Cơ sở lý luận và thực tiễn về công nghiệp hoá, hiện đại hoá

Tài liệu Cơ sở lý luận và thực tiễn về công nghiệp hoá, hiện đại hoá: Chương I CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ 1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CÁC MÔ HÌNH CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ Ở CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN 1.1.1. Khái niệm về công nghiệp hoá, hiện đại hoá 1.1.1.1. Các quan niệm về công nghiệp hoá Ngày nay, công nghiệp hoá, hiện đại hoá mang tính tất yếu trong quá trình phát triển kinh tế của các quốc gia. Kinh nghiệm lịch sử cho thấy công nghiệp hoá, hiện đại hoá là con đường để biến một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu thành một nền kinh tế hiện đại, mà công nghiệp có vai trò đặc biệt quan trọng. Với cách tiếp cận khác nhau thì quan niệm về công nghiệp hoá, hiện đại hoá cũng có những điểm không hoàn toàn giống nhau và tất nhiên sẽ dẫn đến những chính sách và giải pháp thực thi cũng khác nhau đối với từng nước, thậm chí đối với một quốc gia trong những thời kỳ lịch sử khác nhau. Điều đó được thể hiện khá rõ ở sự đa dạng trong việc lựa chọn mo hình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở các nước trên thế giới. Từ thực tế cho thấy, c...

docx186 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1138 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Cơ sở lý luận và thực tiễn về công nghiệp hoá, hiện đại hoá, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chương I CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ 1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CÁC MÔ HÌNH CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ Ở CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN 1.1.1. Khái niệm về công nghiệp hoá, hiện đại hoá 1.1.1.1. Các quan niệm về công nghiệp hoá Ngày nay, công nghiệp hoá, hiện đại hoá mang tính tất yếu trong quá trình phát triển kinh tế của các quốc gia. Kinh nghiệm lịch sử cho thấy công nghiệp hoá, hiện đại hoá là con đường để biến một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu thành một nền kinh tế hiện đại, mà công nghiệp có vai trò đặc biệt quan trọng. Với cách tiếp cận khác nhau thì quan niệm về công nghiệp hoá, hiện đại hoá cũng có những điểm không hoàn toàn giống nhau và tất nhiên sẽ dẫn đến những chính sách và giải pháp thực thi cũng khác nhau đối với từng nước, thậm chí đối với một quốc gia trong những thời kỳ lịch sử khác nhau. Điều đó được thể hiện khá rõ ở sự đa dạng trong việc lựa chọn mo hình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở các nước trên thế giới. Từ thực tế cho thấy, công nghiệp hoá là khái niệm mang tính lịch sử. Nó gắn liền sự xuất hiện của công nghiệp với việc thay thế lao động thủ công bằng lao động cơ khí hoá. Như vậy, khái niệm công nghiệp hoá chỉ xuất hiện từ cuộc cách mạng kỹ thuật lần thứ nhất, khởi đầu ở nước Anh vào thế kỷ 18. Đến thế kỷ 19, khái niệm này mới được làm rõ dần với quan niệm coi đó quá trình biến một lĩnh vực sản xuất nào đó, hoạt động với sự trợ giúp đắc lực và sự đóng góp lớn của hoạt động cơ khí. Do công nghiệp phát triển nhanh chóng từ đơn giản đến phức tạp với trình độ cơ khí hoá, tự động hoá ngày càng cao nên ý nghĩa của khái niệm công nghiệp hoá cũng ngày càng mở rộng ra. Vì vậy, khi có một quan niệm đúng về công nghiệp hoá sẽ ý nghĩa đối với khoa học và hoạch định chính sách trong thực tiễn. Công nghiệp hoá là quá trình rất phức tạp, bao gồm nhiều khía cạnh khó phân biệt về thời gian, về định tính hay định lượng. Do vậy, tuỳ theo cách nhìn khác nhau mà người ta có những quan niệm khác nhau về công nghiệp hoá và bản chất của nó. Quan niệm đơn giản nhất cho rằng "Công nghiệp hoá là đưa tính đặc thù công nghiệp cho một hoạt động (của một vùng, một nước) với các nhà máy, các loại hình công nghiệp" [32]. Quan niệm này được hình thành trên cơ sở khái quát quá trình lịch sử công nghiệp hoá ở các nước Tây Âu và Bắc Mỹ. Trong quá trình thực hiện công nghiệp hoá, các nước này chỉ chủ yếu tập trung vào phát triển các ngành công nghiệp, nên sự chuyển biến của các hoạt động kinh tế - xã hội khác chỉ là hệ quả của quá trình phát triển công nghiệp, mà không phải là đối tượng trực tiếp của công nghiệp hoá. Quan niệm giản đơn trên đây có những mặt chưa hợp lý. Trước hết, nó không cho thấy mục tiêu của quá trình công nghiệp hoá cần thực hiện. Thứ hai, nội dung quan niệm này gần như đồng nhất quá trình công nghiệp hoá với quá trình phát triển công nghiệp. Thứ ba, quan niệm này cũng không thể hiện được tính lịch sử của quá trình công nghiệp hoá. Do vậy, quan niệm này được vận dụng rất hạn chế trong thực tiễn. Quan niệm phổ biến ở Liên Xô trước đây cho rằng "công nghiệp hoá là quá trình xây dựng nền đại công nghiệp cơ khí có khả năng cải tạo cả nông nghiệp". Đó là sự phát triển các ngành công nghiệp nặng mà cốt lõi là ngành chế tạo cơ khí, do đó tỷ trọng công nghiệp trong tổng sản phẩm xã hội ngày càng lớn. Quan niệm trên xuất phát từ thực tiễn của Liên Xô khi triển khai công nghiệp hoá. Liên Xô đã có một số tiền để ban đầu là công nghiệp đã phát triển triển đến trình độ nhất định dưới chủ nghĩa tư bản trước đây, dù trong thời kỳ nội chiến (1918-1920) công nghiệp có bị tàn phá nặng nề. Bên cạnh đó, trong thời kỳ tiến hành công hoá (1926-1940), Liên Xô bị chủ nghĩa đế quốc bao vây toàn diện nên sự trợ giúp từ bên ngoài hầu như không có. Trong bối cảnh ấy, để tồn tại và phát triển Liên Xô phải tiến hành công nghiệp hoá với nhịp độ nhanh, phải tập trung cao độ phát triển công nghiệp nặng, phải hướng các ngành công nghiệp vào phục vụ nông nghiệp nhằm bảo đảm các nhu cầu trong nước, đồng thời góp phần tăng nhanh tiềm lực quốc phòng. Quan niệm này, nhiều năm trước đây được coi là hợp lý và được áp dụng ở một số nước XHCN và các nước đang phát triển nhằm xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ. Thực tế, việc sao chép một cách máy móc mô hình công nghiệp hoá của Liên Xô đã không đem lại kết quả như mong muốn ở những nước này. Tổ chức phát triển công nghiệp của Liên hợp quocó (UNIDO) đã đưa ra định nghĩa sau đây (vào năm 1963): "Công nghiệp hoá là một quá trình phát triển kinh tế, trong quá trình này một bộ phận ngày càng tăng các nguồn của cải quốc dân được động viên để phát triển cơ cấu kinh tế nhiều ngành ở trong nước với kỹ thuật hiện đại. Đặc điểm của cơ cấu kinh tế này là có một bộ phận chế biến luôn thay đổi để sản xuất ra những tư liệu sản xuất và hàng tiêu dùng, có khả năng bảo đảm cho toàn bộ nền kinh tế phát triển với nhịp độ cao, bảo đảm đạt tới sự tiến bộ về kinh tế - xã hội" [15]. Khái niệm này nói lên rằng công nghiệp hoá là quá trình bao trùm toàn bộ quá trình phát triển kinh tế - xã hội nhằm đạt tới không chỉ sự tăng trưởng kinh tế mà còn cả sự tiến bộ xã hội. Đồng thời quá trình công nghiệp hoá trong điều kiện ngày nay cũng gắn liền với quá trình hiện đại hoá nền kinh tế, trong mọi mặt hoạt động kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, định nghĩa trên đây lại quá dài với ý tưởng dung hoà nhiều ý kiến khác nhau, nên nó mang tính chất một phương hướng thực thi hơn là một khái niệm. Một định nghĩa được dùng phổ biến ở nước ta hiện nay có ý nghĩa tương đối bao quát và phù hợp về công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong thời đại ngày nay do Báo cáo Hội nghị Trung ương 7 (khoá VII) đưa ra là "quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính, sang sử dụng phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học - cong nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao" [81]. Định nghĩa này đã nói lên được phạm vi và vai trò đặc biệt quan trọng của công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong phát triển kinh tế - xã hội; gắn liền được hai phạm trù không thể tách rời là công nghiệp hoá và hiện đại hóa. Nó cũng xác định vai trò không thể thiếu của khoa học - công nghệ trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Từ lịch sử công nghiệp hoá trên thế giới và xem xét các quan niệm trên, theo tác giả, nội dung của kháiniệm "công nghiệp hoá" có thể bao gồm những vấn đề chính sau đây: Thứ nhất, công nghiệp hoá là một sự biến đổi cơ cấu kinh tế nhiều ngành trong nước với kỹ thuật hiện đại trong đó có sự biến đổi từ kinh tế nông nghiệp và lao động thủ công sang nền kinh tế được gọi là "công nghiệp", trước hết là công nghiệp cơ khí chế tạo. Thứ hai, quá trình chuyển từ sản xuất nhỏ thủ công có năng suất thấp và tăng trưởng chậm lên sản xuất lớn, kỹ thuật hiện đại có năng suất cao và tăng trưởng nhanh. Thứ ba, công nghiệp hoá phải được đặt trong bối cảnh phát triển kinh tế- xã hội nói chung. Đó là cách để đạt được tăng trưởng, phát triển nhanh và bền vững. Tuy công nghiệp hoá có thể phát sinh những hậu quả tiêu cực nhất định về xã hội (thất nghiệp và các hậu quả của thất nnghiệp), về môi trường (ô nhiễm) và về văn hóa (bào mòn các giá trị truyền thống), nhưng, công nghiệp hoá với cách hiểu trên vẫn luôn luôn là cách thức phát triển mà các quốc gia từ một nền kinh tế lạc hậu, chủ yếu là nông nghiệp, muốn nhanh chóng vươn lên một trình độ phát triển cao đều nhất thiết phải trải qua. Vấn đề đặt ra không phải là có nên công nghiệp hoá hay không, mà chính là tiến hành công nghiệp hoá như thế nào? hay nói một cách khác làm thế nào để thực hiện công nghiệp hoá một cách có hiệu quả. 1.1.1.2. "Công nghiệp hoá" và "hiện đại hoá" Công nghiệp hoá là quá trình trang bị công nghệ và thiết bị cơ khí hoá cho tất cả các ngành kinh tế quốc dân, trước hết là các ngành chiếm vị trí quan trọng. Công nghiệp hoá đã làm thay đổi căn bản phương thức sản xuất với kỹ thuật, công nghệ và tổ chức sản xuất truyền thống. Hiện đại hoá là quá trình thường xuyên cập nhật và nâng cấp những công nghệ hiện đại nhất, mới nhất trong quá trình công nghiệp hoá. Đa số các ý kiến của các nhà nghiên cứu cho rằng hiện đại hoá là quá trình liên tục hiện đại nền kinh tế, thay đổi công nghệ cũ bằng công nghệ mới tiên tiến hơn. Thực chất, hiện đại hoá là cái đích cần vươn tới trong quá trình công nghiệp hoá. Cái đích này không cố định hay duy nhất đối với một quốc gia hay một ngành nghề mà nó luôn thay đổi theo sự phát triển của khoa học kỹ thuật và trình độ văn minh chung của nhân loại. Nó còn phụ thuộc cả và loại ngành nghề, từng khu vực khác nhau ngay trong một nước. Xu thế chung của thế giới ngày nay là thực hiện đổi mới công nghệ nhanh chóng, rút ngắn chu kỳ sống của mỗi loại công nghệ. Điều cần phấn đấu là đưa trình độ khoa học - công nghệ của đất nước theo kịp với trình độ hiện đại chung của thế giới. Tuỳ điều kiện cụ thể của mỗi ngành, mỗi lĩnh vực hoạt động mà xác định trình độ công nghệ thích ứng. Quan niệm một cách giản đơn về công nghiệp hoá, hiện đại hoá dẫn tới việc tiếp thu công nghệ không chọn lọc. Do sự thiếu hiểu biết và thiếu thông tin đã dẫn nhiều nước đang phát triển phải trả giá quá lớn và tốc độ hiện đại hoá không được đẩy nhanh. Vào cuối thế kỷ 20, với những thay đổi nhanh chóng của cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ thì việc hiện đại hoá đối với các nước rất khó đạt được. Ngay cả những nước phát triển cũng dễ dàng bị tụt hậu. Vì vậy, các nước đi sau trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá buộc phải chia quá trình này thành nhiều giai đoạn với mục tiêu của giai đoạn sau là hiện đại hoá những gì mà giai đoạn trước đã đạt được. Đối với mỗi giai đoạn phát triển, người ta thường dùng một số chỉ tiêu nhằm đánh giá kết quả công nghiệp hoá, hiện đại hoá, ví dụ như mức đóng góp của công nghiệp trong GDP, tỷ trọng lao động trong công nghiệp trong tổng lao động xã hội… Thực hiện công nghiệp hoá trong điều kiện cách mạng khoa học kỹ thuật ngày nay, quá trình trang bị công nghệ cho các ngành phải gắn liền với quá trình hiện đại hoá ở cả phần cứng và phần mềm của công nghệ. Quá trình này cũng đồng thời là quá trình xây dựng xã hội văn minh công nghiệp và cải biến các ngành kinh tế, các hoạt động theo phong cách của nền công nghiệp lớn hiện đại. Quá trình ấy phải tác động làm cho nhịp độ tăng trưởng kinh tế - xã hội nhanh và ổn định, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của các tầng lớp dân cư, thu hẹp dần chênh lệch trình độ kinh tế - xã hội của đất nước với các nước phát triển. Trong đó những nước đi sau đã có một số ít nước (trong đó có Hàn Quốc) thực hiện được hiện đại hoá tương đối cao trong thời gian ngắn. 1.1.2. Bản chất của công nghiệp hoá, hiện đại hoá Trong điều kiện ngày nay, quan niệm về công nghiệp hoá, hiện đại hoá dù trên góc độ nào đó cũng có phần khác với quá trình phát triển công nghiệp. tuy quá trình công nghiệp hoá có những đặc điểm riêng đối với từng nước, nhưng đó chỉ là sự vận dụng một quá trình có tính phổ biến cho phù hợp với điều kiện cụ thể của từng nước. Công nghiệp hoá, là quá trình có tác động rộng lớn và phức tạp, bản chất của quá trình này bao hàm trên các mặt sau đây: · Thứ nhất, công nghiệp hoá, hiện đại hoá là một phương thức có tính chất phổ biến để thực hiện mục tiêu trong phát triển của hầu hết các quốc gia trên thế giới. Mỗi nước vì có hệ thống mục tiêu riêng của mình mà lựa chọn phương thức công nghiệp hoá phù hợp. Nhưng mục tiêu chung nhất của mọi quốc gia là nhằm tăng nhanh phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất mọi mặt của mọi tầng lớp dân cư thông qua việc tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật ngày càng hiện đại, huy động và sử dụng hiệu quả nhất các nguồn lực của đất nước. · Thứ hai, công nghiệp hoá phải gắn liền với hiện đại hoá. Trong lịch sử công nghiệp hoá đã diễn ra hàng trăm năm ở các nước trên thế giới, công nghiệp hoá và hiện đại hoá luôn có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Vì hiện đại hoá để đạt tới trình độ kỹ thuật hiện đại nhất là một yêu cầu cơ bản của quá trình công nghiệp hoá. Thực tễ kỹ thuật hiện đại nhất đối với mỗi giai đoạn lịch sử có giới hạn nhất định và luôn luôn thay đổi theo thời gian. Chính vì vậy, hiện đại hoá không phải là một quá trình độc lập mà là một hoạt động có tính liên tục của công nghiệp hoá gắn liền với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, hay là một quá trình kế tiếp để đạt được mục tiêu của công nghiệp hoá. Vào thế kỷ 18-19 ở Anh và Tây Âu thì hiện đại hoá là việc áp dụng máy móc với hệ thống động lực máy hơi nước thay thế cho lao động cơ bắp. Đến thế kỷ 20 có điện năng thì hiện đại hoá chính là dựa trên điện khí hoá như khẩu hiệu V.Lênin đã vạch ra cho nước Nga. Ngày nay, với những tiến bộ khoa học kỹ thuật mới thì hiện đại hoá gắn liền với tự động hoá, tin học hó và nền kinh tế tri thức. Nói chung, hiện đại hoá chính là chỉ phương tiện, điều kiện để đạt tới mục tiêu của quá trình công nghiệp hoá, vì vậy nó không thể tách rời công nghiệp hoá. · Thứ ba, công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình tác động đến tất cả các ngành, các lĩnh vực hoạt động của một nền kinh tế. Vì trong một chỉnh thể kinh tế của một quốc gia, các ngành các lĩnh vực hoạt động kinh tế - xã hội có quan hệ mật thiết và tác động qua lại với nhau. Sự thay đổi ở ngành, lĩnh vực này sẽ dẫn tới sự thay đổi ở các ngành, các lĩnh vực khác. Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá cũng gắn liền với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế quốc dân và cơ cấu lao động. Trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá chuyển dịch cơ cấu làm cho vị trí của ba khu vực kinh tế: công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ luôn luôn thay đổi. - Giai đoạn đầu: nông nghiệp giữ vị trí quan trọng nhất vì nó tạo ra lương thực, thực phẩm nuôi sống con người hàng ngày và những hàng hoá tiêu dùng thiết yếu nhất. Đồng thời nông nghiệp cũng tạo ra những điều kiện tiền để quan trọng ban đầu cho phát triển công nghiệp. - Đến khi nhu cầu cơ bản của người dân cư được bảo đảm thì tỷ trọng lao động nông nghiệp và giá trị sản lượng nông nghiệp trong nền kinh tế sẽ giảm đi để nhường chỗ cho sự phát triển tăng dần của khu vực công nghiệp và dịch vụ. - Công nghiệp luôn được coi là ngành mấu chốt tạo ra sự phát triển xã hội. Vì vậy, trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, công nghiệp được mọi quốc gia ưu tiên đầu tư phát triển. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá không đồng nhất với phát triển công nghiệp, nhưng không thể tiến hành quá trình này nếu không chú trọng phát triển mạnh công nghiệp. Vì vậy, vai trò, vị trí của công nghiệp trong nền kinh tế quốc dân ngày càng tăng lên trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. - Hoạt động dịch vụ cả phục vụ sản xuất và phục vụ đời sống là điều kiện không thể thiếu để phát triển kinh tế và nâng cao đời sống dân cư. Không thể công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhanh trên cơ sở hệ thống dịch vụ và kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội yếu kém. Để tạo tiền đề cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá cần chú trọng đầu tư thoả đáng phát triển dịch vụ kết cấu hạ tầng để phát triển sản xuất và thu hút nguồn lực từ bên ngoài. Trong các giai đoạn của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, vị trí của khu vực dịch vụ sẽ có sự thay đổi căn bản trong cơ cấu kinh tế quốc dân. Hiện nay ở các nước phát triển như Mỹ, Nhật, Tây Âu, khu vực dịch vụ chiếm trên 60% trong GDP [103]. · Thứ tư, công nghiệp hoá, hiện đại hoá là sự kết hợp chặt chẽ của các quá trình kinh tế - kỹ thuật - xã hội - môi trường. Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá là sẽ đe lại cho đất nước trình độ kỹ thuật công nghệ ngày càng hiện đại, kinh tế ngày càng vững mạnh. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá cũng nâng cao dân trí, mức sống dân cư và phát triển xã hội ngày càng văn minh. Như vậy, trong công nghiệp hoá, hiện đại hoá, quá trình kinh tế - kỹ thuật xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho việc thực hiện mục tiêu của quá trình kinh tế- xã hội. Trong khi đó, quá trình kinh tế - xã hội mang lại động lực quan trọng cho thực hiện mục tiêu của quá trình kinh tế - kỹ thuật. · Thứ năm, quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá còn là quá trình mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế quốc tế. Ngày nay, mở rộng phân công lao động quốc tế và xu thế toàn cầu hoá kinh tế đang diễn ra như một tất yếu. Mỗi quốc gia là một bộ phận của hệ thống kinh tế thế giới, chịu ảnh hưởng của biến động kinh tế thế giới và có tác động ở mức độ khác nhau đến kinh tế của các nước khác. Vì vậy, việc xác định mục tiêu, phương thức công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở mỗi nước cần dựa trên cơ sở phân tích và dự báo những biến động kinh tế - xã hội chung của khu vực và toàn cầu. Việc xây dựng hệ thống kinh tế quốc gia mở và tăng cường hợp tác kinh tế và phân công lao động quốc tế là xu hướng không cưỡng lại được của mọi quốc gia trên thế giới hiện nay. Để thực hiện quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá trước hết phải dựa vào các nguồn lực trong nước, nhưng tranh thủ nguồn lực bên ngoài về vốn, công nghệ và quản lý là một điều đặc biệt quan trọng. Đối với các nước đang phát triển, người ta thường lấy thuyết phát triển của Marat Tchechkov [31] để nói đến "lợi thế" của các nước đi sau so với các nước đi tiên phong trong công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đó là thừa kế kinh nghiệm, tranh thủ sự hỗ trợ về vốn, kỹ thuật và kỹ năng quản lý của các nước tiên tiến. Nhưng những lợi thế đó không phải dễ tận dụng được, chỉ rất ít nước thành công nhờ kế thừa những kinh nghiệm và sự trợ giúp từ bên ngoài. Bối cảnh kinh tế chính trị quốc tế và thực trạng của mỗi nước rất khác nhau, nên việc áp dụng kinh nghiệm nước khác phải sáng tạo phù hợp với cụ thể từng nước. Ngày nay, trong công nghiệp hoá, hiện đại hoá, trong khai thác các nguồn lực tự nhiên để phát huy lợi thế so sánh trong quan hệ kinh tế quốc tế, các nước cần kết hợp giữa việc sử dụng có hiệu quả với việc tiết kiệm, bảo tồn và tái tạo chúng. Do vậy, công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhằm đạt được mục tiêu tăng trưởng nhanh trong phát triển kinh tế, nhưng nó phải gắn với sự bền vững trong phát triển. Điều đó được hiểu trên các giác độ kinh tế - kỹ thuật - xã hội - môi trường. Từ những phân tích trên đây có thể tóm tắt: Công nghiệp hoá và hiện đại hoá gắn kết chặt chẽ trong một quá trình lịch sử tất yếu khách quan nhằm tạo nên những chuyển biến căn bản về kinh tế - xã hội của đất nước, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân trên cơ sở khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực và lợi thế đất nước, xây dựng cơ cấu kinh tế đa dạng với khu vực công nghiệp là then chốt và trình độ khoa học - công nghệ ngày càng hiện đại, đồng thời không ngừng mở rộng quan hệ hợp tác và hội nhập kinh tế quốc tế. Giữa công nghiệp hoá ở các nước đi theo con đường TBCN và ở nước ta và các nước theo con đường XHCN có những khác nhau về nhiều mặt, quan trọng nhất là về bản chất xã hội [4, tr516]. Tuy cùng mục đích là biến một nền kinh tế nông nghiệp thành nền kinh tế công nghiệp, nhưng do chế độ chính trị- xã hội nên mục tiêu của công nghiệp hoá của các nước khác nhau căn bản. Công nghiệp hoá ở các nước TBCN nhằm thay đổi và đưa đến thắng lợi của phương thức sản xuất TBCN mang lại lợi ích cho giai cấp tư sản, công nghiệp hoá ở nước ta nhằm mục tiêu nâng cao phúc lợi xã hội, đời sống mọi mặt của nhân dân giữ bền vững môi trường. Công nghiệp hoá ở các nước TBCN đem lại phương tiện ngày càng tinh vi để giai cấp tư sản bóc lột nhân dân lao động và càng gây thêm phân hoá giàu nghèo, bất bình đẳng và mâu thuẫn sâu sắc trong xã hội; còn ở nước ta nó sẽ tạo ra tiền đề cơ sở vật chất ngày càng hiện đại trong một nền kinh tế mà người chủ đích thực là nhân dân lao động, nó gắn liền với công bằng xã hội và tiến bộ xã hội. Vì vậy, công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta có thể tham khảo và vận dụng sáng tạo các kinh nghiệm về lựa chọn chiến lược, các giải pháp huy động vốn, giải pháp khoa học công nghệ, giải pháp kinh tế xã hội… của các nước đi trước nhằm mục tiêu hiện đại hoá nhanh và giữ vững bản chất xã hội của công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hưỡng XHCN. 1.1.3. Các mô hình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở các nước đang phát triển Trong lịch sử công nghiệp hoá, hiện đại hoá diễn ra trên thế giới hàng trăm năm qua có sự đa dạng về mô hình. Luận án chỉ tập trung nghiên cứu mô hình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở các nước đang phát triển trong những thập kỷ gần đây. Đó là những nước trước đây vốn là thuộc địa hoặc nửa thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc, thực dân, đã giành được độc lập dân tộc, nền kinh tế trong tình trạng thấp kém. Do điều kiện kinh tế - xã hội như vậy, các nước có những điểm tương đồng với nước ta về xuất phát điểm trong tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. 1.1.3.1. Mô hình công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu (chiến lược hướng nội) Mô hình công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu được áp dụng ở các nước đang phát triển sau chiến tranh thế giới lần thứ hai. Nó được tiến hành trong bối cảnh quốc tế đặc biệt. Hệ thống thuộc địa tan rã, các quốc gia đang phát triển lần lượt giành được độc lập về chính trị, còn về kinh tế họ vẫn bị lệ thuộc vào hệ thống kinh tế tư bản ở mức độ khác nhau. Các nước này thường phải nhập khẩu từ các nước tư bản phát triển hầu hết các mặt hàng công nghiệp, thậm chí cả lương thực, nguyên nhiên liệu. Họ cũng bị lệ thuộc cả về tài chính do phải vay nợ. Các quốc gia nghèo lúc đó cho rằng họ phải tiến hành một cuộc đấu tranh giành độc lập về kinh tế, nghĩa là xây dựng cho mình một nền kinh tế độc lập tự chủ, có khả năng tự đảm bảo lấy hầu hết các nhu cầu trong nước, ít lệ thuộc vào bên ngoài. Bên cạnh đó, các nước phương Tây tuy đã buộc phải trao trả quyền độc lập cho các nước đang phát triển, nhưng họ chưa từ bỏ ý đồ thực dân đối với các nước đó, không chịu chuyển nhượng công nghệ, không chịu mở cửa thị trường cho các nước đang phát triển và muốn kìm hãm các nước đang phát triển trong vòng lạc hậu, phụ thuộc. Trong bối cảnh quốc tế đó, mô hình công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu đã ra đời như một tất yếu lịch sử. Ở các nước đang phát triển, chiến lược thay thế nhập khẩu được thử nghiệm đầu tiên ở các nước Mỹ La tinh. Một số nước Châu Á như Ấn Độ và Thổ Nhĩ Kỳ, các nước ASEAN cũng đã bắt đầu thực hiện chiến lược này trên con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá vào thập kỷ 50-60 [36]. Mục đích xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ là động lực khiến các nước đó bước vào con đường phát triển thay thế hàng nhập khẩu. · Mục tiêu của chiến lược thay thế nhập khẩu Các nước đang phát triển trong quá trình tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo chiến lược thay thế nhập khẩu, do điều kiện kinh tế - xã hội của mình và những tác động khách quan của điều kiện kinh tế quốc tế, nên việc xác định mục tiêu cụ thể trong chiến lược này có những điểm khác nhau. Tuy vậy, về cơ bản các mục tiêu của mô hình công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu có thể được khái quát như sau: - Khai thác nguồn lực tại chỗ để đáp ứng nhu cầu cơ bản, cấp bách của thị trường trong nước; - Giảm thiểu ngoại tệ chi tiêu cho nhập hàng hoá từ nước ngoài; - Khai thác thị trường nội địa để phát triển các ngành nghề sẵn có; - Tạo nhiều việc làm, giảm bớt lạm phát và thất nghiệp. Thực chất mô hình công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu là mỗi nước cần phát triển mạnh mẽ việc sản xuất hàng tiêu dùng để thay thế các hàng hoá vẫn phải nhập khẩu từ các nước tư bản. Sự phát triển như vậy sẽ mang lại tác dụng nhiều mặt: khai thác các nguồn lực sẵn có để thoả mãn các nhu cầu cơ bản và cấp thiết trong nước, mở rộng thị trường nội địa, phát triển sản xuất hàng hoá, tạo thêm việc làm, góp phần giải quyết các vấn đề xã hội bức xúc và tiết kiệm ngoại tệ. · Chính sách và biện pháp triển khai mô hình công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu Xuất phát từ mục tiêu trên, nội dung cơ bản của chiến lược công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu nhằm xác định được tổng cầu mỗi loại hàng hoá trong nước qua phân tích và tính toán lượng hàng hoá thực tế phải nhập khẩu trước đây, dựa vào tổng số và cơ cấu dân cư, mức sống. Nhìn chung, chiến lược hướng nội lấy trọng tâm là thị trường trong nước để phát triển sản xuất và lưu thông hàng hoá. Thực tế, chiến lược này về cơ bản không đồng nghĩa với việc bế quan toả cảng" hay "đóng cửa" nền kinh tế, mà các quan hệ kinh tế đối ngoại vẫn được chú ý, đặc biệt là nhập khẩu các tư liệu sản xuất để sản xuất hàng thay thế hàng nhập khẩu hay kêu gọi đầu tư nước ngoài vào các mục tiêu thay thế nhập khẩu. Chiến lược công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu đã được thực hiện thông qua hàng loạt chính sách và biện pháp sau: * Bảo hộ sản xuất và thị trường trong nước Để trợ giúp sản xuất trong nước có thể tồn tại và phát triển, kích thích đầu tư vào các ngành thuộc mục tiêu ưu tiên, nhà nước thiết lập hàng rào bảo hộ sản xuất trong nước bằng chính sách thuế quan, bằng hàng rào phi thuế quan, bằng chính sách hạn chế nhập khẩu v.v.. để bảo vệ những ngành công nghiệp trong nước non trẻ, giữ cho những ngành công nghiệp này được đặc quyền tiêu thụ hàng hoá trên thị trường nội địa. Phong trào bài trừ hàng ngoại xuất hiện rất mạnh ở các nước trong thời kỳ thực hiện chiến lược này. * Khuyến khích phát triển các ngành công nghiệp thay thế hàng nhập khẩu Các nước đang phát triển đi từ điểm xuất phát thấp, nên phải nhập khẩu nhiều hàng công nghiệp từ các quốc gia đã công nghiệp hoá cao, đặc biệt là máy móc thiết bị. Các nước đang phát triển chỉ là nơi cung cấp nông phẩm, tài nguyên và là thị trường tiêu thụ hàng công nghiệp cho các nước phát triển. Đây là quan hệ phụ thuộc một chiều gây nhiều bất lợi cho các nước nghèo. Để giảm sự lệ thuộc này, các nước đang phát triển đã tìm cách xây dựng cho mình các ngành công nghiệp tự đáp ứng nhu cầu trong nước, thay thế dần nhập khẩu. Các nước phấn đấu dần dần hình thành một cơ cấu ngành công nghiệp hoàn chỉnh (Ấn Độ, Inđônêxia…) hoặc là tương đối hoàn chỉnh (Myanma, Malaysia…). Nhiều quốc gia đặt cho mình mục tiêu xây dựng những ngành công nghiệp thiết yếu, có thể đảm bảo được những nhu cầu cơ bản của đất nước như năng lượng, luyện kim, cơ khí, hoá chất… Họ xem những ngành công nghiệp trên đây là cơ sở đảm bảo nên độc lập tự chủ nhằm trang bị cơ sở vật chất - kỹ thuật cho nền kinh tế quốc dân và thoát khỏi sự lệ thuộc vò bên ngoài. Do vậy, nhà nước chủ trương khuyến khích các nhà sản xuất trong nước đầu tư và dần dần làm chủ được kỹ thuật sản xuất. Đồng thời còn khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài tham gia vào sản xuất hoặc cung cấp công nghệ, vốn, kỹ năng quản lý. Trong quá trình ấy, những chính sách như cố định tỷ giá đồng nội tệ thường được giữ ở mức cao để khuyến khích thay thế nhập khẩu; mức lãi suất rất thấp và bao cấp rộng rãi cho các doanh nghiệp nhà nước; nhà nước kiểm soát giá cả và thương mại, đặc biệt là ngoại thương chặt chẽ. Nhìn chung, hầu hết các nước khi theo đuổi mô hình công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu đều chú trọng nhiều đến việc xây dựng hệ thống các doanh nghiệp nhà nước. Do vậy, trong thời kỳ công nghiệp theo hướng thay thế nhập khẩu, khu vực kinh tế quốc doanh đã phát triển mạnh mẽ ở nhiều nước đang phát triển [16]. Từ thực tế các nước đang phát triển vào thập kỷ 50, 60 cho thấy, chính sách bảo hộ sản xuất và thị trường trong nước tiến triển qua ba giai đoạn: thứ nhất, bảo hộ với cường độ cao để khuyến khích sản xuất và tiêu dùng trong nước; thứ hai, giảm dần mức độ bảo hộ, yêu cầu các doanh nghiệp trong nước vươn lên hạ giá thành, nâng cao chất lượng hàng hoá; thứ ba, các doanh nghiệp trong nước khống chế được thị trường trong nước và vươn ra thâm nhập thị trường quốc tế. · Kết quả và hạn chế của mô hình công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu Việc thực hiện chiến lược thay thế nhập khẩu đã đem lại sự mở mang nhất định các cơ sở sản xuất, giải quyết công ăn việc làm, quá trình đô thị hóa bắt đầu. Chính sách khuyến khích công nghiệp trong nước có tác dụng mở rộng và tăng cường phát triển các doanh nghiệp cũng như đội ngũ doanh nhân dân tộc trong công thương nghiệp. Tuy vậy, thực tế cho thấy nếu dừng lại quá lâu ở giai đoạn chiến lược thay thế nhập khẩu sẽ vấp phải những trở ngại rất lớn. Trong xu hướng quốc tế hoá và khu vực hoá kinh tế ngày càng tăng lên dẫn đến sự liên hệ và tuỳ thuộc tất yếu giữa các quốc gia trong quá trình sản xuất và trao đổi hàng hoá. Bên cạnh đó, sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng khoa học kỹ thuật đang trở thành yếu tố quyết định đến sự tăng trưởng kinh tế và tự bản thân nó đã phá vỡ các mối quan hệ đóng cửa giữa các quốc gia. Tâm lý nóng vội chủ quan của các nước đang phát triển đã dẫn đến thực tế là việc xây dựng và phát triển những ngành công nghiệp qui mô lớn nhưng chu chuyển tư bản chậm, công suất máy móc sử dụng lãng phí trong khi lợi thế so sánh để tăng xuất khẩu không được khuyến khích. Mặt khác các chính sách trợ cấp, trợ giá tràn lan trong điều kiện dự trữ ngân sách nghèo nàn làm cho cán cân thanh toán, cán cân thương mại luôn luôn mất cân bằng. Chính sách hướng nội trong điều kiện thị trường nội địa nhỏ hẹp, khả năng tiêu dùng của đại bộ phận cư dân còn thấp, làm cho tăng trưởng chậm và thất nghiệp tăng. Thực tế ấy được biểu hiện cụ thể ở những khía cạnh sau: Thứ nhất, hầu hết việc thay thế hàng nhập khẩu đã được thực hiện bằng việc nhập khẩu nhiều tư liệu sản xuất và sản phẩm trung gian từ nước ngoài. Do vậy, xuất hiện hai kết cục: Một mặt, các ngành công nghiệp cần nhiều vốn được thiết lập, thường là phục vụ thói quen tiêu dùng của những người giàu, có rất ít tác động tạo công ăn việc làm. Thực hiện việc sản xuất thay thế nhập khẩu tuy có thể tiết kiệm được ngoại tệ trên phương diện thành phẩm, nhưng lại đòi hỏi nhập khẩu nhiều nguyên liệu và bán thành phẩm hơn để tăng cường cung ứng cho sản xuất trong nước. Mặt khác, tình hình cán cân thanh toán của các nước đang phát triển trong tình trạng không được cải thiện lại càng trở nên tồi tệ hơn do thay thế hàng nhập khẩu. Đồng thời, sản xuất thay thế nhập khẩu thu ngoại tệ, do đó không phải là kế sách lâu dài để bù vào chỗ thiếu hụt trong cán cân thương mại. Thứ hai, quá trình thay thế nhập khẩu giúp các công ty nước ngoài, họ có thể đứng sau bức tường thuế quan và tận dụng ưu đãi về đầu tư và giảm thuế. Do vậy, họ thu được nguồn lợi nhuận rất lớn. Phần còn lại thuộc về những nhà công nghiệp trong nước có hợp tác với các công ty nước ngoài. Thực tế cho thấy, xét về lợi ích quốc gia chiến lược này có nhiều bất lợi. Thứ ba, mô hình công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu có tác dụng không tốt đối với việc xuất khẩu các sản phẩm truyền thống. Để khuyến khích sản xuất trong nước qua việc nhập khẩu hàng tư liệu sản xuất và sản phẩm trung gian, nên tỷ giá hối đoái thường bị "nâng giá" giả tạo. Tác động của việc này là làm giá hàng xuất khẩu tăng và giá hàng nhập khẩu giảm theo giá đồng nội tệ. Như vậy vượt ra ngoài chủ định của chiến lược, các phương pháp sản xuất cần nhiều vốn có điều kiện phát triển và tác động tiêu cực đến khu vực sản xuất hàng sơ chế truyền thống do giá nông phẩm và nguyên liệu trong nước trở nên kém cạnh tranh trên thị trường thế giới. Như vậy, bảo hộ công nghiệp không có tác dụng khuyến khích xuất khẩu hàng nông phẩm. Các chính sách trong mô hình công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu thực tế đã làm trầm trọng thêm bất bình đẳng về phân phối thu nhập trong nước do ưu đãi khu vực thành thị và nhóm người có thu nhập cao, trong khi đó lại phân biệt đối xử đối với khu vực nông thôn và nhóm người có thu nhập thấp. Thứ tư, chiến lược thay thế hàng nhập khẩu có khi còn gây tiêu cực với công nghiệp trong nước. Nhiều ngành "công nghiệp non trẻ" chẳng bao giờ mạnh lên vì họ bằng lòng nấp đằng sau hàng rào thuế quan bảo hộ. Trong thực tế, chính phủ các nước đang phát triển thường vận hành các ngành công nghiệp được bảo hộ theo kiểu các doanh nghiệp nhà nước. Hơn nữa, bằng việc tăng chi phí đầu vào cho các ngành công nghiệp có liên hệ với bên ngoài trong tương lai và bằng việc mua sản phẩm đầu vào của mình từ các nguồn cung ứng nước ngài mà không thông qua mối quan hệ có đi có lại với các nhà cung ứng trong nước. Thực tế các doanh nghiệp sản xuất hàng thay thế nhập khẩu kém hiệu quả đã làm mất đi khả năng về quá trình công nghiệp hoá hướng nội. Vì thực hiện mô hình công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu nói chung thường được bảo hộ bằng thuế quan và tăng cường các biện pháp hành chính. Điều đó làm cho các doanh nghiệp thiếu cơ hội tìm kiếm ưu thế cạnh tranh quốc tế, ít chú trọng đổi mới công nghệ, đổi mới sản phẩm. Sản xuất kinh doanh trong điều kiện như vậy làm cho giá thành sản phẩm cao, chất lượng thấp, ảnh hưởng đến tiềm năng phát triển của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Do hạn chế về phương thức kinh doanh, về công nghệ, kỹ thuật nên hiệu quả trong đầu tư cũng thấp kém. Thực tế, các nước này vẫn phải tiếp tục nhập khẩu công nghệ, kỹ thuật, cả máy móc thiết bị từ nước ngoài. Thứ năm, mô hình công nghiệp hoá thay thế hàng nhập khẩu thực chất là nhằm vào thoả mãn nhu cầu trong nước là chính, chú trọng nhiều đến tỷ lệ tự cấp của thị trường nội địa. Với chiến lược như vậy, thương mại quốc tế không được coi trọng, không tận dụng được ảnh hưởng tích cực của kinh tế thế giới đối với sự phát triển kinh tế trong nước. Điều đó tất sẽ hạn chế việc khai thác tiềm năng của đất nước trong việc phát triển thương mại và các quan hệ kinh tế đối ngoại khác. Thứ sáu, kinh tế của các nước đang phát triển trong giai đoạn đầu công nghiệp hoá có nhiều khó khăn, tổng cầu vượt quá tổng cung, và thường thông qua nhập khẩu để cân bằng. Xu hướng này không thể khắc phục được trong thời gian ngắn, nếu hạn chế quá mức nhập khẩu. Việc thực hiện chính sách bảo hộ không thích hợp sẽ làm giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế. 1.1.3.2. Mô hình công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu (chiến lược hướng ngoại) Từ cuối thập kỷ 60, đầu thập kỷ 70 một số quốc gia đang phát triển do nhận thức sớm về vai trò tác động của kinh tế thị trường đã nhanh chóng chuyển đổi chiến lược công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Do vậy, chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu được áp dụng phổ biến ở các nước đang phát triển trong mấy thập kỷ gần đây. · Mục tiêu của chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu - Mục tiêu cơ bản của chiến lược là dựa vào đầu tư trực tiếp cũng như sự hỗ trợ về vốn, kỹ thuật bên ngoài để tạo ra khả năng cạnh tranh và đẩy nhanh xuất khẩu. Nhân tố then chốt trong toàn bộ quá trình này là chính phủ sở tại tạo những điều kiện tốt nhất để hấp dẫn đầu tư trực tiếp của tư bản nước ngoài, đồng thời tiến hành những cải cách kinh tế trong nước tạo môi trường thuận lợi cho vốn đầu tư được sử dụng có hiệu quả hơn; - Thực hiện mở cửa nền kinh tế hướng ra thị trường nước ngoài nhằm khai thác lợi thế so sánh trong trật tự phân công lao động quốc tế; - Đa dạng hoá trong sản xuất, kinh doanh trên cơ sở khai thác tối đa nguồn lực để tăng nhanh xuất khẩu; Vai trò vốn nước ngoài và các công ty ngoại quốc được nhấn mạnh hơn. Như vậy, trong thời kỳ công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu, ảnh hưởng của tư bản nước ngoài với thị trường địa phương là đáng kể. Các nước chủ nhà thực sự mở cửa tiếp cận với các lực lượng thị trường tự do cạnh tranh quốc tế. Chính tự do cạnh tranh là yếu tố quan tọng để thúc đẩy sự phát triển. Cho nên, với các chủ đầu tư thì chiến lược này thực chất là dựa vào các quan hệ kinh tế quốc tế để xây dựng những nền tảng kinh tế và các lực lượng xã hội ở các nước sở tại. Đây cũng là cơ hội thuận lợi cho các nước tiếp nhận đầu tư thu hút được vốn, công nghệ và kinh nghiệm tổ chức, quản lý, kinh doanh hiện đại nhằm tăng nhanh nhịp độ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. · Chính sách và biện pháp triển khai chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu Công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu không phải chỉ thuần tuý là xây dựng các ngành công nghiệp xuất khẩu, mà nội dung quan trọng hơn của nó là xây dựng cơ cấu công nghiệp mới theo hướng hiện đại hơn, có đủ sức chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế và thúc đẩy xuất khẩu, dựa trên cơ sở kết hợp những nhân tố thuận lợi bên ngoài với phát huy các lợi thế trong nước. Ngoại thương đã trở thành động lực quan trọng trong phát triển kinh tế tạo ra mối quan hệ chặt chẽ giữa thị trường nội địa và bên ngoài nhằm tạo ra mô hình tăng trưởng rút ngắn. * Thu hút mạnh mẽ vốn đầu tư của các công ty nước ngoài vào các ngành xuất khẩu thông qua một số chính sách Khi triển khai chiến lược hướng ngoại, các nước đều có chính sách ưu đãi, khuyến khích sự tham gia của tư bản nước ngoài vào chương trình phát triển kinh tế quốc gia. Đầu tư trực tiếp của nước ngoài được đặc biệt coi trọng. Do vậy, nhà nước đã tạo môi trường thuận lợi để thu hút nguồn đầu tư nước ngoài: - Áp dụng hệ thống thuế và quan thuế ưu đãi với các nhà đầu tư nước ngoài, gồm: (1) Miễn hoặcgiảm thuế thu nhập, thuế công ty, thuế tài sản cho những nhà đầu tư nước ngoài nếu họ tham gia những dự án đòi hỏi kỹ thuật cao hoặc khối lượng vốn lớn, những dự án được xem như là cơ bản đối với nền kinh tế quốc dân, những dự án trong nước khó có thể phát triển được và những dự án đầu tư và các khu vực mậu dịch tự do, khu chế biến xuất khẩu; (2) Cho phép các nhà đầu tư nước ngoài được quyền lựa chọn ưu đãi miễn 100% thuế trong vòng 5 năm hoặc định giá thấp đặc biệt đối với tư liệu sản xuất và tài sản cố định của các doanh nghiệp mới; (3) Cho phép các nhà đầu tư nước ngoài được miễn thuế nhập khẩu các nguyên liệu hoặc tư liệu sản xuất trong những ngành nằm trong diện ưu tiên của nhà nước; (4) Thuế kinh doanh có thể được giảm nếu các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu có vốn đầu tư lớn, có kỹ thuật cao, có khả năng thu hút nhiều nhân công và sản phẩm được xuất khẩu toàn bộ; (5) Miễn thuế(100% đối với các nền kinh tế mới châu Á) đối với các khoản dự trữ mà nhà đầu tư nước ngoài đăng ký giữ lại để đổi mới thiết bị, sửa chữa máy móc và nâng cấp hệ thống giao thông vận tải. - Khuyến khích áp dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật trong các công ty nước ngoài hoặc liên doanh với địa phương. Điều này thể hiện qua các chính sách thực tế: (1) Miễn thuế công ty cho những cơ sở sản xuất khuyến khích hoạt động nghiên cứu và triển khai (đối với các nước kinh tế mới châu Á, miễn thuế 100%), nâng cao chất lượng, kiểm soát ô nhiễm môi trường. Những khoản chi cho nghiên cứu và triển khai được tính như là số vốn giữ lại để chi phí vận hành sản xuất; (2) Đơn giản đến mức tối đa thủ tục cấp giấy phép nhập công nghệ nếu thời gian sử dụng công nghệ đó dưới một mức quy định (ví dụ ở các NICs châu Á là dưới 10 năm) và quy định mức thuê nhượng công nghệ dưới giá mức giá trị bán ra thuần tuý (ở các NICs châu Á là dưới 10%); (3) Các giấy phép nhập công nghệ nước ngoài có thể được giải quyết một cách đơn giản là báo cáo với bộ chủ quản và đảm bảo không làm sai chất lượng mà nhà nước xuất khẩu công nghệ quy định. - Nới lỏng những quy định về tỷ lệ đầu tư, hồi hương vốn và lợi nhuận, tái đầu tư, gồm: (1) Thủ tục và quy định xét duyệt đầu tư được nới lỏng theo hướng đơn giản hoá, tạo điều kiện khuyến khích tối đa việc đầu tư (ở một số nước NICs cho phép vốn của nước ngài có thể chiếm từ 50% đến 100%, thay cho việc giới hạn tỷ lệ đầu tư của nước ngoài tối đa là 50% vốn cố định tuỳ theo thứ tự ưu tiên trong ngành công nghiệp). Đối với những dự án mà vốn của nước ngoài chỉ chiếm dưới 50% thì đơn xin phép sẽ được tự động phê chuẩn ngay sau khi nộp. Dự án nào có số vốn pháp định của nước ngoài trên 50% thì cũng chỉ cần bộ chủ quản hữu quan xem xét; (2) Công bằng trong đối xử giữa các doanh nghiệp nước ngoài với các doanh nghiệp trong nước; (3) Cho phép hồi hương vốn và lợi nhuận về nước bất kỳ lúc nào. Ở các nước châu Á đã xoá bỏ quy định về thời hạn 2 năm cho việc hồi hương sau khi đầu tư; (4) Xoá bỏ những quy định hạn chế phạm vi tái đầu tư của tư bản nước ngoài, cho phép tái đầu tư không chỉ thực hiện trong khuôn khổ công ty đã có vốn gốc mà có thể đầu tư vào dự án hoàn toàn mới; (5) Nếu các chủ đầu tư muốn thay đổi những hạng mục và điều kiện đầu tư không nằm trong danh mục phải xin phép chính phủ thì chỉ cần báo cáo vắn tắt với bộ chủ quản là đủ; (6) Giảm dần danh mục các ngành công nghiệp thuộc loại cấm hoặc hạn chế đối với các nhà đầu tư nước ngoài (như ngành dịch vụ công cộng vốn thuộc địa bàn hoạt động của chính phủ nước sở tại và tư bản địa phương, hoặc những ngành gây tổn hại tới môi trường sinh thái…) - Thành lập các khu vực kinh tế đặc biệt dưới nhiều tên gọi khác nhau như đặc khu kinh tế, khu công nghiệp, khu chế xuất, khu mậu dịch tự do. Những khu này được khoanh lại trên một diện tích nhất định, trong đó tư bản nước ngoài được phép mở doanh nghiệp, đầu tư vốn một cách tự do. Họ được hưởng nhiều ưu đãi về thuế và quan thuế, các thủ tục hành chính được đơn giản hoá đến mức tối đa, hạ tầng cơ sở được bảo đảm đầy đủ… Mối quan hệ của những đặc khu này với các ngành kinh tế khác nhìn chung cho đến nay tích cực nhiều hơn là tiêu cực. Nó có ảnh hưởng lan toả và thực sự là phương tiện để các nước theo đuổi chiến lược này nhằm mở rộng hơn nữa quan hệ kinh tế đối ngoại của mình. Có thể nói sự ra đời của các đặc khu này cùng với những điều kiện ưu đãi dành cho các công ty hoạt động trong đó, chủ yếu để kích thích xuất khẩu, là yếu tố không thể thiếu được đối với bất kỳ nước chậm phát triển nào muốn dựa vào vốn bên ngoài để mở rộng đầu tư công nghiệp bên trong. Các khu công nghiệp hoặc khu chế xuất với hệ thống hạ tầng cơ sở đồng bộ là nơi lý tưởng để vốn đầu tư đem lại hiệu quả cao, nhờ đó dòng đầu tư trực tiếp chảy vào các nước tăng lên. - Thực hiện tự do hoá nhập khẩu đồng thời với cải cách tỷ giá. Những kinh nghiệm thực tế ở các nước đang phát triển mấy thập kỷ qua cho thấy các biện pháp cố gắng kiểm soát trực tiếp đối với các lực lượng thị trường đều không đem lại kết quả mong muốn. Để xác lập môi trường cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp sản xuất xuất khẩu, các nước theo đuổi mô hình công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu đã xoá bỏ những kiểm soát quá sâu về ngoại hối, tài chính, nhập khẩu. Bên cạnh đó, mở rộng khuyến khích xuất khẩu như trợ cấp, ưu đãi vốn và lãi suất đối với các cơ sở sản xuất hàng xuất khẩu, đầu tư kỹ thuật mới, đồng thời tăng cường đào tạo công nhân lành nghề cho các ngành xuất khẩu, đẩy mạnh những hoạt động tiếp thị để tìm thị trường bên ngoài cho các cơ sở xuất khẩu… Những nỗ lực này luôn luôn là vấn đề được nhà nước sở tại quan tâm. - Thu hút công nghiệp nước ngoài và phát triển khoa học - kỹ thuật phục vụ cho xuất khẩu. Thực tế kết quả của chiến lược hướng ngoại phụ thuộc rất lớn vào khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới. Giải pháp có tính chất then chốt là làm chủ được công nghệ mới để vừa hạ thấp chi phí sản xuất, vừa nâng cao chất lượng sản phẩm và tạo cơ sở chế tạo nhiều mẫu mã mới. Những lợi thế vốn có như lao động dồi dào và giá rẻ, hay nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, ngày càng mất đi lợi thế. Về vấn đề này, các nước và lãnh thổ theo đuổi mô hình công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu đã ý thức được điều đó. Do vậy, việc nắm bắt và đuổi kịp các nước phát triển cần có sự đóng góp quyết định của khoa học công nghệ. Thời kỳ đầu, ở mức độ kỹ thuật thấp và trung bình, các nước hướng về xuất khẩu chỉ thuần tuý nhập dây chuyền công nghệ của nước ngoài để lắp ráp hoặc gia công sản phẩm cho các công ty nước ngoài. Việc nghiên cứu và triển khai công nghệ được duy trì ở mức hạn chế về vốn cũng như quy mô hoạt động. Về sau này, khi họ bắt đầu đổi mới cơ cấu ngành chuyển trọng tâm từ nông nghiệp sang công nghiệp, cơ cấu thành phẩm từ dung lượng kỹ thuật thấp và lao động cao sang thành phẩm có hàm lượng vốn lớn, kỹ thuật và trình độ tay nghề cao hơn thì tất cả những nhà hoạch định chính sách đều hiểu rõ tầm quan trọng sống còn của cải tiến kỹ thuật, đổi mới công nghệ. Do vậy, các chương trình nghiên cứu và triển khai công nghệ đã trở thành mối quan tâm nhiều hơn của không chỉ nhà nước mà của cả các doanh nghiệp. Nguồn lực kỹ thuật được chuyển vò và hấp thụ thông qua chuyển giao công nghệ dưới dạng đầu tư trực tiếp, mua hoặc thuê giấy phép công nghệ, mua thiết bị toàn bộ, thuê chuyên gia nước ngoài, gửi người đi đào tạo nước ngoài. Công nghệ mới được du nhập vào các nước công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu theo ba bước: 1) Thuần tuý bắt chước, chủ yếu là lắp ráp các sản phẩm trung gian hoặc cuối cùng;2) Đuổi bắt, tiếp thu và làm chủ công nghệ như chính nước xuất khẩu công nghệ; 3) Vượt lên trên, trên cơ sở công nghệ được du nhập, các nước đầu tư vào nghiên cứu và triển khai, nâng cấp công trình hoặc sản xuất dây chuyền công nghệ mới nhằm vươn tới sản phẩm có nhiều tính năng và chất lượng không kém các nước công nghiệp phát triển. Bên cạnh một số chính sách khuyến khích thu hút đầu tư vốn nước ngoài như đã đề cập ở trên, các nước đang phát triển cũng ban hành nhiều loại thuế ưu đãi khác nhau cho việc nghiên cứu, triển khai như: miễn thuế thu nhập cho các khoản chi cho đầu tư vào phát triển nhân lực và kỹ thuật; phần lợi nhuận được công ty giữ lại cho nghiên cứu và triển khai cũng được miễn hoàn toàn thuế công ty. Bảo hộ thị trường là biện pháp đi đôi với việc thương mại hoá các kết quả nghiên cứu và triển khai giữa các cơ sở nghiên cứu với các cơ sở sản xuất quy mô vừa và nhỏ. Sau khi cơ sở sản xuất công nghệ đã đăng ký loại kỹ thuật mà họ dự kiến nghiên cứu, để hạn chế những rủi ro, chính phủ cần giảm bớt hoặc kiểm soát nghiêm ngặt nhập khẩu những kỹ thuật tương tự và phải bảo đảm hỗ trợ marketing cho cơ sở đó. Điều này có tác dụng củng cố ý chí phát triển kỹ thuật của các nhà công nghiệp trong nước. Bên cạnh những hỗ trợ về thuế, tài chính để thúc đẩy tiến bộ khoa học- kỹ thuật, vấn đề đào tạo tay nghề cho đội ngũ lao động được chính phủ cũng như các công ty tư nhân rất quan tâm. Các nước công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu đều thừa nhận rằng đầu tư trực tiếp mang vào cho nước chủ nhà công nghệ, kỹ thuật cao, đồng thời hình thành một đội ngũ lao động có chuyên môn cao. Điều đó có ý nghĩa quan trọng, bởi lẽ, nếu thiếu yếu tố này, công nghệ mới do đầu tư trực tiếp chuyển giao sẽ không thể thành công. Chính sách phát triển khoa học kỹ thuật của các nước còn thể hiện rất rõ chủ trương khai thác chất xám của các nước đi trước, quyết tâm du nhập công nghệ tiên tiến để rút ngắn khoảng cách với các nước công nghiệp phát triển. * Kết hợp giữa xuất khẩu và nhập khẩu Công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu là chiến lược đòi hỏi sự kết hợp của cả bảo hộ sản xuất trong nước với trợ cấp xuất khẩu như trợ cấp tín dụng xuất khẩu, miễn hoặc giảm thuế đối với các ngành sản xuất hàng xuất khẩu hoặc liên quan đến xuất khẩu, cho phép sử dụng những khoản thu được nhờ xuất khẩu để nhập khẩu, miễn hoặc giảm thuế nhập khẩu những hàng hoá và dịch vụ có liên quan tới xuất khẩu, tìm hiểu thị trường nước ngoài cho các nhà sản xuất hàng xuất khẩu. Trong quá trình thực hiện chiến lược công nghiệp hoá hướng ngoại, việc giải quyết tốt mối quan hệ giữa thị trường trong nước và thị trường ngoài nước có vai trò rất lớn với sự phát triển kinh tế nói chung. Vì chính sự phát triển các ngành xuất khẩu lại mở rộng thêm thị trường cho các ngành sản xuất nội địa, tăng thêm việc làm, tăng thêm thu nhập trong nước, tăng thêm nguồn ngoại tệ cho nhập khẩu công nghệ để hiện đại hoá các ngành sản xuất trong nước phục vụ nội địa. Do vậy, các nước chỉ mở rộng nhập khẩu khi nhờ đó xuất khẩu được thực hiện tốt hơn. Xu hướng chung của các nước đang phát triển gần đây là tự do hoá mậu dịch được tiến hành từ từ và thận trọng. Một mặt, nhà nước cho phép tự do hoá nhập khẩu những mặt hàng phục vụ cho hoạt động xuất khẩu, đồng thời hạn chế nhập khẩu đối với những mặt hàng phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng trong nước, đặc biệt là những hàng hoá xa xỉ. Vì vậy, trong công nghiệp hoá, hiện đại hoá thì thị trường nước ngoài và thị trường trong nước đều đóng vai trò tích cực tạo ra sự tăng trưởng kinh tế. Khi công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã đạt đến một trình độ nhất định thì vai trò của thị trường nước ngoài ngày càng tăng lên. Sự kết hợp giữa thị trường trong nước và thị trường nước ngoài ngày càng tăng lên. Sự kết hợp giữa thị trường trong nước và thị trường ngoài nước phản ánh tính quy luật của hầu hết các nước đang phát triển trong tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. * Khuyến khích các doanh nghiệp vừa và nhỏ Công nghiệp hoá theo hướng xuất khẩu ở nhiều nước đang phát triển trong mấy thập kỷ qua có sự đóng góp quan trọng của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Các loại hình doanh nghiệp này với vốn đầu tư không lớn, có những khả năng tạo ra nhiều việc làm với chi phí thấp, sản xuất kinh doanh đa dạng, dễ thích ứng với sự biến động của thị trường và những thay đổi của công nghệ. Nó có khả năng phát huy nguồn lực tại chỗ để phát triển những ngành nghề truyền thống, đồng thời góp phần cải thiện mối quan hệ giữa các khu vực kinh tế khác nhau. Do vậy, các doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ góp phần làm cho nền kinh tế năng động và hiệu quả hơn. Thời gian qua, các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở các nước đang phát triển đã thu hút được nhiều lao động, vốn đầu tư để tạo tăng trưởng kinh tế, là tầng cơ sở trong cấu trúc của nền sản xuất xã hội. Do vậy, các nước đã có nhiều chính sách hỗ trợ phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ: đơn giản hoá thủ tục cấp giấy phép, cung cấp mặt bằng cho sản xuất kinh doanh, khuyến khích thành lập các hội nghề nghiệp, các trung tâm đào tạo nhân lực, tạo điều kiện cho loại hình doanh nghiệp này hợp tác với nước ngoài. Nhìn chung, ở các nước đang phát triển, chính sách hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ chủ yếu tập trung vào thuế, vốn, đào tạo nhân lực, phổ biến công nghệ. Mấy thập kỷ qua cho thấy, quá trình thực hiện chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu được chia thành hai giai đoạn rõ rệt với sự thay đổi khá căn bản của khu vực công nghiệp trong cơ cấu kinh tế [10]. - Giai đoạn 1 là thời kỳ đạt tốc độ tăng trưởng cao nhờ xuất khẩu hàng tiêu dùng có hàm lượng lao động lớn, vốn nhỏ và kỹ thuật ở mức trung bình. Sở dĩ đạt được như vậy là vì hầu hết các nước đang phát triển có lợi thế so sánh về lao động rẻ, hơn nữa lợi thế nào phù hợp với yêu cầu phân công lao động quốc tế lúc bấy giờ. - Giai đoạn II đợc mở đầu ở mỗi nước vào thời điểm khác nhau nhưng đều có chung đặc điểm: tốc độ tăng trưởng cao tiếp tục được giữ vững nhờ xuất khẩu hàng công nghiệp có hàm lượng vốn lớn và có hàm lượng kỹ thuật cao. Đây là thời kỳ mà thị trường châu Âu và Bắc Mỹ không chỉ biết đến sản phẩm công nghiệp tiêu dùng không lâu bền do các nước phát triển sản xuất mà còn cả sản phẩm công nghiệp lâu bền và những sản phẩm cao cấp đòi hỏi trình độ công nghệ khá phức tạp. Nhìn chung, nhằm tạo ra mô hình tăng trưởng rút ngắn trong công nghiệp hoá, hiện đại hoá, một số nước đang phát triển còn áp dụng dũng những chiến lược phụ trợ khác gắn với mỗi giai đoạn cụ thể. Nếu giai đoạn I, cơ cấu công nghiệp chế tạo gồm chủ yếu các ngành công nghiệp nhẹ (dệt, chế biến thực phẩm, đồ uống, đồ hộp, lắp ráp đồ điện và điện tử…), công nghệ được tiếp thu một cách thụ động, bắt chước và đi theo sau là chủ yếu thì sang giai đoạn II đã có sự biến đổi về chất. Nhờ tiếp cận với công nghệ được chuyển giao từ các trung tâm thông qua các hình thức đầu tư trực tiếp, mua giấy phép, thuê bản quyền chế tạo, nhập công nghệ nên các công ty tư nhân địa phương đã trưởng thành chuyển từ chiến lược "theo sau - follow up" sang chiến lược "đuổi bắt" (catching up) và "vượt lên" (pass over)". Từ chỗ đuổi kịp kỹ thuật trung bình trong một số ngành sản xuất hàng tiêu dùng, các nước đang phát triển đã nắm bắt được kỹ thuật cao, tự đầu tư vào hoạt động nghiên cứu và phát triển công nghệ cao cấp thuộc nhiều ngành đại diện cho cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật hiện đại như vi tính, điện tử, máy tính điện tử, kỹ thuật sinh học, người máy, lade… Sự cải thiện kỹ thuật công nghệ các dây chuyền sản xuất đã cho phép nâng cao năng suất lao động, tạo thế cạnh tranh mạnh mẽ hơn và đem đến những bước tiến về chất trong công nghiệp chế tạo. Quá trình công nghiệp hoá nhanh sẽ thúc đẩy nhóm các nền kinh tế công nghiệp mới châu Á (NICS) không chỉ đuổi kịp mà có lĩnh vực còn vượt một số nước công nghiệp để bước sang giai đoạn "tiêu dùng cao" của đông đảo quần chúng. Mấy năm gần đây, chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu vẫn được tiếp tục thực hiện ở NICs châu Á nhưng đã có những dấu hiệu của sự kết hợp với chiến lược hướng vào bên trong. Các nước này bắt đầu kết hợp hai mô hình chiến lược để khai thác sức mua của thị trường trong nước đã được nâng cao nhằm tiếp tục phát triển công nghiệp địa phương. Như vậy, có thể thấy rõ là chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu là kế hoạch dài hạn, được tính toán đầy đủdựa trên những yêu cầu xác thực bên trong và bên ngoài để thực hiện quá trình liên kết kinh tế quốc tế giữa "ngoại vi" với "trung tâm". Lý thuyết về tự do hoá thương mại có tác dụng tốt đối với phân phối thu nhập. Do vậy, các nước nghèo có cơ hội khắc phục được tình trạng lạc hậu của mình nhờ mở rộng thương mại quốc tế. Sự thành cong của mô hình chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu là kiểm nghiệm chính xác giá trị của lý luận của chiến lược này trong đời sống thực hiện. · Kết quả và hạn chế Cho đến nay chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu về cơ bản đã đem lại nhiều thay đổi to lớn ở các nước đang phát triển. Tuy nhiên, cần phải nhấn mạnh rằng, chỉ riêng khuynh hướng ngoại không bao giờ đủ để đem lại thànhcông kinh tế của bất kỳ quốc gia đang phát triển nào. Nhưng nếu hướng ngoại là xu hướng bao trùm trong mọi ngành kinh tế quốc dân thì nó đòi hỏi một loạt những chính sách quản lý, điều tiết, nền kinh tế vĩ mô toàn diện. Hệ thống những chính sách đúng đắn, kịp thời trên thực tếđã đem lại sự ổn định và tính linh hoạt trong sản xuất. Nền kinh tế ổn định và tăng trưởng cao là cơ sở cho các quốc gia đang phát triển có thể ứng phó thành công với những biến động bên ngoài, giải quyết kịp thời những vấn đề kinh tế - xã hội bên trong. Kinh nghiệm cho thấy, nhìn chung chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu có hiệu quả hơn so với chiến lược thay thế nhập khẩu. Tuy vậy, chiến lược hướng ngoại có những hạn chế sau: Thứ nhất, do tương quan lực lượng kinh tế còn quá chậm chênh lệch giữa nền kinh tế các nước đang phát triển và các nước phát triển dẫn tới sự lệ thuộc một chiều khá sâu sắc của các nước đang phát triển. Vì vậy, điều không tránh khỏi là những ảnh hưởng từ qui luật cạnh tranh và tình trạng độc quyền mà lợi thế thường thuộc về các nước phát triển. Thứ hai, do sự lệ thuộc quá lớn vào thị trường nước ngoài, nên những chấn động của thị trường quốc tế dẫn đến tình hình xuất nhập khẩu ở các nước đang phát triển có khi trở nên tắc nghẽn hoặc không bình thường. Vì vậy, trong điều chỉnh kinh tế, việc thay đổi cơ cấu công nghiệp và nền sản xuất hàng xuất khẩu thường không dễ dàng.Việc thiên lệch một chiều chạy theo xuất khẩu mà thiếu coi trọng thích đáng đến việc tạo ra những yếu tố tự chủ bên trong của nền sản xuất xã hội cũng như của thị trường nội địa tất yếu sẽ dẫn đến mất can đối nền kinh tế do những chấn động bên ngoài. Nền kinh tế trong nước cũng dễ bị tổn thương do tác động tiêu cực của nền kinh tế thế giới. Thực tế cuộc khủng hoảng kinh tế của thế giới tư bản đã tác động mạnh đến nền kinh tế các nước đang phát triển. Thứ ba, nhu cầu đầu tư phát triển xuất khẩu tăng lên thường kéo theo tình trạng nợ nước ngoài gia tăng. Khả năng trả nợ của các nước đang phát triển nhìn chung rất khó khăn, có nước không có khả năng thanh toán nợ. Một số nước như Ấn Độ, Pakistan, Brazin… hàng năm phải dành từ 1/4 đến 1/3 giá trị xuất khẩu để trả nợ [44]. Do vậy, với các nước này sự thiếu hụt cán cân thanh toán, cán cân thương mại gây nhiều khó khăn cho nhập khẩu vật tư kỹ thuật, nguyên liệu trong công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Thứ tư, sự phụ thuộc của các nước đang phát triển còn thấy được ở các phương diện công nghệ, thị trường. Hoạt động đầu tư, khai thác của nước ngoài nhiều khi vì mục tiêu đơn thuần là lợi nhuận đã kéo theo sự tàn phá môi sinh môi trường, khai thác bừa bãi làm cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên. Thực tế cho thấy, sự lệ thuộc về kinh tế còn kéo theo những phức tạp trong đời sống chính trị - xã hội của đất nước, làm sói mòn văn hoá truyền thống dân tộc… 1.1.3.3. Mô hình công nghiệp hoá bền vững theo hướng hội nhập (chiến lược hỗn hợp) Trong bối cảnh toàn cầu hoá, khu vực hoá diễn ra mạnh mẽ dưới ảnh hưởng của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật hiện đại, nền kinh tế thế giới giống như một chỉnh thể thống nhất nhưng lại chứa đựng nhiều mâu thuẫn. Thực tế cho thấy, cạnh tranh ngày càng gay gắt trên thị trường quốc tế đòi hỏi các nước đang phát triển phải điều chỉnh chiến lược công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Xu hướng chung ngày nay nhiều nước đang quan tâm lựa chọn mô hình công nghiệp hoá bền vững theo hướng hội nhập quốc tế. · Mục tiêu của chiến lược công nghiệp hoá bền vững theo hướng hội nhập - Phát huy lợi thế so sánh của từng quốc gia trên cơ sở khai thác tối đa nguồn lực trong và ngoài nước để đạt tăng trưởng kinh tế cao; - Gắn tăng trưởng kinh tế với sự bền vững trong phát triển: vừa hướng mạnh ra thị trường thế giới, vừa coi trọng thị trường trong nước. Không để tình trạng doanh nghiệp trong nước thua trận ngay trên sân nhà; - Công nghiệp hoá không chỉ hướng về xuất khẩu mà còn theo hướng hội nhập khu vực và thế giới với việc tham gia sâu rộng vào các tổ chức kinh tế khu vực và quốc tế (APEC, WTO, NAFTA, AFTA…) · Chính sách và biện pháp triển khai chiến lược công nghiệp hoábền vững theo hướng hội nhập Nội dung cơ bản của chiến lược công nghiệp hoá bền vững theo hướng hội nhập là kết hợp hài hoà giữa hướng về xuất khẩu với thay thế nhập khẩu. Chiến lược này là vừa đẩy mạnh vươn ra thị trường quốc tế nhưng vẫn coi trọng thị trường trong nước. Trong khi tăng cường phát huy lợi thế so sánh về các mặt hàng nông sản, nguyên liệu sơ chế, sản phẩm trung gian dựa vào nguồn lao động dồi dào, đồng thời lấy các yêu cầu của thị trường quốc tế làm hướng phát triển các ngành sản xuất trong nước. Hiện nay, các nước đang phát triển muốn tăng trưởng nhanh cần có sự bổ sung những nhân tố bên ngoài để kết hợp với những nhân tố sẵn có bên trong nhằm đạt hiệu quả cao xét cả về mặt kinh tế và xã hội. Do vậy, các nước này cần: - Phát triển nông nghiệp trong nước nhằm đảm bảo lợi ích của đa số nông dân, thực hiện an toàn lương thực quốc gia, ổn định xã hội. - Thực hiện những biện pháp nhằm bảo vệ nền công nghiệp trong nước, nhất là những ngành công nghiệp non trẻ nhưng có nhiều triển vọng trong việc thu hút các nguồn tài nguyên nhân lực và vật lực của đất nước và có khả năng cạnh tranh được trên thị trường thế giới. - Chủ động, tích cực hội nhập để thực hiện tự do hoá thương mại và đầu tư. Trong quá trình ấy, tự do hoá quan hệ kinh tế đối ngoại và bảo hộ công nghiệp trong nước là hai mặt không hề đối lập nhau, mà bổ sung cho nhau. Xuất phát từ sự tồn tại song song, xen kẽ của hai chiến lược thay thế nhập khẩu và hướng về xuất khẩu ở nhiều nước đang phát triển hiện nay, tuy nhiều nước đã có thành công lớn trong sự kết hợp giữa hướng nội và hướng ngoại nhưng chưa hẳn đã là giải pháp tối ưu với tất cả các nước đang phát triển. Vì vậy, xu hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá bền vững theo hướng hội nhập quốc tế đang mở ra khả năng và triển vọng của các nước đang phát triển trong phát triển kinh tế kể cả trước mắt cũng như lâu dài. Xu hướng phát triển này vừa dựa vào các nguồn lực bên ngoài, đồng thời cũng kích thích sự phát triển các nguồn lực bên trong nhằm nâng cao tiềm lực bên trong. Trên cơ sở đó tạo ra sức bật và khả năng phát triển vững chắc từ bên trong để giảm dần phụ thuộc vào bên ngoài. Điều đó sẽ giảm dần sự phụ thuộc một chiều, tăng dần sự phụ thuộc lẫn nhau và tăng những khả năng bổ sung kinh tế cho các nước đang phát triển. Chiến lược công nghiệp hoá bền vững theo hướng hội nhập là thừa nhận tính tất yếu của chiến lược hướng về xuất khẩu và hội nhập có thay thế nhập khẩu đóng vai trò bổ sung. Đặc điểm chính của mô hình này là tăng trưởng nhanh, phát triển mạnh kinh tế đối ngoại (nhất là xuất khẩu, thu hút đầu tư nước ngoài và tận dụng ODA), cạnh tranh thành công trên thị trường quốc gia và quốc tế. Thời gian qua, một số nước đang phát triển không hoàn toàn loại bỏ chiến lược thay thế nhập khẩu để thực hiện chiến lược hướng về xuất khẩu, mà ngày càng lựa chọn những chính sách, biện pháp tích cực của mỗi chiến lược để sử dụng chung theo phương thức bổ sung cho nhau, cho phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia trong từng thời kỳ. Vì thế nhiều nước ngày càng đi theo xu hướng lựa chọn chiến lược kết hợp giữa hướng về xuất khẩu và thay thế nhập khẩu với việc hướng về xuất khẩu là trọng tâm, đóng vai trò quyết định chi phối, còn thay thế nhập khẩu luôn đóng vai trò bổ sung. Những chính sách và biện pháp thực hiện mô hình này được cả nước áp dụng gồm: · Chính sách điều chỉnh cơ cấu kinh tế theo hướng hội nhập Trong chiến lược công nghiệp hoá, hiện đại hoá bền vững theo hướng hội nhập quốc tế thì sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế diễn ra trong điều kiện khác trước vì hàng hoá, vốn, dịch vụ, lao động, công nghệ, tiền tệ sẽ được chuyển dịch tự do hầu như không có biên giới quốc gia. Như vậy, các nước đang phát triển muốn có được những ngành công nghiệp hiện đại thì nhà nước phải tạo ra được môi trường cần thiết để thu hút được những ngành này từ bên ngoài. Bên cạnh đó, thị trường của những ngành công nghiệp này là thị trường toàn cầu, việc tính toán nhu cầu của thị trường trở nên phức tạp. Đó là những yếu tố liên quan tới việc xác định cơ cấu kinh tế trong công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Do vậy, cơ cấu kinh tế theo hướng hội nhập sẽ bao gồm những ngành hướng ra thị trường quốc tế và không nhất thiết bắt đầu từ những ngành công nghiệp chế biến, sử dụng nhiều lao động mà có thể bắt đầu ngay từ những ngành có hàm lượng vốn và công nghệ cao. Cơ cấu kinh tế theo hướng hội nhập phải có tính linh hoạt cao, có khả năng thích ứng và đổi mới nhanh chóng. Một cơ cấu đông cứng, tĩnh tại là không thích hợp. Vì vậy, cùng với những biện pháp hướng mạnh về xuất khẩu, cần đồng thời thực hiện một số biện pháp thay thế nhập khẩu cần thiết để nuôi dưỡng và vực dạy các ngành công nghiệp non trẻ của đất nước, tranh thủ những cơ hội và khả năng có lợi của thị trường trong nước. Những biện pháp thay thế nhập khẩu cần được coi trọng, nhất là trong thời kỳ đầu cong nghiệp hoá, hiện đại hoá nhưng nhìn trong toàn cảnh của quá trình thì những biện pháp trên chỉ đóng vai trò bổ sung cho chiến lược hướng về xuất khẩu. Vì thế chúng chỉ mang tính chất ngắn hạn và điều chỉnh thường xuyên theo nhu cầu của thị trường và của quá trình phát triển kinh tế nhằm nâng cao tính hiệu quả, sự năng động của các ngành kinh tế, và khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Điều này sẽ khắc phục việc kéo dài tình trạng bảo hộ các ngành công nghiệp trong nước, bảo vệ sự độc quyền, làm giảm tính hiệu quả và mất tính năng động và mất khả năng cạnh tranh của công nghiệp trong nước như thực tế đã xảy ra đối với nhiều ngành công nghiệp ở một số nước đang phát triển. Nhìn chung, với các nước đang phát triển, nền kinh tế còn ở điểm xuất phát thấp thì mở cửa hội nhập quốc tế đồng thời bảo vệ thị trường trong nước để tiến tới hội nhập tốt hơn nên cơ cấu kinh tế vừa có những ngành xuất khẩu mạnh vào thị trường khu vực và toàn cầu vừa có những ngành phục vụ nhu cầu trong nước có khả năng cạnh tranh cao. * Xây dựng thể chế kinh tế thị trường và hệ thống pháp luật phù hợp với thông lệ quốc tế. Những tổ chức kinh tế quốc tế mà các nước đang phát triển tham gia đều là những tổ chức đã được thành lập từ trước gắn với những thể chế đã được thoả thuận. Do vậy, các nước đang phát triển khi thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá bền vững theo hướng hội nhập phải đổi mới thể chế của mình cho phù hợp với thông lệ quốc tế. Nhìn chung, số đông các nước đang phát triển bước đầu tiếp cận với kinh tế thị trường, một số nước mới thực hiện chuyển đổi sang kinh tế thị trường. Do vậy, nhiều chính sách về đầu tư, thương mại và cơ chế thị trường còn ở mức độ sơ khai vừa yếu, vừa thiếu lại chưa đồng bộ. Để hội nhập có hiệu quả, việc tạo lập đồng bộ cơ chế thị trường và xây dựng hệ thống luật pháp, thể chế theo thông lệ quốc tế là vấn đề cấp thiết. * Chú trọng phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá trong điều kiện hội nhập quốc tế. Nguồn lực con người (Manpower) hay nguồn nhân lực (Human resouses) là cái quyết định biến các tiềm năng của tự nhiên thành của cải phục vụ cho xã hội. Đây là nhân tố cực kỳ quan trọng quyết định sự thành bại của mô hình công nghiệp hoá, hiện đại hoá vì muốn làm chủ được quá trình này các nước đang phát triển phải có một nguồn lực được đào tạo có chất lượng cao. Đội ngũ nhân lực này bao gồm những người hiểu biết tốt hơn về công nghệ và kỹ năng quản lý, và những người có tay nghề cao. Thực tế cho thấy, không thể nói đế công nghiệp hoá, hiện đại hoá một đất nước trong thời đại khoa học kỹ thuật mà lại thiếu nguồn lực con người tương xứng. Do vậy, về chính sách của nhà nước cần: - Coi giáo dục đào tạo là phương tiện chủ yếu quyết định chất lượng của nguồn nhân lực. Chính sách giáo dục phải định hướng vào các mục tiêu kinh tế - xã hội, kỹ thuật, nhân văn, chính trị và phát triển năng lực bản thân con người. - Có những biện pháp đồng bộ trong bố trí và sử dụng hợp lý lao động, đặc biệt tạo cho con người có môi trường tự do, bình đẳng để phát huy khả năng cá nhân trong khuôn khổ pháp luật. - Kế hoạch phát triển dân số nhằm không để sự bùng nổ dân số làm triệt tiêu những thành quả của tăng trưởng kinh tế. * Chủ động và tăng cường tham gia liên kết kinh tế khu vực và thế giới Hoạt động liên kết kinh tế khu vực và tham gia các tổ chức tm quốc té ngày càng có ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển của các nước đang phát triển cả trên phương diện thương mại, đầu tư, chuyển giao công nghệ. Về hoạt động này, sẽ có hàng loạt vấn đề mà các nước đang phát triển phải tập trung giải quyết. Trước hết là việc lựa chọn các đối tác trong quan hệ hợp tác kinh tế. Vấn đề này phải được khai thác dựa vào những điểm tương đồng về lợi ích kinh tế, đồng thời hạn chế những khác biệt từ quan hệ lợi ích. Việc lựa chọn các đối tác cần phải xem xét trong các mói quan hệ lợi ích. Việc lựa chọn các đối tác cần phải xem xét trong các mối quan hệ kinh tế khu vực và quốc tế. Bên cạnh đó là việc tích cực tham gia vào các tổ chức kinh tế toàn cầu và khu vực như IMF, WB, WTO, ADB, AFTA, APEC… Trong quá trình ấy, các nước đang phát triển sẽ phải thực hiện tự do hoá thương mại và đầu tư theo lộ trình với mức độ, hình thức và thời gian phù hợp với khả năng của từng nước. Đồng thời trong hội nhập quốc tế, các nước đang phát triển cũng cần quan tâm đến việc hợp tác với các công ty xuyên quốc gia. Thực tế các công ty này đã tận dụng được lợi thế so sánh của nhiều quốc gia và do vậy có hiệu quả kinh tế cao, đang và sẽ là chủ thể kinh doanh của nền kinh tế toàn cầu. Như vậy, muốn có vốn, công nghệ mới cùng với thị trường, các nước đang phát triển không thể không hợp tác với các công ty xuyên quốc gia. Đó là cơ hội để các nước đang phát triển kết hợp sức mạnh của nguồn lực trong và ngoài nước sản xuất ra hàng hoá và dịch vụ có khả năng cạnh tranh cao trên thị trường quốc tế. Trong quá trình ấy, việc khai thác thị trường ngách ở các nước phát triển cần được coi trọng. Đặc biệt của các thị trường này là ít được nền sản xuất công nghệ cao của các nước phát triển quan tâm. Vì vậy, việc xâm nhập và thị trường ngách là khía cạnh quan trọng trong chiến lược công nghiệp hoá, hiện đại hoá của các nước đang phát triển. Thực tế, giá trị xuất khẩu của sản phẩm trên thị trường ngách không cao nhưng khối lượng lớn nên nước xuất khẩu vẫn có thể thu được nhiều lợi nhuận. Đó chính là cơ hội để mở mang thêm ngành nghề, tạo thêm việc làm mới đáp ứng mục tiêu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở các nước đang phát triển. · Thành công và hạn chế Trải qua những biến động của tình hình kinh tế khu vực và thế giới, những cái lợi và cái hại của chiến lược tăng trưởng đầu kỳ, những bước đi công nghiệp hoá, hiện đại hoá, cùng những tác động đối với xã hội và môi trường đang dẫn tới quá trình nhận thức lại các nền kinh tế đang phát triển theo một chiến lược mới. Thực tế cho thấy, chiến lược công nghiệp háo bền vững theo hướng hội nhập phần nào khắc phục những lệch lạc và thái quá trong phát triển, tạo lập một cơ chế phát triển cân đối hơn, năng động hơn với việc mở rộng liên kết quốc tế và khu vực mạnh hơn, bảo vệ môi trường tốt hơn. Trên cơ sở đó, nền kinh tế của các quốc gia sẽ khắc phục được những tác động tiêu cực trong công nghiệp hoá mà các mô hình trước phải trả giá. Tuy nhiên, khi thực hiện mô hình công nghiệp hoá bền vững theo hướng hội nhập, các nước sẽ gặp phải những khó khăn mới và cũng là thách thức trong phát triển. Thứ nhất, để đảm bảo phát triển bền vững, các nước nhiều khi phải chấp nhận giảm nhịp độ tăng trương kinh tế, trong khi phải không ngừng tăng phúc lợi xã hội và đầu tư bảo vệ môi trường. Như vậy, vấn đề việc làm, đời sống, đầu tư cho phát triển sẽ bị hạn chế. Thứ hai, nền kinh tế các nước đang phát triển còn ở điểm xuất phát thấp, việc hội nhập quốc tế bên cạnh những thuận lợi, thì chiến lược hỗn hợp sẽ gặp phải những khó khăn mới. Trong quá trình tự do hoá thương mại và tự do hóa đầu tư, nền công nghiệp non trẻ của các nước sẽ vấp phải sự cạnh tranh gay gắt hơn, cạnh tranh không không cân sắc với các doanh nghiệp đã lớn mạnh từ bên ngoài. Bên cạnh đó, còn kéo theo sự lệ thuộc nhiều hơn về vốn, công nghệ và thị trường vào các nước đang phát triển. Thực tế cho thấy, sự lệ thuộc về kinh tế nhiều khi sẽ dẫn đến lệ thuộc về chính trị, làm ảnh hưởng đến chủ quyền an ninh quốc gia. Việc lựa chọn mô hình công nghiệp hoá bền vững theo hướng hội nhập đang là vấn đề mới trong giai đoạn thử nghiệm và định hình. Điều chắc chắn trong quá trình triển khai sẽ phát sinh những hạn chế mới. Đây là những vấn đề mà các nước cần nắm bắt để điều chỉnh, khắc phục để đạt được mục tiêu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá của nước mình. 1.2. CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ Ở MỘT SỐ NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN CHÂU Á Mấy thập kỷ qua, làn sóng công nghiệp hoá, hiện đại hoá diễn ra mạnh mẽ ở các nước đang phát triển. Do xuất phát điểm khi bước vào quá trình này có khác nhau và những định hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá khác nhau nên công nghiệp hoá, hiện đại hoá có sự đa dạng về mô hình. Lịch sử đã ghi nhận những thành công và thất bại của nhiều quốc gia trong công nghiệp hoá. Trong phạm vi nghiên cứu, luận án chỉ tập trung vào quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở một số nước và vùng lãnh thổ có nền kinh tế thấp kém và có đặc điểm kinh tế - xã hội mang những nét tương đồng với nước ta như Đài Loan, Thái Lan, Malaysia… để làm rõ thêm thực tế trên. 1.2.1. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Thái Lan So với các nước đang phát triển ở châu Á như Nhật Bản hoặc các nước công nghiệp mới (Nics), Thái Lan là nước chậm trong phát triển công nghiệp. Tuy vậy, nước này đã nhận thức được tầm quan trọng của phát triển công nghiệp trong quá trình phát triển kinh tế, cũng như hiện đại hoá nền kinh tế. Tháng 10 năm 1954, Thái Lan đã công bố "Dự luật khuyến khích phát triển công nghiệp" và bắt đầu xúc tiến công nghiệp hoá với việc thành lập Ban đầu tư (BOI) năm 1959. Thực thi chính sách nghiêng về phát triển công nghiệp nhằm dùng công nghiệp hoá làm động lực phát triển toàn bộ nền kinh tế. Trong suốt những năm 60 qua 2 kế hoạch 5 năm (1961-1966), kế hoạch (1967-1971) Thái Lan nhấn mạnh vào việc phát triển công nghiệp thay thế nhập khẩu, với đặc trưng chủ yếu hướng vào thị trường trong nước. Nhà nước đã có những chính sách bảo hộ công nghiệp trong nước, khuyến khích các ngành công nghiệp sử dụng nhiều nguyên liệu và lao động trong nước. Do vậy, công nghiệp trong nước đã có khả năng cạnh tranh với hàng nhập khẩu ở các lĩnh vực: dệt, hoá chất, chế biến thực phẩm… Trong suốt thập kỷ 60, tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm đạt trên 10%. Tuy vậy, chính sách công nghiệp hoá hướng nội ở Thái Lan cũng đã bộc lộ những hạn chế. Thứ nhất, do công nghệ hạn chế, Thái Lan vẫn phải nhập máy móc thiết bị, công nghệ sản xuất và nguyên liệu thô. Điều này có nghĩa là chính sách thay thế nhập khẩu không đạt được mục đích đề ra mà chỉ làm thay đổi cơ cấu nhập khẩu. Thứ hai, chính sách thay thế nhập khẩu còn tác động đến việc sử dụng lãng phí các nguồn tài nguyên trong nước do kỹ thuật lạc hậu và trình độ quản lý kinh tế yếu kém, chi phí lao động cao, năng suất thấp. Thứ ba, thực hiện chiến lược này, nhà nước đã can thiệp quá sâu vào hoạt động của nền kinh tế và chính sách thay thế nhập khẩu làm cho công nghiệp trong nước phát triển chậm chạp, trì trệ do thiếu động lực cạnh tranh. Để khắc phục những hạn chế của chiến lược hướng nội, Thái Lan đã hoạch định lại chính sách công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Từ 1972 Thái Lan đã chuyển sang chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu. Các kế hoạch 5 năm 1972-1976, 1977-1981, 1982-1986, 1987-1990, 1991-1995 đã thực hiện điều chỉnh sự phát triển của công nghiệp nhằm tranh thủ các nhân tố thuận lợi bên ngoài kết hợp với việc sử dụng các lợi thế trong nước để đa dạng hoá trong sản xuất kinh doanh đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu. Nhà nước đã có những chính sách và biện pháp cụ thể nhằm thúc đẩy tiến trình công nghiệp hoá như khuyến khích đầu tư nước ngoài, khuyến khích đầu tư trong nước, chính sách miễn thuế đối với hàng nhập khẩu và kinh doanh nguyên vật liệu và tư liệu sản xuất nhập phục vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu. Từ cuối thập kỷ 80, Thái Lan đã lấy công nghiệp hoá chất làm trọng tâm, chú ý đa dạng hoá sản phẩm xuất khẩu, coi dầu tư nước ngoài là động lực để phát triển kinh tế. Để thực hiện chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu, Thái Lan vừa chú trọng đào tạo đội ngũ nhân lực vừa nhập khẩu công nghệ mới từ Nhật Bản và phương Tây. Thực tế cho thấy việc chuyển hướng chiến lược trong công nghiệp hoá đã mang lại những thành công đáng chú ý. Trong thập kỷ 70, tốc độ tăng trưởng GDP đạt khá cao trung bình 10%/năm, từ 1980-1990 đạt 7,6%; 1991-1995 là 8,6%. Từ 1987-1990, tốc độ tăng trưởng của công nghiệp Thái Lan bình quân là 15% [113]. Những năm đầu của thập kỷ 90, tốc độ tăng trưởng kinh tế có chững lại nhưng tốc độ tăng trưởng công nghiệp vẫn có xu hướng tăng. Ngoại thương Thái Lan có xuất khẩu tăng nhanh: 1976 đạt kim ngạch 197 triệu USD, 1996 đạt 7,096 tỷ USD. Thu nhập quốc dân của Thái Lan cũng tăng nhanh đến năm 1998 đạt bình quân đầu người 2.450 USD [91]. Trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, cơ cấu kinh tế của Thái Lan đã có sự thay đổi theo hướng tích cực tỷ trọng nông nghiệp trong nền kinh tế có xu hướng giảm dần, tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ tăng lên (như bảng 1.1). Bảng 1.1: Cơ cấu kinh tế Thái Lan (1960-1999) 1960 1970 1980 1985 1990 1999 Nông nghiệp 40 28 25 17 12 13 Công nghiệp và XD 26 32 36 41 46 40 Dịch vụ 34 40 39 42 42 47 Nguồn: World Development Report, World Bank, 1998, 1999, 2000 Sau hơn ba thập kỷ phát triển nhanh chóng, kinh tế Thái Lan đã bộc lộ những hạn chế. Đó là sự phụ thuộc quá lớn vào nguồn vốn đầu tư nước ngoài và công nghệ nhập khẩu. Trong phát triển, có tình trạng mất cân đối nghiêm trọng giữa quy mô đầu tư và khả năng tài chính. Tình trạng quá nóng của nền kinh tế, đặc biệt từ giữa thập kỷ 90, khiến nợ nước ngoài của Thái Lan gia tăng (chủ yếu là nợ ngắn hạn và trung hạn): chiếm tới 50% so với GDP (1997). Trong hoàn cảnh ấy, vai trò điều tiết, kiểm soát của hệ thống tài chính- ngân hàng trong đầu tư và cung ứng tiền tệ bộc lộ nhiều yếu kém. Đó chính là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở Thái Lan và lan rộng sang các nước Đông Nam Á và Đông Á vừa qua. Đối phó với tình hình ấy, Thái Lan buộc phải thực hiện điều chỉnh chiến lược công nghiệp hoá. 1.2.2. Công nghiệp hoá, hiện đại ở Đài Loan Công nghiệp hoá ở Đài Loan được tiến hành trong điều kiện rất khó khăn cả về điều kiện trong nước và ngoài nước, không chỉ do nguồn tài nguyên hạn hẹp, trình độ kinh tế nói chung còn thấp kém, mà còn do ảnh hưởng của bối cảnh chính trị đặc biệt của hòn đảo này. Về đối ngoại, Đài Loan không được sự công nhận rộng rãi của cộng đồng quốc tế. Thêm vào đó, Đài Loan luôn đứng trước khả năng phải đương đầu với cuộc chiến tranh giải phóng Đài Loan, thống nhất đất nước của chính phủ Cộng hoà nhân dân Trung Hoa. Điều đó càng làm cho tình hình Đài Loan bất ổn định, lòng dân không yên, công nghiệp hoá gặp thêm nhiều trở ngại. Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Đài Loan có thể chia làm 3 giai đoạn [36]: 1.2.2.1. Giai đoạn thứ nhất (1953-1964) Giai đoạn này tương ứng với 3 kế hoạch 4 năm phát triển kinh tế của Đài Loan: 1953 - 1956, 1957-1960 và 1961-1964, thực hiện chiến lược hướng nội. Mục tiêu chiến lược của Đài Loan giai đoạn này là phát triển công nghiệp nhằm đáp ứng nhu cầu cơ bản của nhân dân như ăn, mặc, ở, đi lại, học tập, giải trí… Do vậy, CNH ở giai đoạn 1953-1964, thay thế nhập khẩu được coi là nhiệm vụ trọng tâm. Trong giai đoạn này, Đài Loan một mặt chủ trương phát triển các ngành sản xuất trong nước nhằm thay thế những sản phẩm nhập khẩu trước đây; mặt khác, đưa ra một loạt các biện pháp nhằm hạn chế nhập khẩu những mặt hàng tự sản xuất được. Chính quyền Đài Loan còn áp dụng nhiều biện pháp hỗ trợ công nghiệp nội địa như miễn giảm thuế kinh doanh, cho vay với lãi suất thấp và các khoản trợ cấp khác. Nhà nước đã có một loạt các biện pháp khẩn cấp để trấn an lòng dân, ổn định kinh tế, tạo điều kiện để bước vào công nghiệp hoá. Các biện pháp chủ yếu bao gồm: Thứ nhất: chú trọng phát triển nông nghiệp. Ý thức được lợi thế vốn có của mình là nông nghiệp, Đài Loan đã tập trung cho lĩnh vực này. Biện pháp cốt lõi để phát triển nông nghiệp giai đoạn 1950-1952 là cải cách ruộng đất. Cải cách ruộng đất 1950-1952 không chỉ đem lại ruộng đất cho người nông dân mà quan trọng hơn, nó kích thích sản xuất trong nông nghiệp, tạo nguồn nguyên liệu ổn định và có tích luỹ ban đầu đầu tư cho công nghiệp hoá. Thứ hai: ổn định tài chính, kinh tế. Trong điều kiện lạm phát phi mã, không một nhà đầu tư nào dám bỏ vốn vào dự án công nghiệp. Do vậy, Đài Loan rất chú trọng ổn định tài chính. Để triển khai có hiệu quả biện pháp này, chính phủ Đài Loan đã thành lập "Uỷ ban quản lý sản xuất khu vực", thông qua cải cách tiền tệ để ngăn chặn lạm phát, tăng cường quản lý ngoại tệ, khôi phục các cơ sở công nghiệp… Thứ ba: tận dụng lợi thế địa lý - chính trị của mình trong quan hệ với Mỹ. Đài Loan rất chú trọng tranh thủ sự viện trợ và giúp đỡ của Mỹ và các nước phương Tây. Tính đến giữa năm 1951, riêng Mỹ đã cung cấp cho Đài Loan 42 triệu USD viện trợ kinh tế. Số tiền viện trợ này đã hỗ trợ rất nhiều cho chương trình cải cách ruộng đất và ổn định tài chính ở Đài Loan giai đoạn 1950-1952 [40]. Nhờ áp dụng các biện pháp tích cực nêu trên và huy động mọi nỗ lực của toàn xã hội, đến cuối năm 1952, nền kinh tế Đài Loan đã được khôi phục, đạt mức cao nhất trước chiến tranh. Những kết quả nói trên tạo thuận lợi để Đài Loan bước vào quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Chiến lược công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu với các biện pháp tích cực đã đem lại cho Đài Loan một số kết quả nhất định: giá trị sản lượng công nghiệp từ 1953 đến 1962 tăng trung bình 11,7%/năm. Công nghiệp được mở rộng đã thu hút thêm một lượng lớn lao động, từ 17% trong toàn bộ lao động đang làm việc năm 1951 tăng đến 25% năm 1964 [59]. Bước ngoặt đánh dấu sự phát triển công nghiệp của Đài Loan là giá trị sản xuất công nghiệp từ năm 1956 đã bắt đầu vượt giá trị sản xuất nông nghiệp trong GDP. Về mặt kinh tế - xã hội, chiến lược công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu cũng có tác động tích cực đến phát triển nông nghiệp và đời sống nông thôn. Ngoài việc cung cấp các sản phẩm phục vụ nông nghiệp, các ngành công nghiệp còn thu hút một lượng không nhỏ lao động dư thừa ở nông thôn, giải quyết một phần tình trạng thất nghiệp, thu hẹp khoảng cách thu nhập giữa các tầng lớp nhân dân. Tuy nhiên, chiến lược công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu kể từ đầu thập kỷ 60 cũng đã bộc lộ các mặt hạn chế của nó, sản phẩm công nghiệp của Đài Loan không có khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới, còn lại thị trường trong nước, sức mua của người dân rất hạn chế do thu nhập còn thấp. Trong khi đó, việc nhập khẩu các nguyên liệu, thiết bị cần thiết cho CNH vẫn tiếp tục tăng lên khiến thâm hụt mậu dịch, thâm hụt ngoại tệ vẫn tiếp tục tăng. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến tốc độ công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tốc độ tăng trưởng của công nghiệp bắt đầu giảm dần từ cuối thập kỷ 50, từ 20% năm 1955 xuống còn 8,9% năm 1961. Riêng tốc độ tăng trưởng của công nghiệp chế biến - một thế mạnh của Đài Loan thập kỷ 50 cũng giảm từ 14,4% năm 1960 xuống còn 8,1% năm1962. Để thoát khỏi tình thế bất lợi này và tìm kiếm con đường phát triển cho Đài Loan, chính phủ và các nhà kinh tế, giới kinh doanh của hòn đảo này đã chuyển chiến lược công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu sang công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu. 1.2.2.2. Giai đoạn thứ 2 (1963-1970) Triển khai chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu, Đài Loan đã thực hiện một bước thay đổi căn bản về chiến lược phát triển, về quy chế và quản lý kinh tế, thông qua một loạt cải cách quan trọng. Thứ nhất, áp dụng chế độ một tỷ giá hối đoái. Thứ hai, chính phủ Đài Loan áp dụng nhiều biện pháp ưu đãi đối với các doanh nghiệp sản xuất hàng phục vụ xuất khẩu. Thứ ba, ngoài các nỗ lực huy động nguồn lực bên trong, Đài Loan ban hành nhiều chính sách nhằm thu hút vốn và công nghệ từ bên ngoài. Phương châm đề ra trong giai đoạn này là: "xuất khẩu để nhập khẩu", "nhập khẩu để thúc đẩy xuất khẩu". Do đó, công nghiệp nheu và công nghiệp nặng Đài Loan đã có bước phát triển mạnh mẽ, đạt mức tăng trưởng trung bình hàng năm là 18,5%. Điều quan trọng hơn là tỷ trọng công nghiệp trong GDP tăng lên đáng kể, đạt 41,3%, nông nghiệp đã giảm tương đối, chỉ còn 15,5%. Sự phát triển nhanh chóng của công nghiệp đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của Đài Loan. GDP của Đài Loan giai đoạn này luôn tăng trung bình là 10,1%/năm [59]. 1.2.2.3. Giai đoạn thứ 3 (1974 đến nay) Giai đoạn này Đài Loan tiếp tục công nghiệp hoá, hiện đại hoá song có một bước đầu chỉnh quan trọng về cơ cấu ngành nghề, trong đó ưu tiên hàng đầu là tập trung phát triển các ngành công nghiệp cơ bản có hàm lượng vốn và kỹ thuật cao, tuy nhiên vẫn duy trì chính sách phát triển các ngành công nghiệp nhẹ hướng ra xuất khẩu. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Đài Loan giai đoạn này tập trung giải quyết những nhiệm vụ sau: - Nâng cấp, cải tiến các trang thiết bị ở các ngành công nghiệp nhẹ nhằm nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm, giảm nguyên liệu, hạ giá thành sản phẩm để tăng sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế. - Tăng cường đầu tư ra nước ngoài, đồng thời chuyển giao công nghệ, dùng nhiều lao động sang một số nước đang phát triển khác ở khu vực châu Á- Thái Bình Dương. - Tập trung nghiên cứu, triển khai và nhập khẩu những dây chuyền công nghệ mới, đầu tư cho những ngành công nghiệp mới có triển vọng sáng sủa hơn, trong đó có các ngành tiêu biểu cho cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật hiện đại như vi điện tử, máy tính, bán dẫn… - Đẩy mạnh xây dựng các công trình công cộng và xí nghiệp công nghiệp có quy mô lớn. Nhờ sự chuyển hướng kịp thời, trong các kế hoạch 4 năm ở giai đoạn này: kế hoạch 4 năm lần thứ 6 (1973-1976), lần thứ 7 (1977-1980), lần thứ 8 (1981-1984), kế hoạch 6 năm (1985-1990) và kế hoạch 6 năm (1991-1996) kinh tế Đài Loan không những giữ được tốc độ tăng trưởng cao, công nghiệp phát triển theo hướng hiện đại hoá với các sản phẩm có hàm lượng khoa học cao. Trong vòng 17 năm (1973-1990), sản xuất công nghiệp của Đài Loan vẫn tăng trung bình là 8,5%/năm, trong đó công nghiệp chế biến tăng gần 9%. Tỷ trọng hàng xuất khẩu có hàm lượng khoa học cao ngày càng tăng. Nếu năm 1976 loại hàng hoá này mới chỉ chiếm gần 11% tổng kim ngạch xuất khẩu thì có bước thay đổi căn bản. Trong giai đoạn 1991-1996, tăng trưởng công nghiệp Đài Loan đạt 9,9%/năm [85], công nghệ thông tin với những sản phẩm xuất khẩu năm 1994 xếp thứ 4 sau Mỹ, Nhật, Đức; công nghiệp đóng tàu vận tải đứng thứ 5 thế giới… Nhìn chung, sau gần 5 thập kỷ kể từ năm 1953, Đài Loan đã khôi phục kinh tế sau chiến tranh và quá trình CNH đã cơ bản hoàn thành các mục tiêu đặt ra. Quá trình CNH thành công tạo điều kiện cho Đài Loan giải quyết tốt các vấn đề xã hội, trong đó có việc nâng cao mức sống của người dân, thu hẹp khoảng cách giàu nghèo. Tất cả các thành tựu đạt được của Đài Loan đã tạo tiền đề cho sự đầu tư phát triển theo chiều sâu, để tiếp tục phát triển trong thiên niên kỷ mới. Tuy vậy, công nghiệp hoá, hiện đại hoá Đài Loan cũng bộc lộ không ít yếu kém. Sự can thiệp quá nhiều của chính phủ đã tạo ra một khu vực tài chính khá lạc hậu và một nền công nghiệp thiếu các doanh nghiệp qui mô lớn có khả năng cạnh tranh quốc tế. Trong xu thế toàn cầu hoá và tự do hoá thương mại quốc tế thì việc cải tổ cơ cấu kinh tế, tiếp tục hiện đại hoá nền kinh tế đặt ra nhiều vấn đề mà Đài Loan cần giải quyết. Thực tế cho thấy, một số lợi thế phát triển mà Đài Loan có được trước đây đến nay đã giảm, việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế có sự hẫng hụt về vấn đề công nghệ, kỹ thuật và nguồn nhân lực trong phát triển công nghệ cao. Đài Loan vốn có truyền thống tập trung vào công nghiệp chế tạo, chưa chú trọng nhiều đến dịch vụ và nghiên cứu triển khai. Hiện nay Đài Loan chi tiêu khoảng 1,8% GDP cho nghiên cứu triển khai, thấp hơn nhiều so với tỷ trọng tương ứng của nền kinh tế tiên tiến. Điều đó cho thấy, Đài Loan cần đầu tư nhiều hơn cho phát triển công nghệ và nghiên cứu triển khai muốn duy trì sức mạnh cho nền kinh tế dựa trên tri thức mới. 1.2.3. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Malaysia Khi mới giành được độc lập, nền kinh tế Malaysia ở trong tình trạng thấp kém. Cơ cấu kinh tế rất mất cân đối, nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn, năm 1960 nông nghiệp chiếm 34,6% GP. Nông nghiệp trong tình trạng độc canh, trồng trọt chủ yếu là cây cao su nên Malaysia vẫn phải nhập khẩu lương thực (năm 1961 phải nhập 2/3 lượng lương thực tiêu dùng trong nước). Công nghiệp còn rất nhỏ bé, sản lượng công nghiệp chế tạo năm 1961 chỉ chiếm 8,5% GNP, công nghiệp khai thác chiếm 5,9% GNP [42]. Giữa khu vực công nghiệp và nông nghiệp hầu như không có quan hệ tác động qua lại. Hoạt động xuất khẩu của Malaysia đóng vai trò chủ đạo của nền kinh tế nhưng lại lệ thuộc vào tư bản nước ngoài, mà chủ yếu là tư bản Anh. Nguồn cao su và thiếc chiếm 80% giá trị xuất khẩu của nước này. Đứng trước thực trạng kinh tế khó khăn, Malaysia lựa chọn con đường công nghiệp hoá đưa đất nước thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Malaysia trải qua 3 giai đoạn chủ yếu sau: 1.2.3.1. Giai đoạn thay thế nhập khẩu và lấy nông nghiệp là ngành phát triển chủ đạo (1961-1970) Khác với một số nước đang phát triển tiến hành công nghiệp hoá lấy công nghiệp làm trọng tâm, sau khi giành độc lập Malaysia tiến hành công nghiệp hoá lấy nông nghiệp là ngành chủ đạo. Thời kỳ này Malaysia thực hiện các kế hoạch 5 năm (1961-1965) và (1966-1970). Mục tiêu công nghiệp hoá giai đoạn này là tăng nhanh sản lượng lương thực và đa dạng hoá các mặt hàng nông sản xuất khẩu, đồng thời nâng cao trình độ của ngành chế biến nguyên liệu xuất khẩu và xây dựng các ngành công nghiệp thay thế nhập khẩu. Do vậy, nhà nước đã giành 50% ngân sách đầu tư cho phát triển nông nghiệp, đồng thời đầu tư cho một số dự án phát triển công nghiệp, chú trọng phát triển cơ sở hạ tầng nông nghiệp nông thôn và xây dựng các doanh nghiệp cong nghiệp quốc doanh để sơ chế nông phẩm. Chương trình tập trung đầu tư cho nông nghiệp đã mang lại nhiều thành công, mức tăng trưởng hàng năm của nông nghiệp là 5,5% cao nhất ở châu Á trong thập niên 60. Đến năm 1970, Malaysia đã tự túc được 81% nhu cầu lương thực trong nước [53]. Trong lĩnh vực công nghiệp, Malaysia đã tạo ra hàng loạt doanh nghiệp sản xuất thay thế nhập khẩu như dệt, may, chế biến gỗ và một số loại máy móc. Từ năm 1961-1970, sản lượng công nghiệp đã tăng 2 lần bình quân hàng năm tăng 13,5%. Cũng trong thời kỳ này, tỷ trọng của sản phẩm gỗ, dầu cọ tăng từ 5,4% và 1,7% lên 16,5% và 5,1%. Thu nhập bình quân đầu người hàng năm liên tục tăng đạt trung bình gần 7%/năm [36]. 1.2.3.2. Giai đoạn đa dạng hoá kinh tế và chiến lược hướng về xuất khẩu (1971-1985) Trong 3 kế hoạch 5 năm 1971-1975, 1976-1980 và 1981-1985, Malaysia chủ trương xây dựng công nghiệp đa dạng với công nghiệp chế tạo được ưu tiên phát triển. Nhà nước còn chú trọng xây dựng các ngành công nghiệp nặng như chế biến dầu mỏ, luyện kim và mở rộng các cơ sở chế biến xuất khẩu. Vào thời kỳ này, các doanh nghiệp cũng chú trọng hướng về xuất khẩu do thị trường nội địa bị giới hạn. Do đó, tỷ trọng hàng xuất khẩu đã tăng từ 11,9% năm 1970 lên 21,7% năm 1980. Đồng thời Malaysia cũng đẩy mạnh đầu tư vào ngành khai thác và chế biến dầu mỏ nên thu nhập nhờ xuất khẩu dầu mỏ rất đáng kể năm 1970 đạt 164 triệu ringit (chiếm 3,2%) tổng giá trị xuất khẩu), năm 1980 con số này là 6,7 tỷ (chiếm 23,8% tổng giá trị xuất khẩu), năm 1980 con số này là 6,7 tỷ (chiếm 23,8% tổng giá trị xuất khẩu). 1.2.3.3. Giai đoạn đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế, ưu tiên phát triển công nghiệp cơ khí (1985-1995) Bước sang giai đoạn phát triển mới, chính phủ Malaysia đã soạn thảo kế hoạch phát triển công nghiệp 10 năm (1986-1995). Trong ngành công nghiệp, chính phủ đề ra kế hoạch phát triển tổng thể (IMP) với các mục tiêu [42]: - Phấn đấu đạt tốc độ tăng bình quân của công nghiệp chế tạo khoảng 9%/năm nhằm đạt mục tiêu tăng trưởng kinh tế hơn 65/năm. Tăng cường phát triển công nghệ thông tin, các ngành công nghiệp chế tạo sử dụng nguyên liệu trong nước được ưu tiên phát triển. - Tăng cường đầu tư cho nghiên cứu triển khai ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, khuyến khích nghiên cứu triển khai tại xí nghiệp để đưa nhanh tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, rút ngắn thời gian từ khâu nghiên cứu đến khâu áp dụng. - Khuyến khích giáo dục đào tạo để nâng cao dân trí và trình độ khoa học kỹ thuật để phát huy tối đa những lợi thế của đất nước; Từ kế hoạch 5 năm lần thứ năm (1986-1990), Malaysia đã tập trung ưu tiên phát triển cơ sở hạ tầng và một số ngành công nghiệp nặng, nhất là những ngành sử dụng nguyên liệu trong nước sẵn có như xi mang, sắt thép… Các ngành công nghiệp quan trọng khác như điện, cơ khí chế tạo cũng được chú trọng đầu tư phát triển với việc áp dụng công nghệ mới. 50 nhóm sản phẩm trong các ngành sử dụng nhiều lao động, sử dụng nguyên liệu tại chỗ như cao su, dầu cọ, gỗ, thực phẩm, khai khoáng, điện tử, dệt may… được ưu tiên phát triển sản xuất, đặc biệt phục vụ xuất khẩu. Trong sự phát triển công nghiệp, chính phủ Malaysia đặc biệt chú trọng đầu tư vào khu vực tư nhân, coi khu vực này là chủ đạo của nền kinh tế. Chính phủ đã chi một lượng vốn lớn cho hoạt động nghiên cứu triển khai, khuyến khích các doanh nghiệp tăng cường tiến hành nghiên cứu ứng dụng vào sản xuất. Nhờ tích cực thực hiện các chính sách phát triển trên, nền kinh tế Malaysia đã tăng trưởng với tốc độ cao: 1987 là 5,2%; 1988 là 8,7%; 1990 là 9,4% và 1995 đạt 8,5%; trong đó ngành công nghiệp chế tạo tăng trưởng với tốc độ cao hơn (năm cao nhất là 1989 đạt 25,1%) [114]. Trên cơ sở đó, xuất khẩu của Malaysia đã có sự tăng nhanh với xu hướng giảm dần xuất khẩu nguyên liệu, tăng dần các sản phẩm công nghiệp chế tạo (điện tử) và nông sản chế biến như cao su, ca cao, dầu cọ, hạt tiêu,… Năm xuất khẩu cao nhất (1989) đạt 67,8 tỷ USD bằng 71,5 GNP. Theo các nhà phân tích kinh tế thì Malaysia đã bước đầu chuyển từ nước chủ yếu dựa vào nông nghiệp và các ngành công nghiệp thay thế nhập khẩu sang nền công nghiệp có hàm lượng khoa học cao hướng về xuất khẩu. Bên cạnh những thành tựu kinh tế đạt được, theo Viện nghiên cứu kinh tế Malaysia (MIER), nền kinh tế nước ngày còn gặp phải những yếu kém cần khắc phục: Thứ nhất, về nguồn nhân lực bắt đầu xuất hiện tình trạng khan hiếm, trong khi giá nhân công tăng lên; Thứ hai, khả năng cạnh tranh và tiếp cận thị trường quốc tế của Malaysia còn hạn chế; Thứ ba, đầu tư cho nghiên cứu triển khai còn thấp. Đó cũng chính là những thách thức trong điều chỉnh nhằm tiếp tục công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong bối cảnh hội nhập kinh tế. 1.2.4. Một số kinh nghiệp từ công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Thái Lan, Đài Loan và Malaysia Nhìn chung Thái Lan, Đài Loan và Malaysia khi bước vào công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế đều ở điểm xuất phát thấp, kinh tế nông nghiệp là chủ yếu, công nghiệp nhỏ bé và bị phụ thuộc vào nước ngoài. Tuy vậy, chỉ trong vài ba thập kỷ, các nước này đã nhanh chóng vươn lên và thu được những thành công trong công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đài Loan đã trở thành nước công nghiệp mới. Thái Lan và Malaysia cũng được coi là những nước công nghiệp mới. Thành công ấy đã để lại những bài học kinh nghiệm mà nhiều nước đang phát triển có thể học tập và tham khảo. Thứ nhất, trong công nghiệp hoá, hiện đại hoá các nước này đã biết đi lên từ nông nghiệp. Bước đi khởi đầu là phát triển nông nghiệp, để lấy nông nghiệp nuôi dưỡng công nghiệp. Những tiền đề mà nông nghiệp tạo ra có ý nghĩa rất quan trọng về cả phương diện kinh tế và xã hội. Vì chính công nghiệp hoá, hiện đại hoá không thể tiến hành khi tình hình xã hội không ổn định. Trong bước đi ban đầu, sự phát triển nông nghiệp không chỉ giải quyết vấn đề lương thực trong nước, mà còn đóng góp vào xuất khẩu, cải thiện cán cân thanh toán, cán cân thương mại theo hướng tích cực. Thứ hai, việc lựa chọn mô hình công nghiệp hoá có ý nghĩa quyết định với sự kinh tế ở các nước đang phát triển. Trong tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, các nước này đã lựa chọn chiến lược theo hai giai đoạn về cơ bản là phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của họ. Thực tế mỗi chiến lược đều có vị trí quan trọng, tuy nhiên mỗi chiến lược bên cạnh mặt tích cực, vẫn bộc lộ những hạn chế. Do vậy, việc chọn thời điểm để điều chỉnh chiến lược phát triển có ý nghĩa rất quan trọng. Nó đặt sự phát triển kinh tế của đất nước không chỉ phù hợp với hoàn cảnh trong nước mà cả quốc tế. Thực tế việc chuyển sang chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu khi quá trình toàn cầu hoá, khu vực hoá dưới tác động của cách mạng khoa học kỹ thuật là sự cần thiết. Chính việc lựa chọn thời điểm chuyển hướng chiến lược mới có thể tạo nên sự thích ứng trong chiến lược phát triển kinh tế. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá với sự đa dạng hoá trong sản xuất kinh doanh để mở rộng xuất khẩu và vươn mạnh ra thị trường thế giới dã đem lại tốc độ tăng trưởng kinh tế cao liên tục trong hơn ba thập kỷ cho Đài Loan, Thái Lan và Malaysia. Thứ ba, trong công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở các nước này, nhà nước đóng vai trò vô cùng quan trọng với việc lựa chọn chiến lược, việc tạo lập môi trường kinh tế vĩ mô, chiến lược tạo vốn, nâng cao hiệu quả đầu tư, có chính sách phát huy nguồn lực con người, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại. Do vậy, nhà nước không chỉ phát huy được nội lực mà còn khai thác tốt các yếu tố ngoại lực tạo nên tăng trưởng kinh tế cao. Nhà nước đã thành công trong việc điều chỉnh chiến lược gắn với các chương trình cải cách tự do hoá một cách khéo léo linh hoạt. Đó chính là viết biết khai thác những động lực của kinh tế thị trường, biết nắm bắt và tận dụng những thành tựu của cách mạng khoa học kỹ thuật, những cơ hội mà kinh tế đối ngoại đặc biệt là ngoại thương mang lại nhằm phát huy lợi thế trong trật tự phân công lao động quốc tế. Thứ tư, công nghiệp hoá, hiện đại hoá - con đường tất yếu để thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu của các nước đang phát triển. Mục tiêu trong công nghiệp hoá, hiện đại hoá để hướng tới tăng trưởng trong phát triển. Theo đuổi tăng trưởng kinh tế đã trở thành khát vọng của các nước đang phát triển. Tuy vậy, kinh nghiệm ở Thái Lan, Malaysia, chiến lược trong công nghiệp hoá, hiện đại hoá cần phải gắn liền với sự ổn định của môi trường kinh tế vĩ mô, có sự kết hợp hài hoà giữa chiến lược hướng ngoại và hướng nội, cải cách kinh tế phải gắn liền với cải cách xã hội. Đó là những điều kiện để tạo nên sự bền vững trong phát triển. Thứ năm, trong tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Thái Lan, Malaysia và Đài Loan, con đường phát triển của Đài Loan mang tính đặc thù rõ nét và sơm đưa nước này trở thành nước công nghiệp mới. Bí quyết thành công của Đài Loan trong bước khởi đầu công nghiệp hoá là biết lấy nông nghiệp để nuôi dưỡng công nghiệp; biết dựa vào các doanh nghiệp vừa và nhỏ với sự khuyến khích và hỗ trợ của Nhà nước để hình thành nên những chuỗi xí nghiệp hoạt động liên hoàn với nhau; biết nắm thời cơ để nhanh chóng đi vào một số ngành hiện đại như điện tử, công nghiệp thông tin, hoá dầu… * * * Tóm lại, công nghiệp hoá, hiện đại hoá là vấn đề mang tính qui luật với tất cả các nước trên thế giới. Để làm rõ hơn cơ sở lý luận và thực tiễn về công nghiệp hoá, hiện đại hoá, chương I luận án đã làm rõ khái niệm về công nghiệp hoá, hiện đại hoá và mối quan hệ giữa hai phạm trù này trong tiến trình phát triển. Luận án cũng làm rõ bản chất của công nghiệp hoá, hiện đại hoá và các mô hình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở các nước đang phát triển trong mấy thập kỷ qua. Đó là mô hình công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu, công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu và mô hình công nghiệp hoá bền vững theo hướng hội nhập. Các mô hình này được nghiên cứu, xem xét và đánh giá theo các khía cạnh: mục tiêu, chính sách và biện pháp, kết quả và hạn chế. Đồng thời, luận án đã trình bày khái quát thực trạng những bài học kinh nghiệm về vận dụng các mô hình công nghiệp hoá trong phát triển kinh tế đất nước. Chương II QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ Ở HÀN QUỐC TỪ NĂM 1960-1995 VÀ NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM 2.1. THỰC TRẠNG CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ Ở HÀN QUỐC TỪ 1960-1995 Chiến tranh Nam - Bắc Triều Tiên chấm dứt vào tháng 7/1953 với việc ký kết Hiệp định đình chiến giữa Cộng hoà nhân dân Triều Tiên và Hàn Quốc. Hàn Quốc phải gánh chịu những hậu quả kinh tế nặng nề do chiến tranh để lại. Năm 1953, mức sản xuất thấp kém nhiều so với năm 1940. Tổng thu nhập quốc dân của Hàn Quốc năm 1953 đạt 48,8 tỷ Won tức 2.715 triệu USD Mỹ (theo giá năm 1980). Trong đó nông, lâm, ngư nghiệp chiếm tới 47% còn công nghiệp chế biến chỉ chiếm khoảng 9% [19]. Bên cạnh đó, cơ sở hạ tầng, kinh tế - kỹ thuật như giao thông, cầu cảng, thông tin liên lạc v.v.. cũng bị tàn phá nặng nền. Về điều kiện tự nhiên: diện tích Hàn Quốc chỉ có 99.237 km2. Đất đai có khả năng sử dụng trong canh tác chiếm khoảng 1/4 diện tích đất nước. Nguồn tài nguyên khoáng sản của Hàn Quốc tương đối nghèo, nguồn than mỡ chỉ đáp ứng 32% nhu cầu về năng lượng. Hàn Quốc còn có một số loại khoáng sản khác: quặng sát, đồng, chì, kẽm v.v.v. tuy số lượng không nhiều [63]. Sau hiệp định đình chiến, Hàn Quốc đứng trước những khó khăn cả về kinh tế, chính trị. Tình hình chính trị quốc tế và khu vực diễn ra phức tạp, trên thế giới có sự đối đầu giữa hai hệ thống Xã hội chủ nghĩa, tư bản chủ nghĩa. Chính bối cảnh ấy, tác động trực tiếp đến sự lựa chọn mô hình phát triển của nhiều nước trong đó có Hàn Quốc. Dầu muốn hay không, các nước nhỏ không thể thoát khỏi sự ràng buộc, chi phối và Hàn Quốc đã chấp nhận theo con đường tư bản chủ nghĩa. Bên cạnh định hướng chính trị, về phương diện kinh tế, Hàn Quốc cũng phải tìm kiếm sự phát triển cho chính mình. Chặng đường phát triển mà Hàn Quốc trải qua cho thấy, đất nước có sự chuyển đổi nhanh chóng từ kinh tế hướng nội sang kinh tế hướng ngoại lấy xuất khẩu làm trọng tâm, đó cũng là quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước để trở thành nước công nghiệp mới. Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Hàn Quốc đã trải qua các giai đoạn cụ thể, mỗi giai đoạn ấy gắn với định hướng phát triển và những thay đổi về chất lượng phát triển của nền kinh tế. Trước khi tiếp cận nghiên cứu công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Hàn Quốc (1960-1995), việc xem xét thực trạng kinh tế và công nghiệp hoá ở Hàn Quốc (trước 1962) sẽ là cơ sở để luận giải việc lựa chọn chiến lược công nghiệp hoá cũng như phương pháp tiến hành công nghiệp hoá ở Hàn Quốc theo thời gian. 2.1.1. Công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu trong giai đoạn (1953-1962) Sau chiến tranh 1953, Hàn Quốc vẫn phải dựa vào Mỹ cả về kinh tế lẫn quân sự để tồn tại. Từ 1953 đến 1962, tổng số viện trợ kinh tế lên tới 2 tỷ USD, viện trợ quân sự gần 1 tỷ USD. Trong thời gian này, gần 70% kim ngạch nhập khẩu của hiện đại hoá là được tài trợ bằng khoản viện trợ này và 77% số tư bản cố định mới cũng được hình thành từ đây. Viện trợ Mỹ cho Hàn Quốc là rất lớn, tuy vậy nó vẫn không thể đáp ứng được những nhu cầu phát triển của Hàn Quốc. Do vậy, Hàn Quốc vẫn phải tìm cách thoát ra khỏi những khó khăn về kinh tế và tăng thêm khả năng tự lực để phát triển. Công nghiệp hoá theo hướng thay thế nhập khẩu được triển khai rộng rãi ở Hàn Quốc. Bước vào công nghiệp hoá, là nước đi sau,

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxLV Kinh nghiem CNHHDH cua Han Quoc.docx
Tài liệu liên quan