân tại 3 tỉnh 
Hà Giang, Sơn La, Lào Cai được thực hiện 
nhằm đánh giá lượng dinh dưỡng tiêu thụ tại 
địa bàn nghiên cứu cũng như đa dạng sinh học 
tại địa phương. Nghiên cứu này được thực hiện 
trong khuôn khổ hợp tác giữa Tổ chức nâng 
cao năng lực cộng đồng Khu vực Đông Nam Á 
và Trung tâm Tài nguyên thực vật. 
II. NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 
NGHIÊN CỨU 
2.1. Nội dung và địa điểm nghiên cứu 
Nghiên cứu và điều tra thông tin về đa 
dạng thực phẩm và đa dạng khẩu phần ăn trong 
24h của đồng bào các dân tộc tại 3 tỉnh Hà 
Giang, Lào Cai, Sơn La. 
Tổng số 120 hộ nông dân thuộc 3 tỉnh Hà 
Giang, Lào Cai, Sơn La được lựa chọn để 
phỏng vấn (30 hộ/xã, 2 xã/tỉnh). Cụ thể: Tỉnh 
Hà Giang: Xã Bạch Ngọc và xã Ngọc Minh, 
huyện Vị Xuyên; Tỉnh Sơn La: Xã Nà Ớt và xã 
Chiềng Ve, huyện Mai Sơn; tỉnh Lào Cai: Xã 
Tả Phìn và xã Hầu Thào, huyện Sa Pa. 
2.2. Phương pháp nghiên cứu 
 Thông tin được thu thập thông qua các 
nguồn thứ cấp, điều tra cơ bản dựa trên bảng 
câu hỏi theo phương pháp của M Savy (2005) 
để phân tích đa dạng thực phẩm tại địa phương 
thông qua phỏng vấn trực tiếp từng hộ nông 
dân trên địa bàn về khẩu phần ăn trong 24h. 
Phỏng vấn được tiến hành ở 02 thời điểm khác 
nhau, trong giai đoạn đói và giai đoạn no. 
Phương pháp phân tích dữ liệu: Dữ liệu 
thu thập được xử lý bằng phần mềm Excel. 
Hội thảo Quốc gia về Khoa học Cây trồng lần thứ hai 
813 
III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 
3.1. Thông tin về giới tính, độ tuổi của người 
cung cấp thông tin và nguồn thu nhập 
Kết quả cho thấy, số lượng nữ giới và 
nam lần lượt là 132 và 48. Độ tuổi của người 
tham gia phỏng vấn tại Hà Giang dao động từ 
21- 77 tuổi, Lào Cai là 19 - 69 tuổi và Sơn La 
là 20 – 60 tuổi. Độ tuổi trung bình của người 
được phỏng vấn tại cả 3 tỉnh là 36,79 trong khi 
độ tuổi trung bình của người phỏng vấn tại 
riêng từng tỉnh Hà Giang, Lào Cai, Sơn La lần 
lượt là 37,43; 36,2; 36,76 (Bảng 1). Nhóm 
người phỏng vấn ở nhiều độ tuổi khác nhau, 
hầu hết mọi người trong nhóm phỏng vấn sinh 
ra và sống tại địa phương trong một thời gian 
tương đối dài, có nhiều kinh nghiệm, kiến thức 
văn hóa của địa phương. 
Bảng 1. Thông tin chung của người được phỏng vấn 
Tỉnh Tuổi Trung bình 
 Giới tính (Số người) Thành phần dân tộc 
Nam Nữ 
Hà Giang 37,43 25 35 75% Tày, 15% Mông, 5% Nùng, 5% Dao
Lào Cai 36,2 7 53 50% Dao, 50% Mông 
Sơn La 36,76 16 44 100% Thái 
Trung bình 36,79 
Thành phần dân tộc tại 3 tỉnh có sự khác 
nhau giữa các thành viên tham gia phỏng vấn. 
Tại tỉnh Sa Pa, 100% là dân tộc Thái; tại Lào 
Cai là 50% Thái, 50% H’Mông và tại Hà 
Giang thành phần dân tộc khá đa dạng, có Tày, 
H’Mông, Nùng, Dao, trong đó dân tộc Tày cao 
nhất, chiếm 75%. 
Nguồn thu nhập chính là từ nông nghiệp. 
Tuy nhiên sản phẩm từ hoạt động nông nghiệp 
chủ yếu để phục vụ cho gia đình, khi thừa mới 
mang đi bán. Bên cạnh đó, họ có thể làm một số 
việc khác để kiếm thêm thu nhập như đi làm 
thuê, kiếm củi trong rừng mang về bán (Hà 
Giang, Lào Cai, Sơn La), hái lá Giang bán (Hà 
Giang), trồng thảo quả (Lào Cai). Kết quả khảo 
sát mức sống hộ gia đình năm 2012, khi tính mức 
thu nhập theo vùng trên cả nước cho thấy vùng 
Tây Bắc có mức thu nhập thấp nhất cả nước 
(998.800đ/ khẩu/tháng), trong khi đó vùng Đông 
Nam bộ đạt 3.016.400đ/khẩu/tháng, Tây Nguyên 
1.643.300 đ/khẩu/tháng,... Mức thu nhập quá 
thấp, phụ thuộc chính vào nông nghiệp nên khó 
có thể đảm bảo được cuộc sống no đủ cho người 
dân tại các tỉnh Tây Bắc nói riêng và các tỉnh 
miền núi phía Bắc của Việt Nam nói chung. 
Theo phong tục tập quán của dân tộc 
vùng cao tại 3 tỉnh thì thường có những lễ hội 
chính: Hội lúa mới (tại Hà Giang, Lào Cai), 
Tết Nguyên Đán, rằm tháng bảy (Hà Giang, 
Lào Cai, Sơn La). Vào những ngày lễ hội này, 
người dân địa phương thường sử dụng một số 
loại thực phẩm như thịt lợn, gà, cá, trâu, bò 
nên lượng thực phẩm được tiêu thụ cao hơn so 
với ngày thường rất nhiều. 
3.2. Đa dạng nguồn gốc của thực phẩm 
Bảng 2 cho thấy nguồn thực phẩm cung 
cấp cho các bữa ăn của các tỉnh không có sự 
khác biệt, đặc biệt là các nhóm thịt, cá, hoa quả 
có rất ít loại (tỉnh Hà Giang, Lào Cai có 5 loại 
quả, Sơn La chỉ có 4 loại quả). Kết quả cho thấy 
mức độ sử dụng quả không thường xuyên và 
không nhiều; đối với nguồn cung cấp rau thì đa 
dạng hơn, thường trồng theo mùa. Sự đa dạng 
về chủng loại rau có sự khác biệt lớn. Tại Lào 
Cai vào mùa đông do thời tiết khắc nghiệt, mùa 
đông lạnh, sương muối và mưa tuyết người dân 
gần như không có rau ăn. Sơn La, Hà Giang 
mùa đông vẫn có từ 1 đến 2 loại rau được người 
dân trồng trong vườn để tiêu dùng trong gia 
đình, cũng tương tự như đối với nguồn thực 
phẩm khác, nước uống của người dân tại 3 tỉnh 
cũng có sự khác biệt lớn đó là nguồn nước lấy 
từ núi đá. Tuy vậy, Hà Giang và Sơn La người 
dân còn sử dụng nước mưa để uống. Thêm vào 
đó, người dân tại Hà Giang còn biết dùng cam 
thảo để đun với nước để uống. 
Thực phẩm mà người dân sử dụng tại địa 
phương chủ yếu là tự cung tự cấp, ngoài ra chỉ 
20% thực phẩm là có trao đổi với bên ngoài. 
Bên cạnh những lọai rau trồng trong vườn nhà 
thì có rất nhiều loại được thu hái ngoài tự nhiên, 
VIỆN KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM 
814 
có một số loại rau được sử dụng ở cả 3 tỉnh như 
rau dớn, rau chua, măng; ngoài ra ở tỉnh Hà 
Giang còn sử dụng lá rừng để làm men lá nấu 
rượu; tỉnh Lào Cai thì có nhiều loại cây thuốc sử 
dụng để tắm và chữa bệnh. 
Bảng 2. Đa dạng nguồn gốc thực phẩm tại tỉnh Hà Giang, Lào Cai, Sơn La 
Nhóm thực 
phẩm 
Hà Giang Sơn La Lào Cai 
Lúa Lúa lai 
Lúa địa phương 
Lúa lai 
Lúa địa phương 
Lúa lai 
Lúa địa phương 
Ngô Ngô lai 
Ngô địa phương 
Ngô lai 
Ngô địa phương 
Ngô lai 
Ngô địa phương 
Rau - Trồng vườn nhà: Cà chua, dưa 
chuột, đậy, bí ngô, mướp, ngải 
cứu, khoai môn, cà tím, mùng 
tơi, súp lơ, xà lách, hành, tỏi, 
- Hái từ rừng, nương: Rau sắng, 
rau dớn, rau chua, tầm bóp, 
măng, rau pao, rút rừng, rong 
rừng (rừng), củ mài, hoa chuối 
rừng, cần dại, rau má. 
- Trồng vườn nhà: Đậu Hà 
Lan, mướp đắng, rau cải 
Thái, bí ngô, su hào, đậu 
trạch, súp lơ, bắp cải, 
mướp,... 
- Hái từ rừng, nương: Măng 
các loại, khoai sọ, bò khai, 
sắng, vón vén, cỏ mần trầu, 
rau chua, rau sam, rau dớn, 
rau sắng. 
- Trồng vườn nhà: Các 
loại rau cải, ngồng su 
hào, cải mèo, khoai sọ, 
bí ngô, đậu, (nhưng 
mùa đông không trồng 
được vì lạnh). 
- Thu, hái từ rừng: 
Măng, rau dớn, mép, 
thòm bóp, rau chua, bồ 
công anh, cây sâm đất, 
vừng dân tộc, cải mèo, 
rau diếp cá, rau chân vịt, 
cây củ khởi. 
Thịt Còn thịt gà, vịt gia đình tự nuôi 
và để ăn là chính. Không có loài 
nào bắt từ rừng 
Nuôi lợn, gà, vịt, dê để ăn 
không bán. Không có loài 
nào bắt từ rừng 
Nuôi gà, lợn, vịt nhưng 
ít. Không có loài bắt từ 
rừng, nuôi để ăn là chính
Cá Cá nuôi tại ao nhà là chủ yếu. Có 
một số bắt ở sông suối, đi mua là 
rất ít. 
Cá nuôi ở ao nhà hoặc bắt ở 
suối. 
Cá không nuôi, ở địa 
phương có rất ít cá. 
Cay ăn quả - Một số quả hái trên rừng: Quả 
vải rừng, dâu da rừng, chuối 
- Vườn trồng: Chuối, dưa chuột, 
cam, mơ 
- Mua ngoài chợ: Dưa hấu, xoài, 
- Hoa quả: Trong vườn nhà 
có bưởi, xoài, nhãn trồng 
- Không đi mua, không có 
loại nào thu hái từ rừng 
- Trồng đào, lê, mận,... 
- Không mua ngoài. 
- Một số loại thu hái từ 
rừng nhưng không biết 
tên. 
Rượu - Rau: Chủ yếu làm từ lá rừng, 
có số ít làm từ men gạo. 
- Tất cả các bữa ăn hầu như đều 
có rượu và uống nhiều hơn vào 
các dịp lễ, tết, mùa đông. 
- Đa số các nhà đều nấu rượu. 
- Chủ yếu là rượu gạo: 
Không uống hàng ngày 
trong bữa ăn mà dùng nhiều 
trong các dịp lễ, tết, cưới 
hỏi. Một vài hộ nấu rượu. 
- Rượu làm từ gạo. 
Không uống thường 
xuyên trong bữa ăn, thi 
thoảng mọi người mới 
uống. Hay uống vào dịp 
Tết, lễ hội, cỗ. Trời lạnh 
uống nhiều hơn. Một vài 
hộ nấu rượu. 
Nước, trà Sử dụng nước lấy từ núi đá, nước 
mưa. Đun cây cam thảo đất với 
nước sôi để uống 
Sử dụng nước lấy từ núi đá, 
nước mưa. 
Sử dụng nước lấy từ núi 
đá. 
Kết quả tương tự cũng được Nguyễn Ý 
Đức (2007) chỉ ra, theo đó tại huyện Mai Sơn, 
tỉnh Sơn La 80% thực phẩm là tự sản xuất cũng 
như là nguồn thức ăn chính cho các hộ gia 
đình, ngoài các sản phẩm tự sản xuất (lúa, một 
số loại rau) và các loại mọc trong tự nhiên thì 
Hội thảo Quốc gia về Khoa học Cây trồng lần thứ hai 
815 
các nhóm thực phẩm có giá trị dinh dưỡng cao 
như rau ăn lá màu xanh đậm, các loại đậu, các 
loại thịt và một số loại quả là thấp. Nguồn thực 
phẩm tại địa phương nghèo nàn, đặc biệt là 
những nguồn thực phẩm cung cấp sắt cho cơ 
thể như thịt, trứng, cá, thủy sản, đậu đỗ đó 
cũng là lý do khiến số lượng trẻ em dưới 5 tuổi 
vùng núi Tây Bắc bị thiếu máu và thiếu 
vitamin A tiền lâm sản ở mức 43%, trung bình 
toàn quốc là 29,2% (Báo cáo điều tra dinh 
dưỡng, 2009-2010). 
3.3. Đa dạng khẩu phần ăn 
Qua điểu tra khẩu phần ăn trong 24h cho 
thấy khẩu phần ăn của các hộ gia đình tại 3 tỉnh 
Hà Giang, Lào Cai, Sơn La. Về thành phần bữa 
ăn không có sự khác biệt giữa 3 tỉnh. Về số 
lượng bữa ăn, cả 3 tỉnh đều có 3 bữa ăn chính 
và không có bữa phụ. Trong bữa ăn sáng 
thường có cơm, rau xanh; bữa trưa và tối được 
đánh giá là cao hơn bữa sáng, ngoài cơm và rau 
xanh thì còn có một số thực phẩm làm từ thịt, 
cá, ốc, đậu (Bảng 3). 
Bảng 3 cho thấy, thành phần bữa ăn 
không đa dạng, chủ yếu tập trung vào các 
nhóm thực phẩm chính là cơm và rau ăn lá có 
mầu xanh đậm, trong đó 100% người đân có sử 
dụng gạo (FG1) trong 24h, 94,44 % các hộ có 
sử dụng các loại rau ăn lá như rau cải, su su, bí 
ngô, bí xanh (FG4). Đối với nhóm FG4 thì 
100% hộ dân tại Lào Cai sử dụng trong bữa ăn, 
còn tại Hà Giang là 90% và Sơn La là 93,33% 
hộ dân. Các loại rau xanh này đều là do các hộ 
dân tự canh tác trong vườn nhà và trên nương 
rẫy. Bên cạnh các loại rau xanh thì các loại rau 
bản địa cũng được sử dụng (FG5), trung bình 
là 25%, trong đó có các loại măng, rau dớn, rau 
đắng, rau má. Kết quả tương tự cũng được tìm 
thấy tại Burkina Faso, theo đó lương thực có 
tới 99,9% các hộ sử dụng cho các bữa ăn của 
họ, rau ăn là 98%, rất ít các hộ có sử dụng thịt, 
cá (M Savy và cộng sự, 2006). 
Nó cũng bao gồm các nhóm thực phẩm ít 
phổ biến như thịt, thịt nội tạng, trứng, cá và hải 
sản với tần số xuất hiện không nhiều, có nhóm 
thịt (FG9) là được sử dụng nhiều hơn với 
10,56%; còn các nhóm thực phẩm FG8, FG10, 
FG11 tần suất sử dụng thấp hơn, tương ứng là 
1,11%; 5,56%; 1,67%. Một số nhóm thực 
phẩm liên quan đến gia vị như FG14, FG15, 
FG16 được sử dụng với tỷ lệ không cao, tương 
ứng 36,11%; 7,78%; 30%. 
 Bảng 3. Nhóm thực phẩm sử dụng trong 24h 
Đơn vị: % 
Nhóm thực phẩm Hà Giang Lào Cai Sơn La TB 
FG1: Ngũ cốc 100,00 100,00 100,00 100,00 
FG2: Loại rễ/củ màu trắng 5,00 3,33 1,67 3,33 
FG3: Rau củ nhiều vitamin A 5,00 6,67 3,33 5,00 
FG4: Rau ăn lá màu xanh đậm 90,00 100,00 93,33 94,44 
FG5: Loại rau khác 46,67 3,33 25,00 25,00 
FG6: Các loại quả nhiều vitamin A 6,67 0,00 0,00 2,22 
FG7: Các loại quả khác 0,00 0,00 0,00 0,00 
FG8: Nội tạng 0,00 0,00 3,33 1,11 
FG9: Thịt tươi 8,33 15,00 8,33 10,56 
FG10: Các loại trứng 5,00 6,67 3,33 5,00 
FG11: Cá và hải sản 3,33 1,67 0,00 1,67 
FG12: Cây loại đậu 13,33 16,67 6,67 12,22 
FG13: Sữa và các sản phẩm từ sữa 0,00 3,33 3,33 2,22 
FG14: Dầu ăn và chất béo 33,33 40,00 28,33 42,22 
FG15: Đồ ngọt 10,00 6,67 0,00 5,56 
FG16: Gia vị và đồ uống 33,33 40,00 20,00 49,44 
FG1-FG16: 16 nhóm thực phẩm phân loại theo FAO. 
Bảng 4 cho thấy, trung bình mỗi hộ sử 
dụng 3,60/16,00 nhóm thực phẩm trong 24h, 
thấp hơn nhiều so với tiêu chuẩn của FAO 
(8/16) về việc tiêu thụ thực phẩm sao cho đảm 
VIỆN KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM 
816 
bảo dinh dưỡng. Theo đó, trung bình các nhóm 
thực phẩm được sử dụng của Hà Giang, Lào 
Cai, Sơn La lần lượt là 3,60; 4,23 và 2,97. Điều 
đó cho thấy tại các tỉnh miền núi phía Bắc vấn 
đề dinh dưỡng vẫn chưa được quan tâm và chú 
trọng cao, người dân chưa xây dựng cho mình 
khái niệm dinh dưỡng trong bữa ăn, mà với họ 
chỉ là làm thế nào được ăn đủ 3 bữa/ngày và 
không bị đói, đặc biệt trong những tháng giáp 
hạt, giai đoạn đỉnh điểm của thiếu lương thực. 
Phản ánh bữa ăn đạm bạc của đồng bào 
các dân tộc vùng cao, đặc biệt là của các em 
học sinh nội trú được đề cập rất nhiều. Những 
cặp lồng cơm các em mang theo không thể 
đảm bảo dinh dưỡng khi chỉ có cơm trắng và 
muối vừng, nước canh. Ăn không đủ chất tăng 
nguy cơ bị suy dinh dưỡng đặc biệt ở trẻ nhỏ 
(Nguyễn Ý Đức, 2007). Kết quả khảo sát tỷ lệ 
suy dinh dưỡng thể thấp còi của trẻ em dưới 5 
tuổi theo vùng sinh thái cho thấy vùng núi và 
cao nguyên phía Bắc có 33,7% trẻ em bị suy 
dinh dưỡng, chỉ thấp hơn vùng Tây Nguyên 
(35,2%) và cao hơn tất cả các vùng trong cả 
nước như Đông Nam bộ (19,2%), Đồng bằng 
sông Hồng (25,5%), Đồng bằng sông Cửu 
Long (28,2%), Bắc miền Trung và ven biển 
miền Trung (31,4%) (Báo cáo điều tra dinh 
dưỡng, 2009-2010). 
Bảng 4. Trung bình số nhóm thực phẩm sử dụng trong 24h 
Tỉnh Trung bình số nhóm thực phẩm 
Hà Giang 3,60 
Lào Cai 4,23 
Sơn La 2,97 
Trung bình 3,60 
IV. KẾT LUẬN 
Dinh dưỡng, thực phẩm đóng vai trò 
quan trọng đối với cuộc sống, sức khỏe của con 
người. Nguồn thực phẩm được tiêu thụ tại địa 
bàn nghiên cứu chỉ đạt trung bình 3,60/16. 
Thực phẩm chủ yếu là các loại rau xanh (tự 
trồng và thu hái từ tự nhiên), một số nguồn 
thực phẩm như cá, thịt, trứng, tần suất sử 
dụng rất thấp và bắt đầu có hiện tượng suy 
giảm đa dạng sinh học tại các địa phương (suy 
giảm các giống bản địa và ngoài tự nhiên). Mỗi 
ngày, người dân có 3 bữa ăn chính và không có 
bữa phụ; thức ăn chính chỉ có cơm và rau xanh, 
ngoài ra rất ít nhà có thực phẩm giàu dinh 
dưỡng khác như thịt, cá, đậu, sữa. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, 
2014. Kết quả điều tra, rà soát hộ nghèo, 
cận nghèo năm 2014. 
2. Nguyễn Ý Đức, 2007. Dinh dưỡng và sức 
khỏe. NXB Y học. p 185-192 
3. Đỗ Văn Hàm, 2007. Dinh dưỡng và an toàn 
thực phẩm, NXB Y học, 256 
4. Tổng cục Thống kê, 2012. Kết quả số liệu 
tổng hợp về khảo sát mức sống hộ gia đình 
năm 2012. 
5. Savy M, Y Martin Prével, P Sawadogo, Y 
Kameli, and F Delpeuch, 2005. Use of 
variety/diversity scores for diet quality 
measurement: relation with nutrictional 
status of women in a rural area in Bukina 
Faso. European J. of Clinical Nutriction, 
703-716. 
Hội thảo Quốc gia về Khoa học Cây trồng lần thứ hai 
817 
ABSTRACT 
Food diversity in daily meals of ethnic minority people in some northern moutainous provinces 
 Le Thi Quyen, Vu Dang Toan 
Food diversity in daily meals is aimed to ensure the nutritional balance. The baseline survey 
was conducted for food diversity of farmers in Ha Giang, Son La and Lao Cai. Foods and foodstuff 
consumed by local people in these 3 provinces were divided into following groups: cereal (rice, corn), 
vegetables, protein (fish, meat, milk), fruit. Cereals and vegetables were used in every meal whereas 
protein supplied food and foodstuff and fruit were rarely consumed (only 10% of the total surveyed 
families). The number of meals per day was three without any snack. An average, the numbers of food 
group consumed in Ha Giang, Lao Cai, and Son La were 3.60, 4.23 and 2.97, respectively. From the 
study, low diversity of food and foodstuff used by minority peoples in daily meals was reported that is 
much lower compared to standard of 8/16 recommended by FAO. 
Keywords: Food diversity, meal, nutrition, Northern mountains 
Người phản biện: TS. Trần Danh Sửu 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 bai_viet_271_5093_2130589.pdf bai_viet_271_5093_2130589.pdf