Chuyên đề Một số giải pháp góp phần hoàn thiện quy trình thu thuế xuất nhập khẩu tại Cục Kiểm tra thu thuế xuất nhập khẩu Tổng cục Hải quan

Tài liệu Chuyên đề Một số giải pháp góp phần hoàn thiện quy trình thu thuế xuất nhập khẩu tại Cục Kiểm tra thu thuế xuất nhập khẩu Tổng cục Hải quan: Lời mở đầu Phát triển và hội nhập là một trong những xu thế lớn của thời đại. Ngày nay, khu vực hoá, quốc tế hoá, tham gia vào các liên minh kinh tế Quốc tế là xu thế phát triển kinh tế khách quan của hầu hết các quốc gia trên thế giới. Không một quốc gia nào có thể tồn tại độc lập trong khuôn khổ một nền kinh tế khép kín, tự cung, tự cấp như trước đây. Sự luân chuyển của các nguồn lực kinh tế bị bó hẹp, hạn chế trong biên giới quốc gia và sự kiểm soát của các chính sách điều chỉnh kinh tế theo ý chí của Nhà nước làm cho sự phân bố hiệu quả của các nguồn lực kinh tế thế giới bị giảm sút đồng thời tạo nên sự chênh lệch tương đối giữa các quốc gia. Xuất phát từ quan điểm đó tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, Đảng và Nhà nước ta đã thực hiện chính sách kinh tế “mở cửa”, phát triển nền kinh tế theo định hướng Xã hội chủ nghĩa, thực hiện phương châm “Việt Nam sẵn sàng làm bạn với tất cả các nước”. Sau hơn 10 năm thực hiện chính sách đổi mới, hoạt động kinh tế, đặc biệt là hoạt động ...

docx48 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1180 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Chuyên đề Một số giải pháp góp phần hoàn thiện quy trình thu thuế xuất nhập khẩu tại Cục Kiểm tra thu thuế xuất nhập khẩu Tổng cục Hải quan, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu Phát triển và hội nhập là một trong những xu thế lớn của thời đại. Ngày nay, khu vực hoá, quốc tế hoá, tham gia vào các liên minh kinh tế Quốc tế là xu thế phát triển kinh tế khách quan của hầu hết các quốc gia trên thế giới. Không một quốc gia nào có thể tồn tại độc lập trong khuôn khổ một nền kinh tế khép kín, tự cung, tự cấp như trước đây. Sự luân chuyển của các nguồn lực kinh tế bị bó hẹp, hạn chế trong biên giới quốc gia và sự kiểm soát của các chính sách điều chỉnh kinh tế theo ý chí của Nhà nước làm cho sự phân bố hiệu quả của các nguồn lực kinh tế thế giới bị giảm sút đồng thời tạo nên sự chênh lệch tương đối giữa các quốc gia. Xuất phát từ quan điểm đó tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, Đảng và Nhà nước ta đã thực hiện chính sách kinh tế “mở cửa”, phát triển nền kinh tế theo định hướng Xã hội chủ nghĩa, thực hiện phương châm “Việt Nam sẵn sàng làm bạn với tất cả các nước”. Sau hơn 10 năm thực hiện chính sách đổi mới, hoạt động kinh tế, đặc biệt là hoạt động xuất nhập khẩu, đầu tư, du lịch phát triển mạnh mẽ. Để đạt được kết quả đó các cấp, các ngành đã phải hết sức nỗ lực phấn đấu, trong đó phải kể tới đóng góp không nhỏ của ngành Hải quan. Hoàn thiện quy trình thu thuế xuất nhập khẩu nhằm tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động xuất nhập khẩu, đảm bảo quản lý thu thuế xuất nhập khẩu, phục vụ cho mục tiêu tăng trưởng, ổn định và bền vững trong thời kỳ phát triển mới của đất nước. Luật Hải quan ra đời đã đánh dấu một bước ngoặt lớn trong cải cách thủ tục Hải quan. Vì vậy việc thực hiện tốt Luật Hải quan và cải cách quy trình thu thuế xuất nhập khẩu sẽ góp phần đưa hoạt động xuất nhập khẩu theo định hướng của Nhà nước. Xuất phát từ nhu cầu thực tế, tầm quan trọng của công tác thu thuế xuất nhập khẩu và sự cần thiết phải cải cách thủ tục Hải quan, kết hợp với những kiến thức lĩnh hội được trong thời gian thực tập tại Cục Kiểm tra thu thuế xuất nhập khẩu Tổng cục Hải quan em đã lựa chọn đề tài “Một số giải pháp góp phần hoàn thiện quy trình thu thuế xuất nhập khẩu tại Cục Kiểm tra thu thuế xuất nhập khẩu Tổng cục Hải quan”. Toàn bộ nội dung chính của đề tài bao gồm: Chương I Sự cần thiết phải hoàn thiện quy trình thu thuế xuất nhập khẩu. Chương II Tổ chức thực hiện quy trình thu thuế xuất nhập khẩu tại Cục Kiểm tra thu thuế xuất nhập khẩu Tổng cục Hải quan. Chương III Một số giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện quy trình thu thuế xuất nhập khẩu. Do tính thời sự của đề tài và quy trình thu thuế xuất nhập khẩu mới được sửa đổi, nên các vấn đề được giải quyết trong đề tài có thể còn một số bất cập, em rất mong nhận được sự góp ý của thầy cô, bạn bè và những người quan tâm để đề tài này hoàn thiện hơn. Chương I Sự cần thiết phải hoàn thiện quy trình thu thuế xuất nhập khẩu 1.1.Những nhận thức cơ bản về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. 1.1.1 Khái niệm, đặc điểm của thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu (hay còn gọi là thuế quan) là thuế đánh vào hàng hoá được phép xuất khẩu, nhập khẩu qua biên giới của một nước, kể cả hàng hoá đưa vào khu chế xuất và từ khu chế xuất đưa vào tiêu thụ trong nước. Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là một khoản nộp đã có từ lâu đời, nó được hình thành từ thời chiếm hữu nô lệ đến thời kỳ phong kiến, đặc biệt nó phát triển ở Anh và ở Pháp vào thế kỷ XVII đến thế kỷ XVIII. Tuy nhiên, ở mỗi nước và mỗi thời kỳ khác nhau sẽ có cách nhìn nhận khác nhau về vị trí và vai trò của thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu có đặc điểm: - Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là loại thuế gián thu nhằm động viên một phần giá trị mới nằm trong giá cả hàng hoá trao đổi qua biên giới một nước. Người tiêu dùng là người chịu thuế. Người nộp thuế là các tổ chức, cá nhân có hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu. - Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu thu vào các nhóm hàng, mặt hàng xuất khẩu hoặc nhập khẩu. Trên thế giới, bất kỳ quốc gia nào cũng phải xây dựng hệ thống thuế đồng thời thiết lập các cơ quan chức năng quản lý thu thuế. Ở Việt Nam, công tác tổ chức quản lý thu thuế xuất nhập khẩu được giao cho Tổng cục Hải quan. 1.1.2 Mục đích của việc đánh thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. Xu hướng chung của toàn cầu là chuyển từ đối đầu sang đối thoại, chuyển từ chiến tranh sang hợp tác kinh tế, do vậy việc hội nhập kinh tế của mỗi quốc gia vào khu vực cũng như thế giới là cần thiết. Tuy nhiên, mỗi quốc gia đều có hoàn cảnh lịch sử kinh tế cụ thể nên khi hội nhập cần có một hệ thống chính sách kinh tế phù hợp với những cam kết của tổ chức mà họ tham gia đồng thời hệ thống chính sách này phải mang lại lợi ích cho quốc gia đó. Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là một bộ phận quan trọng của hệ thống các chính sách thuế. Sử dụng thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu để bảo vệ nền sản xuất trong nước tuỳ theo đặc điểm kinh tế của mỗi nước và điều tiết vĩ mô nền kinh tế theo những mục tiêu khác nhau. Tuy nhiên hầu hết các nước đều coi thuế quan là công cụ đóng vai trò che chắn cho nền sản xuất trong nước trước sự cạnh tranh kinh tế trong hoạt động ngoại thương. Vì thế thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu được sử dụng với mục đích kiểm soát ngoại thương bằng cách tất cả các nước đều thông qua thuế quan để điều chỉnh kinh tế nội địa và kiểm soát hoạt động trao đổi, mua bán hàng hoá với quốc gia khác theo hướng có lợi cho quốc gia mình. Bên cạnh đó, sử dụng thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu vì mục đích ngân khố cũng được coi trọng ở các nước đang phát triển vì ở những nước này nguồn thu cho NSNN còn eo hẹp. Hiện nay, theo xu hướng chung trên thế giới, mục đích chủ yếu của thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là thực hiện chức năng kiểm soát hàng xuất nhập khẩu phù hợp với thông lệ quốc tế, với khu vực đảm bảo nguồn thu, chi NSNN, yêu cầu bảo vệ sản xuất được giải quyết bằng cách tạo môi trường đầu tư trực tiếp từ nước ngoài thật thông thoáng và hấp dẫn, các nhà sản xuất trong nước được ưu đãi về nhiều mặt đặc biệt là nhằm mục đích sản xuất nhiều loại hàng hoá phục vụ tiêu dùng trong nước và hướng tới xuất khẩu. 1.1.3 Vai trò của thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu trong nền kinh tế thị trường. Cùng với thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt và những sắc thuế tiên tiến khác, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu cũng thể hiện vai trò của nó trong nền kinh tế mới. - Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là nguồn thu lớn trong số thu của NSNN. Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động xuất nhập khẩu đã thực sự đóng một vai trò lớn đối với các quốc gia. Trước đây, khi Việt Nam chưa thực hiện chính sách kinh tế mở cửa, mở rộng kinh tế đối ngoại, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu không phát huy được ưu điểm của mình là điều tiết hoạt động xuất nhập khẩu vì hầu hết các mặt hàng xuất nhập khẩu đều do Nhà nước sắp đặt kế hoạch trước. Từ khi chuyển đổi từ cơ chế tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước, Việt Nam đã mở rộng quan hệ buôn bán trao đổi với hơn 100 nước trên thế giới. Các mặt hàng xuất khẩu, nhập khẩu ngày càng thêm phong phú và đa dạng cả về số lượng và chất lượng. Số thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu ngày một tăng với kim ngạch xuất khẩu không ngừng tăng lên. Hiện nay, số thu về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu chiếm khoảng 20%-25% tổng số thu NSNN từ thuế. (Biểu1) Biểu 1: Tình hình thu nộp thuế XNK trong tổng thu NSNN Đơn vị: tỉ USD Năm Thuế xuất nhập khẩu Tỉ lệ so với tổng số thuế 1997 1.180 21,8% 1998 1.235 22,0% 1999 1.438 23,1% 2000 1.456 23,7% 2001 1.680 27,4% - Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là công cụ góp phần thực hiện nhiệm vụ quản lý Nhà nước về Hải quan, kiểm tra các hoạt động xuất nhập khẩu, vừa điều tiết vĩ mô hoạt động xuất nhập khẩu, vừa kích thích định hướng hoạt động xuất nhập khẩu, vừa hướng dẫn người tiêu dùng. Hiện nay hoạt động hợp tác giao lưu kinh tế với các nước diễn ra mạnh mẽ. Nhà nước không thể lấy kế hoạch để định hướng, mà hoạt động xuất nhập khẩu phải tuân theo quy luật thị trường. Vì vậy Nhà nước muốn điều tiết được hoạt động xuất nhập khẩu thì phải sử dụng công cụ pháp luật, công cụ tài chính để điều tiết hoạt động này. Việc điều tiết được thông qua hệ thống các chính sách trong đó chính sách thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là một công cụ linh hoạt và hiệu quả để Nhà nước thực hiện chức năng quản lý của mình. Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu có tác dụng khuyến khích hoặc hạn chế tiêu dùng thông qua việc điều chỉnh thuế suất. Xây dựng biểu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, chính sách miễn giảm thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, Nhà nước có thể thực hiện việc kiểm soát và hướng dẫn hoạt động xuất nhập khẩu và điều chỉnh cơ cấu kinh tế cho phù hợp với đường lối phát triển kinh tế xã hội, thu hút đầu tư nước ngoài, thực hiện công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước. - Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu góp phần bảo hộ nền sản xuất trong nước. Để thực hiện chức năng và đường lối chính sách của quốc gia mình, các nước đều sử dụng thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. Sự tồn tại của thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là tất yếu khách quan nhưng mức độ quan trọng của thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu ở mỗi quốc gia còn tuỳ thuộc vào ý chí của mỗi quốc gia đó. Tuy nhiên không thể không thừa nhận vai trò quan trọng của thuế quan là bảo hộ nền sản xuất trong nước. Nhờ có vai trò quan trọng này, Nhà nước có thể bảo vệ, trợ giúp các thành phần kinh tế trong điều kiện cần thiết, tạo ra một hành lang pháp lý thuận lợi giúp cho các doanh nghiệp có điều kiện phát triển hoạt động của mình, có thể đứng vững và vươn lên trong cơ chế trị trường, đồng thời tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là một khoản chi phí nằm trong giá thành hàng hoá. Nó ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận thu được của doanh nghiệp. Trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt như hiện nay thì giá cả là vấn đề được quan tâm hàng đầu, cạnh tranh về giá bao giờ cũng là cạnh tranh có hiệu quả nhất. Với những đặc tính như vậy, Nhà nước sẽ sử dụng thuế quan để kích thích hoặc hạn chế những mặt hàng theo nhu cầu riêng. Đối với những hoạt động nhập khẩu, để hạn chế nhập (hay khuyến khích nhập) một mặt hàng nào đó, ngoài các chính sách phi thuế quan như cấp giấy phép, quota...Nhà nước có thể điều chỉnh thuế suất tăng (giảm hoặc đôi khi không đánh thuế) vào mặt hàng đó. Với hoạt động nhập khẩu, nếu muốn khuyến khích nhập thì Nhà nước sẽ sử dụng thuế suất ưu đãi nhằm tăng khả năng cạnh tranh của những mặt hàng đó, còn nếu muốn hạn chế nhập thì điều chỉnh thuế suất cao. Như vậy vai trò bảo hộ nền sản xuất trong nước của thuế quan sẽ còn được Nhà nước sử dụng để thúc đẩy hơn nữa nền kinh tế của mỗi quốc gia. - Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu góp phần thực hiện chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước trong quan hệ quốc tế, góp phần đảm bảo bình đẳng và công bằng xã hội. Mục tiêu của Đảng và Nhà nước ta giai đoạn 2001-2010 đặt ra là: “Chính sách tài khoá giai đoạn 2001-2010 phải đảm bảo cho nền kinh tế tài chính chủ động hội nhập quốc tế một cách hiệu quả theo tốc độ và mức độ hợp lý ”. Khi tham gia vào các tổ chức thương mại quốc tế, Việt Nam cũng phải tuân thủ đúng các quy định mà các tổ chức đó đề ra. Cùng với các sắc thuế khác, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu cũng góp phần thục hiện những yêu cầu đó đồng thời thực hiện đúng chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước đề ra khi hội nhập với khu vực và thế giới là “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước”. 1.2. Nội dung của thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu và quy trình thu thuế XNK ở nước ta hiện nay. 1.2.1. Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu ở Việt Nam. Trước đây, hoạt động xuất nhập khẩu của nước ta còn rất giản đơn, hoạt động ngoại thương buôn bán trao đổi chưa phát triển. Những mặt hàng chủ yếu là nông sản, lâm sản được xuất sang các nước XHCN thường là để trả nợ cho Chính phủ, hoặc xuất khẩu sang các nước XHCN đã có Hiệp ước ưu đãi về thuế quan, giá xuất khẩu thường không đủ bù đắp chi phí thu mua sản xuất. Còn hàng hoá nhập khẩu chủ yếu là hàng viện trợ hoặc hàng mua của các nước có thuế suất rất thấp. Trong giai đoạn này, hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá không mang tính chất ngoại thương. Nó không theo quy luật cạnh tranh, quy luật giá trị của nền kinh tế thị trường. Hàng hoá xuất nhập khẩu đều do Nhà nước ấn định và thông thường Nhà nước phải lấy từ ngân sách để bù lỗ cho các đơn vị có hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu thực hiện chế độ thu bù chênh lệch ngoại thương. Do đó hoạt động xuất nhập khẩu hoàn toàn trong thế bị động và thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu không có khả năng điều tiết hoạt động xuất nhập khẩu, không có khả năng khuyến khích sản xuất hàng hoá phát triển và cũng không có khả năng tạo nguồn thu cho NSNN. Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu được ban hành ở nước ta vào năm 1987 với tên gọi “Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu hàng mậu dịch”. Sau đó, đến năm 1991 và năm 1993 Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu được sửa đổi nhưng vẫn chỉ phù hợp trong điều kiện Việt Nam chưa gia nhập ASEAN. Để đáp ứng thực hiện nhiệm vụ mới tại kỳ họp thứ 3 Quốc hội khoá X-1998, Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu sửa đổi bổ sung đã được Quốc hội thông qua với sự thay đổi cơ bản về thuế suất, thời hạn tính thuế, xử lý vi phạm...góp phần tạo nên môi trường thuận lợi cho hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam trong tiến trình hội nhập vào khu vực và liên kết kinh tế quốc tế. Một trong những nét đặc biệt của thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là thuế suất. Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu được sửa đổi bổ sung (áp dụng 01/01/1999) đã quy định 3 loại thuế suất đối với hàng nhập khẩu: - Thuế suất phổ thông: áp dụng cho hàng hoá nhập khẩu có xuất xứ từ nước ngoài hoặc khối các nước không có thoả thuận đối xử tối huệ quốc trong quan hệ thương mại với nước ta; - Thuế suất ưu đãi: áp dụng cho hàng hoá nhập khẩu có xuất xứ từ nước hoặc khối các nước có thoả thuận về đối xử tối huệ quốc trong quan hệ thương mại với Việt Nam; - Thuế suất ưu đãi đặc biệt: áp dụng cho hàng hoá nhập khẩu có xuất xứ từ khối các nước có thoả thuận ưu đãi về thuế nhập khẩu theo thể chế khu vực thương mại tự do hoặc khối các nước có thoả thuận ưu đãi về thuế nhập khẩu theo thể chế khu vực thương mại tự do hoặc thương mại biên giới. - Ngoài thuế suất phổ thông, thuế suất ưu đãi và thuế suất ưu đãi đặc biệt, hàng hóa nhập khẩu trong một số trường hợp còn bị đánh thuế suất bổ sung. Tuy vậy, Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan vẫn bộc lộ những hạn chế như về biểu thuế, về thuế quan trừng phạt đối với hàng nhập khẩu, về xử lý vi phạm và kiểm tra thu thuế... khiến các cơ quan chức năng gặp nhiều khó khăn. Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu sửa đổi bổ sung năm 1999 là một bước cải cách quan trọng đảm bảo chính sách thuế của Việt Nam phù hợp với thông lệ quốc tế và tạo cơ sở thực hiện đúng nguyên tắc chỉ thực hiện bảo hộ thông qua thuế quan, đồng thời tạo thuận lợi để Việt Nam từng bước cắt giảm hàng rào thuế quan của mình theo xu hướng tự do hoá thương mại và quan trọng hơn cả là khắc phục được những hạn chế còn tồn tại nêu trên. 1.2.2. Nội dung của quy trình thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu ở nước ta. Nội dung của quy trình thu thuế XNK trước đây. Quy trình thu thuế XNK là trình tự các bước tiến hành thu thuế XNK vào NSNN được quy định thành luật, pháp lệnh và các văn bản dưới luật buộc các cơ quan Hải quan và cán bộ thu thuế khi thực hiện nhiệm vụ phải chấp hành. Mỗi bộ phận trong quy trình đều có chức năng và nhiệm vụ nhất định do đó phải bố trí cán bộ cho phù hợp với từng bộ phận của quy trình thu thuế nhằm đảm bảo cho các bộ phận trong quy trình hoạt động có hiệu quả, góp phần hoàn thành nhiệm vụ chung cho toàn ngành Hải quan. Theo Quyết định số 383/1998/QĐ-TCQH quy trình thu thuế XNK gồm 4 bước, theo trình tự sau: Bước 1: Người khai báo hải quan tự kê khai tính thuế, nộp thuế: - Bộ hồ sơ khai báo với hải quan gồm các loại giấy tờ phải nộp hoặc xuất trình khi làm thủ tục hải quan theo quy định; - Người khai báo hải quan tự kê khai đầy đủ, chính xác nội dung những tiêu thức ghi trên tờ khai hàng hoá xuất nhập khẩu theo bản hướng dẫn đính kèm tờ khai; - Dựa vào căn cứ tính thuế đã kê khai và xác định mã số thuế, thuế suất, giá tính thuế theo quy định để tự tính toán số thuế phải nộp của từng loại thuế. Bước 2: Tiếp nhận đăng ký tờ khai hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu. - Tiếp nhận hồ sơ; - Kiểm tra bộ hồ sơ và tờ khai hải quan đã đầy đủ, chính xác đảm bảo hợp pháp, hợp lệ cho một bộ chứng từ làm thủ tục hải quan theo quy định của từng loại hình XNK; - Nếu bộ hồ sơ đủ điều kiện thì cho đăng ký tờ khai; Phân loại hồ sơ hàng hoá theo luồng (luồng xanh, luồng vàng, luồng đỏ). - Chuyển bộ hồ sơ cho bộ phận thuế; - Chuyển những nghi vấn, lập biên bản vi phạm đến các bộ phận có liên quan xử lý. Bước 3. Thu thuế- Kiểm hoá- Giải phóng hàng. - Căn cứ các quy định của Pháp luật về thời gian nộp thuế, trên cơ sở số thuế phải nộp do người khai báo hải quan tự tính, cơ quan Hải quan ra thông báo thuế và yêu cầu đối tượng nộp thuế thực hiện theo đúng quy định; - Bộ hồ sơ được chuyển đến bộ phận kiểm hoá và tiến hành kiểm hoá theo đúng nguyên tắc được quy định; - Chuyển các nghi vấn, biên bản vi phạm đến các bộ phận liên quan để xử lý; - Giải phóng hàng sau khi đã: + Nộp thuế hoặc bảo lãnh được chấp nhận đối với hàng phải nộp thuế ngay; + Có thông báo thuế đối với hàng được gia hạn về thời gian nộp thuế; - Giám sát việc giải phóng hàng; - Chuyển hồ sơ tới bộ phận thuế. Bước 4: Kiểm tra- Xử lý vi phạm. - Kiểm tra kết quả tự kê khai, tự tính thuế của người khai báo hải quan; - Căn cứ kết quả kiểm hoá, nguyên tắc xác định mã số thuế, thuế suất, giá tính thuế và khai báo của người khai báo hải quan xác định đúng số thuế phải nộp; - Xử lý các vi phạm về thuế; - Ra Quyết định điều chỉnh số thuế phải nộp; - Kế toán thu nộp thuế; - Phúc tập, xác định hồ sơ phải kiểm tra tiếp các khâu liên quan sau khi thông quan; - Sắp xếp lưu trữ hồ sơ. Đường lối đổi mới, chính sách “mở cửa”, xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã tạo cơ hội cho kinh tế đối ngoại, hoạt động xuất nhập khẩu, đầu tư, du lịch... phát triển mạnh mẽ với nhiều loại hình đa dạng như: Kho ngoại quan, khu chế xuất, khu công nghiệp, tạm nhập, tái xuất, chuyển khẩu... Các hoạt động trên đòi hỏi phải nhanh chóng tháo gỡ những ách tắc, phải thông thoáng; vừa phải nhanh chóng giải phóng được hàng hoá, vừa phải quản lý chặt chẽ, đúng chính sách, pháp luật. Vì vậy, quy trình thu thuế XNK ra đời. Áp dụng quy trình thu thuế nhằm thực hiện đúng, chính xác các luật thuế: Xuất nhập khẩu, Giá trị gia tăng, Tiêu thụ đặc biệt... đối với hàng hoá xuất nhập khẩu, đảm bảo mục tiêu “thu đúng, thu đủ, nộp kịp thời tiền thuế vào NSNN”, đồng thời việc đẩy mạnh công tác cải cách thủ tục hải quan thông thoáng và quản lý chặt chẽ hoạt động xuất nhập khẩu sẽ phát huy vai trò tự chủ, sáng tạo, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp chủ động trong kinh doanh, tự chịu trách nhiệm trước pháp luật trong việc tự khai báo; tự tính thuế; cũng như tăng cường vai trò thực hiện chức năng nhiệm vụ của ngành Hải quan trong viêc kiểm tra, giám sát hoạt động xuất nhập khẩu, đảm bảo nguồn thu cho NSNN. Bên cạnh đó, quy trình còn thực hiện chính xác công tác thống kê các mặt về xuất nhập khẩu. 1.2.2.2. Nội dung của quy trình thu thuế XNK hiện nay. Hiện nay ở nước ta đang áp dung quy trình hành thu mới theo Quyết định số 1494/2001/QĐ-TCHQ ngày 26/12/2001 của Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan. Nội dung của quy trình được tóm tắt như sau. * Quy trình thủ tục hải quan đối với hàng xuất khẩu theo hợp đồng (Sơ đồ 1): Bước 1: Tiếp nhận, đăng ký tờ khai hải quan và quyết định hình thức kiểm tra thực tế hàng hoá. Bước 2: Kiểm tra thực tế hàng hoá, kiểm tra tính thuế. * Quy trình thủ tục hải quan đối với hàng hoá nhập khẩu theo hợp đồng (Sơ đồ 2): Bước 1: Tiếp nhận, đăng ký tờ khai hải quan và quyết định hình thức kiểm tra thực tế hàng hoá. Bước 2: Kiểm tra thực tế hàng hoá. Bước 3: Kiểm tra tính thuế. 1.2.3. Sự cần thiết phải tiếp tục hoàn thiện quy trình thu thuế XNK. Thời gian qua ngành Hải quan đã có nhiều cố gắng đổi mới trong công tác tập trung nghiên cứu cải tiến thủ tục hải quan theo hướng đơn giản, thuận tiện, theo những yêu cầu và nhiệm vụ cụ thể của ngành Hải quan: “Tạo thông thoáng ở cửa khẩu, giảm bớt sự chờ đợi, ùn tắc của khách xuất nhập cảnh, giải phóng nhanh hàng hoá, nhanh chóng phát hiện và xử lý kịp thời những hành vi vi phạm luật lệ Hải quan, tăng thu cho NSNN”. Tuy vậy, quy trình thu thuế XNK vẫn còn những tồn tại cần tháo gỡ. * Quy trình thu thuế cần cải tiến chủ yếu xuất phát từ sự thay đổi thường xuyên về các chế độ chính sách thuế liên quan đến công tác hải quan, những điểm bất hợp lý của quy trình cũ dẫn đến một số hồ sơ phải cần nhiều bút toán để điều chỉnh thuế. Hơn nữa trong những năm gần đây, lượng hàng hoá xuất nhập khẩu rất đa dạng, phức tạp với trên 5.000 nhóm mặt hàng được phân loại mã số gồm 8 chữ số nên trong qúa trình thực hiện gặp không ít khó khăn. Việc phân chia mã hàng hoá không theo tiêu chuẩn kỹ thuật nhất định. Đôi khi trong thực tế có những hàng hoá vừa xếp mã theo tính chất mặt hàng, vừa xếp theo công dụng của hàng hoá; phần lớn các mặt hàng trong biểu thuế XNK được đánh theo mục đích sử dụng, số ít được đánh theo tính chất mặt hàng, những điều đó tạo không ít sơ hở cho các đơn vị kinh doanh XNK tận dụng gây thất thu cho NSNN nên cần thiết phải đổi mới quy trình thu thuế. * Luật Hải quan ra đời đã đánh dấu một bước ngoặt đáng kể trong ngành Hải quan. Những cơ hội và thách thức mới đòi hỏi phải có những phương thức áp dụng hợp lý hơn. Nhưng trong quá trình đổi mới vẫn còn một số thủ tục chưa được cải tiến kịp thời, chưa phù hợp với thông lệ quốc tế. * Quy trình thu thuế theo Quyết định số 383/1998/QĐ-TCHQ vẫn còn tồn tại những vướng mắc như: Theo quy trình này, dựa trên tờ khai hải quan, căn cứ vào số thuế do người khai hải quan tự tính, cơ quan Hải quan ra thông báo thuế và đối tượng nộp thuế sẽ nộp tiền theo số tiền ghi trên thông báo (đối với trường hợp phải nộp thuế ngay), sau đó cơ quan Hải quan mới tiến hành kiểm hoá. Như vậy việc ra thông báo thuế lần đầu chỉ là hình thức. Sau khi tiến hành kiểm hoá, phát hiện sai sót mới điều chỉnh số thuế doanh nghiệp nộp tức là ra thông báo thuế lần 2, tương ứng với việc cơ quan Hải quan phải viết 2 lần biên lai thu thuế gây trùng lặp, làm tăng khối lượng công việc, tăng khối lượng hồ sơ quản lý, hạn chế công tác phúc tập hồ sơ hoặc làm thủ tục hoàn thuế. Đây là công việc rất phức tạp vì cơ quan Hải quan không được phép hoàn trả trực tiếp cho doanh nghiệp mà phải thông qua thanh toán bù trừ hoặc xác nhận để Bộ Tài chính hoàn trả. Việc kiểm tra sau thông quan: Cũng theo quy trình này, kiểm tra sau thông quan mới chỉ dừng lại ở việc phúc tập hồ sơ phải kiểm tra ở các khâu sau thông quan, tức là vẫn trong phạm vi kiểm tra, giám sát của Hải quan. Nhưng trên thực tế, sau khi thông quan doanh nghiệp được giải phóng hàng, số hàng đã được tiêu thụ hết, cán bộ Hải quan chỉ có thể kiểm tra trên cơ sở hồ sơ về hàng hoá nhập khẩu mà doanh nghiệp khai báo, còn chủng loại và khối lượng hàng hoá mà doanh nghiệp bán thì cán bộ Hải quan không xác định được vì không có quyền kiểm tra sổ sách của doanh nghiệp. Về mẫu tờ khai hải quan HQ 99-XNK: Mẫu tờ khai được thiết kế phức tạp, có tới 38 mục khai chi tiết dành cho doanh nghiệp gây khó khăn nhiều trong việc kê khai. Giá thanh toán được áp dụng không đồng nhất gây mất chính xác khi phân bổ chi phí bảo hiểm, chi phí vận chuyển và gây sai số khi quy đổi từ nguyên tệ ra đồng nội tệ. Trên tờ khai không có phần để người nhận tờ khai ký nhận mà chỉ có quy định đóng dấu trực tiếp nhận tờ khai. Như vậy khi nhận tờ khai, cán bộ Hải quan không biết có phải ký nhận vào tờ khai hay không và nếu ký nhận thì ký vào đâu. - Về việc sử dụng phụ lục tờ khai: Với các hoạt động không được miễn sử dụng phụ lục, tờ phụ lục chỉ giới hạn khai tối đa 5 mặt hàng hoá là quá ít. Hơn nữa, đối với lô hàng có nhiều mặt hàng, nhiều chủng loại, phạm vi để cán bộ kiểm hoá xác nhận kết quả kiểm hoá chưa phù hợp. Không có ô để cán bộ tính thuế tính lại thuế lần 3 hoặc lần 4 nếu có sự thay đổi số tiền thuế phải nộp trong trường hợp xảy ra tranh chấp, khiếu nại; - Về giá trính thuế VAT và đối tượng chịu thuế VAT của hàng XNK cũng có những bất cập. Ví dụ đối với các tài liệu, ấn phẩm chuyển phát nhanh theo đường DHL, TNT với số lượng lớn là loại ấn phẩm có thuế suất 0%. Nhưng đây lại là đối tượng chịu thuế VAT. Khi làm thủ tục hải quan thì các tài liệu này được gửi cho nhiều hãng, nhiều tổ chức, cá nhân có cùng chung một vận đơn hàng không. Loại ấn phẩm, tài liệu này không có giá tính thuế. Như vậy, người làm thủ tục nhận hàng là các tổ chức chuyển phát nhanh không biết giá kê khai, người nhận hàng cũng không xác định được giá và không có cơ sở tính thuế VAT với hàng nhập khẩu có thuế suất khác 0%; - Về chứng nhận xuất xứ: Theo quy định của Tổng cục Hải quan cho phép áp dụng thuế suất ưu đãi đối với hàng tiểu ngạch mà không cần C/O nếu Hải quan có thể xác định xuất xứ, nhưng trên thực tế, có nhiều lô hàng giá trị lớn vẫn nhập khẩu theo đường tiểu ngạch để được hưởng sự ưu đãi này. Như vậy, có thể dẫn đến thất thu thuế; - Về phương pháp tính giá hải quan: Theo quy định đối với những mặt hàng Nhà nước không quản lý giá thì chỉ áp giá theo bảng giá tối thiểu khi hợp đồng không có đủ các điều kiện quy định. Trên thực tế, có một số mặt hàng nhập khẩu thuộc danh mục Nhà nước quản lý giá và hợp đồng nhập khẩu có đủ các điều kiện để tính giá theo hợp đồng, song khi đăng ký tờ khai, không ít doanh nghiệp phải áp giá tối thiểu hoặc áp giá hợp đồng nếu giá hợp đồng cao hơn giá tối thiểu. Điều này không hợp lý; - Về việc áp mã tính thuế, thoái thu thuế: Việc áp mã tính thuế nhiều khi chưa được chính xác bởi có những văn bản quy định không rõ ràng đối với từng mặt hàng. Sau khi tính thuế, hàng hoá được giải phóng nhưng để tính thuế một cách chính xác lại phải mất nhiều công văn giữa các Bộ, ngành và Tổng cục Hải quan đến Hải quan địa phương. Nếu tính thuế sai thì việc thoái thu thuế rất khó khăn vì còn liên quan đến nhiều Bộ, ngành. Việc truy thuế cũng rất phức tạp, muốn được truy hoàn thì ít nhất cũng phải có hai Quyết định là Quyết định giảm thuế và Quyết định hoàn thuế. Xuất phát từ yêu cầu thực tế và những tồn tại, quy trình thu thuế xuất nhập khẩu theo Quyết định số 383/1999/QĐ-TCHQ thật sự cần thiết phải thay đổi để phù hợp với yêu cầu hội nhập. Chương II Tổ chức thực hiện quy trình thu thuế xuất nhập khẩu tại Cục Kiểm tra thu thuế XNK Tổng cục Hải quan 2.1. Cục Kiểm tra thu thuế XNK với công tác quản lý hoạt động XNK 2.1.1 Khái quát về Cục Kiểm tra thu thuế xuất nhập khẩu. Hải quan là cơ quan quản lý Nhà nước đối với hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, xuất cảnh, nhập cảnh, đấu tranh chống buôn lậu và gian lận thương mại qua cửa khẩu và biên giới Việt Nam. Nghị định số 16-CP ngày 07/3/1994 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ và tổ chức bộ máy Hải quan Việt Nam theo nguyên tắc tập trung thống nhất gồm: a) Bộ máy giúp Tổng cục trưởng thực hiện chức năng quản lý Nhà nước: 1. Cục Giám sát, quản lý về hải quan; 2. Cục Kiểm tra thu thuế xuất nhập khẩu; 3. Cục Điều tra chống buôn lậu; 4. Vụ Pháp chế; 5. Vụ Quan hệ quốc tế; 6. Vụ Kế hoạch và tài vụ; 7. Vụ Tổ chức cán bộ và đào tạo; 8. Thanh tra; 9. Văn phòng. b) Các đơn vị sự nghiệp trực thuộc: Trung tâm Tin học và thống kê hải quan; Viện Nghiên cứu khoa học hải quan. Trong đó Cục Kiểm tra thu thuế xuất nhập khẩu có nhiệm vụ quản lý thu thuế xuất nhập khẩu, đảm bảo thu đúng, thu đủ, thu kịp thời cho NSNN. Thực hiện các biện pháp chống gian lận thương mại gây thất thu thuế. Hơn nữa, Cục Kiểm tra thu thuế xuất nhập khẩu còn là một trong những cánh tay đắc lực của bộ máy giúp Tổng cục Hải quan trong việc tham vấn cho Nhà nước về đường lối, chính sách thuế xuất khẩu, nhập khẩu và giúp Tổng cục thực hiện chức năng quản lý Nhà nước của mình. Cục Kiểm tra thu thuế xuất nhập khẩu được chia thành 6 phòng, ban, đảm nhận những công việc và chức năng khác nhau: Phòng Kế hoạch: có chức năng xây dựng kế hoạch thu thuế và các khoản thu khác ngoài thuế, phân bổ chỉ tiêu kế hoạch cho Hải quan các địa phương, đồng thời thực hiện theo dõi tiến độ thực hiện kế hoạch thu thông qua số liệu tổng hợp, thống kê kế toán thuế; theo dõi tình hình nợ thuế, phân tích số nợ thuế trong hạn, quá hạn từ đó sẽ có những biện pháp đôn đốc thu thuế, cưỡng chế Hải quan. Phòng Chế độ chính sách: tham gia cùng với Bộ Tài chính trong việc hoạch định các chế độ chính sách về thuế, lệ phí, xây dựng các văn bản hướng dẫn Luật thuế, phí, lệ phí có liên quan tới hàng hoá xuất nhập khẩu, tham gia kiểm tra, xử lý các vi phạm về chính sách thuế, phí, lệ phí. Phòng Ấn chỉ: thực hiện công tác quản lý đối với toàn ngành Hải quan trong việc cấp phát, sử dụng và quyết toán ấn chỉ thuế, đảm bảo cung cấp kịp thời, đúng, đủ các loại ấn chỉ phục vụ công tác thu thuế, phí, lệ phí. Phòng Kiểm tra: có nhiệm vụ kiểm tra, phúc tập hồ sơ, tờ khai đã hoàn thành thủ tục Hải quan nhờ vậy sẽ phát hiện những sai phạm trong việc tính thuế để chống thất thu thuế; hoặc thực hiện kiểm tra sau giải phóng hàng khi phát hiện đối tượng có dấu hiệu gian lận thương mại, trốn thuế. Phòng Hướng dẫn nghiệp vụ và thuế suất: tham gia cùng Bộ Tài chính xây dựng các biểu thuế chi tiết cho từng loại hàng hoá xuất nhập khẩu; đồng thời hướng dẫn việc áp thuế suất đối với những mặt hàng theo yêu cầu của doanh nghiệp và các địa phương; xử lý các vi phạm áp thuế suất; về chính sách miễn giảm thuế, hoàn thuế. Cuối cùng là phòng Giá: đây là bộ phận đại diện cho Tổng cục Hải quan tham gia cùng với Bộ Tài chính hoạch định chính sách kinh tế về giá tính thuế; xây dựng biểu giá tính thuế; kiểm tra xử lý các vi phạm về giá tính thuế; giải quyết khiếu nại về giá tính thuế. 2.1.2. Vị trí của Cục Kiểm tra thu thuế xuất nhập khẩu trong công tác quản lý hoạt động XNK. Xuất phát từ tầm quan trọng của công tác kiểm tra thu thuế trong toàn bộ quy trình thủ tục hải quan đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu, Cục Kiểm tra thu thuế có một vị trí vô cùng quan trọng góp phần thực hiện xuất sắc nhiệm vụ đề ra của toàn ngành Hải quan. Chính vì vậy, Cục Kiểm tra thu thuế đã xác định rõ nhiệm vụ, phương hướng trong thời gian tới và cùng với những cố gắng khích lệ trong công tác kiểm tra, thu thuế xuất nhập khẩu của những năm qua, Cục đã khẳng định được mình, phát huy vai trò chủ đạo trong thực hiện đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước trong thời kỳ đổi mới, đảm bảo chức năng quản lý Nhà nước về Hải quan. Những con số sau sẽ thể hiện rõ hơn phần nào về cố gắng của Cục Kiểm tra thu thuế XNK Tổng cục Hải quan. Biểu 2: Kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam năm 2001 so với năm 2000 theo châu lục Châu lục Xuất khẩu Nhập khẩu Trị giá (triệu USD) Tỷ trọng (%) So với năm 2000 (%) Trị giá (triệu USD) Tỷ trọng (%) So với năm 2000 (%) Châu Á 8.776,16 58,40 1,79 12.880,12 79,69 0,26 Châu Âu 3.537,16 23,54 6,10 2.183,44 13,51 18,82 Châu Mỹ 1.461,05 9,72 38,09 651,37 4,03 18,67 Châu Đại Dương 1.078,30 7,18 -16,70 409,77 2,54 15,23 Châu Phi 174,57 1,16 23,99 37,63 0,23 -19,79 Tổng cộng 15.027,26 100,00 4,00 16.162,34 100,00 3,37 Trong đó ASEAN 2.510,72 16,71 -3,51 4.237,49 26,22 -4,81 EU 2.998,59 19,95 5,47 1526,38 9,44 15,78 APEC 10.353,11 68,90 1,01 13.791,07 85,33 2,74 Hoa Kỳ 1.065,33 7,09 45,44 411,51 2,55 5,03 * Về kết quả thu thuế xuất nhập khẩu: Trong thời gian thực hiện kế hoạch 5 năm (1996-2000) và kết thúc năm 2001, bước sang năn 2002 quy chế quản lý xuất nhập khẩu có nhiều thay đổi, bổ sung; hoạt động buôn lậu, gian lận thương mại có chiều hướng gia tăng và ngày càng phức tạp. Nhưng với những cố gắng, nỗ lực của bản thân và sự phối hợp đồng bộ của các cơ quan hữu quan, Cục Kiểm tra thu thuế đã hoàn thành chỉ tiêu thu nộp. - Trong tháng 10 năm 2000, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hoá đạt là 24,05 tỉ USD, tăng 30% so với cùng kỳ năm 1999. Trong đó nhập khẩu chiếm 52 % và xuất khẩu chiếm 48% tổng kim ngạch. Và trong 10 tháng đầu năm 2001 hàng hoá nhập khẩu đạt 12,39 tỉ USD, tăng 33,4 %; hàng hoá xuất khẩu đạt 11,66 tỉ USD, tăng gần 27%. Điều này cho thấy tình hình xuất nhập khẩu hàng hoá có nhiều chuyển biến tích cực với kết quả đạt được chưa từng có đặc biệt là so với cùng kỳ năm 1999. Nhập siêu trong 10 tháng cùng năm là 0,37 tỉ USD, chiếm khoảng 6,3% tổng kim ngạch xuất khẩu. - Trong tháng 12 năm 2001, kim ngạch hàng hoá xuất nhập khẩu đạt 2,816 tỉ USD, nâng tổng kim ngạch xuất khẩu trong năm lên xấp xỉ 31,2 tỉ USD, tăng 3,7 % so với 2000 (tương đương 1,11 tỉ USD). Đáng lưu ý là cả xuất khẩu và nhập khẩu của khu vực các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài đều tăng mạnh hơn mức tăng chung của tổng xuất khẩu và tổng nhập khẩu của cả nền kinh tế, cụ thể là xuất khẩu tăng 11%, nhập khẩu tăng 15%. Tình hình nhập siêu: Trong tháng 12 cán cân thương mại tiếp tục thâm hụt với kim ngạch 393,5 triệu USD, nâng tổng mức thâm hụt của cả năm lên 1.135 triệu USD.(Phụ lục số 1) * Về công tác kiểm tra, giám sát quản lý hải quan: Tình hình buôn lậu, gian lận thương mại trong những năm vừa qua vẫn tiếp tục diễn biến phức tạp, với thủ đoạn ngày càng tinh vi, đáng chú ý là gian lận qua giá tính thuế, mẫu mã hàng hoá, xuất xứ hàng hoá, lợi dụng sơ hở trong chính sách để trốn thuế... vì thế công tác kiểm tra hàng hoá, chống gian lận thương mại, chống hàng lậu càng trở nên quan trọng hơn. Năm 97-98, trên địa bàn nhiều tỉnh, thành đã tiến hành 229 cuộc thanh tra, kiểm tra, kiến nghị truy thu 13 tỉ đồng; 38.629 USD, phát hiện kiến nghị xử lý kỷ kuật nhiều cá nhân có sai phạm. Năm 1999, đã phát hiện lập biên bản 257 vụ vi phạm, trị giá tang vật ước tính khoảng 61,1 tỉ đồng, đã ra quyết định xử lý 248 vụ, trong đó phạt tiền 131 vụ, tịch thu 102 vụ, phạt theo luật thuế 4 vụ. Trong năm 2001, Cục KTTT XNK kết hợp với hải quan cửa khẩu sân bay Tân Sơn Nhất đã bắt được 4 vụ vận chuyển trái phép ma tuý xuất cảnh, nhập cảnh cùng hàng hoá theo đường hàng không. Cũng trong năm 2001 toàn ngành đã thu ngân sách vượt mức kế hoạch hơn 16,6% do chống gian lận thương mại có hiệu quả. Những kết quả trên đã khẳng định Cục KTTT XNK là cánh tay đắc lực trong bộ máy của Tổng cục Hải quan, đóng vai trò chủ yếu trong việc thực hiện chính sách xuất nhập khẩu, kiểm soát nhập khẩu trong cả nước. Trọng tâm năm 2002 chỉ tiêu giao thu ngân sách là 33.300 tỉ đồng, chiếm 1/3 tổng số thu cho NSNN vì thế toàn ngành Hải quan nói chung và Cục Kiểm tra thu thuế xuất nhập khẩu nói riêng phải nỗ lực phấn đấu hết sức mình. 2.2. Quy trình thu thuế XNK tại Cục Kiểm tra thu thuế xuất nhập khẩu. 2.2.1. Nội dung của quy trình thu thuế mới theo Quyết định số 1494/2001/QĐ-TCHQ và nét đổi mới so với quy trình cũ. 2.2.1.1. Nội dung của quy trình. Quy trình hành thu này được xây dựng theo nguyên tắc: Chặt chẽ, đúng chính sách; Thông thoáng, nhanh chóng, thuận tiện; Dân chủ, bình đẳng; Không phiền hà, tiêu cực; Phát huy tối đa tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của người khai báo hải quan, vai trò trách nhiệm giám sát kiểm tra của hải quan. * Quy trình thủ tục Hải quan đối với hàng xuất khẩu theo hợp đồng. Bước 1: Tiếp nhận, đăng ký tờ khai hải quan và quyết định hình thức kiểm tra thực tế hàng hoá. 1. Nhiệm vụ của công chức hải quan tiếp nhận, đăng ký tờ khai hải quan: Việc tiếp nhận, đăng ký tờ khai hải quan 01 lô hàng do 01 công chức hải quan thực hiện và chịu trách nhiệm làm đầy đủ các công việc sau đây: a) Kiểm tra sự đồng bộ và đầy đủ của hồ sơ hải quan theo quy định. Trường hợp không chấp nhận đăng ký hồ sơ hải quan thì phải thông báo lý do cho người khai hải quan biết; b) Kiểm tra việc kê khai theo nội dung yêu cầu trên tờ khai hải quan, chứng từ thuộc hồ sơ hải quan, sự phù hợp của nội dung khai hải quan với chứng từ thuộc hồ sơ hải quan; c) Đối chiếu với chính sách quản lý xuất khẩu với lô hàng xuất khẩu, chính sách về thuế, giá đối với lô hàng xuất khẩu; d) Nhập dữ liệu của tờ khai hải quan vào máy tính và đăng ký tờ khai hải quan; e) Chuyển hồ sơ hải quan cho lãnh đạo Chi cục; f) Lập biên bản vi phạm (nếu có) và: - Đề xuất xử lý đối với hành vi vi phạm thuộc thẩm quyền xử lý của Chi cục trưởng; hoặc: - Hoàn chỉnh hồ sơ để Lãnh đạo Chi cục báo cáo cấp trên xử lý đối với trường hợp vượt thẩm quyền của Chi cục trưởng; g) Ra thông báo thuế. 2. Nhiệm vụ của Lãnh đạo Chi cục phụ trách quy trình thủ tục hàng xuất khẩu: a) Quyết định hình thức, tỷ lệ kiểm tra thực tế hàng hoá; b) Ký xác nhận đã làm thủ tục hải quan và thông quan đối với trường hợp quy định đối với lô hàng thuộc đối tượng miễn thuế, hàng có thuế suất 0% và được miễn kiểm tra thực tế; hoặc: Chuyển hồ sơ cho bộ phận làm nhiệm vụ kiểm tra thực tế hàng hóa, tính thuế (đối với trường hợp hàng xuất khẩu thuộc đối tượng chịu thuế và kiểm tra thực tế); c) Giải quyết các vướng mắc vượt thẩm quyền của công chức hải quan cấp dưới. Bước 2: Kiểm tra thực tế hàng hoá, kiểm tra tính thuế. Bước này do một lãnh đạo Đội phụ trách. Việc kiểm tra thực tế hàng hoá và kiểm tra tính thuế do 02 công chức hải quan cùng thực hiện (không phân biệt mỗi người một việc). Các công chức thực hiện nhiệm vụ bước 2 này phải làm đầy đủ và chịu trách nhiệm về các công việc sau đây: a) Đối với lô hàng phải kiểm tra: Kiểm tra thực tế hàng hoá theo quy định hiện hành và quyết định của Lãnh đạo Chi cục; xác nhận kết quả kiểm tra thực tế hàng hoá vào tờ khai hải quan; b) Đối với hàng thuộc đối tượng chịu thuế: Kiểm tra việc tự tính thuế của người khai hải quan, đối chiếu nội dung tự kê khai, tự tính thuế của người khai hải quan với kết quả kiểm tra thực tế hàng (nếu có) và chính sách về thuế, giá, quyết định số thuế phải nộp (nếu có); c) Chuyển hồ sơ hải quan cho Lãnh đạo Đội trực tiếp điều hành khâu kiểm tra thực tế hàng hoá, kiểm tra tính thuế để ký xác nhận lô hàng đã làm thủ tục hải quan; d) Đối với lô hàng phải lập biên bản vi phạm thì: - Đề xuất xử lý đối với hành vi vi phạm thuộc thẩm quyền xử lý của Chi cục trưởng; hoặc: - Hoàn chỉnh hồ sơ để Lãnh đạo Chi cục báo cáo cấp trên xử lý đối với trường hợp vượt thẩm quyền của Chi cục trưởng; e) Nhập dữ liệu về kết quả kiểm tra thực tế hàng hoá và tình thuế vào máy vi tính; f) Đóng dấu nghiệp vụ “Đã làm thủ tục hải quan” vào tờ khai hàng hoá xuất khẩu và trả cho chủ hàng; g) Chuyển hồ sơ cho đội kế toán thuế và phúc tập hồ sơ hải quan. * Quy trình thủ tục hải quan đối với hàng nhập khẩu theo hợp đồng. Bước 1: Tiếp nhận, đăng ký tờ khai hải quan và quyết định hình thức kiểm tra thực tế hàng hoá. 1. Nhiệm vụ của công chức hải quan tiếp nhận, đăng ký tờ khai hải quan: Việc tiếp nhận, đăng ký tờ khai hải quan cho 01 lô hàng do 01 công chức hải quan thực hiện và chịu trách nhiệm làm đầy đủ các công việc sau đây: a) Kiểm tra danh sách doanh nghiệp phải cưỡng chế làm thủ tục hải quan; b) Kiểm tra sự đồng bộ và đầy đủ của hồ sơ hải quan theo quy định. Trường hợp không chấp nhận đăng ký hồ sơ hải quan thì phải thông báo lý do cho người khai hải quan biết; c) Kiểm tra việc kê khai theo nội dung yêu cầu trên tờ khai hải quan, chứng từ thuộc hồ sơ hải quan, sự phù hợp của nội dung khai hải quan với chứng từ thuộc hồ sơ hải quan; d) Đối chiếu với chính sách quản lý xuất khẩu, chính sách về thuế, giá đối với lô hàng xuất khẩu; e) Nhập dữ liệu của tờ khai hải quan vào máy tính và đăng ký tờ khai hải quan; f) Chuyển hồ sơ hải quan cho lãnh đạo Chi cục; g) Lập biên bản vi phạm (nếu có) và: - Đề xuất xử lý đối với hành vi vi phạm thuộc thẩm quyền xử lý của Chi cục trưởng; hoặc: - Hoàn chỉnh hồ sơ để Lãnh đạo Chi cục báo cáo cấp trên xử lý đối với trường hợp vượt thẩm quyền của Chi cục trưởng. 2. Nhiệm vụ của Lãnh đạo Chi cục phụ trách quy trình thủ tục nhập khẩu: a) Quyết định hình thức, tỷ lệ kiểm tra thực tế hàng hoá; b) Giải quyết các vướng mắc vượt thẩm quyền của công chức hải quan cấp dưới; c) Ký xác nhận đã làm thủ tục hải quan và thông quan đối với lô hàng thuộc đối tượng miễn thuế, hàng có thuế suất bằng 0%; hoặc chuyển hồ sơ hải quan cho bước 2 đối với lô hàng phải kiểm tra thực tế; hoặc chuyển hồ sơ hải quan cho bước 3 đối với lô hàng miễn kiểm tra thực tế. Bước 2: Kiểm tra thực tế hàng hoá. Bước này do một Lãnh đạo Đội phụ trách. Việc kiểm tra hàng hoá phải do ít nhất 02 công chức hải quan thực hiện và chịu trách nhiệm về các công việc sau đây: a) Kiểm tra thực tế hàng hoá theo quy định và quyết định của Lãnh đạo Chi cục; b) Xác nhận kết quả kiểm tra thực tế hàng hoá vào tờ khai hải quan; c) Đối với lô hàng phải lập biên bản vi phạm thì: - Đề xuất xử lý đối với hành vi vi phạm thuộc thẩm quyền xử lý của Chi cục trưởng; hoặc: - Hoàn chỉnh hồ sơ để lãnh đạo Chi cục báo cáo cấp trên xử lý đối với trường hợp vượt thẩm quyền của Chi cục trưởng; d) Nhập dữ liệu về kết qủa kiểm tra thực tế hàng hoá vào máy vi tính; e) Chuyển hồ sơ cho khâu nghiệp vụ tiếp theo như sau: - Chuyển cho bước 3 đối với lô hàng có thuế, có lệ phí hải quan để công chức hải quan kiểm tra việc tính thuế của chủ hàng; - Chuyển cho lãnh đạo Đội trực tiếp điều hành khâu kiểm tra thực tế hàng hoá đối với lô hàng không thuế để xác nhận đã làm thủ tục hải quan và thông quan đối với lô hàng thuộc đối tượng miễn thuế, hàng có thuế suất 0% và được miễn kiểm tra thực tế và trả tờ khai hải quan cho chủ hàng; - Chuyển cho Lãnh đạo Chi cục phụ trách quy trình giải quyết các trường hợp nêu tại bước 1 điểm 2 (b), (c). Bước 3: Kiểm tra tính thuế. Bước này do một Lãnh đạo Đội phụ trách. Việc kiểm tra tính thuế cho một lô hàng do một công chức thực hiện (trừ việc thu tiền do thủ quỹc thực hiện). Công chức hải quan làm nhiệm vụ kiểm tra kiểm tra tính thuế phải thực hiện đầy đủ và chịu trách nhiệm đối với các công việc sau đây: a) Căn cứ vào các quy định pháp luật hiện hành, kết quả tự tính thuế của người khai hải quan và kết quả kiểm tra thực tế hàng hoá (nếu có) để kiểm tra xác định số thuế phải nộp của lô hàng; b) Ra thông báo thuế hoặc viết biên lai thu thuế (nếu có), viết biên lai lệ phí hải quan; c) Chuyển biên lai thu thuế và biên lai lệ phí cho thủ quỹ; d) Nhập dữ liệu vào máy vi tính; e) Chuyển hồ sơ cho lãnh đạo Đội trực tiếp điều hành khâu kiểm tra tính thuế để xác nhận đã làm thủ tục hải quan và thông quan đối với lô hàng có thuế và trả tờ khai hải quan cho chủ hàng; f) Chuyển hồ sơ hải quan cho Đội kế toán thuế và phúc tập hồ sơ hải quan. * Quy định về hồ sơ làm thủ tục hải quan. Khi làm thủ tục hải quan cho lô hàng xuất khẩu, nhập khẩu, người khai hải quan phải nộp hồ sơ hải quan tại trụ sở Chi cục Hải quan và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính hợp pháp của hồ sơ hải quan và tính chính xác của các nội dung kê trong tờ khai hải quan. Hồ sơ hải quan đối với hàng hoá xuất khẩu-nhập khẩu: a) Chứng từ phải nộp: - Tờ khai hải quan hàng hoá xuất khẩu hoặc nhập khẩu: 02 bản chính; - Hợp đồng mua bán hàng hoá hoặc giấy tờ có giá trị tương đương hợp đồng: 01 bản sao; - Hoá đơn thương mại: 01 bản chính. Ngoài ra có những trường hợp phải nộp thêm các chững từ như: - Bản kê chi tiết hàng hoá (đối với hàng hoá đóng gói không thống nhất): 02 bản chính; - Văn bản cho phép xuất khẩu hoặc nhập khẩu của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền (đối với mặt hàng thuộc danh mục hàng cấm xuất khẩu-nhập khẩu hoặc xuất khẩu-nhập khẩu có điều kiện): 01 bản chính (nếu xuất khẩu-nhập khẩu một lần); Trường hợp văn bản này được sử dụng xuất khẩu-nhập khẩu nhiều lần thì nộp bản sao, xuất trình bản chính. Chi cục Hải quan làm thủ tục lần đầu cấp phiếu theo dõi trừ lùi, đóng dấu nghiệp vụ số 02 vào bản chính văn bản cho phép và ghi: Đã cấp phiếu theo dõi trừ lùi, ngày, tháng, năm. Bản chính trả chủ hàng và bản sao lưu Hải quan. - Hợp đồng uỷ thác xuất khẩu hoặc nhập khẩu (nếu nhận uỷ thác): 01 bản sao. b) Chứng từ phải xuất trình: - Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh: 01 bản (bản sao hoặc bản chính); - Giấy chứng nhận đăng ký mã số kinh doanh xuất nhập khẩu: 01 bản (bản sao hoặc bản chính). Quy định khác về các chứng từ trong hồ sơ hải quan: a) Quy định về chứng từ được nộp chậm, bổ sung, thay thế, sửa chữa chứng từ, hồ sơ chờ kết quả giám định thực hiện theo quy định tại Nghị định của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số Điều của Luật Hải quan về thủ tục hải quan, các chế độ kiểm tra, giám sát hải quan; b) Các chứng từ trong hồ sơ hải quan nếu quy định là bản sao thì Giám đốc hoặc Phó Giám đốc doanh nghiệp hoặc người được uỷ quyền của Giám đốc doanh nghiệp xác nhận sao y bản chính, ký tên, đóng dấu lên chứng từ và chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính hợp pháp của các chứng từ đó. Rõ ràng so vơi quy trình quy trình thu thuế trước đây, quy trình thu thuế đang áp dung hiện nay theo quyết định 1494/2001/QĐ-TCHQ đã có những thay đổi đáng kể, từ các bước trong quy trình đến việc thực hiện công việc của các cán bộ hải quan khi làm nhiệm vụ...Tất cả đều được quy định chi tiết hơn, cụ thể hơn, tháo gỡ được những tồn tại của quy trình thu thuế trước đây. 2.2.1.2. Nét đổi mới của quy trình thu thuế xuất nhập khẩu theo quy định tạm thời thủ tục hải quan đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu (Ban hành kèm theo Quyết định số 1494/2001/QĐ-TCHQ của Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan). So với quy trình thu thuế hàng hoá xuất nhập khẩu theo Quyết định số 111/TCHQ thì quy trình thu thuế hàng hoá xuất nhập khẩu theo Quyết định số 383/1998/QĐ-TCHQ và quy trình thu thuế tạm thời theo Quyết định số 1494/2001/QĐ-TCHQ quy định khi làm thủ tục hải quan cho hàng hoá xuất nhập khẩu, doanh nghiệp sẽ chủ động tính thuế và nộp thuế cho hàng hoá xuất nhập khẩu. Cụ thể theo quy trình tạm thời đang áp dụng hiện nay doanh nghiệp tự khai báo, tự kê khai hàng hoá, tự áp mã, áp giá, tính thuế theo Luật thuế. Đây là cơ sở để ràng buộc trách nhiệm của doanh nghiệp từ khâu khai báo đến khâu nộp thuế. Cán bộ hải quan chỉ là người tham mưu hướng dẫn và kiểm tra chứ không tham gia trực tiếp vào việc tính thuế ban đầu. Nếu quy trình hành thu cũ quy định khi xuất nhập khẩu hàng hoá phải trải qua 4 bước thì quy trình tạm thời hiện nay đối với hàng hoá xuất nhập khẩu đã được cắt giảm tối đa các bước công việc và đã tách bạch 2 khâu nhập khẩu, xuất khẩu thành 2 quy trình rõ ràng (2 bước đối với hàng xuất khẩu và 3 bước đối với hàng nhập khẩu) mà vẫn đảm bảo đầy đủ các thủ tục, yêu cầu của quy trình cũ, đảm bảo chấp hành đúng các vấn đề quy định trong Luật Hải quan, Nghị định quy định chi tiết một số điều của Luật Hải quan về thủ tục hải quan, đồng thời giảm bớt giấy tờ theo yêu cầu cải cách hành chính. Quy trình, thủ tục, hồ sơ, giấy tờ từ khi đăng ký-kiểm hoá, tính thuế-giải phòng hàng đã cố gắng phấn đấu theo một đường ngắn nhất, ít cửa nhất, xử lý nhanh nhất. Hải quan cần xử lý gì mới yêu cầu doanh nghiệp kê khai, xuất trình những chứng từ liên quan đến vấn đề đó. Những gì không cần thiết ở quy trình cũ đã kiên quyết bỏ. Các bước trong quy trình đã rút ngắn thời gian làm thủ tục, giải phóng hàng nhanh bằng cách bố trí cán bộ hợp lý, công việc kế nối nhau một cách liên hoàn. Quy trình thủ tục hải quan theo Quyết định số 1494/2001/QĐ-TCHQ là quy trình cơ bản áp dụng cho hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu theo hợp đồng mua bán. Một trong những nét tiến bộ ở quy trình này là đối với lô hàng xuất khẩu, nhập khẩu miễn kiểm tra thực tế, hàng hoá có thuế suất bằng 0%, hàng thuộc đối tượng miễn thuế thì được phép bỏ qua một số bước trong quy trình cơ bản này. Không như quy trình cũ, hiện nay quy trình mới quy định đối với mỗi lô hàng xuất khẩu, nhập khẩu tại các bước đăng ký tờ khai, kiểm tra tính thuế, mỗi bước đều được giao cho một công chức hải quan thực hiện và chịu trách nhiệm, không phân chia thành các khâu, các việc nhỏ do nhiều người thực hiện. Chính việc quy định như vậy đã hạn chế tối đa hồ sơ hải quan phải luân chuyển qua nhiều công chức hải quan và nâng cao tinh thần trách nhiệm của đội ngũ cán bộ hải quan trong khi thi hành nhiệm vụ. Theo quy trình cũ, việc kê khai do doanh nghiệp tiến hành, việc đăng ký tờ khai do bộ phận giám sát quản lý tiến hành; việc kiểm hoá thu thuế, giải phóng hàng do bộ phận kiểm hoá giám sát tiến hành; việc kiểm tra-xử lý vi phạm do bộ phận kiểm tra thu thuế thực hiện. Nhưng theo quy trình mới, việc điều hành các bước trong quy trình được tiến hành bởi Đội trưởng Đội thủ tục hải quan. Các bước kiểm tra thực tế hàng hoá, kiểm tra tính thuế do lãnh đạo Chi cục hoặc một lãnh đạo Đội trực tiếp điều hành. Trong khi làm việc lãnh đạo Đội không làm thay các việc mà công chức thừa hành làm trực tiếp đã thực hiện. Đồng thời công chức hải quan được giao nhiệm vụ thực hiện việc đăng ký tờ khai, kiểm tra thực tế hàng hóa, kiểm tra tính thuế lô hàng nào phải chịu trách nhiệm về việc làm của mình đối với lô hàng đó. Rõ ràng việc quy định như vậy đã góp phần phân biệt rạch ròi trách nhiệm pháp lý giữa các cán bộ hải quan, giữa các tổ, đội trong từng công việc cụ thể. Bên cạnh đó, một tiến bộ dễ nhận ra trong quy trình mới là thay vì việc phân loại hàng hoá theo luồng (luồng xanh, luồng vàng, luồng đỏ) thì hàng hoá được phân chia thành hàng phải kiểm tra không thuế; hàng miễn kiểm tra có thuế, phí, lệ phí; hàng được miễn kiểm tra không thuế (đối với lô hàng nhập khẩu). Các lô hàng xuất khẩu, nhập khẩu được thông quan phải là những lô hàng đã được lãnh đạo Chi cục hoặc lãnh đạo Đội xác nhận và đóng dấu nghiệp vụ “Đã làm thủ tục hải quan” ngay từ bước đầu. Việc quy định như vậy sẽ tạo thông thoáng, không gây ùn tắc cho hàng hoá, vừa dễ giám sát vừa dễ kiểm tra và hạn chế tối đa những hành vi gian lận của doanh nghiệp. Như vậy quy trình thu thuế tạm thời là một trong những bước tiến của thủ tục hải quan, tạo thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, đẩy mạnh kinh tế đối ngoại phát triển. Cải cách quy trình thu thuế chính là để tạo điều kiện cho hoạt động XNK, đầu tư, hợp tác và giao lưu quốc tế. Tạo điều kiện thuận lợi nhưng phải trên cơ sở quy định của pháp luật. Không cứng nhắc, máy móc nhưng cũng tránh sơ hở, làm sai pháp luật. 2.2.2. Thực trạng công tác tổ chức thực hiện quy trình thu thuế XNK theo Quyết định số 1494/2001/QĐ-TCHQ tại Cục Kiểm tra thu thuế. Đứng trước tình hình và nghĩa vụ mới trong công cuộc cải cách thủ tục hải quan cũng như triển khai quy trình thu thuế tạm thời, Cục Kiểm tra thu thuế XNK đã sắp xếp, bố trí công tác tổ chức và đội ngũ cán bộ cho phù hợp với quy trình làm việc mới. Ngay từ tháng đầu triển khai áp dụng quy trình thu thuế XNK quy định tạm thời đối với lô hàng xuất nhập khẩu, Cục KTTT đã sắp xếp, tổ chức, điều chuyển cán bộ thuộc các phòng ban liên quan trực tiếp đến việc thực hiện quy trình thu thuế mới cho phù hợp với yêu cầu và nhiệm vụ trong công tác quản lý hoạt động XNK đồng thời phù hợp với mục tiêu cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực hải quan. Cục đã bố trí những cán bộ có năng lực, phẩm chất đạo đức tốt, nắm vững chính sách, văn bản của Nhà nước đồng thời có trình độ chuyên môn giỏi, có tinh thần trách nhiệm cao để giải quyết thủ tục nhanh chóng. Cục KTTT đã tổ chức tập huấn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ làm công tác tổ chức cán bộ trong toàn ngành, tập trung đi sâu vào các Quy định, Quy chế, Quy trình đã ban hành, trong đó có Quy trình thu thuế tạm thời theo Quyết định số1494/2001/QĐ-TCHQ. Cũng trong thời gian qua, Cục đã tăng cường hướng dẫn về nghiệp vụ thu thuế đối với hải quan địa phương để bộ phận thuế ở hải quan địa phương đủ sức đảm đương nhiệm vụ là tham mưu cho lãnh đạo hải quan địa phương trong công tác thuế, trong giải quyết các vướng mắc về thuế ở địa phương. Đẩy mạnh công tác kiểm tra, đôn đốc chỉ đạo đơn vị cơ sở thực hiện nhiệm vụ của mình, phân định rõ trách nhiệm của các cấp, các đơn vị, cá nhân; trên cơ sở đó phát huy tính chủ động trong công việc. Bên cạnh đó, các lớp tập huấn cho cán bộ tính thuế, tiếp nhận tờ khai tại các đơn vị cửa khẩu, phòng ban và các điểm thông quan cũng được tổ chức. Tại các cửa khẩu và các điểm được chọn làm nơi thí điểm thông quan đã thành lập các tổ tư vấn hướng dẫn cho khách hàng trong việc kê khai tính thuế được thuận lợi và đúng quy định. Từ 18 đến 22/3/2002, tại Hà Nội, Tổng cục Hải quan đã tổ chức lớp đào tạo về công tác phân loại hàng hoá xuất nhập khẩu theo HS. Dự lớp học có 60 cán bộ làm công tác áp mã, tính thuế tại các Cục Hải quan tỉnh, thành phố. Trong 5 ngày, các cán bộ hải quan đã được truyền đạt phương pháp phân loại hàng hoá XNK theo Công ước Quốc tế về mô tả hàng hoá HS, kinh nghiệm của hải quan Nhật Bản trong việc áp mã phân loại hàng hoá XNK...Dự kiến trong thời gian 2001-2003 mỗi năm Tổng cục sẽ tổ chức 11 khoá đào tạo cho cán bộ hải quan về các chuyên đề nghiệp vụ hải quan. Ngày 19/2/2002 Cục KTTT dưới sự chỉ đạo của Tổng cục Hải quan tiến hành áp dụng thí điểm tiếp nhận khai điện tử trong thủ tục hải quan đối với loại hình gia công xuất nhập khẩu tại 4 Cục Hải quan tỉnh, thành phố: Đồng Nai, Bình Dương, HCM, Hải Phòng. Thời gian thí điểm là 6 tháng. Việc triển khai thí điểm này sẽ làm giảm nhẹ công việc của cán bộ hải quan trong thời gian tới khi tiếp nhận tờ khai của doanh nghiệp làm thủ tục hải quan. Cục KTTT XNK cũng đã tổ chức hội nghị họp bàn để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trực tiếp đưa ra kiến nghị vướng mắc trong quá trình thực hiện cơ chế thu thuế mới nhằm giải đáp kịp thời những thắc mắc trên và tăng cường mối quan hệ giữa Hải quan và doanh nghiệp. Để nắm bắt tình hình thực tế công tác thực hiện quy trình thu thuế mới tại các cửa khẩu và các điểm thông quan, lãnh đạo Cục thường xuyên tổ chức kiểm tra việc thực hiện luật thuế và cơ chế thu thuế mới. Việc áp dụng quy trình thu thuế mới, nhất là việc doanh nghiệp tự tính thuế, nộp thuế đã giảm một khối lượng công việc đáng kể cho cán bộ thu thuế, tạo điều kiện cho cán bộ nâng cao trình độ nghiệp vụ và tăng cường vai trò là người giám sát quản lý trong việc thực hiện các Luật thuế. Ngay từ đầu năm, những mặt hàng như dầu thô, dệt may, thuỷ sản, điện tử-máy tính, gạo, thủ công mỹ nghệ, rau quả, hạt điều đã phát huy vai trò là mặt hàng chủ đạo. Nếu nhìn lại so với năm trước thì 4 mặt hàng chủ đạo khác đã bị giảm sút đáng kể. Đó là những mặt hàng giày dép giảm 31%, cà phê giảm 18,4% về lượng và giảm 60% về giá trị, cao su giảm 10,7% về lượng và 17,6% về giá trị, hạt tiêu giảm 10,7% về lượng và 9,1% về giá trị. Mặt hàng nhập khẩu cao nhất là máy móc, thiết bị và các loại phụ tùng trị giá 39.400.125 USD, mặt hàng xăng dầu nhập khẩu 254.795 tấn (luỹ kế 1.209.451 tấn) với trị giá là 38.706.575 USD. Mặt hàng xuất khẩu cao nhất là dầu thô với số lượng 41.113.815 USD. Tiếp theo là giày dép các loại trị giá 11.890.219 USD luỹ kế 248.657.821 USD. (Phụ lục số 2) Sở dĩ có sự thay đổi này là do Nhà nước hạn chế nhập khẩu nhiều mặt hàng tiêu dùng trong nước đã sản xuất được; do việc nâng cao tỉ lệ nội địa hóa trong một số đơn vị sản xuất, hạn chế việc nhập siêu; do Nhà nước hạn chế xuất khẩu một số mặt hàng như nguyên liệu thô...; ngoài ra “ dư âm” của sự kiện 11/9/2001 vẫn còn ảnh hưởng tới tình hình tài chính và thông thương hàng hoá của các doanh nghiệp hoạt động xuất nhập khẩu... Trong 2 tháng đầu năm 2002, Cục KTTT XNK cũng đã phối hợp với các cơ quan, ban ngành cùng triển khai quy trình thu thuế theo Quyết định 1494 và đạt được những kết quả tương đối khả quan. Kết quả thu được không những bằng mà còn nhỉnh hơn cùng kỳ năm trước. Mặc dù kim ngạch XK của doanh nghiệp trong nước giảm nhẹ nhưng doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) tăng 1,8%. Riêng dầu thô XK tăng 14,5% về lượng và 37,8% về giá trị. Tính chung, xuất khẩu của cả nước tăng 0,6% so với cùng kỳ năm 2001. Bên cạnh đó, toàn ngành Hải quan đã làm thủ tục cho lượng hàng hoá XNK đạt hơn 3.500 triệu USD, trong đó kim ngạch xuất khẩu đạt 1.575 triệu USD tuy giảm 18% so với cùng kỳ năm 2001 nhưng không đáng kể, kim ngạch nhập khẩu đạt 1.973 triệu USD, tăng 4,5% so với cùng kỳ năm 2001. Tính đến 28/2/2002, ngành Hải quan đã thu ngân sách đạt 5.036 tỉ đồng, đạt 8,44% kế hoạch cả năm và tăng 19,7% so với cùng kỳ năm 2001. Trong đó thu thuế XNK và TTĐB là 2.851 tỉ đồng, thuế VAT là 2.150 tỉ đồng. Có thể so sánh sự chênh lệch của số thu thuế xuất khẩu và nhập khẩu qua biểu sau. (Biểu 3) Biểu 3: Tình hình XNK 2 tháng đầu năm 2002 Đơn vị triệu USD STT Loại thuế Số thu trong tháng 2 Chênh lệch so với cùng kỳ năm trước 1 Xuất khẩu - Khu vực trong nước - Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài 2.092 1.121 908 -9,2% -3% -15,8% 2 Nhập khẩu - Khu vực trong nước - Khu vức có vốn đầu tư nước ngoài 2.391 1.728 663 +5,8% +9,1% -1,9% Với sự phấn đấu nỗ lực của toàn ngành Hải quan nên số thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu nhờ đó mà ngày càng tăng. Tại các địa bàn, nơi Cục KTTT XNK phối hợp phụ trách, ngay từ những ngày đầu năm đã đồng loạt ra quân thực hiện tốt nhiệm vụ đề ra. Các cán bộ, công chức Hải quan đã ngày đêm có mặt tại các cửa khẩu biên giới, các hải đội tích cực hoạt động tuần tra, kiểm soát. Tại Cục Hải quan TP. HCM: trong những ngày làm việc đầu tiên, lượng tờ khai hàng hoá xuất nhập khẩu đăng ký làm thủ tục tại các cửa khẩu đã lên tới trên 1000. Các Chi cục luôn túc trực đảm bảo quân số giải phóng hàng ngay trong ngày, không để các doanh nghiệp phải chờ đợi đến ngày hôm sau. Tại Chi cục Hải quan cửa khẩu cảng Sài Gòn khu vực I lượng hàng hoá xuất, nhập những ngày đầu năm tăng gần 30% so với cùng kỳ năm ngoái. Số thu trong tháng 1 và 15 ngày đầu tháng 2 đạt trên 3.000 tỉ đồng, cao nhất từ trước đến nay. Qua thực hiện quy trình mới theo Luật Hải quan, mỗi cán bộ công chức hải quan đã xác định rõ trách nhiệm, giảm phiền hà cho doanh nghiệp và đảm bảo yêu cầu công tác quản lý nghiệp vụ, thực hiện thu đúng, thu đủ, chống thất thu thuế đồng thời tính ưu việt của quy trình đã giúp Cục phát hiện trên 30 vụ vi phạm quy trình, thủ tục và trốn thuế trong những ngày đầu năm. Tại Chi cục Hải quan cửa khẩu Sân bay Quốc tế Tân Sơn Nhất, các đội giám sát hành lý xuất nhập đã được tăng cường tối đa, đảm bảo thực hiện đúng yêu cầu nhân lực của quy trình, làm việc 24/24 giờ, không để xảy ra ách tắc cho hành khách đi lại. Nhờ nghiêm túc thực hiện đúng nội dung yêu cầu của quy trình, đặc biệt là công tác kiểm tra thực tế hàng hoá xuất nhập khẩu, Cục đã phát lý 12 vụ vi phạm, điển hình có các vụ ông Trần Văn Minh, quốc tịch Việt Nam hiện xử lý trên 30 vụ, trong đó chỉ riêng các ngày 16-18/2 đã lập biên bản và xử không khai báo 20 nghìn USD; ông Đặng Phước Hiền không khai báo 365 đĩa VCD có chương trình... Việc quản lý tốt quá trình thực hiện quy trình thu thuế mới của Cục KTTT còn được thể hiện ở những con số tích cực khác. Như tại Cục Hải quan Quảng Ninh, trong 19 ngày đầu năm đã làm thủ tục cho lượng hàng hoá XNK mậu dịch đạt kim ngạch khoảng 7,2 triệu USD, phát hiện và lập biên bản 6 vụ vi phạm pháp luật trị giá ước tính khoảng 66 triệu đồng. Tính từ ngày 6 đến 17/2/2002, Cục Hải quan Quảng Ninh đã thu ngân sách khoảng 108,8 triệu đồng. Tại Cục Hải quan Lào Cai: nhờ có sự phối hợp với Cục Kiểm tra thu thuế nên chỉ trong 10 ngày của tháng 2, Chi cục Hải quan cửa khẩu Quốc tế Lào Cai đã làm thủ tục cho 85 lượt phương tiện, 1.151 lượt hành khách xuất nhập cảnh bằng hộ chiếu và 6.000 lượt hành khách xuất nhập biên bằng giấy thông hành; làm thủ tục cho 102 tờ khai hàng hoá XNK, tổng kim ngạch trên 2 triệu USD, không những thế Chi cục đã phát hiện 4 vụ buôn lậu trong quá trình kiểm tra thu thuế. Cũng trong thời gian này, dưới sự giám sát của Cục Kiểm tra thu thuế XNK, Cục Hải quan Bình Dương đã làm việc rất tích cực, trung bình một ngày mở 5 tờ khai cho cả hàng xuất và hàng nhập, lượng tờ khai có những ngày lên tới 99 tờ khai hàng hoá chỉ trong một thời gian ngắn (từ 12-14/2/2002). Tại Cục Hải quan Cần Thơ, Chi cục Hải quan Tây Đô đã làm thủ tục cho lượng hàng thuỷ sản xuất khẩu trị giá gần 950.000 USD vào ngày 11/2/2002. Trong tháng tết, kim ngạch xuất khẩu, nhập khẩu thông qua Hải quan Cần Thơ đều tăng so với tháng trước, trong đó kim ngạch xuất khẩu mậu dịch tăng 275,62%; số thu thuế nộp cho ngân sách tăng 478,65%. Sự cố gắng của Cục Kiểm tra thu thuế XNK trong công tác tổ chức thực hiện quy trình thu thuế mới còn được thể hiện rõ hơn, cụ thể hơn qua tình hình tăng trưởng các loại mặt hàng XNK trong tháng 2/2002 so với tháng 2/2001. (Biểu 4) Biểu 4: Tăng trưởng XNK 2/2002 so với 2/2001 Những con số trên phần nào đã nói lên sự cố gắng của Cục Kiểm tra thu thuế XNK từ khi áp dụng quy trình thu thuế mới mặc dù Cục gặp rất nhiều khó khăn. 2.2.3 Những vướng mắc còn tồn tại khi triển khai thực hiện quy trình thu thuế. Mặc dù quy trình thu thuế đang áp dụng hiện nay ưu việt hơn quy trình cũ nhưng không thể không tránh khỏi những vướng mắc, những tồn tại trong quy trình. Đến nay, Cục KTTT XNK đang tập hợp những ý kiến của địa phương, của doanh nghiệp để tiếp tục sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện các quyết định tạm thời. Trong thời gian hơn 3 tháng triển khai áp dụng quy trình mới, Cục KTTT đã nhận được nhiều ý kiến phản hồi từ phía doanh nghiệp. *Về quy trình nói chung: Hiện nay, việc áp dụng quy trình thu thuế mới ở một số địa bàn đang đang gặp khó khăn trong việc quản lý đối với hàng chuyển khẩu (Cục Hải quan Quảng Ninh). Theo quy định hiện hành, hàng chuyển khẩu không làm thủ tục nhập vào Việt Nam và không làm thủ tục xuất khỏi Việt Nam. Nhưng trên thực tế, Hải quan cửa khẩu vẫn phải mở tờ khai để phục vụ yêu cầu quản lý và cho đến nay vẫn chưa có quy trình nghiệp vụ hướng dẫn thực hiện nên khó khăn cho các cơ sở. Điểm nữa, theo quy định hàng hoá chuyển khẩu phải chịu sự giám sát quản lý của Hải quan đến khi thực xuất khỏi lãnh thổ nhưng phạm vi và địa bàn hoạt động của Hải quan đã được quy định cụ thể, trong khi có những lô hàng chuyển khẩu lưu chuyển tại Việt Nam kéo dài đến 6 tháng còn quy định thì không ghi rõ thời gian lưu chuyển hàng chuyển khẩu là bao nhiêu làm cho Hải quan không biết phải xử lý ra sao. Cũng đối với hàng chuyển khẩu một số cửa khẩu trong địa bàn thuộc tỉnh này lại gặp khó khăn với các Chi cục Hải quan cửa khẩu thuộc tỉnh khác (Chi cục Hải quan Nam Định). Theo quy định, Chi cục Hải quan ngoài cửa khẩu chỉ giao một bản đơn đề nghị chuyển cửa khẩu cho chủ hàng đến cửa khẩu nhập để làm thủ tục chuyển khẩu, nhưng các Chi cục Hải quan cửa khẩu lại yêu cầu phải gửi cả hồ sơ bao gồm đơn đề nghị chuyển khẩu, tờ khai, bảng kê chi tiết, vận đơn. Vậy nếu không có đầy đủ những giấy tờ này thì hàng hoá không được chuyển khẩu. Như vậy quy trình thu thuế đang áp dụng vẫn chưa thuận tiện đối với hàng chuyển khẩu. *Về các bước cụ thể trong quy trình: - Về tờ khai hải quan: quy trình kiểm tra hải quan với tờ khai như hiện nay còn quá nhiều chữ ký của lãnh đạo các cấp. Điều này gây nhiều trở ngại cho các khâu tiếp theo, mất thời gian và làm ùn tắc hàng hoá. Ngành Hải quan khi thực thi pháp luật phải dựa vào 80% văn bản quy phạm pháp luật do các bộ ngành liên quan ban hành, các văn bản đó lại chồng chéo, lại chậm sửa chữa, gây ách tắc, như vậy quả thật là rất rườm rà, gây khó khăn cho cả Hải quan và doanh nghiệp. Thực tế một mặt hàng chỉ nên thống nhất một Bộ quản lý, nhưng hiện nay có những mặt hàng 3-4 Bộ cùng quản lý gây phiền hà, khó khăn cho doanh nghiệp trong việc thông quan hàng hoá. Cụ thể: Có doanh nghiệp xuất khẩu gỗ thuộc diện miễn kiểm tra ở Gia lai-Kon Tum, do Hải quan Gia lai-Kon Tum chưa có Chi cục Hải quan ngoài cửa khẩu nên doanh nghiệp chỉ mở tờ khai và vận chuyển xuống cảng miền trung để làm thủ tục xuất hàng. Như thế lô hàng sẽ không được niêm phong, kiểm lâm có thể kiểm tra. Mặc dù không vi phạm nhưng doanh nghiệp cho rằng như thế sẽ gây chậm trễ, ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm vì đây là sản phẩm chuyên dụng, đóng gói bao bì theo quy cách riêng. Vậy là mặt hàng này vừa do cán bộ kiểm lâm kiểm tra, vừa do cán bộ hải quan phụ trách. Nếu xảy ra chậm trễ trong việc giao hàng thì doanh nghiệp sẽ phải chịu trách nhiệm trong hợp đồng với bên đối tác. Câu hỏi đặt ra là: Nếu Bộ Lâm nghiệp đã kiểm tra rồi thì việc Hải quan cửa khẩu kiểm tra theo các bước của quy trình có cần thiết không, hay ngược lại, nếu lô hàng này sẽ được cán bộ hải quan kiểm tra thì có thể miễn kiểm tra ở bộ phận kiểm lâm không? Một trường hợp khác ở Đắc Lắc: Chi cục Hải quan cửa khẩu tại các cảng biển không ký xác nhận đối với mặt hàng cà phê nên doanh nghiệp phải quay về Đắc Lắc để xác nhận, như thế sẽ mất nhiều thời gian và kinh phí. Làm sao hạn chế được những khó khăn trên? Bên cạnh đó mẫu tờ khai còn có những thắc mắc sau: Về mẫu tờ khai xuất khẩu HQ 2002 có ý kiến đề nghị bổ sung mục “tên, ký hiệu phương tiện vận tải” để phục vụ quản lý hải quan. Mẫu tờ khai đối với các loại hình khác nên có mẫu tờ khai tiểu ngạch, kho ngoại quan, quá cảnh... và cần bổ sung thêm một số ký hiệu cho loại hình xuất nhập khẩu. Việc sử dụng phụ lục tờ khai cũng đang là vấn đề phải xem xét: ý kiến của Hải quan TP HCM cho rằng phần ghi kết quả kiểm hoá tại phụ lục tờ khai chưa đủ chỗ tương ứng với phần khai báo của doanh nghiệp. (Phụ lục: Mẫu tờ khai hàng hoá XNK) - Về nhiệm vụ của công chức hải quan: trong quy trình có quy định “Việc tiếp nhận, đăng ký tờ khai hải quan cho 01 lô hàng do 01 công chức hải quan thực hiện và chịu trách nhiệm làm những thủ tục sau...”. Hiện nay lượng hàng hóa xuất nhập khẩu rất đa dạng, phong phú, nhiều chủng loại. Nếu bước kiểm tra tính thuế do một công chức thực hiện thì nặng qúa, có thể dẫn đến chậm, gây ách tắc hàng hoá (Cảng KVI Hải quan TP HCM). - Về việc nhập dữ liệu của tờ khai hải quan: Hiện nay đang tiến hành thí điểm tiếp nhận tờ khai điện tử ở một số địa điểm nhưng do trình độ của cán bộ hải quan còn hạn chế nên công tác này vẫn gặp nhiều khó khăn. - Về thời điểm ra thông báo thuế: các ý kiến của Cục Hải quan Hải Phòng, Cục Hải quan Bình Dương, Cục Hải quan Bình Định và Cục Hải quan Cần Thơ cho rằng Thông báo thuế khi có kết quả kiểm tra thực tế hàng hoá không phải lúc nào cũng phù hợp. Trước đây có quy định Thông báo thuế khi đăng ký tờ khai, sau đó lại sửa thành Thông báo thuế sau kiểm hoá. Vậy hiện nay áp dụng loại thông báo nào là phù hợp. - Về việc quyết định hình thức, tỷ lệ kiểm tra hàng hoá: Theo quy trình mới hàng hoá được phân chia thành lô hàng có thuế suất bằng 0%, lô hàng thuộc đối tượng miễn thuế, lô hàng có thuế. Công việc này được giao cho lãnh đạo Chi cục. Tuy nhiên trên thực tế đối với những cửa hàng miễn thuế, muốn kiểm tra được thực trạng hoạt động kinh doanh của cửa hàng thì cơ quan Hải quan luôn phải cử một bộ phận cán bộ hải quan thực hiện việc quản lý, giám sát đầu vào, đầu ra của cửa hàng; thực hiện giám sát việc bán hàng miễn thuế tại quầy, niêm phong kho hàng, giám sát hàng hoá của doanh nghiệp mỗi khi có hàng xuất nhập kho. Việc làm trên vừa gây khó khăn cho doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh vừa không quản lý chặt chẽ. Vậy theo quy trình, phải xử lý như thế nào cho phù hợp. Tương tự với vấn đề lấy mẫu hàng gia công trong trường hợp hàng miễn kiểm tra thì ai là người quyết định việc lấy mẫu, ai thực hiện việc lấy mẫu? Vấn đề này chưa được quy định rõ ràng. Trường hợp đối với mặt hàng miễn kiểm tra thực tế, hàng hoá được thông quan trên cơ sở giám định thì bộ phận nào ghi kết quả giám định. - Về việc kiểm tra thực tế hàng hoá, kiểm tra tính thuế: Hoạt động thanh tra, kiểm tra trong quy trình yêu cầu xem xét toàn diện, làm rõ đúng sai đối với sự việc, hiện tượng cơ bản và cách xử sự của mọi người có quan hệ trực tiếp với sự việc hiện tượng đó. Qua thanh tra, kiểm tra hàng hoá thực tế, cán bộ hải quan đánh giá được tình hình chấp hành chính sách, pháp luật của doanh nghiệp, cá nhân tham gia vào hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá. Việc kiểm tra thực tế hàng hoá do công chức hải quan kiểm tra trực tiếp hoặc kiểm tra bằng máy móc, thiết bị kỹ thuật, các biện pháp nghiệp vụ khác với sự có mặt của người khai hải quan hoặc người đại diện hợp pháp của họ. Nhưng hiện nay máy móc thiết bị chưa được trang bị đầy đủ cho các địa phương. Ví dụ hàng hoá là động vật, thực vật sống, khó bảo quản ưu tiên kiểm tra trước thì lại không có phương tiện kiểm tra, nếu có nhiều hàng hoá thì một công chức không đảm đương hết. Thông thường hàng hoá xuất nhập khẩu thuộc diện miễn kiểm tra được niêm phong nhưng theo quy định kiểm tra ngẫu nhiên, đột xuất đối với hàng miễn kiểm tra thì phải giải quyết như thế nào? Hiện nay Tổng cục vẫn chưa có văn bản chính thức về vấn đề này nên đơn vị cơ sở không yên tâm và chưa mạnh dạn áp dụng. Có trường hợp việc đăng ký tờ khai nhập khẩu tại Chi cục Hải quan ngoài cửa khẩu nhưng việc kiểm tra thực tế hàng hoá lại do Chi cục Hải quan cửa khẩu thực hiện. Cách làm như vậy có sai với quy trình không? Và phải giải quyết ra sao? * Các vướng mắc khác: - Về kiểm tra sau thông quan: Trong trường hợp phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật hải quan đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu đã được thông quan, cơ quan hải quan đực áp dụng biện pháp kiểm tra sau thông quan. Công việc này hiện nay cũng gặp phải không ít khó khăn. Cụ thể có trường hợp xảy ra như sau: Hoá đơn thương mại ghi 4.000.000 USD nhưng trị giá trên thư tín dụng lại là 1 triệu USD. Đã có nhiều trường hợp cán bộ hải quan lập tức kết luận chủ hàng đã khai báo sai giá trị để trốn thuế. Như vậy việc kiểm tra sau thông quan sẽ được tiến hành. Nhưng thực tế nếu là một cán bộ nghiệp vụ Kiểm tra sau thông quan thì sẽ phải kiểm tra ngay ô có được phép giao hàng từng phần không cũng như mối tương quan giữa số lượng hàng hoá với các thông tin tương ứng trên ô mô tả hàng hoá dịch vụ để xét đoán tính hợp lý của con số 4.000.000 USD. Vậy sẽ rất khó khăn cho doanh nghiệp nếu gặp phải những trường hợp như trên do sự không cẩn thận của cán bộ hải quan. Trường hợp khác: Trong bước kiểm tra hồ sơ chứng từ ngân hàng, cán bộ nghiệp vụ có thể yêu cầu kiểm tra cả bảng sao kê tài khoản để xác minh số tiền hàng đã chuyển qua đường ngân hàng và số tiền không chuyển qua đường ngân hàng. Việc kiểm tra như vậy để ngăn chặn doanh nghiệp trốn thuế (vì khi đã không chuyển quan ngân hàng thì số tiền này cũng không ghi trong thư tín dụng và hoá đơn thương mại doanh nghiệp sẽ lợi dụng để trốn thuế). Nhưng việc kiểm tra này rất khó khăn, gặp nhiều trở ngại từ phía doanh nghiệp, đôi khi doanh nghiệp chỉ có chứng nhận của ngân hàng nhưng theo ngành Hải quan là chưa đủ tin cậy, khi đã kiểm tra thì cán bộ hải quan chỉ được phép tin vào sự xét đoán của mình trên cơ sở kiểm tra phân tích các chứng từ, hồ sơ liên quan. Vướng mắc trong quá trình kiểm tra sau thông quan còn thể hiện ở chỗ: theo quy trình mới, việc kiểm tra sau thông quan chỉ mới dừng ở việc phúc tập hồ sơ, xác định hồ sơ phải kiểm tra ở các khâu liên quan sau thông quan. Trên thực tế, sau khi thông quan, doanh nghiệp được giải phóng hàng, số hàng đã được tiêu thụ hết, cán bộ hải quan chỉ có thể kiểm tra trên cơ sở hồ sơ về hàng hoá nhập khẩu mà doanh nghiệp đã khai báo như vậy sẽ không thể chính xác được. - Về tỉ giá tính thuế: do áp dụng tỉ giá không thống nhất nên khi quy đổi ra nội tệ có sự chênh lệch đáng kể về số tiền. Hiện nay, tỉ giá tính thuế là yếu tố rất quan trọng để xác định chính xác số thuế phải nộp. Nếu nguyên tệ thanh toán là đồng USD thì tỉ giá quy đổi được áp dụng là tỉ giá mua bán trên thị trường ngoại tệ do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố trên báo Nhân dân. Nhưng các loại ngoại tệ khác như DM, JPY... tỉ giá quy đổi lại không được công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng, mà được ấn định trong thời hạn 10 ngày và niêm yết tại các nơi làm thủ tục hải quan. Điều này gây khó khăn cho những doanh nghiệp ở xa trung tâm. - Về vận tải đơn: vận tải đơn có nhiều loại, các bản này có nội dung như nhau. Khi doanh nghiệp thông báo vận tải đơn bằng fax cho các cơ quan có liên quan trong đó có Hải quan để làm thủ tục thì có những vận tải đơn không được chấp nhận nhưng lại chưa có quy định cụ thể nào về vấn đề này. Ví dụ các doanh nghiệp nước giải khát bán hàng thông báo vận tải đơn bằng fax bản surrender thì không được chấp nhận vì không có giá trị nhận hàng (Hải quan Long An, Đồng Nai). Vậy sao không có văn bản nào quy định vấn đề này để doanh nghiệp biết. - Về phía đối tượng nộp thuế: Mặc dù đã phần nào ý thức được trách nhiệm của mình trong khi làm thủ tục hải quan nhưng hầu hết các doanh nghiệp đều bỡ ngỡ và gặp nhiều khó khăn khi khai báo. Một vấn đề nổi cộm nhất hiện nay là việc doanh nghiệp cập nhật các văn bản, quy định có liên quan đến hoạt động xuất nhập khẩu chưa kịp thời và hiểu chính sách chế độ còn thiếu chính xác. Mặt khác nội dung của văn bản còn có những thay đổi, có những văn bản mà hiệu lực của nó chỉ trong một thời gian ngắn. Do đó, việc nắm bắt và hiểu rõ chính sách, văn bản đối với các doanh nghiệp là rất khó. Quy trình thu thuế mới đòi hỏi người cán bộ khi làm thủ tục hải quan ngoài trình độ nghiệp vụ chuyên môn về ngành nghề mình kinh doanh còn phải được trang bị kiến thức cơ bản về nghiệp vụ hải quan. Tuy nhiên, không phải tất cả các cán bộ được giao trách nhiệm làm thủ tục hải quan đều được đào tạo kiến thức về hải quan. Để tạo điều kiện giúp doanh nghiệp thuận lợi trong khi làm thủ tục cần thiết phải mở lớp đào tạo nghiệp vụ hải quan cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Nhưng chi phí đào tạo phải bỏ ra rất lớn. Như vậy, trong quá trình thực hiện quy trình thu thuế tạm thời hiện nay, doanh nghiệp cũng như hải quan đều gặp phải một số vướng mắc tập trung lại do các nguyên nhân: - Do Hải quan cũng như doanh nghiệp chưa hiểu rõ và và nắm chắc chính sách văn bản; - Các văn bản quy định của Nhà nước chưa thống nhất, chưa đầy đủ, rõ ràng, một số văn bản không còn phù hợp; - Việc tổ chức thực hiện quy trình mới tại Cục Kiểm tra thu thuế XNK còn gặp nhiều khó khăn trong đào tạo đội ngũ cán bộ. Để hoàn thiện quy trình mới và phát huy tính tích cực của quy trình mới cần phải khắc phục những vướng mắc và tồn tại trên đây. Chương III Một số giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện quy trình thu thuế xuất nhập khẩu. 3.1 Những yêu cầu đặt ra khi hoàn thiện quy trình. Cải cách thủ tục hải quan đã thổi luồng gió mới, tạo thêm sinh khí cho mỗi cán bộ, chiến sĩ Hải quan đồng thời phần nào xoá đi cảm giác e ngại của doanh nghiệp khi làm thủ tục hải quan. Một trong nhiều cải cách thủ tục hải quan đáng kể là quy trình thu thuế XNK mới. Việc thực hiện tốt quy trình thu thuế XNK mới sẽ nâng cao thêm một bước hiệu lực quản lý Nhà nước về Hải quan, đồng thời tạo điều kiện để Hải quan Việt Nam từng bước hội nhập với Hải quan khu vực và trên thế giới. Do vậy khi hoàn thiện quy trình thu thuế XNK phải đảm bảo được những yêu cầu sau: - Phải đảm bảo số thu cho Ngân sách Nhà nước. Đây là tiêu thức rất quan trọng bởi hiệu quả của quy trình thể hiện ở số thu nộp cho Ngân sách; - Khi hoàn thiện quy trình thu thuế XNK phải khắc phục được nhược điểm, những mặt hạn chế và phát huy được những yếu tố tích cực của quy trình cũ; - Thủ tục đơn giản, thuận tiện, dễ thực hiện là những yêu cầu đặt ra đối với việc hoàn thiện quy trình. Bởi những thủ tục đó phải dễ hiểu, đơn giản cho người thực hiện thì việc áp dụng quy trình đó vào thực tiễn mới đem lại hiệu quả cao; - Một trong những yêu cầu cơ bản khi hoàn thiện quy trình là phải đáp ứng được các yêu cầu của công tác quản lý thuế như: thu đúng, thu đủ, thu kịp thời cho Ngân sách Nhà nước, đảm bảo Luật thuế được chấp hành một cách đầy đủ, nghiêm túc từ phía cơ quan thuế và đối tượng nộp thuế, đảm bảo thực hiện tốt công tác quản lý pháp luật cũng như quản lý hành chính trong lĩnh vực thuế; - Việt Nam đang trong quá trình hội nhập vào các nền kinh tế quốc tế, kinh tế khu vực do đó để tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình hội nhập, tăng nhanh khối lượng hàng hoá xuất nhập khẩu, góp phần tích cực đẩy nhanh quá trình mở cửa, giao lưu và hội nhập kinh tế với các nước khác trong khu vực và trên thế giới thì quy trình thu thuế xuất nhập khẩu mới của Việt Nam đảm bảo được tính thông lệ quốc tế. Đảm bảo những điều kiện trên thì quy trình thu thuế mới đã phần nào đạt được những mục tiêu và yêu cầu đặt ra cho công tác quản lý Nhà nước về lĩnh vực Hải quan đồng thời góp phần giữ vững “Hoà bình, ổn định, hợp tác, phát triển, tự do hoá thương mại và quốc tế hoá Hải quan”. 3.2. Các kiến nghị và giải pháp. Trước những yêu cầu của việc hoàn thiện quy trình thu thuế xuất nhập khẩu hiện nay, cùng với thời gian tìm hiểu, tiếp xúc thực tế công tác thực hiện quy trình thu thuế xuất nhập khẩu mới tại Cục Kiểm tra thu thuế XNK Tổng cục Hải quan quy trình thu thuế xuất nhập khẩu cần thay đổi để đáp ứng yêu cầu thực tế. 3.2.1. Giải pháp về phía Nhà nước và ngành Hải quan. 3.2.1.1. Hệ thống chính sách thuế. Hiên nay hệ thống chính sách liên quan đến lĩnh vực xuất nhập khẩu còn chưa đồng bộ, chưa hợp lý. Cụ thể trong luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu phạm vi áp dụng của luật quá rộng với nhiều đối tượng thuộc diện được xét miễn giảm (hàng tạm nhập, tái xuất, hàng nhập khẩu phục vụ an ninh quốc phòng, khoa học giáo dục...). Cùng với biểu thuế suất và cách áp mã thuế thiếu thống nhất đã gây ra khó khăn cho việc quản lý và thủ tục xét miễn giảm. Vấn đề trên đặt ra yêu cầu: - Các bộ, ngành liên quan phải đưa ra những tiêu chuẩn rõ ràng để căn cứ vào đó áp mã tính thuế chính xác tránh trường hợp một mặt hàng có thể áp nhiều mã khác nhau đều có lý; - Nên giảm bớt tỷ lệ những mặt hàng chịu thuế suất 0% xuống để doanh nghiệp không lợi dụng trốn thuế,lậu thuế cho những mặt hàng không chịu thuế suất 0%. Đơn giản hoá mức thuế suất xuống còn khoảng 5-7 mức; - Khắc phục hiện tượng thay đổi biểu thuế suất liên tục tạo điều kiện cho người thực hiện áp thuế suất được dễ dàng. 3.2.1.2. Các văn bản, các quy định liên quan đến hoạt động xuất nhập khẩu. Thực tế hiện nay cho thấy, các văn bản quy định, hướng dẫn của các Bộ, ngành ban hành quá nhiều, chồng chéo dẫn tới việc không chỉ các đối tượng xuất nhập khẩu không cập nhật thông tin kịp thời mà trong nhiều trường hợp, các cán bộ Hải quan cũng không biết phải xử lý như thế nào cho đúng. Vì vậy, cần thiết phải xử lý một cách đồng bộ có hệ thống các văn bản hướng dẫn. Một trong những giải pháp hữu hiệu là Cục Kiểm tra thu thuế XNK Tổng cục Hải quan cần phối hợp cùng các Bộ chủ quản tiếp tục rà soát lại toàn bộ các văn bản có liên quan đến hoạt động XNK như: - Đối với những văn bản ban hành đúng thẩm quyền và nội dung còn phù hợp thì giữ nguyên; - Đối với những văn bản ban hành không còn phù hợp, không đúng thẩm quyền thì loại bỏ; - Ban hành những văn bản mới do văn bản cũ không thích hợp. 3.2.1.3. Các vấn đề về Luật Hải quan: Luật Hải quan đã ban hành nhưng cần có sự triển khai thống nhất và đồng bộ giữa các cấp, các ngành. Cần phổ biến và mở các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ cho các cán bộ, công chức Hải quan. Đặc biệt là việc triển khai, áp dụng quy trình thu thuế mới thay thế cho quy trình cũ đến từng địa phương, từng doanh nghiệp. Ban hành các văn bản, quy định cụ thể dựa trên những thắc mắc, kiến nghị của địa phương và của doanh nghiệp gửi lên. Hiện nay, thể thức ra văn bản có hai trạng thái: chung, khái quát và chi tiết. Nếu sửa đổi các văn bản theo hướng càng chi tiết thì sẽ càng dễ thực hiện, đồng thời giảm được nhiều Nghị định, Thông tư hướng dẫn liên quan. Hơn nữa nhiều văn bản khó nhớ, hiểu không hệ thống, xử lý một việc phải xem xét, dẫn chiếu từ nhiều văn bản, nếu quy định chi tiết thì không còn gặp nhiều khó khăn trở ngại nữa. 3.2.1.4. Tăng cường sự phối hợp giữa các ngành, các cấp có liên quan Để thực hiện tốt hơn nữa quy trình thu thuế hiện nay, ngành Hải quan cần tăng cường sự phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan như Bộ Thương mại, Bộ Tài chính và các Bộ khác để quản lý, giám sát, đôn đốc những doanh nghiệp tham gia vào hoạt động xuất nhập khẩu. Theo quy trình thu thuế mới các đối tượng xuất nhập khẩu tự kê khai tính thuế, vì vậy đồng thời với việc tăng cường hướng dẫn, kiểm tra của Hải quan đối với các đối tượng xuất nhập khẩu thì ngành Hải quan cũng phải tăng cường kiểm tra xử lý các hành vi trốn lậu thuế. Cục Kiểm tra thu thuế XNK Tổng cục Hải quan là đơn vị hoạt động theo sự chỉ đạo tập trung của Tổng cục Hải quan, đồng thời cũng có quan hệ trực tiếp với địa phương trong sự lãnh đạo, chỉ đạo về chủ trương, đường lối thực hiện nhiệm vụ chuyên ngành từng địa phương. Vì vậy mỗi cán bộ Hải quan phải nắm vững đặc điểm, tình hình thuận lợi khó khăn của địa phương và phải có trách nhiệm trong việc thực hiện chủ trương và chính sách đó. Do tính chất công việc của ngành, hải quan có mối quan hệ mật thiết với các ngành kinh tế văn hoá, khoa học, công nghệ, đối ngoại, thông tin, báo chí, an ninh quốc phòng... Vì vậy, muốn hoàn thành tốt nhiệm vụ cần phải có sự phối hợp chặt chẽ với các ngành liên quan một cách thường xuyên. Để tăng cường mối quan hệ, hợp tác nói trên, Cục Kiểm tra thu thuế XNK cần xây dựng và hoàn thiện quy chế phối hợp chung và quy chế phối hợp cụ thể đối với từng ngành, từng lĩnh vực và phải có kế hoạch cụ thể để thực hiện. 3.2.2. Kiện toàn bộ máy tổ chức, quy trình nghiệp vụ và đào tạo cán bộ tại Cục Kiểm tra thu thuế XNK Tổng cục Hải quan. 3.2.2.1. Về mặt tổ chức: - Tiếp tục kiện toàn bộ máy tổ chức, củng cố đội ngũ đặc biệt là những bộ phận tiếp nhận tờ khai ở các đơn vị cửa khẩu. Bổ sung những cán bộ tính thuế có kinh nghiệm, sắp xếp tập trung việc tính thuế, lưu trữ hồ sơ, phúc tập về một điểm tạo thuận lợi cho công tác quản lý. - Thực hiện việc luân chuyển cán bộ, nhân viên qua các khâu công tác để đảm bảo mọi cán bộ, chiến sỹ hải quan đều giỏi một việc, biết nhiều việc. Việc bố trí và sử dụng cán bộ “đúng người đúng việc” sẽ phát huy năng lực của mỗi cán bộ, chiến sỹ hải quan. 3.2.2.2. Bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ cán bộ Hải quan. - Tăng cường xây dựng đội ngũ cán bộ hải quan vững về chính trị, giỏi về nghiệp vụ, có trình độ khoa học kỹ thuật khá, được trang bị những kiến thức chuyên môn cần thiết, chuyên ngành Hải quan, ngoại ngữ, tin học. Thực hiện tốt việc rà soát quy hoạch lực lượng cán bộ chủ chốt, có phẩm chất đạo đức và có kế hoạch bồi dưỡng đào tạo cán bộ kế cận. Phải coi việc đào tạo lực lượng hải quan là công việc gắn bó thường xuyên với công chức Hải quan. - Quy trình thu thuế mới có hiệu quả hay không, có đem lại những mục tiêu đã đặt ra hay không thì yếu tố con người đóng vai trò hết sức quan trọng. Do vậy mỗi cán bộ chiến sỹ hải quan phải ý thức được trách nhiệm của mình hoàn thành tốt các quy trình nghiệp vụ được giao trong quá trình thực hiện quy trình mới, phải biết kết hợp nhuần nhuyễn 3 nội dung: phục vụ, quản lý, đấu tranh. - Bên cạnh đó mỗi cán bộ hải quan phải luôn luôn thực hiện tốt 10 điều kỷ luật quy định với cán bộ Hải quan, nhất là đối với công chức làm công tác kiểm tra, thanh tra. Trong quy chế quản lý công chức Hải quan làm công tác kiểm tra hàng hoá xuất nhập khẩu. Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan đã quy định trách nhiệm của lãnh đạo Hải quan tỉnh, thành phố phải: “Tăng cường kiểm tra, giám sát chặt chẽ, có biện pháp chấn chỉnh củng cố kiện toàn đối với đội ngũ công chức làm công tác kiểm hoá, có biện pháp phòng ngừa và xử lý nghiêm minh những sai phạm...”. Chỉ có thanh tra, kiểm tra mới xác đinh được chính xác sự việc. Qua thanh tra, kiểm tra thủ trưởng đơn vị liên tục tìm kiếm nhận biết được những lượng, kênh thông tin khác nhau để sàng lọc, tìm ra sự thực khách quan tránh rập khuôn, máy móc; đó là một giả pháp quan trọng phòng chống bệnh quan liêu một cách hữu hiệu nhất. - Kiên quyết xử lý nghiêm minh những cán bộ thuế tha hoá, biến chất, lạm dụng chức vụ quyền hạn để thông đồng với doanh nghiệp nhằm gian lận, trốn thuế, hạch sách, có hành vi tiêu cực với khác hàng. - Có chính sách đãi ngộ hợp lý với những cán bộ thuế có năng lực chuyên môn, phẩm chất đạo đức tôt, có thành tích công tác. 3.2.2.3. Củng cố các khâu nghiệp vụ. Để thực hiện có hiệu quả quy trình hành thu mới, Cục Kiểm tra thu thuế XNK cần kiến nghị kịp thời với cấp trên đồng thời nghiên cứu tìm ra các giải pháp hoàn thiện các khâu nghiệp vụ. Cục cũng cần mở các lớp tập huấn công tác thuế, kế toán. Nhanh chóng kiện toàn đội ngũ cán bộ, trang thiết bị xuống cửa khẩu để phục vụ cho công tác quản lý, khắc phục hiện tượng quản lý chồng chéo như hiện nay. 3.2.3. Giải pháp về phía các doanh nghiệp xuất nhập khẩu: Để thực hiện tốt quy trình thu thuế mới điều tối quan trọng là doanh nghiệp phải tạo thói quen trong sản xuất kinh doanh, trung thưch trong khai báo, kê khai...đó là giải pháp tốt nhất để hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của doanh nghiệp được diễn ra nhanh chóng, thuận tiện. Cùng với việc tạo thói quen trung thực trong sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp cần không ngừng nâng cao ý thức chấp hành tốt pháp luật của Nhà nước. Doanh nghiệp phải cập nhật các văn bản liên quan đến hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu một cách thường xuyên liên tục, có vấn đề gì khúc mắc phải kịp thời hỏi các cơ quan chức năng để có những giải đáp kịp thời. Định kỳ cử cán bộ đi học các lớp nghiệp vụ hải quan, nghiệp vụ xuất nhập khẩu để nâng cao trình độ nghiệp vụ của mỗi cán bộ trong doanh nghiệp. Việc thực hiện tốt và hoàn thiện quy trình thu thuế mới đòi hỏi phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cấp, các ngành liên quan và quan trọng là cố gắng nỗ lực từ phía doanh nghiệp. 3.2.4. Các giải pháp cụ thể nhằm hoàn htiện quy trình thu thuế XNK trong thời gian tới. * Về quy trình chung: Quy trình mới với các bước công việc đã hợp lý hơn so với quy trình cũ do đã giảm bớt được khối lượng các bước. Nhưng cần có những văn bản cụ thể quy định loại hàng hoá nào thì do một Bộ thống nhất quản lý, tránh nhiều Bộ quản lý cùng một mặt hàng gây chậm trễ trong thông quan hàng hoá. Bên cạnh đó cũng cần ban hành thêm quy trình nghiệp vụ hướng dẫn mở tờ khai phục vụ cho hàng chuyển khẩu để phục vụ riêng cho hàng chuyển khẩu không làm thủ tục nhập vào Việt Nam và không làm thủ tục xuất khỏi Việt Nam mà hải quan vẫn phải mở tờ khai. * Về các bước cụ thể trong quy trình: - Về thời điểm ra thông báo thuế: Vấn đề này đã được bàn theo nhiều hướng là cố gắng để chỉ phải thông báo thuế một lần. Trước đây đã từng có quy định thông báo thuế khi đăng ký tờ khai và sau đó lại sửa lại là thông báo thuế sau kiểm hoá. Tuy nhiên để giải quyết vấn đề ra thông báo thuế sau khi có kiểm tra thực tế hàng hoá không phải trường hợp nào cũng phù hợp thì giải pháp trước mắt là doanh nghiệp vẫn tự kê khai tính thuế, cán bộ hải quan ra thông báo thuế nhưng chưa thu tiền ngay mà đợi kết quả kiểm hoá xong mới thu tiền. - Về mẫu tờ khai cho các loại hình hàng hoá khác: Doanh nghiệp cần tìm hiểu thêm về tờ khai HQ 2002. Vì tờ khai này áp dụng cho tất cả các loại hình XNK nên đối với loại hình không có nội dung nào thì không yêu cầu khai nội dung đó (ví dụ: kho ngoại quan, quá cảnh không có thuế thì không yêu cầu khai về thuế). Riêng hàng hoá của cá nhân, tổ chức không phải là thương nhân (hàng của cơ quan ngoại giao, hàng quà biếu...) thì dùng tờ khai phi mậu dịch. Tờ khai phi mậu dịch hiện hành về cơ bản đã đáp ứng các yêu cầu quản lý, nhưng cũng nên sửa lại một số tiêu chí. Riêng đối với tờ khai xuất khẩu HQ 2002 thì Cục KTTT cần nghiên cứu tham khảo thêm ý kiến của các địa phương để bổ sung thêm mục “ tên, ký hiệu phương tiện vận tải” để tiện cho doanh nghiệp trong khi khai báo. - Về việc đăng ký tờ khai: Đối việc đăng ký tờ khai nhập khẩu tại Chi cục ngoài cửa khẩu nhưng không do Chi cục Hải quan ngoài cửa khẩu kiểm tra thực tế mà do Chi cục Hải quan cửa khẩu nhập thực hiện thì nên điều chỉnh theo hướng sau: + Nếu thực tế hàng hoá không có sai lệch giữa khai báo của chủ hàng và kết quả kiểm tra thực tế hàng hoá thì Chi cục Hải quan cửa khẩu xác nhận “Đã làm thủ tục hải quan” vào ô số 38 và quyết định việc thông quan cho lô hàng. + Nếu có sự sai lệch giữa khai báo của chủ hàng và kết quả kiểm tra thực tế hàng hoá thì Chi cục Hải quan cửa khẩu nhập xác nhận kết quả kiểm tra thực tế, giải phóng lô hàng (trường hợp sai lệch dẫn đến một phần hoặc toàn bộ lô hàng không được nhập khẩu thì lập biên bản xử lý theo quy định, chỉ giải phóng số hàng đúng khai báo), chưa xác nhận “Đã làm thủ tục hải quan”, chuyển hồ sơ cho Chi cục Hải quan ngoài cửa khẩu ra quyết định điều chỉnh thuế, sau đó mới xác nhận “Đã làm thủ tục hải quan” vào ô số 38. Đối với việc ghi kết quả giám định vào tờ khai hải quan mặt hàng miễn kiểm tra thực tế thì nên giao cho bộ phận nào quyết định thông quan thì bộ phận đó ghi kết quả giám định như vậy sẽ chính xác và thuận tiện hơn trong khâu ra quyết định hình thức và tỉ lệ kiểm tra. Theo quy định tại Khoản 4 Điều 25 Luật Hải quan thì hàng chờ kết quả giám định được thông quan khi đáp ứng yêu cầu giám sát hải quan. Quy định này khó thực hiện nếu không có quy định cụ thể (trường hợp do quy mô hàng lớn, có trường hợp do loại hàng doanh nghiệp phải đưa vào sản xuất ngay, hoặc đưa về tỉnh xa...thì thực hiện niêm phong như thế nào?) Cách giải quyết có thể chia theo 2 hướng sau: + Nếu hàng hoá giám định để xác định số thuế phải nộp (mã số hàng hoá, khối lượng hàng hoá hoặc chất lượng hàng hoá...) thì được thông quan ngay mà không cần chờ kết quả giám định. Tuy nhiên Hải quan chỉ xác nhận thông quan vào tờ khai hải quan khi có kết quả giám định. + Nếu giám định để xác định xem hàng hoá có được nhập khẩu hay không thì chủ hàng chỉ được đưa hàng về bảo quản nếu đáp ứng yêu cầu giám sát của Hải quan (cụ thể là niêm phong) cho đến khi có kết quả giám định đúng như quy định. Tuy nhiên đây vẫn sẽ là một khó khăn khi áp dụng vì có một số mặt hàng tuy thuộc loại hàng hải quan không thể xác định bằng kiểm tra thủ công nhưng lại là mặt hàng doanh nghiệp nhập khẩu thường xuyên (ví dụ như hoá chất trong sản xuất Dự án giày...) nếu lần nào cũng giám định thì doanh nghiệp sẽ phản ứng và cũng không nhất thiết phải làm như vậy. Để giải quyết vướng mắc này, đề nghị áp dụng theo cách: nếu mặt hàng đã được giám định một số lần rồi và đều được nhập khẩu thì các lần sau đó không yêu cầu phải giám định. Để tránh bị lợi dụng thì có thể thực hiện giám định đột xuất. Đề nghị thành lập hệ thống giám định Nhà nước về Hải quan bao gồm các Trung tâm Giám định, Phòng Giám định đặt tại các cửa khẩu quốc tế thuộc Cục Hải quan tỉnh, thành phố. Bên cạnh đó đề nghị Tổng cục Hải quan cho phép áp dụng hình thức khai báo một lần với lượng hàng lớn xuất nhập khẩu nhiều lần trong một thời gian nhất định, doanh nghiệp sẽ đến hải quan để mở tờ khai xuất nhập khẩu cho cả một hợp đồng hoặc một số hàng nhất định. Tờ khai đã đăng ký có giá trị thực hiện việc giao nhận hàng nhiều lần trong một khoảng thời gian nhất định. Khai báo một lần nhằm mục đích đơn giản hoá thủ tục hải quan, tiết kiệm thời gian, chi phí, giấy tờ của doanh nghiệp cũng như của Hải quan đồng thời đảm bảo nguyên tắc cơ bản của thủ tục hải quan đối với hàng xuất nhập khẩu. Như vậy có thể áp dụng hình thức khai báo 1 lần đối với các loại hàng như: hàng xuất nhập khẩu không chịu thuế và có thuế suất 0%, hàng được miễn htuế xuất nhập khẩu, hàng xuất nhập khẩu của doanh nghiệp vào khu chế xuất, hàng xuất khẩu tại chỗ, hàng gia công xuất khẩu. - Về việc nhập dữ liệu cho tờ khai hải quan: Cần nâng cao trình độ nghiệp vụ của cán bộ Hải quan. Đưa công nghệ thông tin vào để thay thế cho công đoạn thủ công. Hình thức giao dịch thương mại qua mạng lưới điện tử hiện nay đã trở thành mối quan tâm hàng đầu trong ngành Hải quan góp phần giảm nhẹ khối lượng công việc cho cán bộ trong ngành. Những vấn đề liên quan đến ứng dụng máy tính điện tử ngày càng trở nên phức tạp. Đôi khi tờ khai hải quan có quá nhiều dữ liệu, nếu không nắm vững nghiệp vụ thì sẽ chậm trễ trong việc khai báo cho hàng hoá xuất nhập khẩu. - Về nhiệm vụ của công chức Hải quan: Việc quy định 01 công chức thực hiện việc kiểm tra tính thuế chỉ nên xét trong quan hệ tiếp xúc trực tiếp với chủ hàng, còn khối lượng công việc thì có thể do 02 cán bộ thực hiện. - Về việc quyết định hình thức, tỉ lệ kiểm tra hàng hoá- Việc kiểm tra thực tế hàng hoá và kiểm tra tính thuế: Để tăng tỉ lệ miễn kiểm tra thực tế hàng hoá trong quá trình giải quyết thủ tục cho hàng xuất nhập khẩu thì việc xây dựng được mạng lưới thông tin rộng, tìm hiểu rõ “lai lịch” của doanh nghiệp cũng như xuất xứ, hành trình của các chuyến hàng cần thực hiện một cách triệt để. Hệ thống thông tin cần được xây dựng trên cơ chế hợp tác với Hải quan và các cơ quan chức năng ở nước ngoài, các cơ quan chức năng ở trong nước. Khi cần thiết Hải quan có thể nắm vững và kịp thời thông tin về mặt hàng đó, phát hiện kịp thời những trường hợp nghi ngờ hoặc phải kiểm tra xác suất vào từng thời điểm. Trường hợp phát hiện ra sai phạm, phải lập biên bản các nghi vấn thì chưa cho giải phóng hàng mà phải tiến hành kiểm tra ngay, nếu có vi phạm thực sự thì đình chỉ ngay việc làm thủ tục hải quan và chuyển đến các bộ phận có trách nhiệm trong việc xử lý vi phạm. Về trường hợp hàng lấy mẫu gia công thuộc diện miễn kiểm tra: Trong trường hợp hàng gia công cần lấy mẫu để đơn giản cho doanh nghiệp cũng như giảm nhẹ công việc cho cán bộ hải quan thì nên quy định Chi cục trưởng Hải quan ngoài cửa khẩu quyết định việc lấy mẫu, Hải quan cửa khẩu thực hiện lấy mẫu, niêm phong và giao cho chủ hàng. Đối với hàng xuất khẩu thuộc diện miễn kiểm tra phải niêm phong: Cần trưng cầu ý kiến của các địa phương, nếu hầu hết các địa phương yêu cầu không niêm phong để thuận lợi trong hoạt động xuất nhập khẩu thì đề nghị sửa theo hướng này. Việc kiểm tra ngẫu nhiên, đột xuất đối với hàng thuộc diện miễn kiểm tra: nên thực hiện cách kiểm tra này nhưng phải thận trọng và không được tuỳ tiện. Muốn vậy Cục Kiểm tra thu thuế cần phối hợp với Cục Giám sát quản lý để ban hành những văn bản nhằm tạo điều kiện cho đơn vị cơ sở yên tâm áp dụng. Để thuận tiện cho việc kiểm tra tính thuế thì: Về tỉ giá tính thuế trên tờ khai: Đề nghị khi khai báo, nên theo tỉ giá thông báo của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam để doanh nghiệp dễ lập tờ khai, thay vì theo tỉ giá thị trường ngoại tệ liên ngân hàng; hoặc theo tỉ giá ngày hôm trước của ngày mở tờ khai để doanh nghiệp chủ động thông tin về giá. Cụ thể: Về giá tính thuế: Nên tính theo giá nguyên tệ ở tất cả các bước kể cả khi phân bổ phí bảo hiểm và phí vận chuyển, sau đó mới lấy tổng đơn giá quy đổi ra nội tệ để tránh tình trạng sai số quá lớn do việc phân bổ và quy đổi. Cần nới lỏng thẩm quyền xây dựng giá đối với những mặt hàng thuộc Nhà nước quản lý. Nên cho phép các cửa khẩu xây dựng giá tính thuế, giải phóng hàng nhanh chóng, không gây ách tắc tại cửa khẩu sau đó báo cáo cho Tổng cục Hải quan theo quy định. Giá tính thuế nên quản lý theo hiệp định chung về tính thuế quan thương mại. Khi xác định trị giá hàng nhập khẩu phải căn cứ 3 nguyên tắc: \ Căn cứ vào giá trị thực tế của hàng hoá; \ Không căn cứ vào trị giá của hàng hoá được sản xuất tại nước nhập khẩu hay trị giá hư cấu áp đặt; \ Phải là giá mà với mức giá đó hàng hoá hoặc hàng hoá tương tự bán trong kỳ kinh doanh bình thường với các điều kiệncạnh tranh không hạn chế. Đề nghị Cục Kiểm tra thu thuế xuất nhập khẩu thành lập những bộ phận chuyên thu thập thông tin về giá cả hàng hoá bằng nhiều cách như kiểm tra, theo dõi tờ khai của người xuất khẩu; nắm bắt kịp thời các thông tin trên tạp chí chuyên sâu về gí cả, các bản tin giá cả, các thông tin từ ngành sản xuất... Bên cạnh đó có thể mở rộng diện áp dụng giá tính thuế theo hợp đồng. Để thực hiện tốt biện pháp này thì chính sách thuế cần phải thay đổi và điều chỉnh nhiều, các cơ quan có thẩm quyền cần ban hành những văn bản liên quan để doanh nghiệp biết mà thực hiện. Một số kiến nghị khác - Ngân hàng nên phối hợp với Hải quan chống nợ đọng thuế bằng cách: Ngân hàng nên bảo lãnh số nợ đối với doanh nghiệp xuất nhập khẩu mở tài khoản giao dịch. Trường hợp tài khoản giao dịch của doanh nghiệp không có đủ hoặc số dư không đủ thanh toán tiền thuế thì Ngân hàng phải thông báo kịp thời cho Hải quan để có biện pháp xử lý. Nếu xảy ra trường hợp nợ đọng thuế thì việc đối chiếu nợ thuế của doanh nghiệp nên thực hiện sau khi mở tờ khai hoặc có biện pháp xử lý nghiêm minh với những doanh nghiệp liên tiếp nợ đọng thuế. - Về chứng nhận xuất xứ (C/O): Đối với những mặt hàng có tính chất đặc thù như phụ tùng, linh kiện lắp ráp... không có C/O thì chỉ cần căn cứ vào giấy chứng nhận chất lượng của các tổ chức hiệp hội để tính thuế ưu đãi. Trường hợp có thuế suất 0% hoặc hàng hoá bán tại các cửa hàng kinh doanh miễn thuế, do các mặt hàng này có nguồn gốc xuất xứ từ nhiều nước khác nhau vì vậy doanh nghiệp không có khả năng nộp đủ C/O, đề nghị nên bỏ thủ tục xuất trình C/O đối với những mặt hàng trên. - Riêng đối với bưu phẩm, hàng hoá XK, NK gửi qua bưu chính và vật phẩm, hàng hoá XK, NK gửi qua dịch vụ chuyển phát nhanh thì thuế suất nên sửa đổi theo hướng chia làm hai loại: có thuế và không có thuế để đơn giản cho loại hàng hoá không thuế (phần lớn). - Theo quy trình thì doanh nghiệp tự tính thuế, công chức kiểm tra thực tế hàng hoá, tính thuế và ra thông báo thuế, sau đó Lãnh đạo đội trực tiếp điều hành khâu kiểm tra thực tế hàng hoásẽ kiểm tra tính thuế một lần nữa như vậy liệu có làm thời gian giải phóng hàng chậm? Nên chăng, để kết hợp, doanh nghiệp có thể ghi luôn thông báo thuế, đội thuế kiểm tra và xác nhận. Trên đây là những kiến nghị và giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện quy trình thu thuế xuất nhậpkhẩu tại Cục Kiểm tra thu thuế Tổng cục Hải quan. Kết luận Sau hơn một thập kỷ thực hiện cải cách kinh tế, đất nước ta đã thu được nhiều thành tựu đáng ghi nhận và đang đứng trước ngưỡng cửa của một giai đoạn phát triển mới-giai đoạn phát huy nội lực kết hợp với tăng cường hợp tác và hội nhập kinh tế quốc tế. Cùng với sự phát triển của đất nước, ngành Hải quan ngày một lớn mạnh góp phần xứng đáng vào sự nghiệp phát triển kinh tế, đặc biệt là kinh tế đối ngoại trong thời kỳ mở cửa. Bằng sự nỗ lực phấn đấu và không ngừng đổi mới trong công tác quản lý, cải tiến thủ tục hải quan, ngành Hải quan tự khẳng định vai trò là “người gác cửa” góp phần tạo môi trường thuận lợi cho đầu tư và hoạt động xuất nhập khẩu. Cải tiến quy trình thu thuế là một trong những kết quả đáng ghi nhận về cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực hải quan. Cơ chế thu thuế mới có thực hiện tốt hay không đòi hỏi phải có sự nỗ lực của tất cả các ngành, các cấp có liên quan. Nhận thức được vai trò và nhiệm vụ của mình, Cục Kiểm tra thu thuế xuất nhập khẩu đã tiến hành đồng bộ nhiều giải pháp nhằm thực hiện có hiệu quả quy trình thu thuế mới. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện không tránh khỏi những khiếm khuyết. Cục Kiểm tra thu thuế xuất nhập khẩu Tổng cục Hải quan đang từng bước khắc phục để công tác quản lý thu thuế đối với hàng hoá xuất nhập khẩu ngày một hiệu quả hơn. Để hoàn thiện đề tài này, ngoài sự nỗ lực của bản thân, còn có sự giúp đỡ nhiệt tình và chu đáo của các thầy, các cô trong bộ môn Thuế Nhà nước, đặc biệt là Thạc sĩ Lý Phương Duyên- người trực tiếp hướng dẫn em thực hiện đề tài này. Em xin chân thành cảm ơn các quý thầy cô. Em cũng xin gửi lời cảm ơn tới các cô, các chú và các anh chị làm việc tại Cục Kiểm tra thu thuế xuất nhập khẩu Tổng cục Hải quan đã giúp đỡ và hết sức tạo điều kiện cho em trong quá trình thực tập tại đây, để em có thể hoàn thành đề tài này một cách thuận lợi nhất. Danh mục tài liệu tham khảo Giáo trình Thuế Nhà nước- Trường Đại học Tài chính Kế toán Hà Nội. Hướng dẫn thực hiện quy trình và tờ khai hàng hoá xuất nhập khẩu HQ99-XNK-Nhà xuất bản Hà Nội. Hướng dẫn thực hiện quy trình và tờ khai hàng hoá xuất nhập khẩu HQ2001-XNK-Nhà xuất bản Hà Nội. Hướng dẫn thủ tục hải quan đối với hàng hoá xuất nhập khẩu-Nhà xuất bản Tài chính. Các văn bản, Thông tư hướng dẫn Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu hiện hành. Bản Báo cáo tổng kết năm 2000 và 2001 của Tổng Cục Hải quan. Bản Báo cáo tình hình xuất nhập khẩu năm 2000 và 2001 của Phòng Kiểm tra thu thuế XNK- Tổng cục Hải quan. Tạp chí, báo Hải quan, báo Thương mại, báo Ngoại thương, Thời báo kinh tế các số năm 2001 và 3 tháng đầu năm 2002. Các văn bản pháp luật về Hải quan- Nhà xuất bản Chính trị quốc gia. Pháp lệnh Hải quan được Hội đồng Nhà nhước thông qua ngày 20/2/1990 Tài liệu hội nghị giới thiệu Luật Hải quan. Luật Hải quan ngày 29/6/2001. Mục lục Lời nói đầu 01 Chương 1 Sự cần thiết phải hoàn thiện quy trình thu thuế xuất nhập khẩu. 03 1.1 Những nhận thức cơ bản về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. 03 1.1.1 Khái niệm, đặc điểm của thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. 03 1.1.2 Mục đích của việc đánh thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. 03 1.1.3 Vai trò của thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu trong nền kinh tế thị trường. 04 1.2 Nội dung của thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu và quy trình thu thuế XNK ở nước ta hiện nay. 06 1.2.1 Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu ở Việt Nam. 06 1.2.2

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxNSNN0 thu thue XNK.docx
Tài liệu liên quan