Các biện pháp sử dụng đồ dùng trực quan quy ước kết hợp với tài liệu thành văn trong dạy học lịch sử ở trường Trung học Phổ thông

Tài liệu Các biện pháp sử dụng đồ dùng trực quan quy ước kết hợp với tài liệu thành văn trong dạy học lịch sử ở trường Trung học Phổ thông: 19 TẠP CHÍ KHOA HỌC, ðại học Huế, Số 66, 2011 CÁC BIỆN PHÁP SỬ DỤNG ðỒ DÙNG TRỰC QUAN QUY ƯỚC KẾT HỢP VỚI TÀI LIỆU THÀNH VĂN TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THƠNG Nguyễn Tuấn Anh Trường ðại học Sư phạm, ðại học Huế TĨM TẮT Trong dạy học lịch sử ở Trường phổ thơng, do đặc trưng mơn học, tài liệu nĩi chung và đồ dùng trực quan quy ước1 cùng với tài liệu thành văn2 nĩi riêng đĩng vai trị rất quan trọng. Nĩ khơng chỉ phục vụ cho việc hình thành tri thức, mà cịn gĩp phần giáo dục và rèn luyện kỹ năng học tập bộ mơn. Trong phạm vi bài viết này, tác giả chỉ trình bày vắn tắt một số biện pháp sử dụng đồ dùng trực quan quy ước kết hợp với tài liệu thành văn và lấy ví dụ qua dạy học lịch sử Việt Nam từ năm 1975 đến 1986 (chương trình nâng cao). 1. ðặt vấn đề Hiện nay, trong cơng cuộc đổi mới đất nước, khi mà “đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển” và “giáo dục là quốc sách hàng đầu” [1, trang 151], ðảng và Nhà nước ta đã rất quan tâm đến giáo dục....

pdf11 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 255 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Các biện pháp sử dụng đồ dùng trực quan quy ước kết hợp với tài liệu thành văn trong dạy học lịch sử ở trường Trung học Phổ thông, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
19 TẠP CHÍ KHOA HỌC, ðại học Huế, Số 66, 2011 CÁC BIỆN PHÁP SỬ DỤNG ðỒ DÙNG TRỰC QUAN QUY ƯỚC KẾT HỢP VỚI TÀI LIỆU THÀNH VĂN TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THƠNG Nguyễn Tuấn Anh Trường ðại học Sư phạm, ðại học Huế TĨM TẮT Trong dạy học lịch sử ở Trường phổ thơng, do đặc trưng mơn học, tài liệu nĩi chung và đồ dùng trực quan quy ước1 cùng với tài liệu thành văn2 nĩi riêng đĩng vai trị rất quan trọng. Nĩ khơng chỉ phục vụ cho việc hình thành tri thức, mà cịn gĩp phần giáo dục và rèn luyện kỹ năng học tập bộ mơn. Trong phạm vi bài viết này, tác giả chỉ trình bày vắn tắt một số biện pháp sử dụng đồ dùng trực quan quy ước kết hợp với tài liệu thành văn và lấy ví dụ qua dạy học lịch sử Việt Nam từ năm 1975 đến 1986 (chương trình nâng cao). 1. ðặt vấn đề Hiện nay, trong cơng cuộc đổi mới đất nước, khi mà “đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển” và “giáo dục là quốc sách hàng đầu” [1, trang 151], ðảng và Nhà nước ta đã rất quan tâm đến giáo dục. Tuy nhiên, trong thực tiễn chất lượng dạy và học lịch sử ở trường phổ thơng chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra. Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là do phương pháp dạy của giáo viên cịn nặng về nhồi nhét kiến thức, chưa phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. Vấn đề đặt ra là phải tìm ra phương pháp dạy học thích hợp hơn, tạo được say mê, hứng thú cho người học. Do đặc điểm nhận thức của mơn lịch sử là học sinh khơng thể trực tiếp quan sát đối tượng vì tất cả đã lùi về quá khứ. Việc học tập lịch sử cũng phải tuân thủ các nguyên tắc của con đường biện chứng của việc nhận thức mà V.I. Lênin đã nêu “từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn” [4, trang 270]. Vì vậy việc tạo biểu tượng, hình thành khái niệm, nêu quy luật và rút ra bài học lịch sử là yêu cầu cần thiết đối với việc dạy học lịch sử. Và một biện pháp quan trọng để tạo biểu tượng, hình thành khái niệm lịch sử cho học sinh là sử dụng đồ dùng trực quan quy ước kết hợp với tài liệu thành văn. Qua đĩ giúp học sinh rút ra được quy luật và bài học 1 ðồ dùng trực quan quy ước gồm các loại bản đồ lịch sử, đồ thị, sơ đồ, niên biểu 2 Tài liệu thành văn được hiểu là những sử liệu cho ta những thơng tin về các sự kiện đã xảy ra được ghi lại bằng chữ viết qua các kênh thơng tin khác nhau. 20 lịch sử; nhận thức về lịch sử một cách sinh động, sâu sắc; nhớ lâu nhớ kĩ các sự kiện, hiện tượng lịch sử và khắc phục tình trạng “hiện đại hĩa” lịch sử của học sinh. ðể gĩp phần vào việc đổi mới phương pháp dạy học lịch sử ở Trường trung học phổ thơng hiện nay, theo chúng tơi, giáo viên phải xem việc sử dụng đồ dùng trực quan quy ước kết hợp với tài liệu thành văn trong dạy học lịch sử là cần thiết. Bài viết này sẽ đề cập đến biện pháp của việc sử dụng đồ dùng trực quan quy ước kết hợp với tài liệu thành văn. 2. Các trường hợp và biện pháp sử dụng đồ dùng trực quan quy ước kết hợp với tài liệu thành văn trong dạy học lịch sử ở trường trung học phổ thơng 2.1. Sử dụng đồ dùng trực quan quy ước kết hợp với tài liệu thành văn để cụ thể hĩa các sự kiện, hiện tượng lịch sử Việc sử dụng đồ dùng trực quan quy ước kết hợp với tài liệu thành văn hướng đến cụ thể hĩa về khơng gian, thời gian, đặc điểm và bản chất của sự kiện lịch sử sẽ gĩp phần kích thích hứng thú học tập của học sinh, giúp học sinh nhớ và khắc sâu, cĩ ấn tượng mạnh về sự kiện và do đĩ khĩ phai mờ những kiến thức lịch sử đã được tiếp nhận. Ví dụ khi giảng bài 29: Việt Nam trong năm đầu sau đại thắng mùa xuân 1975, Mục I. Tình hình hai miền Bắc – Nam sau đại thắng mùa xuân 1975. Giáo viên nên cho học sinh đọc trước nội dung mục này và nêu câu hỏi: Phân tích những thuận lợi và khĩ khăn của hai miền sau 1975?. Sau khi học sinh suy nghĩ và trả lời, giáo viên chốt lại bằng cách đưa: “Sơ đồ những thuận lợi và khĩ khăn của hai miền sau năm 1975”. Kết hợp cung cấp cho các em một đoạn tài liệu thành văn: “Chủ nghĩa thực dân mới của đế quốc Mĩ tăng cường thống trị và sự lũng đoạn của tư sản nước ngồi đã tạo ra tầng lớp tư sản mại bản ở miền Nam nước ta Ngày nay chúng là bọn đầu sỏ đầu cơ tích trữ phá rối thị trường, gây tác hại đến đời sống nhân dân Tình hình chính trị xã hội ở miền Nam hiện nay cịn phức tạp; bọn phản động chưa bị quét sạch, vẫn tiếp tục hoạt động phá hoại. Các tệ nạn xã hội do chế độ cũ để lại rất nặng nề” [2, trang 406- 407] để giúp các em lĩnh hội kiến thức một cách nhanh chĩng và sâu sắc dung lượng kiến thức như đã nêu ở sơ đồ trên. Thuận lợi Khĩ khăn Miền Nam hồn tồn giải phĩng, cả nước bước vào kỉ nguyên độc lập, thống nhất tiến lên chủ nghĩa xã hội. - Miền Bắc: Bị tàn phá nặng nề - Miền Nam: + Chính trị: Chính quyền Sài Gịn ở địa phương vẫn cịn tồn tại + Cơ sở xã hội bị tàn phá nặng nề + Cơ sở kinh tế: Nhỏ bé, phân tán, lệ thuộc 21 Tiếp theo, giáo viên nêu thêm một câu hỏi: Từ những thuận lợi và khĩ khăn đĩ, đặt ra yêu cầu gì cho ðảng và nhân dân ta? Sau khi quan sát sơ đồ kết hợp với nghe đoạn tài liệu thành văn như đã nêu ở trên cộng với tư duy của mình, học sinh sẽ trả lời được: Từ tình hình đĩ, đặt ra yêu cầu phải giải quyết những khĩ khăn để đưa đất nước tiến lên theo con đường xã hội chủ nghĩa. Mặt khác, sách giáo khoa thường trình bày các sự kiện lịch sử rất cơ đọng, súc tích nên cần phải bổ sung tài liệu để giúp các em cĩ cơ sở để nắm rõ hơn bài học. ðồng thời các sự kiện lịch sử khi được cụ thể hĩa qua các sơ đồ, niên biểu, lược đồ thì sẽ dễ dàng khắc sâu vào trí nhớ học sinh. Chính vì vậy mà việc sử dụng đồ dùng trực quan quy ước kết hợp với tài liệu thành văn để cụ thể hĩa các sự kiện, hiện tượng lịch sử sẽ gĩp phần nâng cao hiệu quả dạy học. 2.2. Sử dụng đồ dùng trực quan quy ước kết hợp với tài liệu thành văn để tạo biểu tượng, hình thành khái niệm Biểu tượng lịch sử là hình ảnh về sự kiện, nhân vật lịch sử được tạo nên trong đầu học sinh. ðể cĩ được biểu tượng, khái niệm chính xác, phong phú cần phải cĩ tài liệu. Bởi vì, cĩ những sự kiện, chỉ dựa vào tài liệu trong sách giáo khoa sẽ khơng đủ để giúp học sinh hình dung lại, cho nên đồ dùng trực quan quy ước, tài liệu thành văn là chỗ dựa để hiểu sâu sắc bản chất của sự kiện lịch sử, đồng thời là phương tiện rất cĩ hiệu lực để tạo biểu tượng, hình thành các khái niệm lịch sử quan trọng và giúp cho học sinh nắm vững các quy luật của sự phát triển xã hội. Ví dụ khi dạy bài 30: Việt Nam xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh bảo vệ tổ quốc (1976-1986), mục I.1. Cách mạng Việt Nam chuyển sang giai đoạn mới, khi vào tiết dạy, giáo viên cho học sinh đọc trước mục đĩ, sau đĩ giáo viên sẽ đặt câu hỏi: Nhiệm vụ cách mạng giai đoạn mới của cách mạng Việt Nam sau khi kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mĩ là gì?. Sau khi học sinh trả lời xong, giáo viên sẽ vẽ nhanh lên bảng “Sơ đồ mối quan hệ giữa độc lập, thống nhất với chủ nghĩa xã hội”. Là điều kiện tiên quyết ðảm bảo thêm bền vững Và kết hợp với việc sử dụng đoạn tài liệu thành văn: “Ngày nay, nước nhà đã hồn tồn độc lập thì Tổ quốc và chủ nghĩa xã hội là một. Chỉ cĩ chủ nghĩa xã hội mới làm cho nhân dân ta vĩnh viễn thốt khỏi nghèo nàn, lạc hậu, cĩ cuộc sống văn minh, hạnh phúc. Chỉ cĩ chủ nghĩa xã hội mới đem lại cho nhân dân ta quyền làm chủ đầy đủ, ðộc lập - thống nhất Chủ nghĩa xã hội Là con đường phát triển hợp quy luật của cách mạng nước ta 22 mới làm cho Tổ quốc ta độc lập, tự do vững chắc và ngày càng giàu mạnh. Nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thành quả vĩ đại của cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ của nhân dân ta, cĩ lịch sử hết sức vẻ vang, cĩ tiềm lực dồi dào, cĩ tiền đồ xán lạn, là một tiền đồ bất khả xâm phạm của hệ thống xã hội chủ nghĩa, là nhân tố quan trọng của hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội ở ðơng Nam châu Á và trên thế giới” [3, trang 917]. Khi quan sát sơ đồ kết hợp với đoạn tài liệu thành văn như đã nêu ở trên, giáo viên giúp học sinh hiểu được biểu tượng “Cách mạng Việt Nam chuyển sang giai đoạn mới”. Trên cơ sở đĩ sẽ hình thành các khái niệm “ðộc lập - thống nhất” và “Chủ nghĩa xã hội”. Như vậy, việc tạo biểu tạo biểu tượng, hình thành khái niệm trong dạy học lịch sử là vơ cùng quan trọng, cần thiết. ðể tạo biểu tượng, hình thành khái niệm cho học sinh, giáo viên cĩ thể sử dụng nhiều phương pháp dạy học khác nhau, trong đĩ sử dụng đồ dùng trực quan quy ước kết hợp với tài liệu thành văn là một phương pháp khá hiệu quả cần được triệt để khai thác. 2.3. Sử dụng đồ dùng trực quan quy ước kết hợp với tài liệu thành văn để tổ chức cho học sinh thảo luận nhĩm Phương pháp dạy học theo hướng thầy đọc trị chép thực sự đã lạc hậu đối với sự phát triển của xã hội ngày nay. ðể phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy học lịch sử thì cĩ nhiều phương pháp, trong đĩ phương pháp thảo luận nhĩm là phương pháp quan trọng. Bởi, phương pháp này nhằm giúp học sinh bày tỏ ý kiến của mình để củng cố kiến thức khoa học, lịng tin về một vấn đề lịch sử. Cĩ nhiều cách để thảo luận nhĩm và điều quan trọng là giáo viên phải đưa ra vấn đề thảo luận thích hợp, tức là vấn đề đĩ phải cĩ tình huống, cần tới sự chia sẻ và hợp tác để giải quyết. ðối với học sinh, những giờ thảo luận nhĩm khơng chỉ để ghi nhớ kiến thức, khơi dậy suy nghĩ độc lập của các em mà cịn rèn luyện cách diễn đạt trước đám đơng, giúp các em tự tin hơn trong giao tiếp. Phương pháp này tiến hành bằng cách giáo viên đưa ra câu hỏi và tổ chức các em trao đổi, thảo luận. Các câu hỏi đưa ra khơng quá khĩ cũng khơng nên quá dễ, cần đưa ra các câu hỏi mang tính chất nhận thức. Việc trao đổi, thảo luận cĩ thể tiến hành trong phạm vi tiết học. Nĩ cĩ thể tiến hành ngay đầu giờ hoặc trong quá trình giảng dạy hay khi kết thúc bài học, chương hay khĩa trình Việc sử dụng đồ dùng trực quan quy ước kết hợp với tài liệu thành văn để tổ chức cho học sinh thảo luận nhĩm là một phương pháp hay nhằm phát huy tính tính tích cực của học sinh, đem lại hiệu quả cao trong dạy học lịch sử. Ví dụ khi dạy bài 30: Việt Nam xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh bảo vệ tổ quốc (1976-1986), mục I – Việt Nam bước đầu đi lên CNXH (1976 – 1986). Khi vào tiết dạy, giáo viên cĩ thể gộp mục I.2 và mục I.3 lại rồi cho học sinh tìm hiểu bằng cách ghi các tiêu mục và hướng dẫn cho học sinh thảo luận nhĩm theo các nội dung sau: 23 - Nhĩm 1: Phân tích thành tựu của kế hoạch nhà nước 5 năm 1976 – 1980. - Nhĩm 2: Phân tích những khĩ khăn và hạn chế của kế hoạch nhà nước 5 năm 1976 – 1980. - Nhĩm 3: Phân tích thành tựu của kế hoạch nhà nước 5 năm 1981 – 1985. - Nhĩm 4: Phân tích những khĩ khăn và hạn chế của kế hoạch nhà nước 5 năm 1981 – 1985. ðặc biệt trong quá trình thảo luận giáo viên đưa ra các đoạn tài liệu thành văn để chỉ những thành tựu cũng như hạn chế trong hai kế hoạch 5 năm, cụ thể như sau: ∗ Tài liệu thành văn để chỉ những thành tựu: Thời kì 1976-1980: “Cơng cuộc cải tạo cơng thương nghiệp tư bản tư doanh ở miền Nam tiến hành một cách mạnh mẽ. Các xí nghiệp của tư sản mại bản và tư sản bỏ ra nước ngồi đều bị quốc hữu hĩa và chuyển thành quốc doanh. Nhà nước nhanh chĩng quốc hữu hĩa vận tải đường sắt, đường biển, đường hàng khơng, các ngân hàng tư nhân, độc quyền phát hành tiền tệ Ngay từ năm 1976, tư sản mại bản và tư sản lớn đã bị loại bỏ” [9, trang 50]. ðặc biệt “cơng nghiệp địa phương, nhất là tiểu thủ cơng nghiệp vẫn vươn lên được, hằng năm tăng 6,7%, nhờ cĩ tiềm năng và khai thác được các thế mạnh trong nhân dân” [9, trang 84]. Và “Thời kì 1981 – 1985, nhờ cĩ Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 6 (khĩa IV) năm 1979 với tinh thần để cho sản xuất “bung ra” nên khơng những đã chặn được đà giảm sút mà cịn làm cho sản xuất tăng một cách đều đặn, năm sau cao hơn năm trước. ðến năm 1983, giá trị sản phẩm cơng nghiệp đã vượt năm 1978, năm cao nhất của thời kì 1976 – 1985 và đến năm 1984 đã tăng hơn năm 1978 là 20%. ðến năm 1985 tồn bộ ngành cơng nghiệp đã sản xuất được trên 105 tỉ đồng giá trị sản lượng, tăng 61,3% so với năm 1976 và năm 57,4% so với năm 1980. Từ năm 1981 – 1985, tốc độ tăng trưởng hằng năm là 9,5%, trong đĩ nhĩm A tăng 6,4%, nhĩm B tăng 11,2%, cơng nghiệp trung ương tăng 7,8%, cơng nghiệp địa phương tăng 10,4%” [7, trang 174] ∗ Tài liệu thành văn để chỉ những hạn chế: Thời kì 1976-1980: “Thời kì 1976 – 1980, sản xuất cơng nghiệp hĩa phát triển đều đặn trong 3 năm đầu, đến năm 1978, phát triển cao nhất là 118,2% so với năm 1976. Sau đĩ tụt xuống, năm 1980 chỉ bằng 102,5% năm 1976 và cả tính cả thời kì 1976 – 1980, tốc độ tăng thấp, bình quân hàng năm chỉ cĩ 0,6%. Do vậy tất cả các mục tiêu do ðại hội IV đề ra khơng đạt. Cụ thể là cơ khí đạt 80%, điện 70%, than 52%, gỗ trịn 45%, cá biển 40%, vải lụa 39%, giấy 37%, xi măng 32%, phân hĩa học 28%”. Trong thời kì này, đáng chú ý là nghành cơng nghiệp trung ương giảm sút nhiều, hằng năm giảm 4% do thiếu nguyên liệu [9, trang 84]. Và thời kì 1981-1985: “Việc phân phối hàng thời đĩ rất tùy tiện, tiếng là hàng 24 lương thực và nhu yếu phẩm được phân bố theo kế hoạch (!) nhưng hồn tồn khơng cĩ kế hoạch gì cả, “cĩ gì bán nấy”, kiểu ban phát. Những năm đĩ đi học, lớp tơi cĩ lúc tháng nào cũng được “phân phối” thuốc lá, lúc thì Hoa Mai, khi thì ðà Lạt. Ai cũng mua hết, cả nam lẫn nữ, biết hút thuốc hay khơng hút thuốc, đều được một bao nylon với khoảng vài chục điếu thuốc, đơi khi khơng cĩ bao bì. Lương thực may mắn là gạo, cịn lại khi là bo bo, bột sắn, mì vụn, mỗi tháng được 13-16 kg chứ đâu cĩ ít, vậy mà nhiều thanh niên ăn vẫn khơng đủ no, ngồi trừ đám con gái. Mọi thứ đều quy ra cân lúa thĩc như một đơn vị đo lường trong xã hội Tất cả hàng phân phối lúc đĩ đều quý dù là chất lượng thì quá tệ: Gạo mốc, đầy bơng cỏ và cát sạn, cá sơ ươn sình, giấy tập là loại giấy manh được tái sinh từ giấy vụn đen sì, vỏ xe đạp chỉ cĩ vài cọng thép mong manh niền bên trong, diêm quẹt “an tồn” (loại quẹt hồi khơng cháy!), khơng kể ra hết được. Vậy mà dù đang học, nghe tin cĩ hàng về, thế là cả lớp bỏ ngang, xúm nhau mang sổ gạo, sổ nhu yếu phẩm xuống Ban ðời Sống xếp hàng chờ được mua” [10]. Sau khi các nhĩm đã tìm hiểu và trình bày xong, giáo viên treo “Bảng tĩm tắt hai kế hoạch nhà nước 5 năm (1976-1980) và (1981-1985)” đã chuẩn bị ở nhà lên để củng cố kiến thức cho học sinh: Kế hoạch Nhà nước 5 năm Thành tựu Khĩ khăn, hạn chế 1976- 1980 - Các cơ sở nơng – cơng nghiệp, giao thơng vận tải bị địch đánh phá cơ bản được khơi phục và bước đầu phát triển. - Cơng cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa được đẩy mạnh trong các vùng mới giải phĩng. - Xĩa bỏ những biểu hiện văn hĩa phản động của chế độ thực dân, xây dựng nền văn hĩa mới cách mạng. - Nền kinh tế mất cân đối. - Kinh tế tư nhân và cá thể bị ngăn cấm. - Kinh tế quốc doanh và tập thể luơn thua lỗ. - Sản xuất phát triển chậm. - ðời sống nhân dân gặp khĩ khăn. - Trong xã hội nảy sinh nhiều hiện tượng tiêu cực. 1981- 1985 - Cơng – Nơng nghiệp đã chặn được đà giảm sút của 5 năm (1976-1980) và cĩ bước phát triển. - Xây dựng cơ sở vật chất – kĩ thuật: Hàng nghìn cơng trình lớn, nhỏ được hồn thành. - Các hoạt động khoa học – kỉ thuật được triển khai. - Những khĩ khăn, yếu kém của 5 năm trước vẫn chưa khắc phục, thậm chí cĩ phần trầm trọng hơn. - Mục tiêu ổn định tình hình kinh tế - xã hội chưa thực hiện được. 25 Thơng qua việc giáo viên sử dụng đồ dùng trực quan quy ước kết hợp với tài liệu thành văn để tổ chức cho học sinh thảo luận nhĩm sẽ giúp phát huy tính tích cực, độc lập, sáng tạo trong suy nghĩ của học sinh. Với biện pháp này, giờ học sẽ trở nên sơi nổi, hấp dẫn, lơi cuốn hơn. Từ đĩ mà chất lượng bài học lịch sử cũng sẽ được nâng cao lên. 2.4. Sử dụng đồ dùng trực quan quy ước kết hợp với tài liệu thành văn và nêu câu hỏi để giúp học sinh rút ra kết luận Dạy học lịch sử khơng chỉ dừng lại ở việc giúp học sinh nắm được một hệ thống các sự kiện, con số, mà điều quan trọng là giúp các em thấy rõ được mối liên hệ bên trong của các sự kiện lịch sử, nêu được quy luật phát triển của lịch sử. Nĩi một cách khác dễ hiểu là phải đảm bảo được hai cấp độ nhận thức của việc dạy lịch sử: Từ biết sử đến hiểu sử như Bác Hồ đã từng nĩi việc học tập lịch sử khơng chỉ dừng ở “biết sử” mà cịn phải hiểu “cho tường gốc tích”3. Trong dạy học lịch sử, việc khái quát, kết luận cĩ thể được thực hiện bằng nhiều cách khác nhau. Giáo viên cĩ thể hướng dẫn học sinh khái quát, rút ra kết luận ngắn gọn; cĩ thể tự mình nêu ra; cũng cĩ thể lấy ý kiến lãnh tụ, của nhà khoa học để khái quát, kết luận. Ví dụ khi giảng bài 30: Việt Nam xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh bảo vệ tổ quốc (1976-1986), mục I.2. Thực hiện kế hoạch nhà nước 5 năm 1976 – 1980. ðể giúp học sinh hiểu được đơn vị kiến thức này, giáo viên đưa ra sơ đồ: “Nguyên nhân hạn chế của kế hoạch Nhà nước 5 năm 1976-1980”: Kết hợp cung cấp đoạn tài liệu thành văn giải thích nguyên nhân của những hạn chế: “Nguồn gốc sâu xa của những khĩ khăn về kinh tế và đời sống là: Nền kinh tế của nước ta cịn phổ biến là sản xuất nhỏ, lại phải gánh chịu những hậu quả hết sức nặng nề của chiến tranh dài và chủ nghĩa thực dân; 5 năm qua, chúng ta phải tiến hành 3 Mở đầu tác phẩm: Lịch sử nước ta (viết theo lối diễn ca vào năm 1942 tại Pắc Pĩ – Cao bằng), Bác Hồ đã viết: Dân ta phải biết sử ta; Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam. Nguyên nhân Khách quan: - Nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế nơng nghiệp lạc hậu, hậu quả của chiến tranh để lại. - Cịn phải lo đấu tranh bảo vệ biên giới phía Bắc và Tây Nam Chủ quan: Khuyết điểm, sai lầm của các cơ quan ðảng và nhà nước trong lãnh đạo 26 chiến tranh giữ nước ngĩt 3 năm; vết thương cũ chưa hàn xong đã tiếp nhận những tàn phá mới; thiên tai lớn dồn dập xảy ra; kẻ địch thường xuyên phá hoại về mọi mặt. Cùng một lúc nền kinh tế nước ta phải đáp ứng ba yêu cầu cơ bản rất cấp bách là đảm bảo nhu cầu bảo vệ tổ quốc, đảm bảo đời sống nhân dân và xây dựng cơ sở vật chất – kỉ thuật của chủ nghĩa xã hội. Song mặt khác, khĩ khăn cịn do khuyết điểm, sai lầm của các cơ quan ðảng và nhà nước ta từ Trung ương đến cơ sở về lãnh đạo và quản lí kinh tế, quản lí xã hội. Trên những mặt nhất định, khuyết điểm sai lầm về mặt lãnh đạo và quản lí là hai mặt chủ yếu gây ra hoặc làm trầm trọng thêm tình trạng khĩ khăn về kinh tế và xã hội” [7, trang 173-174]. Trên cơ sở cho học sinh xem sơ đồ và nghe đoạn tài liệu thành văn giải thích nguyên nhân của những hạn chế trong kế hoạch nhà nước 5 năm 1976 – 1980, giáo viên đặt câu hỏi: “Nguyên nhân của những hạn chế trong việc thực hiện kế hoạch nhà nước 5 năm 1976-1980?” để gúp học sinh rút ra kết luận: Trong cơng cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước mắt tuy gặp những khĩ khăn, hạn chế nhưng dưới sự lãnh đạo của ðảng và tinh thần đồn kết của nhân dân ta mà dần dần chúng ta sẽ khắc phục những khĩ khăn, hạn chế để trong tương lai gần “Việt Nam cĩ thể sánh vai với các cường quốc năm châu” [5, trang 11] như sinh thời chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nĩi. 2.5. Sử dụng đồ dùng trực quan quy ước kết hợp với tài liệu thành văn để ra bài tập nhận thức Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, hệ thống bài tập nhận thức đề cập đến những vấn đề mà học sinh cần nắm để khơi phục hình ảnh quá khứ và chủ yếu đi sâu vào nội dung bản chất sự kiện Bài tập nhận thức cĩ nội dung rộng hơn câu hỏi kiểm tra, nĩ địi hỏi thời gian, cơng sức của học sinh nhiều hơn và tác dụng, kết quả của nĩ cũng cao hơn. Vì vậy cĩ thể nhận thức: “Bài tập nhận thức trong giảng dạy lịch sử là tình huống cĩ vấn đề, mà trong quá trình giải quyết học sinh phải vận dụng những kiến thức đã học, những tài liệu liên quan, biết tìm tịi sáng tạo, bài tập nhận thức là một hệ thống chứ khơng phải là một bài tập rời rạc” [8, trang 114]. Các nhà nghiên cứu phương pháp dạy học lịch sử [4], [7], [8] cũng thống nhất rằng, bài tập nhận thức phải thỏa mãn các yêu cầu sau: - Làm cho học sinh nhận thức được các sự kiện lịch sử cơ bản, mối liên hệ giữa chúng với nhau. - Khơi phục được bức tranh lịch sử một cách khách quan như nĩ đã xảy ra theo trình độ và yêu cầu của từng lớp học. - Phân tích các sự kiện trong tình huống cĩ vấn đề, rút ra được bản chất, đặc trưng của sự kiện, quy luật lịch sử và vận dụng kiến thức đã biết để nhận thức bài mới, phục vụ hoạt động thực tiễn, phát triển năng lực sáng tạo và năng lực thực hành của học sinh. 27 Bài tập nhận thức được quan niệm như vậy là rất phong phú, đa dạng và cĩ ý nghĩa rất lớn trong dạy học lịch sử theo hướng phát huy tính tích cực học tập của học sinh. Việc sử dụng đồ dùng trực quan quy ước kết hợp với tài liệu thành văn để ra bài tập nhận thức cĩ thể xem là một biện pháp hay nhằm phát huy năng lực sáng tạo, tư duy của học sinh. Ví dụ khi dạy xong bài 30: Việt Nam xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh bảo vệ tổ quốc (1976-1986). ðầu tiên giáo viên cho học sinh xem “Bảng tĩm tắt hai kế hoạch nhà nước 5 năm (1976-1980) và (1981-1985)” như trình bày ở mục 2.3, kết hợp với việc giáo viên cung cấp một đoạn tài liệu thành văn miêu tả những hạn chế của kế hoạch nhà nước 5 năm 1976-1980 và 1981-1985 để từ đĩ học sinh cĩ thể so sánh hai kế hoạch 5 năm 1976-1980 và 1981-1985, cụ thể như sau: Kế hoạch 5 năm 1976-1980:“Giá cả sinh hoạt thị trường tự do ngày càng tăng vọt, hàng tiêu dùng, thực phẩm trong các cửa hàng quốc doanh cũng ngày một khan hiếm. Lương của cán bộ, bộ đội, cơng nhân viên nhà nước khơng đủ sống chớ đừng nĩi tới việc nuơi vợ con, cha mẹ. Thường thường người ta phải làm thêm, hoặc chăn nuơi, trồng trọt mới đủ ngày hai bữa cơm và những tiêu xài cần thiết khác. Cĩ gia đình cán bộ đơng con, khơng đủ tiền ăn rau Nhìn bữa ăn của nhiều gia đình nghèo khơng cầm được nước mắt. Khổ tâm nhất là những cháu nhỏ thiếu ăn, thiếu mặc, người bệnh thiếu thuốc, thịt, sữa, cá Nhưng những người sống kham khổ thường là những người làm việc tốt, cần cù, chẳng mấy kêu than ốn trách. Trong khi ấy những câu chửi đồng, những lời ốn than, thậm chí chửi rủa nữa từ miệng của những kẻ chạy áp phe, tham ơ, ăn cắp, hoặc những người lợi dụng chức quyền, lợi dụng sự sơ hở của nhà nước để làm việc bất lương vẫn tồn tại nhiều” [6, trang 99 - 100]. Kế hoạch 5 năm 1981 - 1985: “Nhà cĩ con rể mới từ chiến trường trở về, bố vợ muốn mua tặng con một đơi dép nhựa và sắm thêm đơi chiếu cĩi. Ơng đi bộ 18 km để lên cửa hàng mua bán của huyện. Tới nơi cơ mậu dịch viên vừa cắm cúi thêu khăn vừa nĩi vọng lên: “Hết hàng!”. “Vậy đơi này thì sao?”. Hỏi đến ba lần mới được cơ ta gắt lên: “Mắt ơng để đâu vậy? khơng thấy bảng “Hàng mẫu khơng bán à?”. Về nhà cĩ người mách ơng phải gặp kẻ mơi giới và trả thêm tiền mới mua được. Chạy vạy mấy ngày, trả thêm gấp đơi tiền cùng rất nhiều lời cảm ơn, cảm tạ cuối cùng ơng cũng mua được đơi dép nhựa và cặp chiếu cĩi. Câu chuyện trên của ơng Nguyễn ðình Kiên, xã Gia Trung, huyện Gia Viễn (Ninh Bình) về tình trạng quá bình thường của bản thân ơng cũng như của tất cả mọi người sống trong thời kì bao cấp. Ai mua thứ gì cũng phải đến hợp tác xã mua bán hay cửa hàng mậu dịch quốc doanh. Mua cây kim hay cái bấc đèn cũng cực kì khĩ khăn. Nhà nước bán hàng dưới giá thành và cũng thấp hơn giá chợ (bán phân phối), hàng hĩa khơng đủ 1/10 nhu cầu nên nhân viên thương nghiệp kênh kiệu, xem thường khách hàng vơ cùng. “Bán như 28 cho” là lời cửa miệng đầy xĩt xa của thời ngăn sơng cấm chợ lúc bấy giờ” [10]. Sau đĩ giáo viên ra bài tập nhận thức: “So sánh hai kế hoạch nhà nước 5 năm 1976-1980 và 1981-1985”. ðể làm được bài tập này, địi hỏi học sinh phải nắm vững kiến thức của bài 30 và tập trung chú ý bảng tĩm tắt hai kế hoạch nhà nước 5 năm cùng với các đoạn tài liệu thành văn mà giáo viên cung cấp (thực chất là giáo viên cung cấp kiến thức để hướng học sinh đến tri thức đúng nhất). Cĩ như vậy học sinh mới biết chọn ra tiêu chí so sánh (Hồn cảnh, mục tiêu, thành tựu, hạn chế, ý nghĩa) và từng đơn vị kiến thức của các tiêu chí đĩ. 3. Kết luận Tĩm lại, các biện pháp sử dụng đồ dùng trực quan quy ước kết hợp với tài liệu thành văn trong dạy học lịch sử ở trường trung học phổ thơng là cần thiết và cĩ tính khả thi. Những biện pháp này nếu thực hiện tốt thì sẽ gĩp phần vào việc giúp học sinh phát huy tính tích cực, độc lập, sáng tạo, qua đĩ nâng cao chất lượng của bài học lịch sử. ðặc biệt, trong quá trình dạy học, tùy điều kiện cụ thể mà giáo viên vận dụng một cách linh hoạt, sáng tạo các biện pháp đĩ. Bởi vì, khơng cĩ biện pháp sư phạm nào là vạn năng mà nĩ cịn phụ thuộc vào điều kiện cụ thể của từng đối tượng học sinh. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. ðảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện ðại hội đại biểu tồn quốc lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997. [2]. ðảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện ðảng tồn tập, tập 36, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006. [3]. ðảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện ðảng tồn tập, tập 37, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006. [4]. Phan Ngọc Liên (chủ biên), Phương Pháp dạy học Lịch Sử, tập 1, Nxb. ðại học Sư phạm, Hà Nội, 2007. [5]. Hồ Chí Minh tồn tập, tập 4, Nxb. sự thật, Hà Nội, 1984. [6]. Trần Thanh Phương, Sài Gịn tầng cao, Sài Gịn tầng thấp (Nhật kí), Nxb. Thanh niên, Hà Nội, 2000. [7]. Trần Vĩnh Tường, Tư liệu dạy – học lịch sử 12, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2008. [8]. Trần Vĩnh Tường, Một số vấn đề về bài tập nhận thức trong dạy học lịch sử ở trường THPT, Tập san khoa học, ðại học ðà Nẵng, số 5, 1998. [9]. Viện Khoa học xã hội Việt Nam, 45 năm kinh tế Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1990. [10]. ðêm trước đổi mới: ký ức thời sổ gạo, 29 USING VISUAL TEACHING AID COMBINED WITH WRITTEN MATERIAL METHODS IN TEACHING-LEARNING HISTORY AT HIGH SCHOOL Nguyen Tuan Anh College of Pedagogy, Hue University SUMMARY When teaching history at high school, materials in general, visual teaching aid and written materials particularly play an important role. They are used not only to form knowledge but also to develop in students the skill needed to learn this subject. In this paper, we present some visual teaching aid in use combined with written material methods giving examples in teaching Vietnamese history between 1975 and 1986 (advanced programe).

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf66_2_1831_4281_2117873.pdf
Tài liệu liên quan