Chợ ở đồng bằng sông Cửu Long trong xây dựng nông thôn mới

Tài liệu Chợ ở đồng bằng sông Cửu Long trong xây dựng nông thôn mới: 287 KỶ YẾU HỘI THẢO PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG TỪ THỰC TIỄN ĐẾN CHÍNH SÁCH CHỢ Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI ThS. Lê Quang Cần TÓM TẮT Năm 2017, Chương trình quốc gia xây dựng nông thôn mới đã đạt được những kết quả tốt đẹp. Xây dựng nông thôn mới đã trở thành phong trào quần chúng sôi nổi cả nước nói chung, đồng bằng sông Cửu Long nói riêng. Nhận thức về Chương trình từ các cấp ủy, chính quyền đến người dân được nâng cao; công tác quy hoạch, lập đề án xây dựng nông thôn mới, hạ tầng cơ sở kinh tế - xã hội có nhiều chuyển biến rõ rệt. Trong đó, hệ thống chợ nông thôn mới đồng bằng sông Cửu Long nói riêng, cả nước nói chung với đầy đủ mặt hàng, chất lượng đảm bảo vừa là bộ mặt mới của địa phương, vừa là phương thức giúp nâng cao chất lượng cuộc sống người dân nông thôn. Đồng thời, hệ thống chợ nông thôn mới nơi này trở thành đòn bẩy thúc đẩy kinh tế địa phương phát triển và là khâu quan trọng thực hiện hiệu...

pdf18 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 193 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chợ ở đồng bằng sông Cửu Long trong xây dựng nông thôn mới, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
287 KỶ YẾU HỘI THẢO PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG TỪ THỰC TIỄN ĐẾN CHÍNH SÁCH CHỢ Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI ThS. Lê Quang Cần TÓM TẮT Năm 2017, Chương trình quốc gia xây dựng nông thôn mới đã đạt được những kết quả tốt đẹp. Xây dựng nông thôn mới đã trở thành phong trào quần chúng sôi nổi cả nước nói chung, đồng bằng sông Cửu Long nói riêng. Nhận thức về Chương trình từ các cấp ủy, chính quyền đến người dân được nâng cao; công tác quy hoạch, lập đề án xây dựng nông thôn mới, hạ tầng cơ sở kinh tế - xã hội có nhiều chuyển biến rõ rệt. Trong đó, hệ thống chợ nông thôn mới đồng bằng sông Cửu Long nói riêng, cả nước nói chung với đầy đủ mặt hàng, chất lượng đảm bảo vừa là bộ mặt mới của địa phương, vừa là phương thức giúp nâng cao chất lượng cuộc sống người dân nông thôn. Đồng thời, hệ thống chợ nông thôn mới nơi này trở thành đòn bẩy thúc đẩy kinh tế địa phương phát triển và là khâu quan trọng thực hiện hiệu quả cuộc vận động của Nhà nước “người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”. Tham luận đề cập sự tác động và xu hướng phát triển hệ thống chợ nông thôn mới ở đồng bằng sông Cửu Long nhằm từng bước đáp ứng nhu cầu hội nhập khu vực và thế giới. 1. Khái quát đồng bằng sông Cửu Long Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) là một bộ phận của châu thổ sông MêKông. Phía Đông Bắc giáp Đông Nam Bộ, phía Bắc giáp Campuchia, phía Đông Nam giáp biển Đông, phía Tây Nam giáp vịnh Thái Lan với diện tích tự nhiên khoảng 40.572 km 2 . Vùng biển này có khá nhiều đảo chủ yếu tập trung ở tỉnh Kiên Giang với 145 đảo lớn nhỏ tạo nên năm quần đảo: An Thới, Thổ Chu, Nam Du, Bà Lụa và Hải Tặc. Trên đất liền, địa hình tương đối thấp và bằng phẳng. Đồng bằng sông Cửu Long là vùng có khí hậu cận xích đạo, nắng nóng mưa nhiều bao gồm hai mùa rõ rệt: Mùa mưa và mùa khô. Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11, mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4. Mạng lưới sông ngòi, kênh rạch chằng chịt, cung cấp lượng phù sa, nguồn lợi thủy sản, nước tưới tiêu cho nông nghiệp và  Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Đồng Nai. 288 giao thương hàng hóa. Nhìn chung, vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên ở ĐBSCL cơ bản ổn định, thuận lợi đối với giao lưu buôn bán, trao đổi hàng hóa, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội trong xây dựng nông thôn mới. Đồng bằng sông Cửu Long có đường biên giới giáp Campuchia khoảng 330 km, trong đó có 4 tỉnh chung đường biên giới với Vương quốc Campuchia, bao gồm: Long An giáp với tỉnh Prây Veng và Svay Riêng, Đồng Tháp giáp với tỉnh Prây Veng và Kandal, An Giang giáp với tỉnh Tà Keo, Kiên Giang giáp với tỉnh Kampốt. Dọc tuyến biên giới, có ba cửa khẩu quốc tế và bốn cửa khẩu quốc gia. Ngoài ra, ĐBSCL có đường bờ biển dài trên 700 km và khoảng 360.000km 2 vùng biển thuộc chủ quyền1. Đồng bằng sông Cửu Long có 12 tỉnh và 1 thành phố trực thuộc Trung ương, bao gồm: An Giang, Bến Tre, Bạc Liêu, Cà Mau, thành phố Cần Thơ, Đồng Tháp, Hậu Giang, Kiên Giang, Long An, Sóc Trăng, Tiền Giang, Trà Vinh và Vĩnh Long. Theo Tổng cục Thống kê, tổng dân số của các tỉnh trong vùng tính đến năm 2016 là 17.660.700 người. Trong đó, có 13.191.800 người sống ở địa bàn nông thôn chiếm 75%. Đồng bằng sông Cửu Long có vùng kinh tế trọng điểm gồm Cần Thơ, An Giang, Cà Mau và Kiên Giang theo quyết định 492/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ2. Vùng kinh tế trọng điểm này là trung tâm lớn về sản xuất lúa gạo, nuôi trồng, đánh bắt và chế biến thủy sản; đồng thời đóng vai trò quan trọng trong nghiên cứu, chuyển giao công nghệ, cung cấp giống, các dịch vụ kỹ thuật, chế biến. Tuy kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội của ĐBSCL trong những năm qua còn nhiều khó khăn, chưa đồng bộ, nhưng về cơ bản đã hình thành được mạng lưới giao thông đường bộ khá đa dạng với các tuyến đường huyết mạch như các quốc lộ 1A, 57, 60, 61, 63, đường cao tốc thành phố Hồ Chí Minh - Trung Lương kết nối giữa thành phố Hồ Chí Minh với ĐBSCL;... Cùng với đó, hệ thống các cầu vượt sông lớn từng bước được xây dựng thay cho các bến phà như cầu Mỹ Thuận (giữa Tiền Giang với Vĩnh Long ), cầu Cần Thơ (giữa Vĩnh Long với Cần Thơ), cầu Rạch Miễu (giữa Tiền Giang với Bến Tre), cầu Cổ Chiên (giữa Bến Tre với Trà Vinh), cầu Vàm Cống (giữa Đồng Tháp với Cần Thơ), Đồng thời với mạng lưới giao thông đường bộ là hệ thống đường thủy nội địa gắn với hệ thống hậu cần logistic khá tốt, trong đó ngoài cụm cảng Cần Thơ là cảng loại I 1 Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Ban Chỉ đạo Tây Nam bộ, Uỷ ban nhân dân tỉnh Sóc Trăng (Chủ biên) (2014), Kỷ yếu Hội thảo Tái cơ cấu phát triển nông nghiệp gắn xây dựng nông thôn mới thích ứng với biến đổi khí hậu vùng Đồng bằng sông Cửu Long, tr.7 2 Thủ tướng Chính phủ (2009), Quyết định số 492/QĐ-TTg về việc Phê duyệt Đề án thành lập vùng kinh tế trọng điểm vùng đồng bằng sông Cửu Long. 289 KỶ YẾU HỘI THẢO PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG TỪ THỰC TIỄN ĐẾN CHÍNH SÁCH đóng vai trò đầu mối của khu vực còn có hệ thống các cảng loại II gắn với hệ thống sông Tiền, sông Hậu, sông Cái Lớn theo Quyết định số 2190/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ1. Các cảng cá và hậu cần nghề cá ở các tỉnh đang phát huy có hiệu quả và do đó đang tác động, ảnh hưởng lớn đến phát triển kinh tế - xã hội của khu vực nhất là rất thuận lợi cho lưu thông trao đổi hàng hóa. Dọc các sông rạch, đường giao thông hình thành hệ thống chợ đầu mối, chợ dân sinh góp phần quan trọng trong lưu thông hàng hóa, tạo nên nét đặc sắc trên bến dưới thuyền rất nhộn nhịp. Do đó, hệ thống chợ ở đồng bằng sông Cửu Long giữ vai trò rất thiết thực đối với Chương trình quốc gia xây dựng nông thôn mới. 2. Chợ nông thôn mới đồng bằng sông Cửu Long 2.1. Chủ trương Năm 2008, sau hơn 20 năm thực hiện đường đối đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nông nghiệp, nông dân, nông thôn nước ta đã đạt được thành tựu khá toàn diện và to lớn. Nông nghiệp tiếp tục phát triển với tốc độ khá cao theo hướng sản xuất hàng hoá, nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả; đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia; một số mặt hàng xuất khẩu chiếm vị thế cao trên thị trường thế giới. Kinh tế nông thôn chuyển dịch theo hướng tăng công nghiệp, dịch vụ, ngành nghề; các hình thức tổ chức sản xuất tiếp tục đổi mới. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được tăng cường; bộ mặt nhiều vùng nông thôn thay đổi. Đời sống vật chất và tinh thần của dân cư ở hầu hết các vùng nông thôn ngày càng được cải thiện. Tuy nhiên, những thành tựu đạt được chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế và chưa đồng đều giữa các vùng. Nông nghiệp phát triển còn kém bền vững, tốc độ tăng trưởng có xu hướng giảm dần, sức cạnh tranh thấp, chưa phát huy tốt nguồn lực cho phát triển sản xuất; nghiên cứu, chuyển giao khoa học - công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực còn hạn chế. Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đổi mới cách thức sản xuất trong nông nghiệp còn chậm, phổ biến vẫn là sản xuất nhỏ phân tán; năng suất, chất lượng, giá trị gia tăng nhiều mặt hàng thấp. Công nghiệp, dịch vụ và ngành 1 Thủ tướng Chính phủ (2009), Quyết định số 2190/QĐ-TTg về việc Phê duyệt Quy hoạch phát triển hệ thống cảng biển Việt Nam đến năm 2020, định hướng đến năm 2030. 290 nghề phát triển chậm, chưa thúc đẩy mạnh mẽ chuyển dịch cơ cấu kinh tế và lao động ở nông thôn1. Thực hiện Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương về nông nghiệp, nông dân, nông thôn; Chính phủ đã ra Nghị quyết thực hiện Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn mới với nội dung chính là: xây dựng, tổ chức cuộc sống của dân cư nông thôn theo hướng văn minh, hiện đại, giữ gìn bản sắc văn hoá và môi trường sinh thái gắn với phát triển đô thị, thị trấn, thị tứ. Phát triển đồng bộ hệ thống hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn phù hợp quy hoạch không gian xây dựng làng (ấp, thôn, bản), xã và quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của ngành, địa phương; kết hợp giữa hỗ trợ của Nhà nước với phát huy nội lực của cộng đồng dân cư nông thôn. Nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực và tổ chức tốt đời sống văn hoá cơ sở. Xây dựng các hình thức tổ chức sản xuất phù hợp với yêu cầu của nền nông nghiệp hiện đại, sản xuất hàng hoá gồm cả nông nghiệp và phi nông nghiệp, thực hiện “mỗi làng một nghề”. Đổi mới các hình thức tổ chức sản xuất có hiệu quả ở nông thôn: trong đó, phải xác định rõ vị trí, vai trò của các hình thức tổ chức sản xuất có hiệu quả ở nông thôn, chú trọng phát triển loại hình sản xuất tạo đột phá căn bản, đáp ứng yêu cầu của nền nông nghiệp hiện đại, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động nông thôn. Hình thành mối liên kết hộ sản xuất với trang trại, hợp tác xã, doanh nghiệp, tổ chức khoa học, thương mại, hiệp hội ngành hàng2. Nhằm cụ thể hóa chương trình hành động xây dựng nông thôn mới, Chính phủ đã ban hành Quyết định “xây dựng nông thôn mới có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội từng bước hiện đại; cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ; gắn phát triển nông thôn với đô thị theo quy hoạch; xã hội nông thôn dân chủ, ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân tộc; môi trường sinh thái được bảo vệ; an ninh trật tự được giữ vững; đời sống vật chất và tinh thần của người dân ngày càng được nâng cao; theo định hướng xã hội chủ nghĩa”3. Để có cơ sở thực hiện, Thủ 1 Đảng Cộng sản Việt Nam (2008), Ban Chấp hành Trung ương, Nghị quyết số 26-QĐ/TW, ngày 5/8/2008, Hội nghị lần thứ VII Ban Chấp hành Trung ương( khóa X) về nông nghiệp, nông dân, nông thôn, tr.1 2 Chính phủ (2008), Nghị quyết số 24/2008/NQ-CP ngày 28/10/2008 của Chính phủ ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 26 -NQ/TW xác định nhiệm vụ xây dựng “Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn mới” , tr.2, 5 3 Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 800/QĐ-TTg, ngày 4/6/2010 về Phê duyệt Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 - 2020, tr.1 291 KỶ YẾU HỘI THẢO PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG TỪ THỰC TIỄN ĐẾN CHÍNH SÁCH tướng Chính phủ đã ban hành bộ tiêu chí quốc gia về xây dựng nông thôn mới 1. Bộ tiêu chí xây dựng nông thôn mới gồm 19 tiêu chí. Chợ nông thôn thuộc tiêu chí thứ 7 và được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ban hành Thông tư Hướng dẫn thực hiện bộ tiêu chí về nông thôn mới2. Nhằm quản lý chuyên môn về hoạt động mua bán, trao đổi hàng hóa của chợ nông thôn mới, Bộ Công thương đã ban hành Quyết định thực hiện tiêu chí số 7 về chợ trong bộ tiêu chí quốc gia xây dựng nông thôn mới3. Đối với đồng bằng sông Cửu Long, mỗi địa phương đều thành lập ban chỉ đạo cấp tỉnh, thành phố nhằm xác lập cơ sở pháp lý và thực hiện Chương quốc gia xây dựng nông thôn mới. 2.2. Chợ nông thôn mới đồng bằng sông Cửu Long Theo giải thích thuật ngữ của Tổng cục Thống kê: Chợ là nơi diễn ra các hoạt động mua bán, trao đổi hàng hoá, dịch vụ của nhiều người, được hình thành do yêu cầu của sản xuất, đời sống xã hội và hoạt động thường xuyên theo nhu cầu nhất định, có ít nhất 50 điểm kinh doanh đối với khu vực thành thị và 30 điểm kinh doanh đối với khu vực nông thôn. Chợ được chia thành 3 hạng: hạng 1 (có trên 400 điểm kinh doanh, được đặt ở các vị trí trung tâm thương mại quan trọng của tỉnh, thành phố có mặt bằng phạm vi chợ phù hợp với qui mô hoạt động của chợ); hạng 2 (có từ 200 - 400 điểm kinh doanh, được đặt ở trung tâm giao 1 Thủ tướng Chính phủ (2009), Quyết định số 491/QĐ-TTg, ngày 16/4/2009 về việc ban hành bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới. 2 Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn (2013), Thông tư số 41/2013/TT-BNNPTNT ngày 4/10/2013, về hướng dẫn thực hiện bộ tiêu chí quốc gia xây dựng nông thôn mới, tr.4. Điều 11: Tiêu chí chợ nông thôn. Chợ đạt chuẩn khi đáp ứng đủ 02 yêu cầu: Về công trình kỹ thuật: Có đủ các công trình của chợ nông thôn do xã quản lý (chợ hạng 3) được quy định trong TCVN 9211: 2012 Chợ - Tiêu chuẩn thiết kế ban hành tại Quyết định 3621/QĐ-BKHCN ngày 28/12/2012 của Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ về việc công bố Tiêu chuẩn quốc gia; Điều hành quản lý chợ: Có tổ chức quản lý; Có Nội quy chợ do UBND xã quy định và niêm yế t công khai để điều hành hoạt động, xử lý vi phạm; Có sử dụng cân đối chứng, thiết bị đo lường để người tiêu dùng tự kiểm tra về số lượng, khối lượng hàng hóa; Các hàng hóa, dịch vụ kinh doanh tại chợ không thuộc danh mục cấm kinh doanh theo quy định của pháp luật. Đối tượng áp dụng: Chợ đạt chuẩn chỉ áp dụng đối với các xã có chợ theo quy hoạch mạng lưới chợ nông thôn được UBND cấp huyện phê duyệt; Xã có chợ nhưng không thuộc loại quy hoạch của huyện thì xét theo quy định riêng (nếu có) của UBND cấp huyện. 3 Bộ Công thương (2014), Quyết định số 12151/QĐ-BCT, ngày 31/12/2014 về hướng dẫn thực tiêu chí số 7 về chợ trong bộ tiêu chí quốc gia xây dựng nông thôn mới, tr.1 Về diện tích, mặt bằng xây dựng chợ: Bảo đảm tối thiểu không nhỏ hơn mức qui định về chỉ t iêu sử dụng đất trên số điểm kinh doanh trong chợ qui định tại mục 6.2.1 của Tiêu chuẩn TCVN 9211:2012 về Tiêu chuẩn thiết kế chợ. Trong đó, đối với chợ có qui mô 100 điểm kinh doanh trở xuống, chỉ tiêu sử dụng đất trên một điểm kinh doanh là 16m2. Đối với xã thuộc địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn, được xem xét áp dụng chỉ tiêu sử dụng đất trên một điểm kinh doanh là 12m2. Về kết cấu nhà chợ chính: Nhà chợ chính phải bảo đảm kiên cố hoặc bán kiên cố. Chợ bán kiên cố là chợ được xây dựng bảo đảm có thời gian sử dụng từ 5 đến 10 năm (theo qui định tại Nghị định số 02/2003/NĐ-CP của Chính phủ về phát triển và quản lý chợ). 292 lưu kinh tế của khu vực có mặt bằng phạm vi chợ phù hợp với qui mô hoạt động của chợ); hạng 3 (có dưới 200 điểm kinh doanh hoặc chưa được đầu tư xây dựng kiên cố, chủ yếu phục vụ nhu cầu mua bán hàng hoá của nhân dân trong xã, phường và địa bàn phụ cận)1. Thời gian hình thành chợ làng xã, chợ huyện, chợ tỉnh ở đồng bằng sông Cửu Long không đồng nhất. Đồng bằng sông Cửu Long là vùng đất mới khai phá, nên chỗ nào có điều kiện thuận lợi hơn, dân cư tập trung đông hơn, làng xóm mới ra đời, chợ làng do đó cũng hình thành sớm hơn. Quy mô chợ làng xã ở đồng bằng sông Cửu Long tùy thuộc vào sự tập trung buôn bán của cư dân trong làng và các làng lân cận. Do địa hình phân tán bởi sông ngòi, kênh rạch chằn chịt, số lượng chợ làng xã ở vùng đất này trên thực tế khá nhiều, hoạt động buôn bán nhộn nhịp và là “chân rết” quan trọng của hệ thống chợ huyện, chợ tỉnh thành ở đồng bằng sông Cửu Long. Khi dân cư ngày một đông đúc, sản xuất kinh tế phát triển, nhu cầu trao đổi hàng hóa giữa các làng lân cận, các huyện, tỉnh nên chợ làng xã lần lượt ra đời. Quy luật cung cầu được biểu hiện đầu tiên từ chợ làng xã và được nâng dần quy mô ở chợ huyện, chợ tỉnh. Dưới tác động của hệ thống chợ làng xã ở đồng bằng sông Cửu Long, hàng hóa nơi đây vừa đáp ứng nhu cầu dân cư địa phương, vừa cung cấp cho xuất khẩu. Như vậy, chợ làng xã, chợ huyện, chợ tỉnh, ở đồng bằng sông Cửu Long đã góp phần quan trọng vào thúc đẩy sản xuất kinh tế, nâng dần đời sống vật chất và tinh thần cho người dân trên vùng đất mới “tha phương cầu thực”. Vùng đất đồng bằng sông Cửu Long được định hình, mở rộng và phát triển đến nay đã hơn 300 năm. Từ cuối thế kỷ XVII đến nay, chợ truyền thống ở đồng bằng sông Cửu Long như lăng kính phản ánh tình hình kinh tế, diện mạo làng xã, đô thị và văn hóa - xã hội. Sự hình thành, phát triển của hệ thống chợ truyền thống, đã tạo tiền đề cho sự phát triển kinh tế, xã hội vùng đất đồng bằng sông Cửu Long. Từ lý luận đến thực tiễn, chợ nông thôn trở thành một trong mười chín tiêu chí quan trọng xây dựng nông thôn mới ở đồng bằng sông Cửu Long nói riêng, cả nước nói chung. Trong chiến lược phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn, chợ nông thôn là đòn bẩy thúc đẩy kinh tế địa phương phát triển, góp phần ổn định kinh tế, chính trị, xã hội địa phương đồng bằng sông Cửu Long nói riêng, cả nước nói chung nhằm thực hiện tốt mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đáp ứng nhu cầu hội nhập khu vực và thế giới. Theo 1 Tổng cục Thống kê (2015), Niên giám Thống kê năm 2015, Nxb Thống kê, tr.529 293 KỶ YẾU HỘI THẢO PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG TỪ THỰC TIỄN ĐẾN CHÍNH SÁCH Tổng cục Thống kê đến 31/12/2015, cả nước có 8660 chợ1, tăng 132 chợ so với năm 2010 là 8528 chợ. Trong đó, hệ thống chợ ở đồng bằng sông Cửu Long năm 2015 là 1751 chợ chiếm 20.21% tổng số chợ cả nước và giảm so với năm 2010 là 28 chợ nhằm nâng dần chất lượng xây dựng hạ tầng cơ sở vật chất, giải tỏa chợ tự phát ở nông thôn mới theo quy định của Chương trình Quốc gia xây dựng nông thôn mới. Nhằm tạo cơ sở pháp lý đối với chiến lược phát triển hạ tầng thương mại nông thôn chủ yếu là chợ truyền thống đáp ứng tiêu chí thứ bảy trong xây dựng nông thôn mới, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành quyết định phê duyệt đề án “phát triển thương mại nông thôn giai đoạn 2010 - 2015 và định hướng đến năm 2020”. Theo đó, phát triển thương mại nông thôn ngày càng vững mạnh, theo hướng văn minh, hiện đại với sự tham gia của các thành phần kinh tế và sự đa dạng của các loại hình tổ chức phân phối, các hoạt động dịch vụ và phương thức kinh doanh; góp phần định hướng và thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển; đáp ứng đủ, kịp thời nhu cầu sản xuất, tiêu dùng ở địa bàn nông thôn, trên cơ sở đó góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, xóa đói giảm nghèo, tạo tiền đề để chủ động hội nhập kinh tế - thương mại quốc tế thành công ở địa bàn nông thôn2. Chỉ tiêu phát triển chợ truyền thống theo quyết này giai đoạn 2010-2015 cụ thể như sau: Đến năm 2011, hoàn thành quy hoạch phát triển hạ tầng thương mại ở địa bàn nông thôn; trong đó có quy hoạch chợ biên giới; đến năm 2012, hoàn thành xây dựng, đưa vào sử dụng các chợ đầu mối bán buôn nông sản tại các vùng sản xuất hàng hóa tập trung theo quy hoạch được duyệt; đến năm 2015, 50% chợ biên giới, chợ cửa khẩu, chợ trong khu kinh tế cửa khẩu được nâng cấp, cải tạo và xây mới; 100% chợ trung tâm của các huyện được kiên cố hóa; 30% thị trấn có loại hình tổ chức phân phối quy mô nhỏ và vừa; đến năm 2020, tất cả các xã đều có chợ đạt chuẩn theo tiêu chí nông thôn mới; hoàn thành việc cải tạo, nâng cấp và xây mới các chợ đầu mối nông sản, chợ biên giới, chợ cửa khẩu, chợ trong khu kinh tế cửa khẩu; 80% số thị trấn có hình thức tổ chức phân phối quy mô nhỏ và vừa. Hình thành 01 sở giao dịch gạo tại Cần Thơ,... Đồng Tháp là địa phương có số lượng chợ truyền thống nhiều nhất thời điểm năm 2015 là 230/17513, chiếm tỷ lệ 13.13% của hệ thống 1 Tổng cục Thống kê (2015), Niên giám Thống kê năm 2015, Nxb Thống kê, tr.542 2 Thủ tướng Chính phủ (2010), Quyết định số 23/QĐ-TTg ngày 06/01/2010 về phê duyệt đề án “phát triển thương mại nông thôn giai đoạn 2010 - 2015 và định hướng đến năm 2020”, tr.1 3 Tổng cục Thống kê (2015), Niên giám Thống kê năm 2015, Nxb Thống kê, tr.542 294 chợ toàn đồng bằng sông Cửu Long. Ngay sau Nghị quyết số 26-QĐ/TW, ngày 5/8/2008, Hội nghị lần thứ VII Ban Chấp hành Trung ương( khóa X) về nông nghiệp, nông dân, nông thôn; chính quyền tỉnh Đồng Tháp đã chủ động định hướng phát triển hạ tầng thương nghiệp nói chung, chợ truyền thống nói riêng theo quyết định Phê duyệt Quy hoạch phát triển ngành thương mại tỉnh Đồng Tháp đến năm 2020 nhằm đáp ứng yêu cầu trong xây dựng nông thôn mới. Theo đó, Quy hoạch phát triển thương mại Đồng Tháp phải chú trọng đến đầu tư xây dựng đồng bộ cơ sở vật chất kỹ thuật thương mại: thương mại truyền thống (chợ, phố chợ), thương mại hiện đại (trung tâm thương mại, siêu thị, tổng kho bán buôn), thương mại điện tử, thực hiện văn minh thương mại và đảm bảo tính hiệu quả cao của cơ sở vật chất kỹ thuật được đầu tư. Mạng lưới chợ: đến năm 2020 hệ thống chợ trên địa bàn Tỉnh phát triển từ 210 đến 220 chợ (trong đó 17 chợ loại I; 5 chợ đầu mối chuyên doanh; 03 chợ chuyên doanh và 01 trung tâm giao dịch cá giống)1. Tuy nhiên, đến năm 2015 tỉnh Đồng Tháp đã có 230 chợ truyền thống, vượt chỉ tiêu về số lượng và thời gian đã đề ra. Nhằm đẩy mạnh thực hiện Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới của tỉnh Đồng Tháp, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của đối với tỉnh Đồng Tháp giai đoạn 2011-2020, trong đó phát triển thương nghiệp với vai trò rất lớn của chợ truyền thống. Theo đó, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu tỉnh Đồng Tháp “sắp xếp lại mạng lưới bán lẻ, ưu tiên phát triển hệ thống bán lẻ hiện đại, tiện ích; tiếp tục quy hoạch và xây dựng các trung tâm thương mại cấp tiểu vùng (Sa Đéc, Hồng Ngự, Lấp Vò, Mỹ An, Mỹ Thọ), các chợ đầu mối lúa gạo, trái cây, hoa cảnh và cá, lợn, bò; khuyến khích đầu tư xây dựng cửa hàng tự chọn, các cửa hàng liên kế tại trung tâm các chợ huyện thị xã, siêu thị, trung tâm bán sỉ, cửa hàng chuyên doanh hàng cao cấp; phát triển hệ thống chợ dân sinh, đặc biệt là tại khu vực nông thôn phù hợp với quy hoạch”2. Đến tháng 9/2017, toàn tỉnh Đồng Tháp có 32 xã đạt 19/19 tiêu chí xây dựng nông thôn mới (NTM), 24 xã đạt từ 13 đến 15 tiêu chí, có 1 đơn vị cấp huyện, TP là TP Sa Đéc được Thủ tướng Chính phủ công nhận hoàn thành nhiệm vụ xây dựng NTM3 tháng 01/2018. Theo báo cáo số 84/BC-UBND ngày 20/5/2016 của Ủy ban nhân 1 UBND tỉnh Đồng Tháp (2009), Quyết định số 448/QĐ-UBND-HC ngày 24/4/2009 về phê duyệt Quy hoạch phát triển ngành thương mại tỉnh Đồng Tháp đến năm 2020, tr.1, 3 2 Thủ tướng Chính phủ (2011), Quyết định số 470/QĐ-TTg ngày 30/3/2011 về Phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Đồng Tháp đến năm 2020, tr.6 3 Dẫn theo moi-post206859.html (ngày truy cập 12/4/2018) 295 KỶ YẾU HỘI THẢO PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG TỪ THỰC TIỄN ĐẾN CHÍNH SÁCH dân tỉnh Đồng Tháp về việc thẩm tra hồ sơ và kết quả thực hiện các tiêu chí nông thôn mới cho thành phố Sa Đéc năm 2015, có 3 đơn vị cấp xã đạt tiếu chí chợ nông thôn mới đạt chuẩn bao gồm: Về công trình kỹ thuật: Có đủ các công trình của chợ nông thôn do xã quản lý (chợ hạng 3) được quy định trong TCVN 9211: 2012 Chợ -Tiêu chuẩn thiết kế ban hành tại Quyết định số 3621/QĐ-BKHCN ngày 28/12/2012 của Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ về việc công bố Tiêu chuẩn quốc gia; Điều hành quản lý chợ: Có tổ chức quản lý; Có Nội quy chợ do UBND xã quy định và niêm yết công khai để điều hành hoạt động, xử lý vi phạm; Có sử dụng cân đối chứng, thiết bị đo lường để người tiêu dùng tự kiểm tra về số lượng, khối lượng hàng hóa; Các hàng hóa, dịch vụ kinh doanh tại chợ không thuộc danh mục cấm kinh doanh theo quy định của pháp luật; Kết quả thực hiện tiêu chí: Mỗi xã đều có chợ nông thôn được xây dựng theo quy hoạch có đủ các công trình kỹ thuật theo quy định như: nhà lồng chợ, đường giao thông nội bộ, hệ thống cấp thoát nước, hệ thống PCCC, bãi giữ xe, điểm kinh doanh bình quân 4 m2 /điểm kinh doanhđã đáp ứng nhu cầu mua bán của người dân. Về điều hành quản lý: Chợ được Ban quản lý chợ tổ chức quản lý, có nội quy chợ, trang bị cân đối chứng,đúng theo quy định. Thường xuyên kiểm tra các hàng hóa, dịch vụ kinh doanh tại các chợ và đảm bảo các loại hàng hóa kinh doanh trong khu vực chợ không thuộc danh mục cấm kinh doanh theo quy định. Đánh giá mức độ đạt tiêu chí: Thành phố Sa Đéc có 03/03 xã đạt tiêu chí Chợ nông thôn năm 2015 so với quy định. Năm 2015, tỉnh An Giang có 200 chợ truyền thống đặt dưới sự quản lý của Nhà nước và các tổ chức, cá nhân kinh doanh chợ. Địa phương này, có số lượng chợ truyền thống 200/1751, xếp thứ 02 của các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long. Trước khi Chương trình Quốc gia xây dựng nông thôn mới tiến hành, tỉnh An Giang đã chủ động xây dựng đề án, kế hoạch, quyết định Phê duyệt Quy hoạch phát triển mạng lưới Chợ, Siêu thị,Trung tâm thương mại tỉnh An Giang từ năm 2008 đến năm 2020. Vì vậy, khi An Giang thực hiện Chương trình xây dựng nông thôn mới theo tiêu chí số 07 (chợ nông thôn mới) có nhiều thuận lợi. Theo định hướng của chính quyền tỉnh An Giang trong chiến lược chợ truyền thống theo mục tiêu cơ bản là phát triển mạng lưới chợ trên địa bàn tỉnh An Giang là nhằm đáp ứng tốt nhất nhu cầu của sản xuất và tiêu dùng; nâng cao mức sống của người dân, đảm bảo lợi ích người tiêu dùng và người sản xuất; đảm bảo cho các thị trường hàng hoá phát triển ổn định; góp phần thúc đẩy nâng cao hiệu quả lưu thông hàng hoá trên địa bàn tỉnh, với các tỉnh trong vùng và với thị trường Campuchia. Trên cơ sở đánh giá về thực trạng và 296 xu hướng phát triển mạng lưới chợ, kết hợp với những quan điểm phát triển chợ trên địa bàn tỉnh An Giang trong thời kỳ 2008-2020, các mục tiêu phát triển chợ được cụ thể hoá như sau1: Đảm bảo số lượng dân cư phục vụ bình quân dưới 10.000 người/chợ. Đồng thời, giảm bán kính phục vụ bình quân của một chợ xuống còn 2,07 km/chợ. Theo các chỉ tiêu này, trong giai đoạn từ nay đến năm 2020, tổng số chợ trên địa bàn tỉnh An Giang sẽ tăng thêm 34 chợ (xây mới 81 chợ; di dời, giải toả 47 chợ). Hình thành 3 chợ đầu mối chuyên doanh bao gồm: 1 chợ đầu mối lúa gạo, 1 chợ đầu mối thuỷ sản và 1 chợ đầu mối rau, đậu. Các chợ đầu mối bán buôn nông sản sẽ trở thành trung tâm thúc đẩy các loại hình bán lẻ nông sản khác như các cửa hàng tiện lợi, chợ bán lẻ, siêu thị.... Tăng diện tích bình quân của hộ kinh doanh cố định trên chợ từ dưới 5m2/hộ hiện nay lên 8 m2/hộ vào năm 2010 và 12 m2/hộ vào năm 2020. Đảm bảo tỉ lệ hàng hoá và dịch vụ trao đổi qua hệ thống chợ trong tỉnh sẽ chiếm khoảng 60% tổng mức lưu chuyển hàng hoá bán lẻ vào năm 2010, sau đó giảm còn 50% vào năm 2015 và 40% vào năm 2020. Trong đó, tỷ trọng hàng nông sản, thực phẩm lưu thông qua mạng lưới chợ từ dưới 42% hiện nay tăng lên 55 - 60%. Góp phần thu hút lao động, giải quyết việc làm và tăng thu nhập cho dân cư trong tỉnh, đảm bảo tỷ lệ lao động tham gia hoạt động trên chợ ở mức tối thiểu là 2,2% số lao động làm việc trong các ngành kinh tế hay 40 - 45% số lao động của ngành thương mại trên địa bàn tỉnh. Tăng số hộ kinh doanh trên chợ, đối với hệ thống chợ xã, phấn đấu nâng số hộ kinh doanh cố định trên chợ từ mức trên 60 hộ/chợ hiện nay lên mức 80-90 hộ/chợ vào năm 2020. Cải thiện điều kiện cơ sở vật chất chợ, áp dụng các tiêu chuẩn kinh tế kỹ thuật vào xây dựng và thiết kế chợ, tăng cường công tác quản lý vệ sinh môi trường và vệ sinh an toàn thực phẩm, nâng cao trình độ văn minh thương nghiệp trên chợ. Đảm bảo 100% số chợ đạt tiêu chuẩn về môi trường và vệ sinh an toàn thực phẩm. Nâng cao chất lượng và hiệu quả của công tác quản lý chợ trên cơ sở nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ quản lý chợ, đổi mới và hoàn thiện cơ chế, nội dung quản lý Nhà nước, quản lý kinh doanh chợ. 1 UBND tỉnh An Giang (2008), Quyết định số 2502/QĐ-UBND ngày 25/11/2008, Phê duyệt Quy hoạch phát triển mạng lưới Chợ, Siêu thị, Trung tâm thương mại tỉnh An Giang đến năm 2020, tr.2,3 297 KỶ YẾU HỘI THẢO PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG TỪ THỰC TIỄN ĐẾN CHÍNH SÁCH Sau gần 7 năm thực hiện Chương trình, với sự quan tâm của các cấp ủy Đảng, sự chung sức của cả hệ thống chính trị, sự nỗ lực của các cấp chính quyền và sự hưởng ứng của nhân dân, Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới tại An Giang đã đạt được nhiều kết quả nhất định. Mặc dù, số xã đạt chuẩn “xã nông thôn mới” và mức độ đạt tiêu chí ở nhiều xã ở An Giang đạt ở mức trung bình khá so với các địa phương khác, do điều kiện đặc thù và việc đánh giá, công nhận đi vào thực chất, đúng theo quy định của Trung ương, không chạy theo thành tích, phong trào. Tính đến tháng 10 năm 2017, toàn tỉnh có 21/119 xã đạt chuẩn “xã nông thôn mới” (tương đương 17,65% so tổng số xã), 15 xã đạt 15 - 18 tiêu chí, 49 xã đạt từ 10 - 14 tiêu chí, 34 xã đạt từ 6 - 9 tiêu chí, bình quân đạt 12,39 tiêu chí và không còn xã đạt dưới 6 tiêu chí. Dự kiến trong năm 2017 tỉnh An Giang phấn đấu có thêm 11 xã đạt chuẩn NTM (nâng tổng số 32 xã NTM theo NQ của HĐND tỉnh)1. Năm 2015, tỉnh Tiền Giang có 176/1751 chợ truyền thống của toàn vùng đồng bằng sông Cửu Long, chiếm tỷ lệ 10,05%. Xác định tầm quan trọng của hệ thống chợ truyền thống trong chuỗi phát triển thương mại của địa phương, chính quyền tỉnh Tiền Giang đã sớm Phê duyệt Quy hoạch phát triển thương mại tỉnh Tiền Giang từ năm 2010 đến năm 2020 nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội nói chung, xây dựng nông thôn mới nói riêng. Theo đó, chính quyền tỉnh Tiền Giang yêu cầu: Xây mới, mở rộng và hoàn thiện mạng lưới chợ tại các trung tâm cụm xã, xã và các khu dân cư tập trung. Nâng cấp mạng lưới chợ bán lẻ ở địa bàn các xã, khuyến khích thương nhân kinh doanh trên chợ thành lập các liên minh mua bán hàng hóa; lấy chợ làm hạt nhân để phát triển các cửa hàng chuyên doanh, tổng hợp xung quanh khu vực chợ, hình thành khu thương mại, dịch vụ tổng hợp. Phát triển thị trường nông thôn gắn với việc tổ chức tốt mạng lưới chợ cụm xã và các khu thương mại, dịch vụ tại các trung tâm dân cư. Tổ chức thị trường có sự kết hợp chặt chẽ với chính sách bảo trợ, bảo hiểm sản xuất nông nghiệp để tạo điều kiện phát triển các vùng sản xuất chuyên canh, phát triển kinh tế hộ và kinh tế trang trại2. Chương trình 1 Dẫn theo thuc-hien-chuong-trinh-muc-tieu-quoc-gia-xay-dung-nong-thon-moi-tinh-an-giang-nam-2017-nhiem- vu-nam-2018 (ngày truy cập 12/4/2018) 2 UBND tỉnh Tiền Giang (2010), Quyết định số 3999/QĐ-UBND ngày 29/12/2010 về Phê duyệt Quy hoạch phát triển thương mại tỉnh Tiền Giang đến năm 2020 , tr.4 298 quốc gia xây dựng nông thôn mới, tiêu chí xây dựng chợ phục vụ nhu cầu người dân là một trong 19 tiêu chí bắt buộc. Vì vậy, trong định hướng phát triển chợ truyền thống nông thôn, chính quyền tỉnh Tiền Giang yêu cầu: “Lấy các chợ xã làm hạt nhân phát triển, kết hợp với các cửa hàng, điểm bán hàng tạo thành khu thương mại, dịch vụ tổng hợp phục vụ trực tiếp nhu cầu sản xuất và tiêu dùng của các tầng lớp dân cư trong khu vực xã. Loại hình thương mại truyền thống sẽ vẫn được chú trọng phát triển như: Xây mới chợ ở những nơi nhân dân có nhu cầu, nâng cấp, cải tạo những chợ đã xuống cấp, đảm bảo đến năm 2015, cơ bản có đủ chợ phục vụ cho nhu cầu mua bán của nhân dân trên địa bàn”1. Đến năm 2015, tỉnh Tiền Giang có 12 xã đạt chuẩn nông thôn mới. Trong đó, chợ nông thôn có vai trò rất quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội địa phương. Chợ nông thôn đã được Nhà nước, các doanh nghiệp, cá nhân đầu tư xây dựng đáp ứng nhu cầu phục vụ người dân. Theo báo báo tỉnh Tiền Giang, “từ năm 2011-2015, toàn tỉnh đã đầu tư xây mới, nâng cấp, sửa chữa 10 chợ, với tổng vốn đầu tư là 28,484 tỷ đồng (trong đó, vốn doanh nghiệp là 12,8 tỷ đồng). Hiện nay, toàn tỉnh có 150 chợ nông thôn chiếm tỷ lệ 85,22% tổng số chợ trên địa bàn tỉnh. Hệ thống chợ nông thôn thời gian qua được quan tâm đầu tư xây dựng, nâng cấp, phát triển trên khắp địa bàn tỉnh với hệ thống hạ tầng ngày càng hoàn chỉnh đáp ứng nhu cầu mua bán hàng hóa của nhân dân”2. Năm 2017, tỉnh Tiền Giang có thêm 16 xã đạt chuẩn nông thôn mới, nâng đến nay đã có 40 xã đạt đạt chuẩn xã nông thôn mới, đạt 28,7% kế hoạch. Năm 2018 Tiền Giang tiếp tục tập trung thực hiện các tiêu chí xây dựng nông thôn mới theo kế hoạch đã đề ra, phấn đấu đến 2020, Tiền Giang có 100 xã nông thôn mới, đạt 69% tổng số xã của tỉnh3. Tỉnh Long An có vị trí địa lý tiếp giáp giữa đồng bằng sông Cửu Long, miền Đông Nam Bộ và biên giới Campuchia. Năm 2015, tỉnh Long An có 131/1751 chợ, chiếm tỷ lệ 7.48% hệ thống chợ của đồng bằng sông Cửu Long. 1 UBND tỉnh Tiền Giang (2010), Quyết định số 3999/QĐ -UBND ngày 29/12/2010 về Phê duyệt Quy hoạch phát triển thương mại tỉnh Tiền Giang đến năm 2020 , tr.8, 9 2 UBND tỉnh Tiền Giang (2015), Ban Chỉ đạo Chương trình Quốc gia xây dựng nông thôn mới, Báo cáo số 132/BC-BCĐ ngày 31/12/2015 về Tổng kết 05 năm thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2011-2015, phương hướng nhiệm vụ năm 2016-2020, tr.9,10 3 Dẫn theo (ngày truy cập 12/4/2018) 299 KỶ YẾU HỘI THẢO PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG TỪ THỰC TIỄN ĐẾN CHÍNH SÁCH Hệ thống chợ nông thôn của tỉnh Long An có vai trò quan trọng đối với Chương trình quốc gia xây dựng nôn thôn mới. Hệ thống chợ nông thôn trở thành mắt xích rất quan trọng đối với luân chuyển, tiêu thụ, trao đổi hàng hóa giữa nông thôn với thành thị, giữa miền Tây Nam Bộ với miền Đông Nam Bộ, giữa Việt Nam với biến giới nước bạn Campuchia. Đến năm 2015, tỉnh Long An có 33 xã đạt chuẩn nông thôn mới1, trong đó chợ nông thôn là một trong 19 tiêu chí bắt buộc. Đối với chợ nông thôn, tỉnh đã triển khai thực hiện Đề án Phát triển thương mại nông thôn giai đoạn 2010 - 2015 và định hướng đến năm 2020; rà soát, điều chỉnh, bổ sung các quy hoạch ngành2. Thực hiện Chương trình xây dựng NTM, tỉnh đã quy định danh mục xây dựng chợ nông thôn được ngân sách nhà nước hỗ trợ vốn thực hiện, nên đã tác động tích cực trong việc thu hút vốn đầu tư nâng cấp, cải tạo hệ thống chợ, đáp ứng yêu cầu về tiêu chuẩn kỹ thuật, cũng như nhu cầu của cư dân nông thôn. Mặt khác, tỉnh cũng tăng cường xử lý các chợ tự phát, góp phần cải thiện đáng kể tình trạng vi phạm các điều kiện về vệ sinh môi trường, an toàn thực phẩm, trật tự, an toàn giao thông, phòng cháy chừa cháy tại các chợ tự phát. Kết quả từ năm 2011 đến nay, toàn tỉnh đã xây mới 24 chợ, cải tạo nâng cấp 44 chợ, với tổng kinh phí thực hiện 188,2 tỷ đồng, nâng tổng số chợ trên địa bàn tỉnh hiện có 129 chợ, trong đó 101 chợ nông thôn, qua đó, tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy lưu chuyển hàng hóa, đáp ứng nhu cầu mua sắm phục vụ sản xuất, sinh hoạt của nhân dân khu vực nông thôn và vùng biên giới. Đến hết năm 2015 có 103 xã đạt tiêu chí Chợ nông thôn, tăng 87 chợ so với năm 20103. Theo số liệu báo cáo của các địa phương, đến hết tháng 11/2017, cả nước có 2.884 xã (32,3%) được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới, trong đó, đã có trên 305 xã được công nhận đạt chuẩn theo Bộ tiêu chí quốc gia về xã nông thôn mới giai đoạn 2016-2020 (vượt mục tiêu năm 2017 có ít nhất 31% số xã đạt chuẩn), tăng 524 xã (5,87%) so với cuối năm 2016; Bình quân đạt 13,69 tiêu chí/xã; Còn 176 xã dưới 5 tiêu chí, giảm 81 xã so với cuối năm 2016; riêng đồng bằng sông Cửu Long (333 xã - 1 UBND tỉnh Long An (2015), Ban Chỉ đạo Chương trình Quốc gia xây dựng nông thôn mới, Báo cáo số 3684/BC-BCĐNTM ngày 20/11/2015 về Kết quả thực hiện Chương trình MTQG xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2011-2015 và Kế hoạch thực hiện Chương trình giai đoạn 2016 - 2020, tr.11 2 UBND tỉnh Long An (2013), Quyết định số 3097/QĐ-UBND ngày 04/09/2013 về việc phê duyệt quy hoạch phát triển thương mại tỉnh long an đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 3 UBND tỉnh Long An (2015), Ban Chỉ đạo Chương trình Quốc gia xây dựng nông thôn mới, Báo cáo số 3684/BC-BCĐNTM ngày 20/11/2015 về Kết quả thực hiện Chương trình MTQG xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2011-2015 và Kế hoạch thực hiện Chương trình giai đoạn 2016 - 2020, tr.7 300 25,85%)1, trong đó chợ nông thôn mới luôn luôn được các cấp chính quyền ở đồng bằng sông Cửu Long ưu tiên đầu tư xây dựng, đáp ứng nhu cầu phục người dân nông thôn. 3. Tác động hệ thống chợ nông thôn mới đối với kinh tế, xã hội ● Về kinh tế Sau 7 năm xây dựng nông thôn mới, đến năm 2017, hệ thống chợ nông thôn mới trên địa bàn đồng bằng sông Cửu Long như lăng kính phản ánh sự chuyển biến mạnh mẽ vùng kinh tế trọng điểm Tây Nam Bộ. Qua đó, cho thấy chức năng của hệ thống chợ nông thôn mới giữ vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển kinh tế, góp phần ổn định chính trị - xã hội địa phương. Chợ nông thôn mới ở Tây Nam Bộ đã hình thành, tồn tại và phát triển như quy luật khách quan vốn có của nó nhằm phục vụ tốt hơn đời sống vật chất và tinh thần của người dân. Đồng bằng sông Cửu Long nằm trong vùng phát triển kinh tế trọng điểm Tây Nam Bộ, có hệ thống giao thông thuỷ bộ khá phát triển, có điều kiện thuận lợi để liên kết kinh tế, giao lưu trao đổi hàng hoá với các tỉnh trong vùng và cả nước. Trong đó, mối liên hệ trực tuyến giữa hệ thống chợ nông thôn mới, trung tâm thương mại trong từng huyện, thị, thành phố với các thị trường trung tâm có ý nghĩa quan trọng nhất. Để nâng cao hiệu quả của mạng lưới chợ nông thôn mới, cần có sự kết hợp giữa hệ thống chợ dân sinh phục vụ nhu cầu tiêu dùng thường xuyên của dân cư các khu công nghiệp, khu dân cư nông thôn với các chợ bán buôn, chợ chuyên doanh, chợ đầu mối cung ứng, phát luồng hàng hoá cho thị trường trong và ngoài Vùng. Ngoài ra, chợ nông thôn mới trở thành kênh tiêu thụ hàng hóa nội địa rất quan trọng đối với chương trình Quốc gia “người Việt Nam ưu tiên dung hàng Việt Nam”. ● Về văn hóa - xã hội Diện mạo chợ nông thôn mới ở đồng bằng sông Cửu Long đã hoàn toàn thay đổi. Hình ảnh những ngôi chợ nông thôn cũ nhếch nhác, tềnh toàng, lụp xụp, mái tranh vách nứa đã được thay thế theo tiêu chí xây dựng chợ mới của Bộ xây dựng. Chợ nông thôn mới được xây dựng kiên cố bằng bê tông, cốt sắt, mái tôn, lát nền xi măng, phân chia kios; phân chia khu vực bán hàng tạp hóa, 1 Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2017), báo cáo đánh giá kết quả thực hiện năm 2017 và dự kiến một số nhiệm vụ trọng tâm thực hiện Chương trình MTQG xây dựng nông thôn mới năm 2018. 301 KỶ YẾU HỘI THẢO PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG TỪ THỰC TIỄN ĐẾN CHÍNH SÁCH nhu yếu phẩm, quần áo dày dép, bán hàng rau quả, cá thịtĐể đảm an toàn, an ninh trật tự, vệ sinh an toàn thực phẩm, chợ nông thôn mới có hệ thống phòng cháy chữa cháy, cân đối chứng số lượng, bãi để xe, khu vực xử lý nước thải Chợ nông thôn mới ở vùng Tây Nam Bộ đã thực sự trở thành những ngôi chợ văn hóa thẩm mỹ về kết cấu hạ tầng, văn minh về không gian trao đổi hàng hóa, hiện đại về tổ chức quản lý. Chợ nông thôn mới đã góp phần làm thay đổi diện mạo nông thôn đồng bằng sông Cửu Long trong tiến trình hội nhập khu vực và quốc tế. Trong tương lai gần, với sự quyết tâm của Đảng bộ, Chính quyền các địa phương đồng bằng sông Cửu Long, chợ nông thôn nơi đây từng bước đạt chuẩn hoàn toàn theo tiêu chí xây dựng nông thôn mới vào năm 2020. 4. Kết luận Nghiên cứu chợ nông thôn mới, chúng ta thấy được sự sáng suốt, linh hoạt, nhạy bén của Đảng bộ và chính quyền các tỉnh thành đồng bằng sông Cửu Long trong cải cách, mở cửa kinh tế, đặc biệt là thương nghiệp mà hệ thống chợ nông thôn giữ vai trò rất quan trọng. Từ lý luận đến thực tiễn, chợ nông thôn mới ở đồng bằng sông Cửu Long đã từng bước phát huy hiệu quả đối với sự phát triển kinh tế - xã hội nông thôn. Vì vậy, ngày nay chúng ta đến các địa phương nông thôn mới ở đồng bằng sông Cửu Long đều để lại ấn tượng tốt đẹp, hứa hẹn một nông thôn mới hoàn toàn hiện đại dần trở thành hiện thực, xứng tầm vùng kinh tế trọng điểm Tây Nam Bộ của cả nước. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được trong ưu tiên đầu tư xây dựng chợ nông thôn mới ở đồng bằng sông Cửu Long thời gian qua còn bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập, gây lãng phí tiền của nhân dân và Nhà nước. Hiện tại, trên địa bàn đồng bằng sông Cửu Long có vài chục công trình xây dựng chợ truyền thống bằng nguồn vốn của Nhà nước, tư nhân, doanh nghiệp trong tình trạng hoang phế, bỏ hoang, xuống cấp,...gây lãng phí hàng trăm tỷ đồng. Theo chúng tôi, có nhiều nguyên nhân dẫn đến thực trạng lãng phí trong đầu tư xây dựng chợ nông thôn mới nói riêng, phát triển kinh tế - xã hội nói chung của các địa phương như Kiên Giang, An Giang, Sóc Trăng,... thời gian qua. Trước hết, chủ đầu tư không nghiên cứu kỹ về tập quán, thói quen sinh kế của người dân địa phương. Thứ hai, chợ mới xây dựng với giá thuê, bán quầy sạp (kios) khá cao vượt khả năng sinh kế người dân tiểu thương. Thứ ba, thiết kế xây dựng chợ mới với kết cấu hạ tầng giao thông chưa đồng bộ, nhà đầu tư chưa đặt lợi ích giới tiểu thương lên hàng đầu mà nặng về lợi nhuận. Thứ tư, xây dựng chợ mới ở nơi vị trí không phù hợp với nhu cầu mua sắm 302 và phân bố dân cư,... Theo đó, chúng tôi có một số khuyến nghị đối với quy hoạch, phát triển chợ truyền thống trong xây dựng nông thôn mới nói riêng, phát triển kinh tế - xã hội nói chung ở đồng bằng sông Cửu Long trong thời gian tới như sau: Trước hết, cơ quan quản lý Nhà nước, chủ đầu tư kinh doanh chợ ở đồng bằng sông Cửu Long cần nghiên cứu kỹ tập quán, thói quen sinh kế bán buôn của giới tiểu thương và nhu cầu mua sắm hàng hóa của người dân địa phương. Thứ hai, chính quyền địa phương, nhà đầu tư trước khi thực hiện dự án xây dựng chợ mới cần nghiêm túc lắng nghe ý kiến giới tiểu thương có kinh nghiệm trong hoạt động buôn bán ở chợ với phương châm “tiểu thương biết, tiểu thương bàn, tiểu thương làm, tiểu thương kiểm tra”. Thứ ba, Nhà nước, nhà đầu tư dự án xây dựng chợ mới phải đặt lợi ích người tiểu thương buôn bán lên hàng đầu, loại bỏ lợi ích nhóm trong xây dựng dự án chợ mới dưới mọi hình thức. Thứ tư, cần có giải pháp tuyên tuyền kiên trì, đa dạng về hình thức đối với giới tiểu thương bán buôn ở chợ tự phát, chợ ven đường, chợ trong hẻm, chợ chạy...thực hiện đúng các quy định của Nhà nước về quản lý chợ đối an toàn giao thông, vệ sinh an toàn thực phẩm, vệ sinh môi trường, cảnh quang, hàng gian hàng giả, hàng kém chất lượng... Thứ năm, đối với người tiêu dùng cần được tuyên tuyền thường xuyên trên các phương tiện thông tin đại chúng, báo đài địa phương về sự an toàn đối với mua hàng hóa tiêu dùng ở các chợ truyền thống cố định có sự quản lý của Nhà nước và các tổ chức kinh doanh chợ nhằm đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm đối với bản thân và gia đình, an toàn giao thông đối với cộng đồng, vệ sinh môi trường, góp phần bảo vệ không gian địa phương sáng - xanh - sạch - đẹp. Thứ sáu, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các ngành chức năng công an xã, trật tự giao thông, y tế dự phòng địa phương... kiên quyết cưỡng chế đối với giới tiểu thương bán buôn ở hệ thống chợ tự phát, chợ ven đường, chợ ngõ hẻm, chợ chạy...; đồng thời, kiên quyết xử lý người dân vi phạm an toàn giao thông đối với hành vi dừng, đỗ xe mua hàng hóa ở chợ tự phát, chợ ven đường, chợ chạy...lấn chiếm lòng lề đường gây cản trở giao thông. Thứ bảy, thực hiện các giải pháp đồng bộ với sự kiên quyết xử lý và ngăn chặn hoạt động bán buôn của chợ tự phát, chợ chạy... tiềm ẩn mất an toàn giao thông, vệ sinh an toàn thực phẩm... nhằm đảm bảo sự công bằng trong hoạt động kinh doanh bán buôn giữa tiểu thương buôn bán trong chợ cố định có sự quản lý của các cơ quan chức năng so với các hình thức chợ tự phát. Thứ tám, không nên rập khuôn, máy móc theo tiêu chí số 7 (chợ) trong 19 tiêu chí xây dựng nông thôn mới; nên chăng những địa phương chưa xuất hiện nhu cầu xây dựng chợ thực chất, có thể từ 1 đến 2 xã, hoặc 1 đến 2 303 KỶ YẾU HỘI THẢO PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG TỪ THỰC TIỄN ĐẾN CHÍNH SÁCH phường (đô thị) xây dựng một chợ truyền thống nhằm phát huy hết công năng của chợ và hiệu quả từ chủ trương,... Thứ chín, xây dựng chợ truyền thống nông thôn mới phải thực sự xuất phát từ nhu cầu và phù hợp với phong tục, tập quán của người dân địa phương. Nếu bỏ qua 3 nguyên tắc này, thì chợ nông thôn mới sẽ không phát huy được như mong muốn, hoặc sẽ mai một dần,... Thứ mười, Chương trình quốc gia xây dựng nông thôn mới của Trung ương, Văn phòng điều phối Chương trình quốc gia xây dựng nông thôn mới của các địa phương đồng bằng sông Cửu Long nói riêng, cả nước nói chung cần rà soát, thống kê hiệu quả của tiêu chí 7 (chợ) trong xây dựng nông thôn mới trong thời gian qua; từ đó, có thể đều chỉnh tiêu chợ trong bộ tiêu chí xây dựng nông thôn mới theo hướng linh hoạt, phù hợp thực tiễn kinh tế - xã hội các địa phương. Thời gian qua, bên cạnh những thuận lợi, chương trình xây dựng nông thôn mới còn nhiều khó khăn. Nhưng chắc chắn với sự chung sức, đồng lòng của Đảng, Chính quyền, nhân dân các địa phương đồng bằng Cửu Long sẽ thực hiện tốt chương trình Quốc gia xây dựng nông thôn mới như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy “dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Ban Chỉ đạo Tây Nam bộ, Uỷ ban nhân dân tỉnh Sóc Trăng (Chủ biên) (2014), Kỷ yếu Hội thảo Tái cơ cấu phát triển nông nghiệp gắn xây dựng nông thôn mới thích ứng với biến đổi khí hậu vùng Đồng bằng sông Cửu Long. 2. Thủ tướng Chính phủ (2009), Quyết định số 492/QĐ-TTg về việc Phê duyệt Đề án thành lập vùng kinh tế trọng điểm vùng đồng bằng sông Cửu Long. 3. Thủ tướng Chính phủ (2009), Quyết định số 2190/QĐ-TTg về việc Phê duyệt Quy hoạch phát triển hệ thống cảng biển Việt Nam đến năm 2020, định hướng đến năm 2030. 4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2008), Ban Chấp hành Trung ương, Nghị quyết số 26-QĐ/TW, ngày 5/8/2008, Hội nghị lần thứ VII Ban Chấp hành Trung ương( khóa X) về nông nghiệp, nông dân, nông thôn. 5. Chính phủ (2008), Nghị quyết số 24/2008/NQ-CP ngày 28/10/2008 của Chính phủ ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 26-NQ/TW xác định nhiệm vụ xây dựng “Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn mới”. 6. Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 800/QĐ-TTg, ngày 4/6/2010 về Phê duyệt Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 - 2020. 7. Thủ tướng Chính phủ (2009), Quyết định số 491/QĐ-TTg, ngày 16/4/2009 về việc ban hành bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới. 304 8. Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn (2013), Thông tư số 41/2013/TT- BNNPTNT ngày 4/10/2013, về hướng dẫn thực hiện bộ tiêu chí quốc gia xây dựng nông thôn mới. 9. Bộ Công thương (2014), Quyết định số 12151/QĐ-BCT, ngày 31/12/2014 về hướng dẫn thực tiêu chí số 7 về chợ trong bộ tiêu chí quốc gia xây dựng nông thôn mới. 10. Tổng cục Thống kê (2015), Niên giám Thống kê năm 2015, Nxb Thống kê. 11. Thủ tướng Chính phủ (2010), Quyết định số 23/QĐ-TTg ngày 06/01/2010 về phê duyệt đề án “phát triển thương mại nông thôn giai đoạn 2010 - 2015 và định hướng đến năm 2020”. 12. Thủ tướng Chính phủ (2011), Quyết định số 470/QĐ-TTg ngày 30/3/2011 về Phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Đồng Tháp đến năm 2020. 13. UBND tỉnh An Giang (2008), Quyết định số 2502/QĐ-UBND ngày 25/11/2008, Phê duyệt Quy hoạch phát triển mạng lưới Chợ, Siêu thị, Trung tâm thương mại tỉnh An Giang đến năm 2020. 14. UBND tỉnh Tiền Giang (2010), Quyết định số 3999/QĐ-UBND ngày 29/12/2010 về Phê duyệt Quy hoạch phát triển thương mại tỉnh Tiền Giang đến năm 2020. 15. UBND tỉnh Tiền Giang (2015), Ban Chỉ đạo Chương trình Quốc gia xây dựng nông thôn mới, Báo cáo số 132/BC-BCĐ ngày 31/12/2015 về Tổng kết 05 năm thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2011-2015, phương hướng nhiệm vụ năm 2016-2020. 16. UBND tỉnh Long An (2015), Ban Chỉ đạo Chương trình Quốc gia xây dựng nông thôn mới, Báo cáo số 3684/BC-BCĐNTM ngày 20/11/2015 về Kết quả thực hiện Chương trình MTQG xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2011- 2015 và Kế hoạch thực hiện Chương trình giai đoạn 2016 - 2020. 17. UBND tỉnh Long An (2013), Quyết định số 3097/QĐ-UBND ngày 04/09/2013 về việc phê duyệt quy hoạch phát triển thương mại tỉnh long an đến năm 2020, định hướng đến năm 2030. 18. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2017), báo cáo đánh giá kết quả thực hiện năm 2017 và dự kiến một số nhiệm vụ trọng tâm thực hiện Chương trình MTQG xây dựng nông thôn mới năm 2018. 19. Dẫn theo qua-trien-khai-thuc-hien-chuong-trinh-muc-tieu-quoc-gia-xay-dung-nong-thon- moi-tinh-an-giang-nam-2017-nhiem-vu-nam-2018 (ngày truy cập 12/4/201) 20. Dẫn theo dung-nong-thon-moi-post206859.html (ngày truy cập 12/4/2018). 21. Dẫn theo nong-thon-moi/ (ngày truy cập 12/4/2018)

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf23_7059_2207240.pdf
Tài liệu liên quan