Tài liệu Chế tạo Oligochitosan bằng phương pháp chiếu xạ Gamma Co-60 dung dịch Chitosan/H2O2 và khảo sát hiệu ứng gia tăng kích thước lá trên cây dâu tây (Fragaria Vesca L.): TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 31 (56) - Thaùng 8/2017 
3 
Chế tạo Oligochitosan bằng phương pháp chiếu xạ 
Gamma Co-60 dung dịch Chitosan/H2O2 và khảo sát 
hiệu ứng gia tăng kích thước lá trên cây dâu tây 
(Fragaria Vesca L.) 
Preparation of Oligochitosan by Gamma irradiation onto Chitosan/H2O2 solution 
and examining effects of increase in the size of leaves on Strawberry 
(Fragaria Vesca L.) 
TS. Đặng Xuân Dự, Trường Đại học Sài Gòn 
Dang Xuan Du, Ph.D., Saigon University 
ThS. Trần Thị Anh Thư, Trường THPT chuyên Hùng Vương, Gia Lai 
Tran Thi Anh Thu, MSc., Hung Vuong High School, Gia Lai Province 
TS. Lê Công Nhân, Trường Đại học Sài Gòn 
Le Cong Nhan, Ph.D., Saigon University 
Tóm tắt 
Trong nghiên cứu này, chitosan đã được cắt mạch trong dung dịch chitosan/H2O2 bằng phương pháp 
chiếu xạ gamma Co-60. Khối lượng phân tử (Mw) và độ đề axetyl (ĐĐA) của chitosan lần lượt được xác 
định bằng phương pháp sắc ký gel thấm qua (GPC) và phương pháp phổ hồng n...
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 8 trang
8 trang | 
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 567 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Chế tạo Oligochitosan bằng phương pháp chiếu xạ Gamma Co-60 dung dịch Chitosan/H2O2 và khảo sát hiệu ứng gia tăng kích thước lá trên cây dâu tây (Fragaria Vesca L.), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 31 (56) - Thaùng 8/2017 
3 
Chế tạo Oligochitosan bằng phương pháp chiếu xạ 
Gamma Co-60 dung dịch Chitosan/H2O2 và khảo sát 
hiệu ứng gia tăng kích thước lá trên cây dâu tây 
(Fragaria Vesca L.) 
Preparation of Oligochitosan by Gamma irradiation onto Chitosan/H2O2 solution 
and examining effects of increase in the size of leaves on Strawberry 
(Fragaria Vesca L.) 
TS. Đặng Xuân Dự, Trường Đại học Sài Gòn 
Dang Xuan Du, Ph.D., Saigon University 
ThS. Trần Thị Anh Thư, Trường THPT chuyên Hùng Vương, Gia Lai 
Tran Thi Anh Thu, MSc., Hung Vuong High School, Gia Lai Province 
TS. Lê Công Nhân, Trường Đại học Sài Gòn 
Le Cong Nhan, Ph.D., Saigon University 
Tóm tắt 
Trong nghiên cứu này, chitosan đã được cắt mạch trong dung dịch chitosan/H2O2 bằng phương pháp 
chiếu xạ gamma Co-60. Khối lượng phân tử (Mw) và độ đề axetyl (ĐĐA) của chitosan lần lượt được xác 
định bằng phương pháp sắc ký gel thấm qua (GPC) và phương pháp phổ hồng ngoại (IR). Kết quả cho 
thấy oligochitosan khối lượng phân tử Mw ~ 7,5 kDa đã được chế tạo một cách hiệu quả bằng phương 
pháp chiếu xạ gamma Co-60 dung dịch chitosan/H2O2 ở liều xạ thấp, khoảng 11 kGy. Oligochitosan chế 
tạo được có hiệu ứng gia tăng kích thước lá của cây dâu tây. Nồng độ phù hợp của oligochitosan để 
phun lên cây dâu tây là khoảng 50 ppm. 
Từ khóa: Oligochitosan, bức xạ Gamma, dâu tây. 
Abstract 
In this study, the degradation of chitosan in the presence of H2O2 solution by gamma irradiation was 
investigated. The molecular weight and the degree of deacetylation of chitosan were determined by gel 
permeation chromatography (GPC) and infrared spectra (IR), respectively. Results showed that 
oligochitosan with molecular weight Mw ~7,5 kDa were preparared efficiently by gamma irradiation in 
small doses, ~11 kGy. The obtained oligochitosan imposes effects of increase in the size of leaves of 
fracaria vesca L. The appropriate concentration of oligochitosan used to spray onto fracaria vesca L. 
trees was 50 ppm. 
Keywords: Oligochitosan, Gamma irradiation, Fracaria Vesca L. 
CHẾ TẠO OLIGOCHITOSAN BẰNG PHƯƠNG PHÁP CHIẾU XẠ GAMMA CO-60 DUNG DỊCH 
4 
1. Mở đầu 
Oligochitosan là polyme có nguồn gốc 
tự nhiên, là sản phẩm biến tính từ chitosan 
bằng phản ứng cắt mạch. Oligochitosan tự 
phân hủy sinh học, là prebiotic có độc tính 
thấp, có khả năng kháng nấm [6] và kháng 
khuẩn [7] [8]. Ngoài ra, oligochitosan còn 
làm tăng sinh tế bào, tăng cường miễn dịch 
của cơ thể động vật bằng cách kích thích 
sản sinh bạch cầu, giảm cholesterol trong 
máu và có tác dụng làm lành các vết 
thương, vết bỏng [11]. Do có nhiều hoạt 
tính sinh học độc đáo, oligochitosan được 
ứng dụng khá đa dạng trong nhiều lĩnh vực 
khác nhau như làm chất điều hòa sinh 
trưởng, phòng trị nấm bệnh thực vật và gia 
tăng khả năng miễn dịch trên động vật... 
Hoạt tính của oligochitosan thông thường 
bị chi phối bởi khối lượng phân tử (KLPT, 
Mw) và độ đề axetyl (ĐĐA). Vì vậy, khi 
chế tạo oligochitosan từ chitosan ban đầu 
thì các thông số này rất được quan tâm 
trong quá trình phản ứng. 
Các phương pháp chế tạo oligochitosan 
phổ biến bao gồm: phương pháp hóa học, 
phương pháp enzym và phương pháp chiếu 
xạ. Phương pháp hóa học có ưu điểm là 
điều kiện phản ứng khá đơn giản nên dễ 
dàng tiến hành với quy mô lớn. Tuy nhiên, 
hạn chế của phương pháp này là hiệu suất 
thấp và có nguy cơ gây ô nhiễm môi 
trường. Phương pháp enzym có lợi thế là 
cho hiệu suất cao nhưng chi phí lại đắt. 
Phương pháp chiếu xạ được xem là thân 
thiện với môi trường và có thể tiến hành dễ 
dàng với quy mô lớn, tuy nhiên để chế tạo 
được oligochitosan thường phải sử dụng 
liều xạ cao [2], điều này dẫn đến sản phẩm 
tạo thành dễ bị cắt mạch nhóm amin và phá 
vỡ vòng glucopyranose [5], làm giảm hoạt 
tính của oligochitosan. 
Trong bài báo này, chúng tôi trình bày 
kết quả chế tạo oligochitosan bằng sự kết 
hợp đồng thời giữa bức xạ gamma Co-60 
và H2O2 nhằm giảm liều xạ. Oligochitosan 
thu được sau phản ứng cắt mạch được ứng 
dụng làm chất gia tăng kích thước lá đối 
với cây dâu tây (Fragaria vesca L), loại 
cây được trồng phổ biến ở cao nguyên Lâm 
Đồng, cho hiệu quả kinh tế cao. Kết quả 
nghiên cứu là cơ sở để chế tạo các chế 
phẩm kích thích tăng trưởng thực vật có 
nguồn gốc tự nhiên góp phần phát triển nền 
nông nghiệp bền vững. 
2. Thực nghiệm 
2.1. Nguyên vật liệu, hóa chất 
Chitosan ban đầu được chế tạo từ vỏ 
tôm có Mw khoảng 50 kDa, ĐĐA khoảng 
90%. Dâu tây Labiang (Fragaria vesca L.) 
được mua ở tại vườn giống dâu tây xã An 
Phú, thành phố Pleiku, Gia Lai. Hydro 
peroxit (H2O2) là sản phẩm tinh khiết của 
Merck, Đức. Các hóa chất axit lactic, 
etanol, amoniac được dùng ở dạng tinh 
khiết phân tích. Nước cất một lần được sử 
dụng cho toàn bộ thí nghiệm. 
2.2. Phương pháp nghiên cứu 
2.2.1. Phương pháp chế tạo oligochitosan 
Hòa tan 5 g chitosan trong dung dịch 
axit lactic 3%, thêm một lượng H2O2 30% 
và định mức đến 100 mL để thu được dung 
dịch chiếu xạ chứa 5% chitosan và 1% 
H2O2. Tiến hành chiếu xạ đến 11 kGy [5] 
trên nguồn SVST Co-60/B tại trung tâm 
Nghiên cứu và Triển khai Công nghệ Bức 
xạ VINAGAMMA, Viện Năng lượng 
Nguyên tử Việt Nam với suất liều 1,33 
kGy/h. Dung dịch sau khi chiếu xạ được 
trung hòa bằng NH4OH 5%, thêm một 
lượng cồn bằng 6 lần thể tích dung dịch 
mẫu, khuấy đều, sau đó lọc kết tủa và rửa 
sạch bằng cồn [1]. Mẫu sau khi rửa sạch, 
để khô tự nhiên rồi sấy ở nhiệt độ 60°C 
trong 2 giờ. 
ĐẶNG XUÂN DỰ - TRẦN THỊ ANH THƯ - LÊ CÔNG NHÂN 
5 
2.2.2. Xác định khối lượng phân tử và 
độ đề axetyl của chitosan 
Khối lượng phân tử oligochitosan 
được xác định bằng phương pháp sắc kí gel 
(GPC), trên máy LC-20AB Shimadzu, 
Nhật, sử dụng detector RID - 10A và cột 
Ultrahydrogel 250 của hãng Water, Mỹ, 
nhiệt độ vận hành cột là 40°C, pha động là 
đệm axetat CH3COOH 0,25M/CH3COONa 
0,25M, tốc độ dòng là 1mL/phút. Chất 
chuẩn được sử dụng là polysacarit Pullulan 
có khối lượng phân tử (KLPT) khác nhau 
từ 738 đến 380 000 Da [1]. Mẫu 
oligochitosan được chuẩn bị bằng cách hòa 
tan trong axit axetic 0,25M với nồng độ 
0,3% đến khi tan hoàn toàn, thêm muối 
CH3COONa 0,25M sau đó lọc dung dịch 
qua màng 0,45μm (Millipore filters). Mẫu 
oligochitosan này được tiêm vào cột sắc kí 
với thể tích khoảng 50 μl. Dựa vào thời 
gian lưu và so sánh với đường chuẩn xác 
định được KLPT của oligochitosan. 
Độ đề axetyl (ĐĐA) của oligochitosan 
được xác định bằng phương pháp hồng 
ngoại trên máy FT – IR 8400S, Shimadzu, 
Nhật. ĐĐA được tính dựa theo phương 
trình [3]: 
ĐĐA, % = 100 – ([31,92 × (A1320/A1420)] 
-12,00). Trong đó, A1320 và A1420 lần lượt là 
mật độ quang tương ứng tại các đỉnh 1320 
và 1420 cm
-1
. 
2.2.3. Khảo sát hiệu ứng gia tăng kích 
thước lá của oligochitosan đối với dâu tây 
Chuẩn bị 4 lô thí nghiệm được đánh số 
từ 1 đến 4 mỗi lô gồm có 40 cây. Tiến hành 
phun oligochitosan có KLPT khoảng 7,5 
kDa với các nồng độ 50 ppm, 100 ppm, 
150 ppm từ lô 2 đến lô 4. Lô 1 không phun 
oligochitosan để làm đối chứng. Thời điểm 
bắt đầu phun oligochitosan là sau khi cây 
giống được trồng khoảng 1 tuần. Sau đó, 
oligochitosan được phun bổ sung vào ngày 
thứ 30 và 60 kể từ lần phun đầu tiên. Cây 
được chăm sóc theo quy trình thông 
thường được canh tác tại địa phương, xã 
An Phú, thành phố Pleiku, Gia Lai. Kích 
thước lá của dâu tây được theo đo theo thời 
gian đến 120 ngày tuổi. Sau 120 ngày tuổi, 
mỗi lô thí nghiệm được chia làm 5 nhóm, 
mỗi nhóm 8 cây được đo kích thước lặp lại 
để phân tích thống kê bằng chương trình 
SPSS 16.0 và đánh giá sự khác biệt giữa 
các lô nghiên cứu. 
3. Kết quả và thảo luận 
Mẫu Oligochitosan thu được ở liều xạ 
~11 kGy có KLPT Mw ~7,5 kDa. Như vậy, 
KLPT của chitosan đã giảm 85% ở liều xạ 
khá thấp khi có mặt H2O2 1%. Nguyễn 
Quốc Hiến và cộng sự đã cắt mạch 
chitosan bằng kỹ thuật chiếu xạ. Kết quả 
thu được oligochitosan có KLPT ~ 10 kDa 
cần liều xạ lên đến 100 kGy [2]. Điều này 
chứng tỏ sự có mặt H2O2 1% trong nghiên 
cứu của chúng tôi đã làm giảm đáng kể liều 
xạ cần thiết để chế tạo oligochitosan. Hiện 
tượng này được giải thích bằng hiệu ứng 
đồng vận (synergistic effect) của H2O2 và 
tia γ trong quá trình cắt mạch. Theo đó, gốc 
tự do hydroxyl (•OH) được hình thành nhờ 
quá trình phân ly bức xạ nước và H2O2 đã 
đóng vai trò như là tác nhân oxy hóa mạnh 
cắt mạch chitosan [12]: 
γ ray - • • +
2 aq 2 2 2 3
γ ray •
2 2
H O e , H , OH, H O , H , H O
H O 2 OH 
Ngoài ra, sản phẩm của quá trình phân 
ly bức xạ là e-aq và H
•
 cũng có thể phản ứng 
với H2O2 để gia tăng gốc hydroxyl 
•
OH [9]: 
- • -
aq 2 2
• •
2 2 2
e + H O OH + OH
H + H O OH + H O
Gốc •OH đóng vai trò là tác nhân bắt 
hydro, làm đứt liên kết C – H hình thành 
gốc cacbohydrat R•, dẫn đến quá trình 
chuyển vị và cuối cùng liên kết glycoside 
bị cắt, tạo thành phân tử chitosan có KLPT 
thấp hơn hay oligochitosan [12]. 
(1) 
(2) 
(3) 
(4) 
CHẾ TẠO OLIGOCHITOSAN BẰNG PHƯƠNG PHÁP CHIẾU XẠ GAMMA CO-60 DUNG DỊCH 
6 
 Hình 1. Phổ FT - IR của chitosan ban đầu (a) và oligochitosan (b) 
 Phổ FT - IR của oligochitosan và 
chitosan ban đầu được thể hiện trên hình 1. 
Kết quả cho thấy cấu trúc chính của 
oligochitosan thu được (hình 1b) hầu như 
không khác biệt so với chitosan ban đầu 
(hình 1a). Phổ FT-IR của oligochitosan 
xuất hiện hầu hết các đỉnh đặc trưng tiêu 
biểu cho các nhóm liên kết có trong 
chitosan ban đầu. Đỉnh ở 1655 và 1595 cm-
1
 đặc trưng cho dao động kéo giãn của liên 
kết C=O trong nhóm –CONH– (amide I) 
và dao động uốn của –NH trong nhóm –
CONH– (amide II). Đỉnh phổ nằm trong 
vùng 3200 – 3500 cm-1 đặc trưng cho dao 
động kéo giãn của liên kết N–H trong nhóm 
amine và liên kết O–H. Các đỉnh ở 1072, 
1028, 1153 và 893 cm
-1
 lần lượt đặc trưng 
cho dao động kéo giãn của liên kết C–O, 
dao động kéo giãn của C–O–C trong vòng 
glucopyranose và các dao động của liên kết 
β – 1,4 glycoside [10]. Các đỉnh ở 1320 và 
1420 cm
-1
 tương ứng đặc trưng cho dao 
động kéo giãn của liên kết C–N trong nhóm 
CH3CONH– (amide III) và dao động biến 
dạng của liên kết C–H, đây là hai đỉnh đặc 
trưng được sử dụng để tính toán sự thay đổi 
ĐĐA của chitosan [3]. Từ phổ FT-IR DĐA 
của oligochitosan được xác định dựa vào 
phương trình ở mục 2.2.2 cho giá trị 86%, 
giảm khoảng 4% so với chitosan ban đầu. 
Như vậy, kết hợp đồng thời tia γ với H2O2 
ở nồng độ thấp khoảng 1% có thể chế tạo 
oligochitosan ở liều xạ khá thấp khoảng 11 
kGy. Oligochitosan thu được có ĐĐA giảm 
không đáng kể và cấu trúc hầu như không 
thay đổi so với chitosan ban đầu. 
Hình 2. Ảnh hưởng của nồng độ oligochitosan đến chiều dài lá 
ĐẶNG XUÂN DỰ - TRẦN THỊ ANH THƯ - LÊ CÔNG NHÂN 
7 
Hình 3. Chiều dài của lá dâu tây 120 ngày tuổi ở lô đối chứng (a) và lô 2 (b) 
Hình 2 mô tả sự thay đổi kích thước của 
lá dâu tây từ 75 đến 120 ngày tuổi. Kết quả 
cho thấy ở nồng độ 50 ppm của 
oligochitosan (lô 1), kích thước lá dâu tây có 
sự phát triển theo thời gian tương đối tốt hơn 
so với các lô còn lại. Kết quả quan sát sơ bộ 
cũng cho thấy kích thước lá dâu tây sau 120 
ngày tuổi ở lô 2 được phun oligochitosan với 
nồng độ 50 ppm cũng tương đối lớn hơn so 
với lô đối chứng (hình 3). 
Bảng 1. Chiều dài trung bình của lá dâu tây (cm) sau 120 ngày tuổi ở các lô khác nhau 
Nhóm 
(8 cây/nhóm) 
Lô đối chứng 1 
Lô 2 
(50 ppm) 
Lô 3 
(100 ppm) 
Lô 4 
(150 ppm) 
1 7,7 8,4 7,4 7,9 
2 7,4 8,3 7,5 8,0 
3 7,8 8,5 7,2 7,5 
4 7,7 7,9 7,5 7,6 
5 7,6 8,0 7,3 7,8 
Trung bình 7,6 ± 0,2
 a
 8,2 ± 0,3
 b
 7,4 ± 0,1
 c
 7,8 ± 0,2
 a
Kết quả phân tích ANOVA số liệu 
trên bảng 1 cho thấy kích thước lá ở các lô 
khác nhau có ý nghĩa thống kê (p = 0,00). 
Trong đó, lô 4 tương ứng với nồng độ 150 
ppm của oligochitosan có giá trị không 
khác biệt so với lô đối chứng (p = 0,342). 
Lô 1 tương ứng với nồng độ 50 ppm cho 
giá trị trung bình khác biệt có ý nghĩa so 
với lô đối chứng (p = 0,00). Điều này 
chứng tỏ nồng độ 50 ppm cho hiệu quả gia 
tăng kích thước lá tốt hơn so với các lô 
còn lại. 
CHẾ TẠO OLIGOCHITOSAN BẰNG PHƯƠNG PHÁP CHIẾU XẠ GAMMA CO-60 DUNG DỊCH 
8 
Hình 4. Ảnh hưởng của nồng độ oligochitosan đến chiều rộng lá dâu tây 
Hình 5. Chiều rộng của lá dâu tây 120 ngày tuổi ở lô đối chứng (a) và lô 2 (b) 
Ảnh hưởng của nồng độ oligochitosan 
đến sự gia tăng chiều rộng kích thước lá 
được thể hiện trên hình 4. Kết quả cho 
thấy độ rộng kích thước lá của lô 1 lớn 
hơn đáng kể so với các lô còn lại. Quan 
sát sơ bộ cũng cho thấy lô 2 tương ứng với 
nồng độ 50 ppm cho chiều rộng kích 
thước lá lớn hơn so với lô đối chứng (hình 
5). Trong khi đó, lô 4 tương ứng với nồng 
độ 150 ppm cho chiều rộng kích thước lá 
thấp hơn so với lô đối chứng. Nguyên 
nhân của vấn đề này vẫn chưa rõ cần được 
nghiên cứu thêm. Tuy nhiên, theo nhận 
định của chúng tôi có thể do oligochitosan 
là kháng sinh thực vật [9] khi được sử 
dụng ở liều cao (150 ppm) có thể gây ngộ 
độc cho cây dẫn đến ức chế sự phát triển 
lá của dâu tây. 
ĐẶNG XUÂN DỰ - TRẦN THỊ ANH THƯ - LÊ CÔNG NHÂN 
9 
Bảng 2. Chiều rộng trung bình của lá dâu tây (cm) sau 120 ngày tuổi ở các lô khác nhau 
Nhóm 
(8 cây/nhóm) 
Lô đối chứng 1 
Lô 2 
(50 ppm) 
Lô 3 
(100 ppm) 
Lô 4 
(150 ppm) 
1 7,7 8,4 7,4 7,9 
2 7,4 8,3 7,5 8,0 
3 7,8 8,5 7,2 7,5 
4 7,7 7,9 7,5 7,6 
5 7,6 8,0 7,3 7,8 
Trung bình 6,2 ± 0,2
 a
 6,9 ± 0,3
 b
 6,4 ± 0,3
 a
 5,9 ± 0,2
 a
Kết quả phân tích ANOVA số liệu ở 
bảng 2 cho thấy chiều rộng kích thước lá 
trên lô khác nhau có ý nghĩa (p = 0,00). 
Kiểm định LSD (least significant 
difference) cho thấy chiều rộng của lá trên 
lô 2 và các lô còn lại khác nhau có ý nghĩa 
(p = 0,00). Trong khi đó, chiều rộng của lá 
trên lô đối chứng so với lô 3 (p = 0,164) và 
lô 4 (p = 0,064) là không khác nhau. 
Ngoài ra, chiều rộng của lá trên lô 2 và lô 
3 là khác nhau (p = 0,003). Điều này 
chứng tỏ nồng độ 50 ppm của 
oligochitosan có khả năng gia tăng chiều 
rộng kích thước lá hiệu quả hơn so với ở 
100 ppm. 
Từ kết quả phân tích ảnh hưởng của 
nồng độ oligochitosan đến hiệu quả gia 
tăng kích thước lá dâu tây chúng tôi nhận 
thấy ở nồng độ phù hợp, khoảng 50 ppm, 
oligochitosan có khả năng gia tăng kích 
thước lá đối với dâu tây. Ở những nồng độ 
lớn hơn, hiệu quả gia tăng kích thước lá 
giảm. Cơ chế kích thích và ức chế khả năng 
gia tăng kích thước lá của oligochitosan lên 
dâu tây vẫn cần được nghiên cứu thêm. Tuy 
nhiên, việc sử dụng oligochitosan phun 
cho dâu tây theo chúng tôi nên tiến hành ở 
liều thấp, với nồng độ nhỏ hơn 100 ppm. 
4. Kết luận 
Oligochitosan có KLPT ~ 7,5 kDa đã 
được chế tạo hiệu quả bằng phương pháp 
chiếu xạ dung dịch chitosan 5%, H2O2 1% 
ở liều xạ khá thấp, khoảng 11 kGy. Cấu 
trúc chính của oligochitosan thu được hầu 
như không khác biệt so với chitosan ban 
đầu. ĐĐA của oligochitosan giảm khoảng 
4%. Oligochitosan KLPT khoảng 7,5 kDa 
có hiệu ứng gia tăng kích thước lá đối với 
dâu tây. Nồng độ phù hợp của 
oligochitosan để phun lên cây dâu tây là 
khoảng 50 ppm. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Đặng Xuân Dự, Đinh Quang Khiếu, Diệp 
Khanh, Nguyễn Quốc Hiến. “Nghiên cứu 
hiệu ứng đồng vận dung Co – 60 và H2O2 cắt 
mạch chitosan chế tạo oligochitosan”, Tạp 
chí Hóa Học, 51(2C), 627-631 (2003). 
2. Nguyễn Quốc Hiến, Lê Hải, Lê Quang Luân, 
Trương Thị Hạnh, Phạm Thị Lệ Hà. “Nghiên 
cứu chế tạo oligochitosan bằng kỹ thuật bức 
xạ”, Tạp chí Hóa học, 38(2), 22-44 (2000). 
3. J. Brugnerotto, J. Lizardi, F. M. Goycoolea, 
W. Arguelles – Monal, J. Desbrieres, M. 
Rinaudo. “An infrared investigation in 
relation with chitin and chitosan 
characterization”, Polymer, 42, 3569-3580 
(2001). 
CHẾ TẠO OLIGOCHITOSAN BẰNG PHƯƠNG PHÁP CHIẾU XẠ GAMMA CO-60 DUNG DỊCH 
10 
4. G. V. Buxton, C. L. Greenstock, W. P. 
Helman, A. B. Ross. “Critical review of rate 
constants for hydrated electron, hydrogen 
atoms and hydroxyl radical (OH/O-) in 
aqueous”, Journal of Physical and Chemical 
Reference Data, 17(2), 513-886 (1988). 
5. N. N. Duy, D. V. Phu, N. T. Anh, N. Q. 
Hien. “Synergistic degradation to prepare 
oligochitosan by  - irradiation of chitosan 
solution in the presence of hydrogen 
peroxide”, Radiation Physical Chemistry, 80, 
848-853 (2011). 
6. S. Hirano, N. Nagao. “Effects of chitosan, 
pectic acid, lysozyme and chitinase on the 
growth of several phytopathogens”. 
Agricultural and Biological Chemistry, 53, 
3065-3066 (1989). 
7. Y. J Jeon, S. K. Kim. “Effect of antimicrobial 
activity by chitosan oligosaccharides N-
conjugated with asparagines”, Journal of 
Microbiology and Biotechnology, 11, 281-
286 (2001). 
8. Y. J. Jeon, P. J. Park, S. K. Kim. 
“Antimicrobial effect of chitooligosaccharides 
produced by bioreactor”, Carbohydrate 
Polymers, 44, 71-76 (2001). 
9. S. K. Kim, N. Rajapakse. “Enzymatic 
production and biological activities of 
chitosan oligosaccharides (COS): A review”, 
Carbohydrate Polymers, 62, 357-368 (2005). 
10. J. Kumirstra, M. Czerwicka, Z. Kaczynski, 
A. Bychowska, K. Brozowski, J. Thoming, P. 
Stepnowski. “Application of spectroscopic 
methods for structural analysis of chitin and 
chitosan”, Marine Drugs, 8, 1567-1636 
(2010). 
11. J. Shao, Y. Yang, Q. Zhong. “Study on 
preparation of oligoglucosamine by oxidative 
degradation under microwave”, Polymer 
Degradation and Stability, 82, 395-398 
(2003). 
12. P. Ulanski, C. von Sontag. “OH – radical 
induced chain scission of chitosan in the 
absence and present of dioxygen”, Journal of 
the Chemical Society, Perkin Transactions, 2, 
2022-2028 (2000). 
Ngày nhận bài: 09/7/2017 Biên tập xong: 15/8/2017 Duyệt đăng: 20/8/2017 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 48_8469_2215100.pdf 48_8469_2215100.pdf