Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Ngoại Khoa 26
CƯỜNG CẬN GIÁP NGUYÊN PHÁT: ĐẶC ĐIỂM BỆNH LÝ, 
KẾT QUẢ PHẪU THUẬT ĐIỀU TRỊ 
Hoàng Danh Tấn*, Lý Hữu Phú*, Phạm Công Khánh*, Trần Viết Thắng* 
TÓM TẮT 
Mở đầu: Cường cận giáp nguyên phát khá ít gặp, biểu hiện lâm sàng tản mạn và mơ hồ nên thường chẩn 
đoán muộn, khi đã có triệu chứng nặng hay biến chứng. Không ít trường hợp không hồi phục hoàn toàn sau điều 
trị phẫu thuật. 
Mục tiêu: Khảo sát đặc điểm bệnh lý của cường cận giáp nguyên phát. Đánh giá hiệu quả điều trị 
phẫu thuật. 
Đối tượng – phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả hàng loạt trường hợp được chẩn đoán cường cận 
giáp nguyên phát và điều trị phẫu thuật tại bệnh viện Đại học Y Dược TP Hồ Chí Minh từ 01/2015 đến 7/2017. 
Ghi nhận đặc điểm bệnh lý, đặc điểm phẫu thuật và kết quả sau mổ. 
Kết quả: 6 trường hợp, 2 nam, 4 nữ. Trên 50 tuổi 66,67%. Tất cả đều có triệu chứng ở một hoặc nhiều 
nhóm cơ quan đích. Thậm chí 3/6 (50%) trường hợp cùng lúc có biểu hiện ở nhiều nơi: thận, xương khớp, tiêu 
hóa, tâm thần kinh. Chưa ghi nhận trường hợp nào không triệu chứng (chỉ rối loạn về sinh hóa). Có 4 trường hợp 
phẫu thuật cắt tuyến cận giáp, cả 4 đều là adenoma tuyến cận giáp. Thời gian mổ trung bình 50 phút, chưa ghi 
nhận tai biến, biến chứng. Canxi máu toàn phần về mức bình thường sau 1 ngày: 4/4 trường hợp. Canxi ion hóa 
về mức bình thường sau 1 ngày: 3/4 trường hợp; sau 2 tuần 4/4 trường hợp. PTH về mức bình thường sau 1 
ngày 2/4 trường hợp; sau 2 tuần 3/4 trường hợp. Creatinine máu về mức bình thường sau 1 ngày 2/2 trường 
hợp. eGFR chỉ cải thiện, không về mức bình thường sau 1 ngày và 2 tuần: 2/2 trường hợp. 
Kết luận: Cường cận giáp nguyên phát được phát hiện ngày càng nhiều, nữ gặp nhiều hơn nam. Thường 
chẩn đoán muộn khi đã có triệu chứng nặng, biến chứng. Nguyên nhân thường gặp nhất là adenoma ở một tuyến 
cận giáp. Phẫu thuật cắt tuyến cận giáp không khó, ít tai biến biến chứng nhưng hiệu quả điều trị chưa cao do đã 
có tổn thương thực thể không hồi phục ở cơ quan đích, nhất là thận. 
Từ khóa: Cường cận giáp nguyên phát 
ABSTRACT 
PRIMARY HYPERPARATHYROIDISM: PATHOLOGICAL CHARACTERISTICS AND SURGICAL 
TREATMENT OUTCOMES 
Hoang Danh Tan, Ly Huu Phu, Pham Cong Khanh, Tran Viet Thang 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement Vol. 22 - No 1- 2018: 26- 32 
Background: Primary hyperparathyroidism is a rare disorder. It is usually diagnosed late when it has severe 
symptoms or morbidities because of transcendental clinical presentation. Incomplete recovery can occur after 
surgical treatment in some cases. 
Objectives: We studi ed the pathological characteristics of primary hyperparathyroidism and evaluated the 
surgical treatment results. 
Methods: Our study is case series report. We studied all of cases that were diagnosed primary 
* Bệnh viện Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh 
Tác giả liên lạc: BSCK2. Hoàng Danh Tấn ĐT: 0903650902 Email: 
[email protected] 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 27
hyperparathyroidism and performed surgical treatment in University Medical Center at Hochiminh city from 
January 2015 to July 2017. We evaluated the pathological characteristics, the operation characteristics and 
postoperative treatment results. 
Results: We described 6 cases who were 2 males and 4 females. The number of patients over 50 years are 
66.67%. All of the patients had symptoms of one or more than one target organs. We also identified 50% cases 
that simultaneously had the symptoms in many target organs such as kidneys, skeleton, gastrointestinal tract, 
and neurology. We had no asymptomatic case. We performed parathyroidectomy for 4 cases and pathological 
results are adenomas. The mean operation time is 50 minutes. We have no morbidity or complications. The total 
serum calcium concentrations were recovered to normal level after one day of postoperation in 4 cases. The total 
ionized calcium activity is normalized after one postoperative day in 3 operation cases. After 2 weeks, all of the 
operation cases had normal value of ionized calcium activity. PTH concentration restored to normal value after 
one postoperative day in 2 cases and after 2 weeks in 3 cases. The serum creatinin was totally recovered after one 
operative day in 2/2 cases. eGFR was improved but the normal value cannot achieve after one and 14 
postoperative days in 2/2 cases. 
Conclusions: Primary hyperparathyroidism is diagnosed more and more. It occurs more frequent in female 
than male. This disorder is usually diagnosed late when it has severe symptoms or complications. The most 
common cause is an adenoma in unilateral parathyroid gland. Parathyroidectomy is not difficult and safe but the 
efficacy of surgical treatment is not so high because the impairment of target organs are not recoverd, specially are 
kidneys. 
Keyword: primary hyperparathyroidism 
MỞ ĐẦU 
Cường cận giáp nguyên phát là một rối loạn 
nội tiết hiếm gặp nhưng được phát hiện ngày 
càng nhiều. Triệu chứng của bệnh là biểu hiện ở 
cơ quan đích, dễ nhầm lẫn với nhiều bệnh lý ở 
tạng khác nên thường chẩn đoán muộn, khi đã 
có biến chứng. Nguyên nhân thường gặp nhất là 
adenoma ở một tuyến cận giáp(4). Điều trị phẫu 
thuật là phương pháp duy nhất có hiệu 
quả(1,3,5,8,9). Thông thường, các triệu chứng do 
tăng canxi máu sẽ giảm, trừ khi đã có nhiều tổn 
thương nặng ở cơ quan đích. Làm thế nào để 
phát hiện bệnh sớm? Triệu chứng gợi ý chẩn 
đoán? Kết quả phẫu thuật điều trị hiện nay ở 
nước ta ra sao? Do bệnh hiếm gặp và khá ít 
nghiên cứu trong nước về vấn đề này nên chúng 
tôi báo cáo một số trường hợp cường cận giáp 
nguyên phát đã được chẩn đoán và phẫu thuật 
điều trị tại Bệnh viện Đại học Y Dược TPHCM 
nhằm mục tiêu: 
-Khảo sát đặc điểm bệnh lý của cường cận 
giáp nguyên phát. 
-Đánh giá hiệu quả điều trị phẫu thuật. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Nghiên cứu mô tả hàng loạt trường hợp 
được chẩn đoán cường cận giáp nguyên phát và 
điều trị phẫu thuật tại Bệnh viện Đại học Y Dược 
TP Hồ Chí Minh từ tháng 01 năm 2015 đến 
tháng 7 năm 2017. 
Ghi nhận đặc điểm bệnh lý: dịch tễ, lâm 
sàng, sinh hóa, chẩn đoán, tổn thương. 
Đặc điểm phẫu thuật và kết quả sau mổ. 
KẾT QUẢ 
Từ 1/2015 đến 7/2017, chúng tôi ghi nhận 
được 6 trường hợp cường cận giáp nguyên phát. 
Cả 6 trường hợp này đều đủ tiêu chuẩn chẩn 
đoán: PTH máu tăng, canxi máu tăng, canxi máu 
ion hóa tăng, chẩn đoán hình ảnh thấy sang 
thương ở tuyến cận giáp. Ngoài ra, còn có 2 
trường hợp cường cận giáp ở bệnh nhân suy 
thận mạn giai đoạn 4, chưa phát hiện sang 
thương ở tuyến cận giáp, các xét nghiệm sinh 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Ngoại Khoa 28
hóa chưa phân biệt được nguyên phát hay thứ 
phát chúng tôi không đưa vào nhóm nghiên cứu. 
Năm 2015 chúng tôi ghi nhận được 1 trường 
hợp, năm 2016: 1 trường hợp và 2017 là 4 trường 
hợp. Cụ thể như sau: 
Dịch tễ 
Bảng 1: Tuổi – Giới 
 Tuổi Giới Điều trị 
Trường hợp 1 44 Nam Phẫu thuật 
Trường hợp 2 41 Nữ Phẫu thuật 
Trường hợp 3 76 Nữ Phẫu thuật 
Trường hợp 4 51 Nam Phẫu thuật 
Trường hợp 5 61 Nữ Nội khoa 
Trường hợp 6 80 Nữ Nội khoa 
Có 66,67% (4/6) trường hợp > 50 tuổi. Nhỏ 
nhất 41 tuổi, lớn nhất 80 tuổi. Nữ 66,67% (4/6). 
Nam 2 trường hợp. 
Biểu hiện lâm sàng 
Biểu hiện ở thận 
Sỏi thận 4 (66,67%). Cả 4 đều sỏi thận 02 bên, 
trong đó 1 trường hợp đã phẫu thuật lấy sỏi thận 
và tán sỏi thận tái phát. 
Bệnh thận mạn 4 (66,67%). 
Tiểu nhiều 3 (50%). 
Biểu hiện xương khớp 
Đau nhức xương khớp 4 (66,67%). 
Loãng xương (T score < 2) 4 (66,67%). 
Chưa ghi nhận gãy xương bệnh lý. Tuy 
nhiên trong 2 trường hợp cường cận giáp chưa 
rõ nguyên phát hay thứ phát mà chúng tôi đưa 
ra khỏi nhóm nghiên cứu như đã nói ở trên, có 1 
trường hợp gãy xương bệnh lý. Bệnh nhân này 
91 tuổi, gãy cổ xương đùi, gãy 2 xương cẳng tay. 
Biểu hiện tim mạch 
Tăng huyết áp 4 (66,67%). 
Bệnh tim thiếu máu cục bộ 3 (50%). 
Chưa ghi nhận phì đại thất trái hay 
loạn nhịp. 
Biểu hiện tiêu hóa 
Cảm giác đầy bụng, buồn nôn 2 (33,33%). 
Táo bón 2 (33,33%). 
Viêm loét tá tràng (nội soi) 1 (16,66%). 
Biểu hiện tâm thần kinh 
Cảm giác mệt mỏi, yếu cơ 4 (66,67%). 
Chưa ghi nhận trường hợp nào lơ mơ, 
hôn mê. 
Tất cả 6 (100%) trường hợp đều có triệu 
chứng ở một hoặc nhiều nhóm cơ quan đích. 
Thậm chí 3/6 (50%) trường hợp cùng lúc có biểu 
hiện ở nhiều nơi: thận (bệnh thận mạn hoặc sỏi 
thận), xương khớp (đau nhức xương khớp hoặc 
loãng xương), tiêu hóa (đầy bụng, buồn nôn 
hoặc táo bón), tâm thần kinh (mệt mỏi hoặc yếu 
cơ). Chưa ghi nhận trường hợp nào không có 
triệu chứng lâm sàng (chỉ rối loạn sinh hóa). 
Sinh hóa máu 
Bảng 2: Sinh hóa máu 
 Canxi toàn phần 
(2,1-2,55 mmol/L) 
Canxi ion hóa 
(2,2-2,8 mEq/L) 
iPTH 
(1,48-7,63 pmol/L)
Creatinine 
(0,7-1,5 mg/dL) 
eGFR 
(≥ 60ml/ph/ 1,73m
2
) 
TH 1 2,88 3,08 22,3 1,01 61 
TH 2 3,42 3,42 15,0 2,7 22 
TH 3 4,51 4,08 25,1 2,94 23 
TH 4 2,88 3,06 16,5 0,69 68 
TH 5 3,99 3,88 15,7 2,5 35 
TH 6 9,80 3,72 122,3 2,72 20 
Chẩn đoán hình ảnh 
Cả 6 trường hợp đều được siêu âm cổ, 1 
trường hợp được chụp CT cổ. Có 5 trường hợp 
(83,33%) chẩn đoán của siêu âm là u cận giáp. 
Một trường hợp (16,66%) chẩn đoán là u giáp và 
được làm FNAc: biến đổi tế bào biểu mô tuyến 
giáp không điển hình có ý nghĩa không xác định 
(Bethesda nhóm III) chưa loại trừ u cận giáp. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 29
Trường hợp này được xạ hình tuyến cận giáp 
bằng Tc-99m Sestamibi thấy tăng bắt xạ và chậm 
đào thải (wash out), phối hợp với những bất 
thường về sinh hóa máu nên chẩn đoán là u 
tuyến cận giáp (giải phẫu bệnh sau mổ: 
adenoma tuyến cận giáp). 
Số lượng tuyến cận giáp có sang thương / 
siêu âm: một tuyến cận giáp có u là 5 trường hợp 
(83,33%). Hai tuyến cận giáp có u là 1 trường 
hợp (16,66%). Trường hợp này là bệnh nhân thứ 
6, có iPTH, canxi máu toàn phần, canxi máu ion 
hóa rất cao (bảng trên). Người bệnh lớn tuổi (80 
tuổi), suy thận mạn, tăng huyết áp, bệnh tim 
thiếu máu cục bộ, nguy cơ phẫu thuật cao nên 
chỉ điều trị nội. 
Vị trí u / siêu âm, CT: chúng tôi ghi nhận 
được 7 u tuyến cận giáp ở 6 người bệnh (1 
trường hợp có 2 u ở hai tuyến cận giáp khác 
nhau). Bên phải 6 lần gặp (tuyến cận giáp trên 2, 
tuyến cận giáp dưới 4); bên trái 1 lần gặp ở 
tuyến cận giáp dưới. Có vẻ sang thương ở bên 
phải và dưới gặp nhiều hơn. 
Kích thước u / siêu âm, CT (đường kính lớn 
nhất của u): 
Bảng 3: Kích thước u 
TH 1 TH 2 TH 3 TH 4 TH 5 TH 6 
22 mm 9 mm 20 mm 37 mm 22 mm 23 mm và 
17 mm 
Xạ hình tuyến cận giáp bằng Tc-99m Sestamibi 
Có 4 trường hợp điều trị phẫu thuật, trước 
mổ được xạ hình tuyến cận giáp. Tiêm tĩnh mạch 
20 mCi Tc-99m Sestamibi, xạ hình vùng cổ theo 
bình diện phẳng, ở mặt trước tại thời điểm 15 
phút và 120 phút sau tiêm thuốc: sang thương có 
đặc điểm tăng hấp thu phóng xạ và chậm đào 
thải theo thời gian tương ứng với vị trí u cận 
giáp trên siêu âm / CT. Hai bệnh nhân điều trị 
nội không được xạ hình Sestamibi. 
Điều trị 
Điều trị nội khoa 2 trường hợp: 1 từ chối 
phẫu thuật (trường hợp 5), 1 nguy cơ phẫu thuật 
cao (trường hợp 6). Điều trị phẫu thuật 4 trường 
hợp, chúng tôi ghi nhận chi tiết như sau. 
Đặc điểm cuộc mổ: cả 4 trường hợp đều 
phẫu thuật mở, thời gian mổ trung bình 50 phút 
(30 – 80 phút). Máu mất không đáng kể (không 
thấm ướt hết một miếng gạc nhỏ). 
Sau mổ: chưa ghi nhận tử vong. Chưa ghi 
nhận các biến chứng như tetanie, khàn giọng, 
chảy máu, nhiễm trùng vết mổ. Cả 4 trường hợp 
đều được xuất viện sau mổ 1-3 ngày và tái khám 
sau 2 tuần. 
Kết quả giải phẫu bệnh: cả 4 là adenoma 
tuyến cận giáp, chưa ghi nhận trường hợp nào 
tăng sản tuyến hay adenocarcinoma. 
Hiệu quả phẫu thuật 
Chúng tôi đánh giá hiệu quả phẫu thuật dựa 
trên những thay đổi sinh hóa máu sau mổ (SM) 
so với trước mổ (TM). Thời điểm kiểm tra là hậu 
phẫu ngày 1 và sau mổ 2 tuần lúc tái khám. 
Bảng 4: Sinh hóa máu trước và sau mổ (hậu phẫu ngày 1) 
 Canxi toàn phần 
(2,1-2,55mmol/L) 
Canxi ion hóa 
(2,2-2,8mEq/L) 
iPTH 
(1,48-7,63pmol/L) 
Creatinine 
(0,7-1,5 mg/dL) 
eGFR 
(≥ 60ml/ph/1,73m
2
) 
TM SM TM SM TM SM TM SM TM SM 
TH 1 2,88 2,05 3,08 2,39 22,3 5,00 1,01 0,97 61 67 
TH 2 3,42 1,90 3,42 2,90 15,0 3,40 2,7 1,34 22 38 
TH 3 4,51 2,30 4,08 2,28 25,1 21,00 2,94 1,49 23 40 
TH 4 2,88 2,28 3,06 2,20 16,5 10,50 0,69 0,69 68 70 
Thời điểm hậu phẫu ngày 1: cả 4 trường hợp 
đều có canxi máu toàn phần trở về mức bình 
thường; 3 trường hợp canxi ion hóa trở về mức 
bình thường, 1 trường hợp giảm đáng kể nhưng 
vẫn còn cao hơn mức bình thường (in đậm). Hai 
trường hợp iPTH trở về mức bình thường, 2 
trường hợp giảm đáng kể nhưng vẫn còn cao 
hơn mức bình thường (in đậm). Ở 2 trường hợp 
có creatinine trước mổ cao và eGFR thấp, hậu 
phẫu ngày 1 creatine trở về mức bình thường, 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Ngoại Khoa 30
còn eGFR tuy có cải thiện nhưng chưa đạt mức 
bình thường. 
Thời điểm tái khám sau mổ 2 tuần: chúng tôi 
chỉ kiểm tra các chỉ số chưa đạt mức bình thường 
ở thời điểm hậu phẫu ngày 1. Trường hợp 3, 
iPTH tương ứng trước mổ, hậu phẫu ngày 1 và 
sau mổ 2 tuần là 25,1 – 21 – 17,3 pmol/L, vẫn còn 
cao hơn mức bình thường. Trường hợp 4, iPTH 
tương ứng trước mổ, hậu phẫu ngày 1 và sau mổ 
2 tuần là 16,5 – 10,5 – 7,3 pmol/L, đã ở mức bình 
thường. Canxi ion hóa của trường hợp 3 tương 
ứng trước mổ, hậu phẫu ngày 1 và sau mổ 2 tuần 
là 3,42 – 2,9 – 2,56 mEq/L, đã ở mức bình thường. 
Trường hợp 3 và 4, dù creatinine máu đã ở mức 
bình thường nhưng eGFR không cải thiện thêm. 
BÀN LUẬN 
Cường cận giáp là tình trạng tăng tiết của 
hormon tuyến cận giáp (PTH) quá mức dẫn 
đến tăng canxi máu và giảm phosphate máu. 
Cường cận giáp có thể nguyên phát hay thứ 
phát. Trong suy thận mạn, tình trạng tăng 
phosphat máu và giảm sản xuất 1,25 - 
dihydroxycholecalciferol ở thận gây giảm 
canxi ion hóa trong máu, kích thích tuyến cận 
giáp tăng hoạt động, to ra và trở nên tự tăng 
năng gọi là cường cận giáp thứ phát. Tăng 
canxi máu do cường cận giáp nguyên phát gây 
sỏi thận, vôi hóa thận, nhiễm trùng tiểuvà 
suy thận. Như vậy suy thận có thể là hậu quả, 
cũng có thể là nguyên nhân của cường cận 
giáp. Trên thực tế, đôi khi rất khó phân biệt 
cường cận giáp nguyên phát hay thứ phát. 
Chúng tôi ghi nhận 2 trường hợp không phân 
biệt được như vậy. 
Cường cận giáp nguyên phát tuy ít gặp 
nhưng có vẻ được phát hiện ngày càng nhiều. 
Riêng trong năm 2017, chúng tôi phát hiện 4 
trường hợp. Ghi nhận này tương tự tác giả Trần 
Ngọc Hoàng(7), tại bệnh viện Chợ Rẫy từ 1/1/2012 
– 30/4/2016 có 8 trường hợp, chỉ riêng trong 2 
năm 2015-2016 có 7 trường hợp. Chúng tôi ghi 
nhận 66,67% (4/6) trường hợp > 50 tuổi, tương tự 
của các tác giả(3,5,6,7). Nữ chiếm 66,67% (4/6), cũng 
tương tự ghi nhận của các tác giả trong và ngoài 
nước(3,5,6,7). Bệnh thường gặp ở phụ nữ hơn do khi 
có thai và cho con bú gây kích thích tuyến cận 
giáp. 
Triệu chứng cường cận giáp nguyên phát 
biểu hiện gián tiếp qua các cơ quan đích. Vì 
vậy ở giai đoạn sớm, rất khó chẩn đoán do 
triệu chứng tản mạn và mơ hồ. Bệnh thường 
được phát hiện muộn khi triệu chứng đã nặng 
hay có biến chứng ở cơ quan đích. Sang 
thương ở tuyến cận giáp thường nhỏ, nằm sâu 
sau tuyến giáp nên thăm khám khó phát hiện. 
Cả 6 trường hợp của chúng tôi không có 
trường hợp nào sờ thấy u khi khám cổ. Cường 
cận giáp gây tăng canxi máu do tăng hủy 
xương nên có triệu chứng ở xương khớp. 
Chúng tôi ghi nhận 66,67% (4/6) trường hợp 
đau nhức xương khớp và loãng xương khi đo 
mật độ xương. Chúng tôi cũng ghi nhận 1 
trường hợp khác không trong nghiên cứu này 
có gãy xương bệnh lý, nhiều xương, nhiều lần. 
Điều này tương tự nhận định của các tác giả 
trong và ngoài nước(3,5,6,7). Ngoài biểu hiện ở 
xương khớp, tình trạng tăng canxi máu còn tác 
động lên nhiều tạng khác(3,5,6,7). Ở thận là sỏi 
thận, suy thận. Chúng tôi ghi nhận 66,67% 
(4/6) trường hợp có sỏi thận cả hai thận, trong 
đó 1 trường hợp đã can thiệp điều trị nhiều 
lần do tái phát sỏi. Ở tim mạch là cao huyết 
áp, phì đại thất trái, loạn nhịp, bệnh tim thiếu 
máu cục bộ, vôi hóa mạch máu. Chúng tôi ghi 
nhận 66,67% tăng huyết áp, 50% bệnh tim 
thiếu máu cục bộ. Ở hệ tiêu hóa là ăn uống 
kém, đầy hơi, buồn nôn, nôn, táo bón, viêm 
loét dạ dày tá tràng (canxi máu tăng kích thích 
tiết gastrin), thậm chí viêm tụy cấp. Chúng tôi 
ghi nhận 33,33% đầy bụng, buồn nôn; 33,33% 
táo bón và 1 trường hợp loét tá tràng. Triệu 
chứng tâm thần kinh là mệt mỏi, yếu cơ, lơ mơ 
có khi hôn mê, Chúng tôi có 4 trường hợp mệt 
mỏi, yếu cơ và chưa ghi nhận trường hợp nào 
lơ mơ, hôn mê. Cả 6 trường hợp của chúng tôi 
khi phát hiện đã ở giai đoạn muộn, có nhiều 
triệu chứng ở một hoặc nhiều nhóm cơ quan 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 31
đích. Thậm chí 3/6 (50%) trường hợp có biểu 
hiện ở nhiều nơi cùng lúc: thận (bệnh thận 
mạn hoặc sỏi thận), xương khớp (đau nhức 
xương khớp hoặc loãng xương), tiêu hóa (đầy 
bụng, buồn nôn hoặc táo bón), tâm thần kinh 
(mệt mỏi hoặc yếu cơ). Chưa ghi nhận trường 
hợp nào không có biểu hiện về lâm sàng (chỉ 
có rối loạn về sinh hóa). Ghi nhận này cũng 
tương tự nhận định của nhiều tác giả, phần 
lớn được phát hiện bệnh khi đã có biến chứng 
hoặc triệu chứng của bệnh lý nội khoa nặng đi 
kèm(2,3,4,6,7). Sỏi thận, loãng xương là những gợi 
ý của của cường cận giáp(4,5,6). Và nguy cơ sỏi 
thận, nguy cơ tái phát sỏi thận, nguy cơ loãng 
xương, gãy xương bệnh lý sẽ giảm đi nhiều 
sau phẫu thuật điều trị(5,8). 
Nguyên nhân của cường cận giáp nguyên 
phát thường gặp nhất là adenoma ở một tuyến 
cận giáp 85-90%, tăng sản tuyến 10-15%, 
adenoma nhiều tuyến cận giáp 1-2%, u ác cận 
giáp rất hiếm gặp < 1%(4). Chúng tôi ghi nhận 
cả 4/4 trường hợp được phẫu thuật là 
adenoma ở một tuyến cận giáp. Riêng trường 
hợp có 2 u ở 2 tuyến cận giáp khác nhau chỉ 
điều trị nội khoa nên không biết bản chất giải 
phẫu bệnh. Một số tác giả ghi nhận cường cận 
giáp có tính gia đình(5,2). Chúng tôi ghi nhận 
được một điều thú vị là trường hợp 6 (nữ 91 
tuổi, 2 u ở 2 tuyến cận giáp, điều trị nội) và 
trường hợp 4 (nam, 51 tuổi, điều trị phẫu 
thuật, adenoma cận giáp) là mẹ con. 
Khi đã chẩn đoán cường cận giáp nguyên 
phát, cần phải điều trị. Nếu không, bệnh diễn 
tiến nặng dần, người bệnh có thể tử vong do suy 
thận, nhiễm khuẩn hoặc tăng canxi máu đột 
ngột. Mục tiêu điều trị là đưa PTH, canxi máu 
trở về bình thường và cải thiện các triệu chứng 
khác. Phẫu thuật cắt tuyến cận giáp tăng năng là 
biện pháp duy nhất hiệu quả(1,3,5,8,9), tỷ lệ chữa 
khỏi có thể đến 95%. Chỉ định phẫu thuật nên 
được xem xét ở mọi trường hợp cường cận giáp 
nguyên phát, được khuyến cáo ở bệnh nhân có 
triệu chứng(1,3,5,8,9). Điều trị nội chỉ nên dành cho 
bệnh nhân có nhiều bệnh nội khoa nặng kèm, 
nguy cơ phẫu thuật cao(9). Như phẫu thuật tuyến 
giáp, cắt tuyến cận giáp là một cuộc mổ không 
quá phức tạp. Tai biến, biến chứng sau mổ cũng 
tương tự. Điều quan trọng là xác định đúng sang 
tương tăng năng để cắt bỏ. Có thể thử PTH ngay 
trong lúc mổ để đánh giá hiệu quả tức thời(5,8,9). 
Cả 4 trường hợp phẫu thuật của chúng tôi đều 
được xác định vị trí sang thương qua hình ảnh 
nhân nóng khi xạ hình tuyến cận giáp bằng Tc-
99m Sestamibi nên không thực hiện kiểm tra 
PTH lúc mổ. Thời gian mổ trung bình của chúng 
tôi là 50 phút, máu mất không đáng kể, chưa ghi 
nhận tai biến biến chứng sau mổ. 
Phẫu thuật thành công (cắt bỏ được tuyến 
cận giáp tăng năng) thì các triệu chứng sẽ giảm 
rõ rệt, nhất là khi chưa có tổn thương nặng, 
không hồi phục ở cơ quan đích. Hậu phẫu ngày 
1, canxi máu toàn phần ở cả 4 (100%) trường hợp 
được phẫu thuật cắt u cận giáp đều về mức bình 
thường. Canxi ion hóa thì 3 (75%) trường hợp trở 
về mức bình thường, 1 trường hợp giảm rõ rệt 
nhưng còn cao hơn mức bình thường (từ 3,42 
còn 2,90 mEq/L). Trường hợp này, canxi ion hóa 
cũng đã về mức bình thường sau mổ 2 tuần (2,56 
mEq/L). Có 2 (50%) trường hợp PTH về mức 
bình thường ngay ngày hậu phẫu 1. Hai trường 
hợp còn lại, thời điểm 2 tuần sau mổ có 1 trường 
hợp PTH về mức bình thường (trước mổ 3,42 – 
hậu phẫu ngày một 2,9 – hai tuần sau mổ 2,56 
mEq/L), 1 trường hợp tiếp tục giảm nhưng vẫn 
còn cao hơn mức bình thường (trước mổ 25,1 – 
hậu phẫu ngày một 21 – hai tuần sau mổ 17,3 
pmol/L). Ở 2 trường hợp creatinine cao và độ lọc 
cầu thận eGFR thấp thì creatinine đều về mức 
bình thường ngay ngày hậu phẫu 1. Còn eGFR 
chỉ cải thiện, không về mức bình thường được, 
kể cả sau 2 tuần. Đây là 2 trường hợp có suy thận 
mạn, tổn thương thực thể ở thận không thể hồi 
phục hoàn toàn. Ghi nhận này phù hợp với 
nhiều nghiên cứu trong và ngoài nước(5,8,9,7). 
KẾT LUẬN 
Cường cận giáp nguyên phát được phát hiện 
ngày càng nhiều. Nữ gặp nhiều hơn nam. Triệu 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Ngoại Khoa 32
chứng bệnh vay mượn của nhiều cơ quan đích 
nên tản mạn, mơ hồ. Thường chẩn đoán muộn 
khi đã có triệu chứng nặng, biến chứng. Nguyên 
nhân thường gặp nhất là adenoma ở một tuyến 
cận giáp. Phẫu thuật cắt tuyến cận giáp tăng 
năng là biện pháp điều trị duy nhất có hiệu quả. 
Cuộc mổ không khó, ít tai biến biến chứng 
nhưng hiệu quả điều trị phẫu thuật chưa cao 
như mong muốn do đã có tổn thương thực thể 
không hồi phục ở cơ quan đích, nhất là thận. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Bilezikian JP, Brandi ML, Eastell R, Silverberg SJ, Udelsman R, 
Marcocci C, and Potts JT (2014). Guidelines for the 
Management of Asymptomatic Primary 
Hyperparathyroidism: Summary Statement from the Fourth 
International Workshop. J Clin Endocrinol Metab, 99(10): 3561-
3569. 
2. Eastell R, Brandi ML, Costa AG, D’Amour P, Shoback DM 
and Thakker RV (2014). Diagnosis of Asymptomatic Primary 
Hyperparathyroidism: Proceedings of the Fourth International 
Workshop. J Clin Endocrinol Metab, 99(10): 1-10. 
3. Eigelberger MS, Cheah WK, Ituarte PH, Duh QY, Clark OH 
(2004). The NIH criteria for parathyroidectomy in 
arsymptomaticprimary hyperparathyroidism: are they too 
limited? Ann Surg, 239(4): 528-35. 
4. Elaraj DM, Clark OH. (2008). Current status and treatment of 
primary hyperthyroidism. Perm J, 12(1): 32-7. 
5. Khan et al (2017). Primary hyperparathyroidism: review and 
recommendations on evaluation, diagnosis, and management. 
A Canadian and international consensus. Osteoporos Int, 28: 1-
19. 
6. National Institutes of Health (1991). NIH conference. 
Diagnosis and management of asymptomatic primary 
hyperparathyroidism: consensus development conference 
statement. Ann intern Med, 114(7): 593-7. 
7. Trần Ngọc Hoàng, Bs Lâm Văn Hoàng (2016). Khảo sát đặc 
điểm các bệnh nhân cường cận giáp nguyên phát điều trị tại 
Khoa Nội tiết Bệnh viện Chợ Rẫy. Báo cáo hội nghị KHKT Nha 
Trang 2016. 
8. Udelsman R, Akerstrom G, Biagini C, Duh QY, Miccoli P, 
Niederle B and Tonelli F (2014). The Surgical Management of 
Asymptomatic Primary Hyperparathyroidism: Proceedings of 
the Fourth International Workshop. J Clin Endocrinol Metab, 
99(10): 3595-3606. 
9. Wilhelm SM et al (2016). The American Association of 
Endocrine Surgeons Guidelines for Definitive Management of 
Primary Hyperparathyroidism. JAMA Surg, pp. 2310. 
Ngày nhận bài báo: 30/11/2017 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 06/12/2017 
Ngày bài báo được đăng: 15/03/2018