Cơ sở hình thành nho giáo

Tài liệu Cơ sở hình thành nho giáo: An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 20 (2), 73 – 78 73 CƠ SỞ HÌNH THÀNH NHO GIÁO Bùi Quốc Hưng1 1Trường Đại học Hàng hải Việt Nam Thông tin chung: Ngày nhận bài: 05/05/2018 Ngày nhận kết quả bình duyệt: 05/06/2018 Ngày chấp nhận đăng: 06/2018 Title: The basis formation of Confucianism Keywords: Confucianism, Confucius, Mencius, Lao Tzu Từ khóa: Nho giáo, Khổng Tử, Mạnh Tử, Lão Tử ABSTRACT This article includes two periods. Period 1 discusses about the economic, political and social conditions for the formation of Confucianism. In terms of economic condition, it is a new evolution: irons were made and widely used in ancient China. Chinese people at that time knew how to use pulling force. As a result, carpentry, handicrafts and the economy generally developed, and economic development led to significant social changes, for example, the trading was characterized by the trafficking of the king! The slaves were not bur...

pdf6 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 522 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Cơ sở hình thành nho giáo, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 20 (2), 73 – 78 73 CƠ SỞ HÌNH THÀNH NHO GIÁO Bùi Quốc Hưng1 1Trường Đại học Hàng hải Việt Nam Thông tin chung: Ngày nhận bài: 05/05/2018 Ngày nhận kết quả bình duyệt: 05/06/2018 Ngày chấp nhận đăng: 06/2018 Title: The basis formation of Confucianism Keywords: Confucianism, Confucius, Mencius, Lao Tzu Từ khóa: Nho giáo, Khổng Tử, Mạnh Tử, Lão Tử ABSTRACT This article includes two periods. Period 1 discusses about the economic, political and social conditions for the formation of Confucianism. In terms of economic condition, it is a new evolution: irons were made and widely used in ancient China. Chinese people at that time knew how to use pulling force. As a result, carpentry, handicrafts and the economy generally developed, and economic development led to significant social changes, for example, the trading was characterized by the trafficking of the king! The slaves were not buried alive together with their dead owners, and thus the value of slaves was increased considerably. Basing on the politic conditions, during the wartime period of ancient China, numerous wars occurred and countries fight fiercely. Until 221 BC, the mighty Qin conquered all small and weak states, leading to the uniting of the whole China, and ending the war era. Period 2 discusses about the previous cultural ideologies contributing to the formation of Confucianism. It is a treasure trove of ancient Chinese folk songs and a collection of historical titles namely Kinh thu, both of which contain many Confucius ideas. They were the theory of Eight Triggers, Five Elements, Yin and Yang explaining the origin of the world. It was the thought of Lao Tzu, a great scholar and a master of Confucianism who explained the origin of the universe and opposites of a thing. TÓM TẮT Nội dung chính của bài viết gồm 2 tiết. Tiết 1 bàn về điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội cho sự ra đời Nho giáo. Về kinh tế, đó là sự tiến bộ mới: đồ sắt đã xuất hiện, được sử dụng phổ biến trong thời cổ đại Trung Quốc. Người Trung Quốc thời này đã biết sử dụng sức kéo. Vì thế, nghề mộc, thủ công nghiệp và kinh tế nói chung phát triển, kinh tế phát triển dẫn đến quan hệ xã hội có biến đổi đáng kể: nghề buôn ở đây có dấu hiệu đặc thù là buôn cả vua, nô lệ không bị chôn sống theo chủ chết nữa, tức là giá trị của nô lệ đã được tăng lên ít nhiều. Về chính trị, thời kỳ Chiến Quốc ở Trung Quốc cổ đại, chiến tranh nổ ra liên miên, các nước đánh nhau dữ dội, đến năm 221 trước Công nguyên, nước Tần hùng mạnh đã chiến thắng tất cả các nước nhỏ yếu, thống nhất được toàn Trung Quốc, kết thúc thời đại mang tên Chiến Quốc. Tiết 2 bàn về những tiền đề văn hóa tư tưởng góp phần hình thành An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 20 (2), 73 – 78 74 Nho giáo. Đó là kho tàng Kinh thi, nguồn ca dao cổ của người Trung Quốc; là bộ lịch sử mang tên Kinh thư, cả hai loại tác phẩm này chứa đựng nhiều tư tưởng Nho giáo. Đó là các thuyết bát quái, ngũ hành, âm dương giải thích nguồn gốc của thế giới. Đó là tư tưởng của Lão Tử, một học giả lớn, một bậc thầy của Khổng Tử đã giải thích về nguồn gốc vũ trụ và các mặt đối lập trong một sự vật, v.v.. 1. MỞ ĐẦU Có thể khẳng định bất kể tư tưởng, học thuyết nào cũng được hình thành trong một hoàn cảnh, điều kiện lịch sử nhất định. Hoàn cảnh, điều kiện lịch sử nào sẽ cho ra đời tư tưởng học thuyết tương tự với nó. Tư tưởng học thuyết luôn mang tính lịch sử cụ thể. Nho giáo, học thuyết của Khổng Tử (sinh năm 551 trước Công nguyên, mất năm 479 trước Công nguyên), còn gọi là Khổng giáo, trong đó có bao hàm tư tưởng trị quốc cũng là sản phẩm tất yếu của lịch sử. Thủy tổ và những tác giả của nó sinh trưởng trong thời đại Xuân Thu - Chiến quốc từ khoảng năm 770 đến năm 221 trước Công nguyên (Hà Thúc Minh, 1999). Đấy là thời điểm lịch sử xuất hiện học thuyết của thầy trò Khổng Tử, còn gọi là Nho giáo, hoặc Khổng giáo trong lịch sử. Mạnh Tử (sinh năm 372 trước Công nguyên, mất năm 289 trước Công nguyên) là người bổ sung, phát triển rất xuất sắc Nho giáo, vì thế Nho giáo này còn được gọi là Nho giáo Khổng Mạnh, hoặc học thuyết Khổng Mạnh. Học thuyết chính trị, triết học nổi tiếng trong thời cổ đại mang tên Khổng Mạnh của đất nước Trung Hoa và của toàn nhân loại được hình thành trên những điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội và những tiền đề văn hóa, tư tưởng nhất định sau đây. 2. ĐIỀU KIỆN KINH TẾ, CHÍNH TRỊ, XÃ HỘI Những điều kiện hoàn cảnh kinh tế, chính trị, xã hội làm xuất hiện học thuyết Nho giáo trong những năm cuối thời đại chiếm hữu nô lệ, đầu thời đại phong kiến của Trung Quốc cổ đại là như thế nào? Về kinh tế, đất nước Trung Quốc cổ đại thời kỳ này đã được lịch sử ghi lại sự kiện tiến bộ mới, quan trọng nhất trong lĩnh vực kinh tế là sự ra đời của đồ sắt. Thời Xuân Thu ứng với triều đại Đông Chu. Gọi là Đông Chu vì nhà Chu đóng đô ở phía Đông. Gọi là thời đại Xuân Thu vì lịch sử Trung Quốc thời này được phản ánh trong bộ sách mang tên là Xuân Thu do Khổng Tử biên soạn, đó là quyển lịch sử của nước Lỗ. Niên đại của thời Xuân Thu được tính từ năm 772 trước Công nguyên và chấm dứt vào năm 481 trước Công nguyên (Lương Ninh, 2014). Khoảng giữa thời Xuân Thu đã có bằng chứng người Trung Quốc làm nghề luyện sắt. Đến thời Chiến Quốc là thời đại kế tiếp sau thời đại Xuân Thu ở Trung Quốc. Sử liệu Trung Quốc coi năm 403 trước Công nguyên là thời điểm mở đầu cho thời đại Chiến Quốc và năm 221 trước Công nguyên là năm kết thúc thời đại lịch sử này. Gọi là thời đại Chiến Quốc, bởi vì, trong giai đoạn lịch sử đó đất nước Trung Quốc nổ ra nhiều cuộc chiến tranh giữa các nước nhỏ, nhằm thôn tính, thống trị lẫn nhau, các nước đánh nhau, tranh giành đất đai liên miên, rất ác liệt (Lương Ninh, 2014). Trong hoàn cảnh chiến tranh như thế, đồ sắt ở Trung Quốc cổ đại càng được sử dụng phổ biến, nghề luyện sắt, chế tạo công cụ lao động bằng sắt phát triển. Người Trung Quốc cổ đại, một mặt, tiến hành chiến tranh, cướp bóc, ăn hiếp lẫn nhau; mặt khác, họ còn tỏ ra là người thông minh chăm lo lao động sản xuất, phát triển kinh tế để có thực túc binh cường, quân hùng tướng mạnh. Công cụ lao động bằng sắt đã góp phần làm cho kinh tế, sản An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 20 (2), 73 – 78 75 xuất nông nghiệp ở Trung Quốc cổ đại phát triển trong hoàn cảnh chiến tranh là vì lý do đó. Người Trung Quốc thời Xuân Thu - Chiến Quốc còn biết sử dụng sức kéo của súc vật, sử dụng súc vật làm công cụ lao động sản xuất nông nghiệp. Họ còn chú trọng làm thủy lợi phục vụ cho cấy trồng, sản xuất ra của cải vật chất nói chung. Nhờ có công cụ lao động bằng sắt do nghề luyện, chế tạo từ sắt phát triển mà nghề thủ công nghiệp, nghề mộc ở Trung Quốc thời cổ đại, giai đoạn Xuân Thu, Chiến Quốc cũng có bước phát triển đáng kể. Hoạt động thương nghiệp, buôn bán trong thời Xuân Thu, Chiến Quốc của Trung Quốc cổ đại cũng phát triển. Vì thế, trong xã hội đã có đội ngũ nhà buôn lớn rất nhiều tiền. Tiền tệ đã làm xuất hiện nạn cho vay nặng lãi, trao đổi hàng hóa, trả công lao động bằng tiền, nộp thuế bằng tiền. Kinh tế thời Xuân Thu, Chiến Quốc phát triển còn làm xuất hiện nhiều thành phố lớn phồn hoa, đông đúc ở Trung Quốc thời cổ (Lương Ninh, 2014). Kinh tế ở đâu, bao giờ cũng là nhân tố có vai trò quyết định, nền tảng cho sự nảy sinh các nhân tố khác của đời sống xã hội, bất kể người ta nhận thức đến vai trò đó của kinh tế sớm hay muộn, thậm chí là chưa hoặc không nhận thức được vai trò quan trọng đó của kinh tế. Nền kinh tế, sản xuất phát triển trong thời Xuân Thu, Chiến Quốc như vậy đã dẫn đến quan hệ xã hội, giai cấp ở nơi đấy vào thời gian đó có sự biến đổi to lớn. Thời Tây Chu, đất đai dưới gầm trời Trung Quốc, đâu đâu cũng là đất của vua. Nhưng do sản xuất kinh tế phát triển, nhiều thế lực xã hội giàu mạnh lên, không hoàn toàn chịu sự ban cấp đất đai của vua nước lớn hoặc vua chư hầu như trước nữa. Họ đã có đất đai tư riêng của họ ngoài phần được vua phong cấp cho. Có những vua chư hầu thế lực suy yếu dần, các đại phu có thế lực nổi lên tranh giành đất đai làm thành đất đai riêng của họ. Chế độ, luật về đất đai trong xã hội cũng có sự thay đổi lớn do nền sản xuất, kinh tế trong xã hội phát triển. Trước đây, như trên nói, ruộng đất là của vua, vua ban cho quan chức, người nào có công thì người ấy được. Nay, nhiều người trở nên giàu có do sản xuất, buôn bán, cho vay lấy lãi phát triển, người có khả năng, có điều kiện mua đất đai làm tài sản sở hữu riêng. Trước đây trong xã hội có chế độ tỉnh điền, tức là ruộng đất được chia cắt ra giống như chữ “tỉnh” gồm hai nét ngang, một nét phẩy và một nét sổ, được chia ra thành 9 phần, thì 8 phần xấu xung quanh chia cấp cho thường dân, phần thứ 9 ở giữa tốt, đẹp nhất dân phải cấy, trồng, thu hoạch rồi cống nộp cho các quan chức trong xã hội, gọi là cho việc công. Đến đời Xuân Thu, Chiến Quốc nhất là đến giai đoạn lịch sử Trung Quốc cổ đại mang tên Chiến Quốc thì chế độ tỉnh điền nói trên đang đi đến chỗ tan rã hoàn toàn. Lúc này, ruộng đất ngày một vào tay những địa chủ lớn tiền của nhiều, thế lực, quyền hành mạnh, nông dân càng lúc càng mất dần ruộng đất, có người không còn thước đất cắm dùi. Xã hội Trung Quốc cổ đại thời Xuân Thu, Chiến Quốc đã có sự phân hóa rõ và trở nên đối cực như vậy (Lương Ninh, 2014). Trước đây cùng là hạng người dân lao động, vai trò, vị trí ngang bằng nhau, thì bây giờ số đông dân chúng trở nên cùng đinh; nhiều người có sự thay đổi cực lớn và nhanh, họ thành những đại địa chủ, do thông thạo, khéo mua bán đất, và trao đổi hàng hóa, họ còn là những thương nhân thật sự, làm thành tầng lớp địa chủ kiêm thương nhân trong xã hội. Số đông dân nghèo không có ruộng đất phải lĩnh canh đất của địa chủ để cấy trồng, phải phụ thuộc vào giai cấp, tầng lớp địa chủ kiêm thương nhân ấy. Sản xuất, kinh tế phát triển, hàng hóa nhiều lên. Đấy là tiền đề dẫn đến lưu thông hàng hóa phát triển, do đó, xuất hiện tầng lớp những nhà buôn lớn trong xã hội. Nghề buôn bán ở Trung Quốc cổ đại phải nói là đã phát triển đến mức đặc biệt, tiêu biểu trên toàn thế giới. Ở đây không chỉ có buôn bán sản vật, hàng hóa, gia súc, mà còn buôn bán cả con người, hơn nữa, buôn bán đến con người có địa vị tối cao trong xã hội, đó là buôn vua! “Cuối thời Chiến Quốc, nhà buôn kiêm địa chủ An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 20 (2), 73 – 78 76 nổi tiếng nhất là Lã Bất Vi ở nước Triệu, một người đã bỏ ra một nghìn cây vàng để buôn vua, và về sau trở thành thừa tướng của nước Tần” (Lương Ninh, 2014). Thời kỳ Xuân Thu, Chiến Quốc, giai cấp nô lệ ở Trung Quốc cũng ít nhiều thay đổi. Nô lệ phạm tội hoặc phá sản phải bán vợ con, hoặc bản thân mình làm nô lệ. Nô lệ vẫn bị áp bức, bóc lột, bị đánh đập tàn nhẫn như trước, nhưng hiện tượng chôn sống nô lệ theo chủ chết vào thời này bị cho là phi lý nên đã giảm đi nhiều, giá nô lệ cũng đắt hơn thời trước (Lương Ninh, 2014). Về chính trị, thời Xuân Thu, Chiến Quốc trên đất nước Trung Quốc cổ đại cũng có những biến cố, sự kiện trọng đại. Nhà Chu trong khoảng 4 thế kỷ, từ thế kỷ XI trước Công nguyên đến năm 771 trước Công nguyên đóng đô ở phía Tây là thời kỳ cường thịnh của nó. Đến thời Xuân Thu, Chiến Quốc, nhà Chu đóng đô ở phía Đông đã ngày càng suy yếu đi. Ngược lại, một số nước chư hầu của nhà Chu trước đây vốn nhỏ yếu buộc phải thần phục, triều cống nhà Chu, thì nay ngày một lớn mạnh lên, do đó, họ tiến hành chiến tranh giữa những nước chư hầu để nhằm giành quyền làm bá chủ Trung Quốc. Từ đầu thế kỷ VII trước Công nguyên đến đầu thế kỷ V trước Công nguyên, trên vũ đài chính trị Trung Quốc đã diễn ra nhiều tấn tuồng giữa các nước nhỏ cấu thành Trung Quốc bao la rộng lớn. Các nước ấy đánh giết lẫn nhau để tranh giành quyền bá chủ. Nước Trịnh là nước đi tiên phong thực hiện mưu đồ ấy. Nhưng, Tề mới là nước đầu tiên giành được quyền làm bá chủ thiên hạ. Nước Tề hùng mạnh, vua Tề được mấy lần hội nghị các nước chư hầu công nhận là bá chủ ở miền hạ lưu Hoàng hà (Lương Ninh, 2014). Đến thế kỷ IV trước Công nguyên, các nước nhỏ trong Trung Quốc đấu tranh, thôn tính lẫn nhau rất ác liệt. Nước Tề từ hùng mạnh nhất một thời, nay dần dần suy yếu, một số nước khác, trái lại, trở nên cường thịnh trong các cuộc chiến tranh giành quyền bá chủ thiên hạ. Lịch sử có sự diễn tiến theo quy luật của nó. Nước Tần trước đây đến đầu thời Chiến Quốc còn là nước tương đối lạc hậu nhưng vua Tần có chủ trương, mưu kế vào hạng cao siêu. Ông tăng cường trật tự trị an, khuyến khích sản xuất nông nghiệp, có trật tự trị an, có của cải vật chất nhiều, giàu lên nhờ khuyến khích sản xuất nông nghiệp, đó là những điều kiện, nhân tố làm cho quốc gia ngày một cường thịnh, phát triển. Thêm nữa, vua Tần còn tỏ ra có phẩm chất chính trị theo cách riêng của ông. Ông khuyến khích quân, tướng lập công. Bất cứ ai chém lấy được một đầu phía giặc, địch thủ thì đều được thưởng tước một cấp, muốn làm quan thì được cấp lương. Ông cho quan, tướng được nô lệ, được hưởng nhiều hay ít, cao hay thấp, mặc quần áo sang, đẹp như thế nào đều dựa vào chức tước. Pháp lệnh của vua cuối cùng được thi hành nghiêm minh (Lương Ninh, 2014). Trên đây là những nhân tố, chủ trương có tác dụng làm cho nước Tần trở nên lớn mạnh. Đấy cũng là nguyên nhân làm cho nhiều nước lo sợ sự phát triển ấy của Tần. Nhiều nước nhỏ yếu hơn đã bàn, liên hợp lại với nhau để chống Tần. Nước Chu nhỏ bé trong quá trình phát triển đã phân chia thành hai nước Tây Chu và Đông Chu. Đến giữa thế kỷ III trước Công nguyên, hai nước nhỏ bé này cùng với nhiều nước nhược tiểu khác như Hàn, Triệu, Ngụy, Sở, Yên, Tề đều bị nước Tần hùng mạnh tiêu diệt. Đến năm 221 trước Công nguyên, nước Tần hùng mạnh đã thống nhất Trung Quốc, kết thúc một thời đại mang tên Chiến Quốc tranh giành, đánh giết nhau rất ác liệt (Lương Ninh, 2014). Những điều kiện, hoàn cảnh kinh tế, xã hội, chính trị nói trên đều có ảnh hưởng cho sự ra đời của Nho giáo - học thuyết của Khổng Tử - trong đó bao hàm tư tưởng trị quốc. 3. NHỮNG TIỀN ĐỀ VĂN HÓA, TƯ TƯỞNG Văn hóa của xã hội, văn hóa trong xã hội là thuộc về con người và do con người sáng tạo ra. Do vậy, nó chuyển tải, thể hiện tư tưởng, tình cảm, quan niệm của con người. Quan niệm, tình cảm, tư tưởng của con người biểu hiện thông qua hoạt động của con người nói chung và sản phẩm, kết quả của hoạt động văn hóa, của chủ thể văn hóa An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 20 (2), 73 – 78 77 nói riêng. Văn hóa và tư tưởng gắn kết và gần như song hành với nhau. Thể loại văn học phát triển sớm nhất ở Trung Quốc thời cổ đại là thơ ca. Tác giả của nó là những người dân lao động. Lao động làm nảy sinh văn học nghệ thuật. Tác giả của loại hình văn học này còn là những người có học trong giai cấp thống trị. Vua chúa và các vua nước chư hầu là người chú trọng hoạt động văn học nghệ thuật, thường sai các vị quan phụ trách về âm nhạc của triều đình sưu tầm thơ ca từ các địa phương trong nước về phổ nhạc, Vì thế, từ đầu thời Tây Chu đến giữa thời Xuân Thu, thơ ca dân gian Trung Quốc cổ đại đã được sưu tập lại thành một tác phẩm gọi là Thi. Người Trung Hoa rất tự hào về tác phẩm văn học dân gian ấy của họ. Trên cơ sở tác phẩm văn học dân gian có giá trị đó, Khổng Tử đã chỉnh lý lại một lần nữa, san định, phổ nhạc làm thành tác phẩm Kinh thi - một trong những bộ kinh điển của Nho giáo. Về vấn đề này, kết quả nghiên cứu của GS Bửu Cầm đã làm rõ. Theo GS, “những bài ca dao trong Kinh thi đã được các nhà cầm quyền ở Trung Quốc sưu tầm trước đời Khổng Tử. Nguyên nhan đề sách ấy là Thi chứ không phải là Kinh; người sau thêm vào chữ Kinh là vì cho rằng sách đó đã được Khổng Tử san định” (Khổng Tử, 2004). Tìm hiểu Sử ký của Tư Mã Thiên, GS Bửu Cầm đã chú ý, dẫn ra câu của Tư Mã Thiên nói “Khổng Tử đã đem ba trăm lẻ năm thiên trong Kinh thi ra mà đàn ca”, rồi GS Bửu Cầm đi đến kết luận mang tính khẳng định: “Thế là Khổng Tử đã từng nghiên cứu âm nhạc và đem thi ca phổ thành nhạc khúc. Việc Khổng Tử san định Kinh thi cũng có thấy chép trong thiên “Khổng Tử thế gia” sách Sử ký” (Khổng Tử, 2004). Kinh thi là tác phẩm văn học nghệ thuật vĩ đại, thể hiện, chuyển tải nhiều nội dung tư tưởng lớn, quan trọng của Nho giáo. Trong đó bao hàm không ít quan niệm, tư tưởng tích cực, tiến bộ, phản đối chủ trương, hành động trung quân một cách mù quáng như: chôn sống người hiền tài theo vua lúc vua chết để hầu hạ vua tại cõi âm, chẳng hạn, bài ca dao được Khổng Tử san định, phổ nhạc nói về vua “Tần Mục công chết, ba người con họ Tử Xa bị chôn sống theo đều là người hiền tài của nước Tần” (Khổng Tử, 2004); phê phán kịch liệt một vị vua nước Tề lấy cớ đến thông dâm với “phu nhân của Lỗ Hoàn công” (Khổng Tử, 2004); “Khen thục nữ lập gia đình” như “Cây đào tơ xinh tươi/ Hoa nhiều rậm/ Nàng ấy đi lấy chồng/ Thì ắt thuận hòa êm ấm cảnh gia đình” (Khổng Tử, 2004); ca ngợi đấng nam nhi “Dáng vũ phu uy vũ/ Có thể dùng làm thuẫn làm thành cho công hầu để che chở cho nhân dân và bờ cõi” (Khổng Tử, 2004); v.v.. Như vậy, từ văn hóa, tức là từ văn học, nghệ thuật truyền thống, tất nhiên là trong đó có chứa đựng tư tưởng của dân tộc Trung Hoa cổ đại, Khổng Tử đã biên soạn, phổ nhạc Kinh thi, qua đó, thể hiện nhiều tư tưởng tích cực, có thể nói là tư tưởng vĩ đại như trọng dân, phản đối quan niệm trung quân mù quáng, phi lý, vô nhân đạo, v.v.. Ở Trung Quốc cổ đại, từ thế kỷ IX, VIII trước Công nguyên, người ta đã “giải thích nguồn gốc của thế giới” bằng cách “nêu các thuyết bát quái, ngũ hành, âm dương” (Lương Ninh, 2014). Từ thế kỷ XI đến thế kỷ VIII trước Công nguyên, xã hội Trung Quốc cổ đại còn tương đối ổn định. Nhưng các nước chư hầu ngày một phát triển mạnh, vì thế, đến thời Xuân Thu, từ thế kỷ thứ VIII đến thế kỷ V trước Công nguyên đã có biểu hiện, hành động chống lại nước lớn, quyền hành của vị vua nước lớn được mệnh danh là thiên tử, trong xã hội có nhiều hoạt động tranh giành, chém giết nhau để đoạt được ngôi vị, bổng lộc. Những hiện tượng như bề tôi giết vua, con giết cha, em giết anh thường xuyên xảy ra. Đây là thời kỳ trật tự xã hội có nhiều biến đổi, đảo lộn, đạo đức xuống cấp nghiêm trọng, các quy chế của xã hội thời Tây Chu bị phá hoại. Đời sống của nhân dân trong một đất nước bất ổn định về chính trị, xã hội và đạo đức như thế, đã trở nên vô cùng cực khổ. “Chính hoàn cảnh lịch sử xã hội ấy đã sản sinh ra những nhà tư tưởng muốn làm thay đổi tình hình, trong đó tiêu biểu nhất là Lão Tử và Khổng Tử” (Lương Ninh, 2014). Lão Tử là một nhà tư tưởng lừng danh không chỉ trong đất nước Trung Hoa, mà còn trên phạm vi toàn thế giới, nhưng tên tuổi của ông, cho đến nay còn chưa được xác định, vẫn tồn tại nhiều cách giải thích, trình bày khác nhau. Theo nhiều nguồn An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 20 (2), 73 – 78 78 tài liệu thì Lão Tử là học giả đồng thời với Khổng Tử, Khổng Tử đã từng theo học Lão Tử. “Khổng Tử học hỏi ở nhiều thầy: về lễ có Lão Tử” (Dương Hồng, 2003). Tác phẩm của học giả này là quyển Đạo đức kinh. Lão Tử đã giải thích về nguồn gốc của vũ trụ, bàn về các mặt đối lập trong thế giới khách quan như phúc và họa, cứng và mềm, yếu và mạnh, nhiều và ít, trên và dưới, trước và sau, thực và hư, vinh và nhục, khôn và dại, v.v.; hơn nữa, ông thấy rằng những mặt đối lập ấy có sự chuyển hóa lẫn nhau chứ không phải là nhất thành bất biến. Ví dụ, trong họa có phúc, trong cái gọi là phúc có mầm hậu họa. Lão Tử chủ trương, kỳ vọng giai cấp thống trị không can thiệp đến đời sống của nhân dân. Nhưng Lão Tử lại chủ trương làm cho dân ngu, vì theo ông, “dân có nhiều trí khôn, thì khó cai trị” (Lương Ninh, 2014). Như vậy, tư tưởng của Lão Tử đã được Khổng Tử học tập, tìm hiểu, từ đó góp phần hình thành Nho giáo. Khổng Tử học tập Lão Tử một cách sáng tạo, hình thành nên tư tưởng tiến bộ, chứ không tiếp thu những quan điểm, chủ trương phản tiến bộ của Lão Tử. Thí dụ, Lão Tử chủ trương “làm cho dân ngu”, nhưng Khổng Tử chủ trương trọng dân, dưỡng dân, giáo dân, phú dân. Ngoài Lão Tử, Khổng Tử còn học tập nhiều người khác, như: “về chính sự có Đàm Tử, về nhạc có Tranh Hoằng, gảy đàn có Sư Tương và nhiều danh sư khác nữa” (Dương Hồng, 2003). Những bậc thầy nói trên của Khổng Tử là cơ sở tư tưởng của Nho giáo, học thuyết của Khổng Tử. Khổng Tử là người ham học, có hiểu biết, học vấn uyên thâm đã từng làm quan. Nghiên cứu tác phẩm kinh điển của Khổng Tử thì sẽ thấy học giả này không chỉ quan tâm đến vấn đề như đạo đức, chính trị, văn hóa. Ông còn bàn nhiều về kinh tế, quân sự, công tác giáo dục, triết học, văn học, nghệ thuật, tư tưởng trọng dân, chủ trương đổi mới, bàn về lịch sử, v.v.. Các bộ kinh điển của Nho giáo như Đại học, Trung dung, Luận ngữ, Mạnh Tử, Kinh thư, Kinh thi, v.v. đã chứng minh cho nhận xét khái quát nói trên về Khổng Tử là chính xác chứ không mang tính võ đoán. Đại học, Trung Dung, Luận ngữ là các tác phẩm do học trò của Khổng Tử ghi lại lời của thầy Khổng Tử và bàn luận về lời của thầy. Mạnh Tử là tác phẩm của Mạnh Tử - một học trò xuất sắc của Khổng Tử - trình bày một hệ vấn đề đã bổ sung, phát triển và nâng lên giá trị học thuyết, tư tưởng của Nho giáo. Kinh thư là bộ sách do Khổng Tử san định chuyên bàn về lịch sử. Mới đầu Kinh thư cũng chỉ gọi là Thư Thư ra đời có tính chất huyền bí, nhưng thực chất Thư chỉ là các văn bản về chính sự các triều Nhị Đế - Tam Vương. Đến thời nhà Chu, các tài liệu này đã được Khổng Tử chỉnh lại. “Kinh thư với 4 quyển, 58 thiên, các thiên đều có gốc gác, xuất xứ; các xuất xứ ấy đều là những sự kiện lớn lao, những tư liệu về địa chí, cương vực thời Nghiêu - Thuấn - Hạ - Thương - Chu, có giá trị lịch sử và ý nghĩa xã hội sâu sắc và lâu dài” (Khổng Tử, 2004b). Kinh thi là tác phẩm đã nói sơ bộ ở trên. Tác phẩm ấy của Khổng Tử với nội dung phong phú, sâu sắc, có giá trị cao về tư tưởng triết học, chính trị, văn học nghệ thuật, v.v. là sự phản ánh hoàn cảnh lịch sử và tiếp thu, kế thừa, phát triển các tư tưởng mang tính tiến bộ, tích cực, có sức sống trường cửu mà nhân loại đã sản sinh ra. 4. KẾT LUẬN Bàn sơ bộ như trên về Khổng Tử để nhấn mạnh tư tưởng của Khổng Tử, tư tưởng Nho giáo nói chung, trong đó bao gồm tư tưởng trị quốc của Nho giáo nói riêng được hình thành trên cơ sở kinh tế, xã hội, chính trị, lịch sử, văn hóa, tư tưởng nhất định, chứ không thể từ một cõi hư vô. TÀI LIỆU THAM KHẢO Dương Hồng & cs. chú dịch. (2003). Tứ thư. Hà Nội: NXB Quân đội Nhân dân. Hà Thúc Minh. (1999). Lịch sử triết học Trung Quốc, t.II: TP.HCM: Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh. Khổng Tử. (2004a). Kinh thi, t.I. Hà Nội: Nhà xuất bản Văn học. Khổng Tử. (2004b). Kinh thư. Hà Nội: Nhà xuất bản Văn hóa - Thông tin. Lương Ninh chủ biên và các cộng sự. (2014). Lịch sử thế giới cổ đại. Hà Nội: Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf1569815937_08_bui_quoc_hung_xpdf_3788_2189594.pdf
Tài liệu liên quan