Bước đầu đánh giá hiệu quả điều trị sga bằng growth hormon tại bệnh viện nhi đồng 1 từ 2017-2018: Báo cáo trường hợp

Tài liệu Bước đầu đánh giá hiệu quả điều trị sga bằng growth hormon tại bệnh viện nhi đồng 1 từ 2017-2018: Báo cáo trường hợp: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 4 * 2019 Hội Nghị Khoa Học Nhi Khoa BV. Nhi Đồng 1 190 BƯỚC ĐẦU ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ ĐIỀU TRỊ SGA BẰNG GROWTH HORMON TẠI BỆNH VIỆN NHI ĐỒNG 1 TỪ 2017-2018: BÁO CÁO TRƯỜNG HỢP Nguyễn Hiếu Trung*, Trần Thị Bích Huyền* TÓM TẮT Mục tiêu: Trẻ nhỏ so với tuổi thai (SGA) được định nghĩa là trẻ sinh ra có cân nặng và hoặc chiều dài nhỏ hơn 2 độ lệch chuẩn (2sd) so với cân nặng và hoặc chiều cao trung bình theo tuổi và giới. Một phần nhỏ trẻ SGA sẽ không bắt kịp đà tăng trưởng và có chiều cao thấp lùn khi trưởng thành. Hormone tăng trưởng (GH) được chứng minh an toàn và có hiệu quả trong việc cải thiện chiều cao ở những trẻ này và kết quả cuối cùng là cải thiện chiều cao lúc trưởng thành. Phương pháp nghiên cứu: Báo cáo 3 ca. Kết quả: Chúng tôi theo dõi và điều trị 3 trường hợp trẻ SGA với GH liều thấp (35mcg/kg/ngày) trong vòng 6 tháng đến 3 năm. Tuổi bắt đầu điều trị khá sớm từ 2,3 đến 4,5 tuổi. Cả 3 trường hợ...

pdf7 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 338 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bước đầu đánh giá hiệu quả điều trị sga bằng growth hormon tại bệnh viện nhi đồng 1 từ 2017-2018: Báo cáo trường hợp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 4 * 2019 Hội Nghị Khoa Học Nhi Khoa BV. Nhi Đồng 1 190 BƯỚC ĐẦU ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ ĐIỀU TRỊ SGA BẰNG GROWTH HORMON TẠI BỆNH VIỆN NHI ĐỒNG 1 TỪ 2017-2018: BÁO CÁO TRƯỜNG HỢP Nguyễn Hiếu Trung*, Trần Thị Bích Huyền* TÓM TẮT Mục tiêu: Trẻ nhỏ so với tuổi thai (SGA) được định nghĩa là trẻ sinh ra có cân nặng và hoặc chiều dài nhỏ hơn 2 độ lệch chuẩn (2sd) so với cân nặng và hoặc chiều cao trung bình theo tuổi và giới. Một phần nhỏ trẻ SGA sẽ không bắt kịp đà tăng trưởng và có chiều cao thấp lùn khi trưởng thành. Hormone tăng trưởng (GH) được chứng minh an toàn và có hiệu quả trong việc cải thiện chiều cao ở những trẻ này và kết quả cuối cùng là cải thiện chiều cao lúc trưởng thành. Phương pháp nghiên cứu: Báo cáo 3 ca. Kết quả: Chúng tôi theo dõi và điều trị 3 trường hợp trẻ SGA với GH liều thấp (35mcg/kg/ngày) trong vòng 6 tháng đến 3 năm. Tuổi bắt đầu điều trị khá sớm từ 2,3 đến 4,5 tuổi. Cả 3 trường hợp đều có sds cân nặng lúc sanh < -2 và sds chiều cao lúc bắt đầu điều trị < -3. Sau điều trị, chiều cao cải thiện rõ rệt ở cả 3 trường hợp, với ∆sd chiều cao = 0.94 (0.34-1.43). Báo cáo cũng cho thấy chiều cao trung bình ba mẹ và tuổi bắt đầu điều trị cũng ảnh hưởng đến kết quả điều trị. Kết luận: GH liều thấp bước đầu cho thấy hiệu quả và an toàn trên bệnh nhân SGA được điều trị sớm. Liều GH khởi đầu nên dựa trên tiên lượng đáp ứng điều trị của từng cá nhân cụ thể. Bên cạnh đó, việc sử dụng GH cần cân nhắc giữa hiệu quả và chi phí điều trị. Từ khóa: hormone tăng trưởng, trẻ nhỏ so với tuổi thai ABSTRACT INITIAL ASSESSMENT OF THE EFFECTIVENESS OF SGA TREATMENT WITH GROWTH HORMONE AT CHILDREN HOSPITAL 1 FROM 2017-2018: CASE REPORT Nguyen Hieu Trung, Tran Thi Bich Huyen * Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 – No. 4 - 2019: 190 – 196 Objective: Small for gestation age (SGA) is defined as birth weight and/or birth length two or more standard deviation scores below the mean for gender and gestation (-2sds). A small part of SGA children will not catch up with growth and have a low height in adulthood. Growth hormone (GH) is demonstrated benefits and safety in treatment these children to get a normal adult height. Methods: 3 cases report Results: We present 3 cases of SGA treated with low dose GH (35mcg/kg/day) for 6 months to 3 years. Age of onset treatment is relatively early, from 2.3 to 4.5 years old. All 3 cases have birth weight sds below -2 and height sds at beginning of treatment below -3. After treatment, height improved significantly in all 3 cases, with ∆sd height = 0.94 (0.34-1.43). Besides, midparental height and age of onset treatment affect the treatment result. Conclusion: Low dose GH is effective and safe enough to treat SGA children at early age. Midparental height may contribute to the effect of GH in treatment of SGA, so dose of GH can be individualized. Besides, treatment should be based on the balance between benefit and cost. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 4 * 2019 Nghiên cứu Y học Hội Nghị Khoa Học Nhi Khoa BV. Nhi Đồng 1 191 Key words: growth hormone, SGA ĐẶT VẤN ĐỀ Trẻ em nhỏ so với tuổi thai (SGA) là tình trạng trẻ có cân nặng và hoặc chiều dài lúc sinh <-2 độ lệch chuẩn (-2sd) so với tuổi thai và giới(13). Nguyên nhân gây nên tình trạng này là do nhiều yếu tố như: dinh dưỡng, bệnh lý của mẹ trong thai kỳ, các bất thường về mạch máu nhau thai, di truyền hoặc không có nguyên nhân. Trẻ SGA không chỉ bị ảnh hưởng đến chiều cao mà còn có những nguy cơ tiềm ẩn về sức khỏe như: béo phì, rối loạn chuyển hóa và bệnh lý tim mạch trong cuộc sống sau này. Nhưng những nguy cơ này thực sự không cao và rõ rệt bằng ảnh hưởng lên chiều cao lúc trưởng thành. Khoảng 85-90% các trẻ SGA có thể tăng trưởng nhanh bù trừ và bắt kịp chiều cao trong vài năm đầu, tuy nhiên 10-15% còn lại sẽ không đạt được chiều cao ở mức bình thường lúc 2 tuổi(15). Nhóm trẻ SGA có chiều cao dưới -2sd lúc 2 tuổi thường có xu hướng thấp lùn lúc trưởng thành. Do đó vấn đề quan trọng là cần theo dõi sát và can thiệp kịp thời để trẻ SGA có thể bắt kịp tốc độ tăng trưởng và đạt được chiều cao bình thường lúc trưởng thành. Thế giới đã có nhiều nghiên cứu chứng minh growth hormone (GH) giúp cải thiện chiều cao đáng kể ở trẻ SGA(23). Bên cạnh đó GH còn giúp tăng khối cơ và giảm tỉ lệ mỡ cơ thể, một kiểu hình thường thấy ở trẻ SGA lúc trưởng thành(14). Ngoài ra, cải thiện thể chất còn góp phần tích cực vào sự phát triển tâm lý trẻ(16). Việc điều trị trẻ nhỏ so với tuổi thai bằng GH có lịch sử gần 50 năm(20). Và đến năm 2001 đã được chỉ định một cách chính thức bởi FDA Hoa Kỳ, sau đó được cơ quan đánh giá dược phẩm Châu Âu chấp thuận từ năm 2003(7). Điều trị GH được chỉ định cho những trẻ SGA lúc 2 - 4 tuổi và có chiều cao thấp hơn hoặc bằng -2sd theo tuổi và giới. Tại Việt Nam, mặc dù vấn đề chiều cao và hóc môn tăng trưởng đang được quan tâm rất nhiều trong khoảng một thập niên gần đây nhưng trẻ SGA vẫn chưa được quan tâm và theo dõi đúng mức. Chưa có một báo cáo nào về tỉ lệ trẻ SGA tại Việt Nam, cũng như không có nghiên cứu về việc sử dụng và đánh giá hiệu quả của GH trên những trẻ SGA tại nước ta. Tại bệnh viện Nhi Đồng 1, chúng tôi đã triển khai tiếp nhận chẩn đoán và điều trị cho trẻ SGA trong 2 năm gần đây. Từ năm 2017 - 2018 nhiều bệnh nhi đến khám vì chậm tăng chiều cao do nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó có 3 bệnh nhi SGA được điều trị với GH. Báo cáo này là những đánh giá ban đầu về kết quả điều trị bằng GH cho 3 bệnh nhi chậm tăng chiều cao do tình trạng SGA. ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu Chúng tôi phân tích 3 trường hợp đến khám vì chậm tăng chiều cao được chẩn đoán SGA thỏa các tiêu chuẩn sau: Tiêu chuẩn chẩn đoán SGA Trẻ em sinh ra có cân nặng và hoặc chiều dài lúc sinh ≤ -2sd so với tuổi thai và giới tính theo WHO(21). Tiêu chuẩn điều trị GH Trẻ SGA ≥ 2 tuổi mà không bắt kịp chiều cao (chiều cao ≤ -sd theo tuổi và giới). Các bệnh nhi này được đánh giá chiều cao theo biểu đồ tăng trưởng của WHO(21). *Bệnh viện Nhi Đồng 1 Tác giả liên lạc: BS. Nguyễn Hiếu Trung ĐT: 0978422155 Email: hieutrungy@yahoo.com Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 4 * 2019 Hội Nghị Khoa Học Nhi Khoa BV. Nhi Đồng 1 192 Cả 3 bệnh nhi đều được điều trị với GH liều trung bình là 0,035 mg/kg/ngày, tiêm dưới da mỗi ngày trước khi ngủ. Theo dõi: bệnh nhi được theo dõi tái khám mỗi 3 tháng, đánh giá chiều cao, cân nặng và các tác dụng Pm hụ của GH như: tăng áp lực nội sọ lành tính, đau nhức khớp, trượt chỏm xương đùi, tăng trưởng tuyến vú ở nam, tăng đường huyết. Tiêu chuẩn loại trừ Xquang xương dài để loại trừ các bệnh lý bất thường về xương. Nhiễm sắc thể đồ (karyotype) thực hiện thường qui ở nữ để loại trừ hội chứng Turner. MRI não để loại trừ bệnh lý thần kinh trung ương. Một số xét nghiệm để loại trừ các bệnh mạn tính khác như: các hormone khác của tuyến yên, chức năng tuyến giáp, chức năng thận. KẾT QUẢ Cả 3 bệnh nhi nhập viện trong tình trạng chiều cao rất thấp ≤ -3sd so với chiều cao trung bình theo tuổi và giới (Bảng 1, 2). Các xét nghiệm về chức năng gan, thận, đường huyết, điện giải trong giới hạn bình thường (Bảng 3). Cả 3 trường hợp đều cải thiện chiều cao đáng kể với ∆ sd chiều cao = 0,94 (0,34-1,43) (Bảng 4). Không ghi nhận các tác dụng phụ của GH như: tăng áp lực nội sọ lành tính, đau nhức khớp, trượt chỏm xương đùi, tăng đường huyết (Hình 1). Bảng 1. Chiều cao và cân nặng lúc nhập viện Ca bệnh Giới Tuổi (năm) Chiều cao (cm) Chiều cao Z-Score Cân nặng (Kg) Cân nặng Z-Score Cân nặng/chiều cao Z-score 1 Nữ 4,3 86 -4,35 10 -3,89 -1,76 2 Nữ 2,3 80 -3,16 8,5 -3,00 -2 3 Nữ 2,3 73 -4,68 6,5 -5,03 -3,6 Bảng 2. Tiền sử lúc sanh Ca bệnh Giới Tuổi thai Chiều cao (cm) Chiều cao Z-Score Cân nặng (gr) Cân nặng Z-Score Cân nặng/ chiều cao Z-score 1 Nữ 39 48 - 0,66 1800 -3,68 < -3 2 Nữ 40 42 - 3,71 2500 -2,07 Không xác định 3 Nữ 38 44 -1,89) 2000 -2,58 < -3 Bảng 3. Cận lâm sàng Cận lâm sàng Ca bệnh 1 Ca bệnh 2 Ca bệnh 3 Giá trị bình thường Tuổi xương 3,5 tuổi 2 tuổi 1 tuổi IGF1 30,6 61 31,7 20 - 250 (ng/ml) TSH 1,75 2,04 2,1 0,32 – 5 (mUI/ml) FT4 0,99 1,02 1,31 0,71 – 1,85 (ng/ml) Cotisol 12,36 7,8 8,32 6,2-19,4(mcg/dl) Karyotype 46XX 46XX 46XX MRI não Bình thường Bình thường Bình thường Bảng 4. Đáp ứng điều trị Ca bệnh Liều GH (mg/Kg/ngày) Thời gian điều trị (Tháng) CC trước (cm) Z-Score trước CC Sau (cm) Z-Score sau CÂN NẶNG trước (Kg) Z-Score Cân nặng sau (Kg) Z-Score Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 4 * 2019 Nghiên cứu Y học Hội Nghị Khoa Học Nhi Khoa BV. Nhi Đồng 1 193 1 0,03-0,05 35 86 -4,35 109 -2,43 10 -3,89 17 -2,12 2 0,03-0,04 11 80 -3,16 91 -1,73 8.5 -3,00 11 -2,27 3 0,03-0,04 05 73 -4,68 77 -4,34 6.5 -5,03 8.4 -3,84 Bệnh nhi 1 Bệnh nhi 2 Bệnh nhi 3 Hình 1. Biểu đồ tăng trưởng trong khi điều trị với GH của 3 bệnh nhi SGA BÀN LUẬN Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả điều trị của GH trong năm đầu tiên gồm: liều điều trị GH, tuổi bắt đầu điều trị, chiều cao ba mẹ(17). Liều điều trị GH cao, tuổi điều trị nhỏ và chiều cao trung bình ba mẹ cao cho hiệu quả điều trị càng lớn. Trong đó liều GH là yếu tố quan trọng nhất(1,10,17). Liều điều trị GH ở bệnh nhân SGA cao hơn so với bệnh nhân thiếu hormone tăng trưởng khác vì cơ chế bệnh sinh của trẻ SGA không phải do thiếu GH mà vì tình trạng đề kháng một phần GH hoặc bất thường trục GH-IGF1(2,5). Tuy nhiên có khoảng 50-60% trẻ SGA không bắt kịp chiều cao có kèm bất thường tiết GH(11). Hiện nay chưa có một sự đồng thuận nào giữa các hiệp hội nội tiết về liều điều trị GH cụ thể cho bệnh nhân SGA. Khoảng liều đang được chấp nhận khá rộng từ 35-70 mcg/kg/ngày(7). Theo hội nội tiết tại Mỹ, khởi đầu điều trị GH với liều cao khi đạt đươc tốc độ tăng chiều cao tốt sẽ giảm liều dần. Bên cạnh đó, các tác giả cũng cho rằng khoảng thời gian 2 năm kể từ lúc sanh là đủ để đánh giá trẻ có thể bắt kịp chiều cao hay không, Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 4 * 2019 Hội Nghị Khoa Học Nhi Khoa BV. Nhi Đồng 1 194 và điều này được chứng minh bằng nhiều nghiên cứu(12,15), do đó các tác giả cho rằng điều trị càng sớm thì khả năng để tối ưu hóa chiều cao trưởng thành càng lớn. Ngược lai, hiệp hội nội tiết tại Châu Âu lại cho rằng có thể chờ đến 4 tuổi vì có khoảng 5-10% trẻ SGA sẽ bắt kịp dần chiều cao; và liều GH điều trị ban đầu thấp, có thể tăng dần nếu tốc độ tăng chiều cao không đáp ứng tốt. Nhiều nghiên cứu cho thấy liều GH cao có ưu thế cải thiện chiều cao trong 1-2 năm đầu so với liều thấp nhưng về lâu dài thì chiều cao lúc trưởng thành không có sự khác biệt giữa liều cao và liều thấp(9,19,23). Mặt khác liều cao có thể tăng nguy cơ đề kháng insulin ở một số trẻ(8), đồng thời chi phí điều trị có thể tăng gần gấp đôi. Theo khuyến cáo của hội nội tiết thế giới, khởi đầu điều trị GH cho trẻ SGA trong khoảng 2-4 tuổi khi chiều cao của trẻ thấp hơn -2sd so vơi tuổi và giới, liều khởi đầu tùy theo tưng cá thể. Ở ba trường hợp nêu trên, chúng tôi đều khởi đầu GH liều thấp là 35 mcg/kg/ngày và hiệu quả trong năm đầu là cải thiện chiều cao đáng kể với ∆sd chiều cao = 1,14(0,81-1,56). Kết quả ban đầu của nghiên cứu của chúng tương đồng với một số nghiên cứu khác với mức ∆sd chiều cao từ 1,05-1,2(11,22). Măc dù liều điều trị GH của chúng tôi là bắt đầu với liều thấp và tăng dần, tuy nhiên tốc độ tăng chiều các của các trẻ là khá tốt trên +1sd. Bên cạnh đó với liều điều trị GH liều thấp và tăng dần sẽ giúp cân bằng giữa chi phí và hiệu quả điều trị, phù hợp với tình hình kinh tế của bệnh nhân ở nước ta, điều này cũng đã được một số tác giả đề nghị(6,22). Tuổi bắt đầu điều trị GH cho bệnh nhân SGA vẫn chưa có sự thống nhất giữa các hiệp hội nội tiết như Mỹ bắt đầu trị từ 2 tuổi, Châu Âu 4 tuổi, Nhật 3 tuổi(7,22). Nhiều tác giả cho rằng tuổi càng nhỏ thì mức độ thiếu hụt về chiều cao càng ít(3) nên điều trị sẽ càng hiệu quả. Ngược lại một số tác giả lại cho rằng nên trì hoãn điều trị vì một số bé có thể tự động bắt kịp chiều cao về sau nhưng điều này chỉ đặc biệt đúng với trẻ sanh non SGA(7). Ba trẻ SGA trên đều là trẻ đủ tháng nên chúng tôi quyết định điều trị sớm ngay khi phát hiện với bé nhỏ nhất là 2 tuổi 3 tháng. Điều này đã được lý giải ở trên là nhằm tối ưu hóa chiều cao lúc trưởng thành, đồng thời tránh tình trạng mất theo dõi do bỏ tái khám. Ca 2 và 3 có cùng tuổi bắt đầu điều trị, với cùng liều GH nhưng ca 2 có ∆sd chiều cao lớn hơn (1,56 so với 0,81). Điều này có thể lý giải bằng chiều cao trung bình của ba mẹ tương ứng 157cm so với 148,5 cm. Chiều cao trung bình ba mẹ là một trong ba yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả điều trị GH(17). Trong 3 yếu tố liều GH, tuổi bắt đầu điều trị, chiều cao ba mẹ thì yếu tố chiều cao ba mẹ và tuổi bắt đầu điều trị là không thể can thiệp được, chỉ còn liều GH là có thể điều chỉnh. Theo định nghĩa trong đồng thuận về SGA và hướng dẫn điều trị SGA của Nhật thì thất bại điều trị là độ lệch chuẩn chiều cao không tăng được ít nhất 0,5 trong năm đầu tiên(7,22). Với những trẻ có chiều cao ba mẹ thấp, tuổi bắt đầu điều trị trễ thì chúng tôi cân nhắc tăng liều GH sớm nếu chiều cao trẻ đáp ứng kém, hoặc sử dụng GH liều cao ngay từ đầu. Đa phần trẻ SGA có tuổi xương thấp hơn tuổi thật vì các vấn đề liên quan đến GH như đã nói ở trên. Sau thời gian điều trị với GH thì xương tăng tốc độ cốt hóa(4,18). Có nghiên cứu cho rằng liều GH không ảnh hưởng đến mức độ cốt hóa xương(18), nhưng tác giả khác chứng minh rằng liều GH càng lớn thì mức độ cốt hóa xương càng mạnh(10). Sau thời gian điều trị 5 năm thì 50% trường hợp có tuổi xương lớn hơn tuổi thật(10). Đây cũng là một trong những lý do mà hiệu quả GH liều cao trên chiều cao trưởng thành không thực sự khác biệt so với GH liều thấp vì mức độ cốt hóa xương mạnh hơn dẫn đến chiều cao trưởng thành dừng lại sớm hơn. Ba trẻ SGA trên đều có tuổi xương thấp so với tuổi thật. Vì thời gian điều trị và theo dõi ngắn nên chỉ duy nhất ca 1 được chụp tuổi xương theo dõi. Sau 2 năm điều trị thì tuổi xương tăng 1,5 tuổi với ∆ tuổi xương/ ∆ tuổi thật = 0,75 < 1. Như vậy với liều điều trị GH thấp, tốc độ tăng trưởng chiều cao tốt cũng không làm cốt hóa Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 4 * 2019 Nghiên cứu Y học Hội Nghị Khoa Học Nhi Khoa BV. Nhi Đồng 1 195 xương sớm dẫn đến tiên lượng hiệu quả điều trị lâu dài tốt. Nồng độ IGF1 ở cả 3 trẻ nằm trong ngưỡng cho phép, tuy nhiên thấp hơn mức trung bình theo tuổi. Điều này được giải thích vì thiếu hụt GH một phần hay đề kháng GH ở những trẻ SGA(2,5). Sau khi điều trị thì IGF1 tăng, tương ứng với chiều cao được cải thiện. Việc kiểm soát liều GH, đặc biệt là GH liều cao dựa trên nồng độ IGF1 được khuyến cáo trong đồng thuận điều trị SGA nhằm tránh các tác dụng phụ ngoại ý(7). Và cho đến nay, song song với việc kiểm tra nồng độ IGF1 định kỳ, chúng tôi vẫn chưa ghi nhận tác dụng phụ nào của GH trên ba trẻ SGA này. Tuy nhiên quá trình điều trị trẻ SGA có thể lên đến hơn 10 năm nên việc theo dõi hiệu quả và tác dụng phụ cần được tiếp tục trong một thời gian dài. KẾT LUẬN Điều trị GH trên bệnh nhân SGA bước đầu cho thấy an toàn và hiệu quả đáng kể trong việc cải thiện chiều cao, cho dù ở liều thấp. Điều trị hormone GH cho bệnh nhân SGA là điều trị cá thể hóa. Dựa trên từng trường hợp cụ thể, tiên lượng hiệu quả của việc cải thiện chiều cao mà quyết định liều GH phù hợp, bên cạnh đó còn phải cân nhắc giữa hiệu quả và chi phí điều trị. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Boguszewski M, Albertsson-Wikland K, Aronsson S, et al (1998). “Growth hormone treatment of short children born small-for-gestational-age: the Nordic Multicentre Trial”. Acta Paediatr, 87(3):257-263. 2. Boguszewski M, Rosberg S, Albertsson-Wikland K (1995). “Spontaneous 24-hour growth hormone profiles in prepubertal small for gestational age children”. J Clin Endocrinol Metab, 80(9):2599-2606. 3. Chatelain P, Carrascosa A, Bona G, Ferrandez-Longas A, Sippell W (2007). “Growth hormone therapy for short children born small for gestational age”. Horm Res, 68(6):300-309. 4. Chatelain P, Job JC, Blanchard J, Ducret JP, Oliver M, Sagnard L, Vanderschueren-Lodeweyckx M (1994). “Dose-dependent catch-up growth after 2 years of growth hormone treatment in intrauterine growth-retarded children. Belgian and French Pediatric Clinics and Sanofi-Choay (France)”. J Clin Endocrinol Metab, 78(6):1454-1460. 5. Chatelain PG, Nicolino M, Claris O, Salle B, Chaussain J (1998). “Multiple hormone resistance in short children born with intrauterine growth retardation?”. Horm Res, 49(2):20-22. 6. Chernausek SD (2005). “Treatment of short children born small for gestational age: US perspective, 2005”. Horm Res, 64(2):63-66. 7. Clayton PE, Cianfarani S, Czernichow P, Johannsson G, Rapaport R, Rogol A (2007). “Management of the child born small for gestational age through to adulthood: a consensus statement of the International Societies of Pediatric Endocrinology and the Growth Hormone Research Society”. J Clin Endocrinol Metab, 92(3):804-810. 8. Hofman PL, Cutfield WS, Robinson EM, Bergman RN, Menon RK, Sperling MA, và Gluckman PD (1997). “Insulin resistance in short children with intrauterine growth retardation”. J Clin Endocrinol Metab, 82(2):402-406. 9. Hokken-Koelega AC, De Waal WJ, Sas TC, Pareren YV, Arends NJ (2004). “Small for gestational age (SGA): endocrine and metabolic consequences and effects of growth hormone treatment”. J Pediatr Endocrinol Metab, 17(3):463-469. 10. Horikawa R, Tanaka T, Nishinaga H, Ogawa Y, Yokoya S (2017). “Evaluation of growth hormone treatment efficacy in short Japanese children born small for gestational age: Five-year treatment outcome and impact on puberty”. Clin Pediatr Endocrinol, 26(2):63-72. 11. Hwang IT (2014). “Efficacy and safety of growth hormone treatment for children born small for gestational age”. Korean J Pediatr, 57(9):379-383. 12. Karlberg J và Albertsson-Wikland K (1995). “Growth in full- term small-for-gestational-age infants: from birth to final height”. Pediatr Res, 38(5):733-739. 13. Lee PA, Chernausek SD, Hokken-Koelega AC, Czernichow P (2003). “International Small for Gestational Age Advisory Board consensus development conference statement: management of short children born small for gestational age, April 24-October, 2001”. Pediatrics, 111(6Pt1):1253-1261. 14. Leger J, Carel C, Legrand I, Paulsen A, Hassan M, Czernichow P (1994). “Magnetic resonance imaging evaluation of adipose tissue and muscle tissue mass in children with growth hormone (GH) deficiency, Turner's syndrome, and intrauterine growth retardation during the first year of treatment with GH”. J Clin Endocrinol Metab, 78(4):904-909. 15. Luo ZC, Albertsson-Wikland K, Karlberg J (1998). “Length and body mass index at birth and target height influences on patterns of postnatal growth in children born small for gestational age”. Pediatrics, 102(6):E72. 16. Pareren YKV, Duivenvoorden HJ, Slijper FS, Koot HM, Hokken-Koelega AC (2004). “Intelligence and psychosocial functioning during long-term growth hormone therapy in children born small for gestational age”. J Clin Endocrinol Metab, 89(11):5295-5302. 17. Ranke MB, Lindberg A, Cowell CT, Wikland KA, Reiter EO, Wilton P, Price DA (2003). “Prediction of response to growth hormone treatment in short children born small for gestational age: analysis of data from KIGS (Pharmacia International Growth Database)”. J Clin Endocrinol Metab, 88(1):125-131. Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 4 * 2019 Hội Nghị Khoa Học Nhi Khoa BV. Nhi Đồng 1 196 18. Sas T, de Waal W, Mulder P, Houdijk M, Jansen M, Reeser M, Hokken-Koelega A (1999). “Growth hormone treatment in children with short stature born small for gestational age: 5-year results of a randomized, double-blind, dose-response trial”. J Clin Endocrinol Metab, 84(9):3064-3070. 19. Tanaka T, Yokoya S, Hoshino Y, Hiro S, Ohki N (2018). “Long- term safety and efficacy of daily recombinant human growth hormone treatment in Japanese short children born small for gestational age: final report from an open and multi-center study”. Clin Pediatr Endocrinol, 27(3):145-157. 20. Tanner JM và Ham TJ (1969). “Low birthweight dwarfism with asymmetry (Silver's syndrome): treatment with human growth hormone”. Arch Dis Child, 44(234):231-243. 21. WHO Multicentre Growth Reference Study Group. (2006). “WHO Child Growth Standards based on length/height, weight and age”. Acta Paediatr Suppl, 450:76-85. 22. Yokoya S, Tanaka T, Itabashi K, Osada H, Hirai H, Seino Y (2018). “Efficacy and safety of growth hormone treatment in Japanese children with small-for-gestational-age short stature in accordance with Japanese guidelines”. Clin Pediatr Endocrinol, 27(4):225-234 23. Zegher FD và Hokken-Koelega A (2005). “Growth hormone therapy for children born small for gestational age: height gain is less dose dependent over the long term than over the short term”. Pediatrics, 115(4):e458-62. Ngày nhận bài báo: 20/07/2019 Ngày phản biện nhận xét bài báo: 30/07/2019 Ngày bài báo được đăng: 05/09/2019

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf190_788_2213321.pdf