TẠP CHÍ SINH HỌC, 2012, 34(3SE): 170-179 
170 
BƯỚC ĐẦU CHUYỂN GEN Bt VÀO CÂY MÍA (Saccharum officinarum L.) 
Phan Tường Lộc*, Hoàng Văn Dương, Mai Trường, Lê Tấn Đức, Trần Thị Ngọc Hà, 
Văn Đắc Thành, Phạm Đức Trí, Nguyễn Thị Thanh, Nguyễn Hữu Hổ 
Viện Sinh học Nhiệt đới, Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam, (*)
[email protected] 
TÓM TẮT: Nhóm sâu đục thân là một trong những loài sâu hại làm giảm năng suất đáng kể cho mía. 
Việc phun thuốc bảo vệ mía gặp một số trở ngại do mật độ mía ở ruộng rất dày, lá mía sắc và sâu đục thân 
lại sống bên trong thân mía. Chuyển gen kháng sâu (Bt- tổng hợp) cry1Ab và cry1B-cry1Ab (gen lai) vào 
hai giống mía VN 84 4137 và Suphanbury 7 nhằm mong muốn tạo ra các giống mía có khả năng kháng 
sâu hiệu quả, chủ yếu là sâu đục thân. Hai dòng vi khuẩn Agrobacterium tumefaciens đã được biến nạp 
các plasmid mang gen cry1Ab và gen cry1B-cry1Ab dùng để chuyển gen vào thực vật. Khảo sát các điều 
kiện nuôi cấy mô mía cho thấy, khi nuôi cấy tạo mô sẹo từ mảnh lá non ở lõi ngọn mía ex vitro, tỉ lệ tạo 
mô sẹo cao nhất của giống VN84 4137 trên môi trường có 2,4-D ở nồng độ 3 mg/l là 93,33%, trong khi 
của giống Suphanbury 7 ở nồng độ 2 mg/l là 96,67%. Tỉ lệ mô sẹo tái sinh chồi cao nhất trên môi trường 
có tổ hợp BAP 2 mg/l và NAA 1 mg/l là 100% ở cả hai giống. Bước đầu chuyển gen cry1Ab và cry1B-
cry1Ab gián tiếp nhờ vi khuẩn Agrobacterium tumefaciens vào mía đã thu được các khối mô sẹo có biểu 
hiện GUS và kháng chất chọn lọc phosphinothricin ở nồng độ 3 mg/l, là nồng độ gây chết khi khảo sát khả 
năng chống chịu phosphinothricin ở mô sẹo không chuyển gen. 
Từ khóa: Agrobacterium tumefaciens, Bt, chuyển gen, sâu đục thân cây mía. 
MỞ ĐẦU 
Hơn một thập niên qua, ngành mía đường 
Việt Nam vẫn luôn gặp khó khăn do nguồn 
nguyên liệu mía cung cấp không đủ để sản xuất. 
Với nhu cầu ngày càng tăng, và theo dự kiến 
của ngành, đến năm 2020 cả nước sẽ đạt mức 
tiêu thụ đường 2 triệu tấn/năm [25], việc bảo 
đảm sản lượng mía đáp ứng đủ và ổn định cho 
sản xuất là vấn đề cần thiết. 
Một trong những nguyên nhân làm giảm sản 
lượng mía là do sâu hại, trong đó, nhóm sâu đục 
thân thuộc bộ Cánh vảy (Lepidoptera) có thể 
gây thiệt hại có thể lên đến 30% [14, 24]. Ứng 
dụng chuyển gen Bt là một giải pháp tiềm năng 
để tạo ra được các giống mía có khả năng kháng 
các loại sâu đục thân [3, 9, 18, 21], mà tập tính 
sống của chúng thường gây khó khăn cho việc 
xử lý bằng hóa chất [14]. 
Độc tố kháng côn trùng từ Bacillus 
thuringiensis (Bt) là các độc tố crystal viết tắt là 
Cry do các gen cry mã hóa [20]. Độc tố Cry 
được phân loại dựa trên cơ sở đồng dạng của 
trình tự amino acid của tiền độc tố. Các protein 
tiền độc tố với ít hơn 45% sự đồng nhất trình tự 
sẽ có hệ số khác nhau trong dãy phân hạng đầu 
tiên (ví dụ Cry1, Cry2) và ở mức dưới 78% và 
95% đồng dạng sẽ thiết lập ranh giới cho các 
dãy phân hạng thứ hai và thứ ba (ví dụ Cry1Ab) 
[12]. Tính đặc hiệu và hoạt tính của độc tố Cry 
là kết quả của sự tương tác và ly giải của tiền 
độc tố bên trong hệ thống tiêu hóa của từng loài 
côn trùng cụ thể [12]. Do biến nạp vào thực vật 
dùng các gen cry đơn, nguyên bản cho biểu hiện 
độc tố không cao trong giai đoạn ban đầu, 
nghiên cứu chuyển gen Bt đã có những cải tiến 
trong giai đoạn sau này. Các gen cry được tổng 
hợp có nhiều thay đổi trình tự so với nguyên 
bản, như giảm các thành phần A, T, tăng tỷ lệ C 
+ G, để thích hợp biểu hiện cao ở thực vật [5, 
9]; hoặc áp dụng mô hình hiệu quả quy tụ 
(pyramiding) để tạo hiệu quả kháng sâu cao khi 
lai các gen cry có tác động khác nhau lại và 
đồng chuyển vào thực vật [9]. 
Theo các công bố, gen cry1Ab có tính kháng 
chủ yếu với côn trùng thuộc bộ Lepidoptera [1, 
2, 6, 12] và cry1B có tính kháng kép trên 
Lepidoptera và Coleoptera [5, 12]. Protein lai 
Cry1B-Cry1Ab có thể tạo hiệu ứng kháng hiệu 
quả hơn đối với Lepidoptera và cả Coleoptera 
[4]. 
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Vật liệu 
Giống mía: Hai giống mía được dùng để 
chuyển gen là Suphanbury 7 (Thái Lan) và 
VN84 4137 (Việt Nam), được cung cấp bởi 
Phan Tuong Loc et al. 
171 
Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Mía 
Đường, xã Phú An, huyện Bến Cát, tỉnh Bình 
Dương. 
Chủng vi khuẩn: Chủng vi khuẩn E. coli 
mang plasmid pCAMBIA3301-cry1Ab và 
chủng E. coli DH5α. Chủng vi khuẩn 
Agrobacterium tumefaciens EHA 105 có mang 
sẵn helper plasmid chứa các gen vir và gen 
kháng kháng sinh rifampicin. 
Plasmid: Plasmid pCRY1B-1Ab, kích thước 
khoảng 17 kb, mang tổ hợp gen Pubi/cry1B-
cry1Ab/Tnos (cry1B-cry1Ab: gen lai - tổng hợp) 
và gen chọn lọc P70S/bar/T35S trong T-DNA 
biểu hiện ở thực vật, và gen nptII kháng 
kanamycin biểu hiện ở vi khuẩn. Gen bar quy 
định tính kháng phosphinothricin (PPT) dùng để 
chọn lọc đối tượng chuyển gen (hình 1A). 
Plasmid pCAMBIA3301-cry1Ab, có kích 
thước 15,6 kb, từ plasmid pCAMBIA3301 được 
chèn thêm tổ hợp gene Pubi-1/cry1Ab/Tnos 
trong TDNA (Pubi : maize ubiquitin-1 (Ubi-1) 
promoter, Tnos: nopaline synthase (NOS) 
terminator, cry1Ab: gen tổng hợp) (hình 1B). 
Các gen cry1Ab, cry1B-cry1Ab có nguồn gốc 
từ Altosaar I. (Canada), chương trình trao đổi 
khoa học. 
A 
B 
Hình 1. Sơ đồ plasmid 
A. Plasmid pCRY1B-1Ab; B. Plasmid pCAMBIA3301-cry1Ab 
Môi trường 
Môi trường nuôi cấy vi khuẩn gồm môi 
trường LB (Luria-Bertani) dùng nuôi cấy và giữ 
giống E. coli và Agrobacterium tumefaciens; 
môi trường AB (Chilton) dùng để chuyển gen. 
Môi trường nuôi cấy thực vật gồm môi 
trường khoáng cơ bản MS, vitamin MS, vitamin 
B5, đường 30 g/l, pH 5,8; chất điều hòa sinh 
trưởng BAP, NAA. 
Phương pháp 
Biến nạp plasmid vào vi khuẩn E. coli bằng 
xung điện 
Biến nạp được thực hiện bằng xung điện 
trên máy BTX ECM 830 ở 2500 V, 40 uF, 5 ms, 
cuvette 2 mm. Vi khuẩn sau khi biến nạp được 
chọn lọc trên môi trường LB có bổ sung 
kanamycin 100 mg/l và được ly trích plasmid 
để kiểm tra đặc điểm, kích thước bằng enzyme 
cắt giới hạn HindIII [8, 15]. 
Biến nạp plasmid vào vi khuẩn Agrobacterium 
tumefaciens 
Biến nạp được thực hiện bằng phương pháp 
CaCl2 nhiệt. Vi khuẩn sau khi biến nạp được 
cấy chọn lọc trên môi trường có bổ sung 
rifampicin 100 mg/l và kanamycin 100 mg/l. 
Theo dõi kết quả sau 24-48 giờ [10, 11, 16]. 
Kiểm tra sự hiện diện của các gen cry1Ab và 
gen cry1B-cry1Ab bằng phương pháp PCR 
Đối với gen cry1Ab, trình tự mồi xuôi là 
(F): 5’-TTC CT T GGA CGA AAT CCC ACC-
3’ và mồi ngược là (R): 5’-GCC AGA ATT 
GAA CAC ATG AGC GC-3’ kích thước đoạn 
khuếch đại tương ứng 559 bp. Đối với gen 
cry1B-cry1Ab, trình tự mồi xuôi là (F): 5’-GAT 
AGC AGG ACC TAT CCA AT-3’ và mồi 
ngược là (R): 5’-GCC GAA GAG GGA GGC 
GTC AA-3’, kích thước đoạn khuếch đại tương 
ứng là 0,5 kb. Chương trình nhiệt phản ứng 
PCR: 94oC/4 phút (94oC/30 giây, 50-54oC/1 
phút, 72oC/30-90 giây), 72oC/10 phút, với 35 
chu kỳ. Hỗn hợp các thành phần của phản ứng 
PCR gồm có 5 l buffer PCR 5X, 0,5 l dNTP 
10 mM, 0,25 l taq polymerase 5 U/l, 2 l mồi 
xuôi 1 M, 2 l mồi ngược 1 M, 1 l DNA 
plasmid, thêm nước cất đủ thể tích 25 l [7]. 
Khảo sát ảnh hưởng của 2,4-D lên quá trình tạo 
mô sẹo từ lá non 
Phần lõi lá non bên trong ngọn mía, thường 
ở tình trạng vô trùng, được cắt thành các khoanh 
dày 2 mm và tách các lớp lá để nuôi cấy trên 
môi trường tạo mô sẹo gồm thành phần khoáng 
MS, vitamin MS, casein 0,5 g/l và agar 10 g/l, 
có bổ sung 2,4-D ở các nồng độ khác nhau 
PUbi Tnos cry1Ab cry1B 5'UTR Ubi P70S bar T35S RB LB KaR 
PUbi Tnos cry1Ab P35S bar T35S LB RB KaR gus P35S Tnos 
TẠP CHÍ SINH HỌC, 2012, 34(3SE): 170-179 
172 
(0; 1; 2; 3; 4 mg/l) để đánh giá ảnh hưởng của 
2,4-D lên quá trình tạo mô sẹo của mẫu [19]. 
Khảo sát ảnh hưởng của BAP và NAA lên quá 
trình tái sinh chồi từ mô sẹo 
Mô sẹo sau thời gian nuôi sẽ được cho tái 
sinh chồi trên môi trường có thành phần khoáng 
MS, vitamin B5, bổ sung tổ hợp chất điều hòa 
sinh trưởng BAP (1; 2 mg/l) NAA (0,2; 0,5; 1 
mg/l) [23]. 
Khảo sát ảnh hưởng của chất chọn lọc PPT lên 
sự phát triển mô sẹo, cây con in vitro 
Nuôi cấy tạo mô sẹo và nuôi cấy cây con 
trên môi trường có bổ sung PPT ở các nồng độ 
khác nhau (0; 1; 2; 3; 4; 5 mg/l) vào môi trường, 
để đánh giá ảnh hưởng của PPT lên sự phát 
triển của mô sẹo và cây con [13]. 
Phương pháp chuyển gen gián tiếp nhờ vi 
khuẩn Agrobacterium tumefaciens và chọn lọc 
mô chuyển gen 
Vi khuẩn A. tumefaciens được nuôi cấy lắc 
qua đêm ở 28oC trong môi trường LB có bổ 
sung kháng sinh kanamycin 100 mg/l và 
rifampicin 50 mg/l, sau đó, được ly tâm lấy 
sinh khối ở 4000 g, trong 5 phút và chuyển sang 
nuôi mới trong môi trường AB ở các điều kiện 
như trên có bổ sung thêm acetocyringone 200 
M trong 1 giờ. Mô sẹo được để khô bớt độ ẩm 
trong tủ cấy vô trùng khoảng 30 phút, rồi ngâm 
10 phút trong dịch vi khuẩn ở điều kiện áp suất 
thường, sau đó đưa vào điệu kiện chân không -
50 kPa trong 3 phút rồi đưa trở lại môi trường 
áp suất thường 5 phút, trước khi được mang ra 
thấm khô và chuyển sang ủ chung với vi khuẩn 
trên môi trường tạo mô sẹo, khoảng 2-3 ngày. 
Mô sẹo sau đó được rửa sạch bằng dung 
dịch kháng sinh cefotaxime 500 mg/l để diệt 
khuẩn Agrobacterium tumefaciens, rồi chuyển 
sang chọn lọc mô chuyển gen trên môi trường 
tạo mô sẹo, có bổ sung cefotaxime ở nồng độ 
500 mg/l và PPT ở nồng độ ngưỡng gây chết 
[17]. 
Khảo sát sự biểu hiện của gen chỉ thị gus bằng 
kỹ thuật hóa mô [13] 
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 
Biến nạp tạo chủng vi khuẩn E. coli chứa 
vector plasmid pCRY1B-1Ab 
Để có thể lưu giữ và nhân bản, plasmid 
pCRY1B-1Ab được biến nạp vào dòng E. coli 
DH5 bằng phương pháp xung điện. Vi khuẩn 
sau khi chuyển gen được cấy trải để chọn lọc 
trên môi trường LB rắn có bổ sung kanamycin 
100 mg/l. Sau 2 ngày, nhận được khoảng 70 
khuẩn lạc mọc trên đĩa petri nuôi cấy, được giả 
định đã biến nạp plasmid pCRY1B-1Ab, trong 
khi ở đĩa đối chứng nuôi cấy vi khuẩn E. coli 
DH5 không biến nạp, không có khuẩn lạc nào 
xuất hiện. 
Các khuẩn lạc giả định biến nạp plasmid 
được chọn và nuôi cấy trong môi trường LB 
lỏng có bổ sung kanamycin 100 mg/l để tách 
plasmid và phân tích. 
Plasmid sau khi tách chiết, được cắt bằng 
enzyme giới hạn HindIII và điện di kiểm tra 
trên gel agarose, cho thấy có 1 băng DNA 17 kb 
phù hợp với kích thước plasmid pCRY1B-1Ab 
chứng tỏ các dòng E. coli DH5 đã được biến 
nạp plasmid pCRY1B-1Ab (hình 2). 
Hình 2. Kiểm tra plasmid cry1B-cry1Ab sau khi 
biến nạp vào dòng vi khuẩn E.coli DH5 
L. Thang chuẩn DNA -HindIII; 1. Plasmid kiểm tra 
được cắt bằng enzyme HindIII có kích thước khoảng 
17 kb. 
Biến nạp tạo dòng vi khuẩn Agrobacterium 
tumefaciens mang plasmid pCAMBIA3301-
cry1Ab và dòngvi khuẩn A. tumefaciens 
mang plasmid pCRY1B-1Ab 
Hai dòng E. coli mang plasmid 
pCAMBIA3301-cry1Ab và pCRY1B-1Ab được 
nhân lên và tách plasmid. Biến nạp plasmid 
pCAMBIA3301-cry1Ab và pCRY1B-1Ab vào 
 L 1 
17 kb 
Phan Tuong Loc et al. 
173 
vi khuẩn Agrobacterium tumefacien EHA 105 
được thực hiện bằng phương pháp xử lý nhiệt 
với CaCl2. 
Vi khuẩn sau khi biến nạp được cấy chọn 
lọc trên môi trường LB rắn có bổ sung 
kanamycin 100 mg/l và rifampicin 100 mg/l (hệ 
thống binary vector) ở 28oC. Sau 2 ngày, trên 
các đĩa nuôi cấy xuất hiện khoảng 20 khuẩn lạc 
Agrobacterium tumefaciens EHA 105 giả định 
đã biến nạp plasmid. 
Tách khuẩn lạc và kiểm tra sự có mặt của 
các gen cry1Ab và cry1B-cry1Ab trong cấu trúc 
bằng phương pháp PCR với các mồi đặc hiệu. 
Kết quả biểu hiện trên gel agarose với marker 
1 kb cho thấy, ở dòng A. tumefaciens biến 
nạp plasmid pCAMBIA-Cry1Ab và dòng 
A. tumefaciens biến nạp plasmid pCRY1B-1Ab, 
sản phẩm PCR từ các plasmid được tách đều có 
băng khuếch đại của gen cry1Ab giống với đối 
chứng dương (được khuếch đại từ 
pCAMBIA3301-cry1Ab của E. coli), phù hợp 
với trình tự mục tiêu là 559 bp (hình 3). Trong 
khi đó ở dòng A. tumefaciens biến nạp 
pCRY1B-1Ab còn có thêm băng khuếch đại 
trình tự đặc hiệu của đoạn DNA cry1B-cry1Ab 
giống với đối chứng dương (được khuếch đại từ 
pCRY1B-1Ab của E. coli) phù hợp với trình tự 
mục tiêu là khoảng 0,5 kb (hình 4). 
Hình 3. Kết quả kiểm tra bằng PCR sự hiện diện 
gen cry1Ab trên các plasmid của vi khuẩn 
Agrobacterium tumefaciens. 
L. Thang chuẩn DNA 1 kb; PC. Băng DNA 559 bp 
được khuếch đại từ vi khuẩn E. coli mang 
pCAMBIA3301-cry1Ab; 1. Băng DNA 559 bp được 
khuếch đại từ vi khuẩn A. tumefaciens biến nạp 
pCAMBIA3301-cry1Ab; 2. Băng DNA 559 bp được 
khuếch đại từ vi khuẩn A. tumefaciens biến nạp 
pCRY1B1Ab. 
Hình 4. Kết quả kiểm tra bằng PCR sự hiện diện 
của gen cry1B-cry1Ab trên plasmid của vi 
khuẩn A. tumefaciens bằng PCR. 
L. Thang chuẩn DNA 1 kb; PC. Băng DNA 0,5 Kb 
được khuếch đại từ vi khuẩn E. coli mang pCRY1B-
Ab; 1. Băng DNA 0,5 Kb được khuếch đại từ vi 
khuẩn A. tumefaciens biến nạp pCRY1B-1Ab. 
Như vậy, dòng vi khuẩn A. tumefaciens EHA 
105 biến nạp plasmid pCAMBIA3301-cry1Ab 
và dòng vi khuẩn A. tumefaciens EHA 105 biến 
nạp plasmid pCRY1B-1Ab đã được thực hiện 
thành công và có thể dùng để chuyển gen vào 
thực vật. 
Khảo sát ảnh hưởng của 2,4-D lên quá trình 
tạo mô sẹo của mô lá 
 Mô lá non mía được nuôi cấy trên môi 
trường tạo mô sẹo có bổ sung chất điều hòa sinh 
trưởng 2,4-D ở các nồng độ khác nhau. Mô sẹo 
bắt đầu hình thành sau 12 ngày ở các mép mô. 
Mô sẹo của giống Suphanbury 7 mềm và ướt 
hơn ở giai đoạn đầu, màu sắc khối mô vàng nhạt 
hơn so với giống VN84 4137 (hình 5). Sau 28 
ngày, tỉ lệ mô sẹo hình thành khác biệt rõ rệt 
nhất giữa các công thức. Công thức với nồng độ 
2,4-D 3 mg/l cho tỉ lệ mẫu tạo mô sẹo cao nhất 
ở giống VN84 4137 và 2,4-D 2 mg/l ở giống 
Suphanbury 7 (bảng 1). Tiếp tục nuôi cấy 
khoảng 1,5 tháng, mô sẹo phát triển thành các 
khối mô chắc, có bề mặt căng láng (hình 6). 
500 bp 
 L PC H2O 1 
559 bp 
 L PC H2O 1 
2 
TẠP CHÍ SINH HỌC, 2012, 34(3SE): 170-179 
174 
Bảng 1. Kết quả tạo mô sẹo của giống VN84 4137 và giống Suphanbury 7 trên môi trường MS có 
bổ sung nồng độ 2,4-D khác nhau 
Công thức 
thí nghiệm 2,4-D (mg/l) 
Tỷ lệ mẫu hình thành mô sẹo 
ở giống VN84 4137 (%) 
Tỷ lệ mẫu hình thành mô sẹo ở 
giống Suphanbury 7 (%) 
1 0 0 a 0 a 
2 1 40 b 76,66 bd 
3 2 76,67 c 96,67 c 
4 3 93,33 d 80 bd 
5 4 63,33 e 66,67 bde 
Các giá trị trung bình không theo cùng nhóm có mẫu chữ giống nhau có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê ở 
mức p = 0,01 dựa theo kiểm định thống kê LSD. 
Giống VN84 4137 Giống Suphanbury 7 
Hình 6. Mô sẹo phát triển hình thành 
các khối tế bào có khả năng tái sinh Hình 5. Khối mô sẹo phát sinh từ mô lá non mía sau 
khoảng 20 ngày nuôi cấy 
Các khối mô này được mang đi tái sinh trên 
môi trường MS có bổ sung các tổ hợp chất điều 
hòa sinh trưởng BAP và NAA khác nhau. Sau 1 
tuần, chồi có dấu hiệu hình thành. Số liệu được 
lấy ở các công thức đạt tỷ lệ tạo chồi tuyệt đối 
sau 21 ngày. 
Kết quả kiểm tra ở ngày 21 cho thấy, ở
công thức gồm tổ hợp NAA 1 mg/l và BAP 2 
mg/l có 100% mẫu tạo chồi ở cả hai giống mía, 
số lượng chồi trên mẫu nhiều, chồi có hình dạng 
bình thường. Các công thức khác cũng hình 
thành chồi nhưng chậm hơn, số lượng ít hơn và 
các chồi có hình dạng không đồng đều trên cùng 
khối mô hoặc dị dạng (bảng 2, hình 7). 
Bảng 2. Kết quả tái sinh chồi của giống mía VN84 4137 và giống Suphanbury 7 trên môi trường 
MS có bổ sung các tổ hợp chất điều hòa sinh trưởng BAP và NAA khác nhau 
Công 
thức 
TN 
BAP 
(mg/l) 
NAA 
(mg/l) 
Tỷ lệ mô sẹo hình thành chồi 
trên một nghiệm thức ở giống 
VN84 4137 (%) 
Tỷ lệ mô sẹo hình thành chồi trên 
một nghiệm thức ở giống 
Suphanbury 7 (%) 
1 0 0 13,33 a 0 a 
2 1 0,2 80,00 cd 60,00 c 
3 1 0,5 86,67 de 73,33 cd 
4 1 1 53,33 b 40,00 b 
5 2 0,2 80,00 cd 80,00 d 
6 2 0,5 66,67 bc 86,67 de 
7 2 1 100 e 100 e 
Các giá trị trung bình không theo cùng nhóm có mẫu chữ giống nhau có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê ở 
mức p = 0,01 dựa theo kiểm định thống kê Duncan. 
Phan Tuong Loc et al. 
175 
VN84 4137 Suphanbury 7 
Hình 7. Chồi giống VN84 4137 và Suphanbury 7 hình thành từ mô sẹo 
trên môi trường có các tổ hợp chất điều hòa sinh trưởng BAP 2 mg/l và NAA 1 mg/l 
Nghiên cứu ảnh hưởng của PPT lên khả năng 
phát triển mô sẹo, cây con in vitro 
Mô sẹo sau một tháng nuôi cấy của cả hai 
giống mía VN84 4137 và Suphanbury 7 được 
chuyển sang môi trường có bổ sung PPT ở các 
nồng khác nhau. Từ nồng độ 1 mg/l các khối 
mô sẹo bắt đầu chuyển sang màu vàng đậm hơn 
do tích tụ ammonia sau 2 tuần. Ở nồng độ 3 
mg/l tất cả các mô sẹo hóa nâu đen và chết ở cả 
hai giống mía sau một tháng, trong khi ở các 
nồng độ cao hơn thời gian chết trong khoảng 1-
2 tuần (hình 8). 
Các cây mía con in vitro của cả hai giống 
mía VN84 4137 và Suphanbury 7 được nuôi 
cấy trên môi trường MS có bổ sung PPT ở các 
nồng độ khác nhau như trên. Sau 10 ngày, ở 
nồng độ PPT từ 3 mg/l, các cây con đều vàng lá 
và chết dần (hình 9). 
VN84 4137 Suphanbury 7 
Hình 8. Ảnh hưởng của PPT ở nồng độ 3 mg/l gây chết mô sẹo 
PPT 2 mg/l PPT 3 mg/l 
Hình 9. Ảnh hưởng của PPT ở các nồng độ khác nhau 
đối với sự phát triển của cây mía con VN84 4137 in vitro 
TẠP CHÍ SINH HỌC, 2012, 34(3SE): 170-179 
176 
Bước đầu chuyển gen mô sẹo mía thông qua 
vi khuẩn Agrobacterium tumefaciens 
Mô sẹo mía sau 1 tháng nuôi cấy trên môi 
trường có 2,4-D ở 3 mg/l cho giống VN84 4137 
và 2 mg/l cho giống Suphanbury 7 có hình thái 
đồng nhất sẽ được xử lý chuyển gen với hai 
dòng vi khuẩn A.tumefaciens mang plamid 
pCAMBIA3301-cry1Ab và pCRY1B-1Ab. Các 
mô sẹo được tiếp tục nuôi cấy chọn lọc trên môi 
trường tạo mô sẹo có bổ sung PPT 3 mg/l. Sau 2
tuần chuyển gen, nhuộm sơ bộ một số cụm mô 
chuyển gen với plasmid pCAMBIA3301-
cry1Ab trong dung dịch X-Gluc thu được các 
mô có màu xanh dương đậm đặc trưng, có thể 
giả định các mô này đã được chuyển gen và có 
biểu hiện GUS (hình 10). Sau 4 tuần hầu hết các 
mô sẹo nâu hóa và chết, một số cụm mô nhỏ có 
khả năng sống trên PPT ở nồng độ 3 mg/l tiếp 
tục phát triển mô mới. Số lượng mô kháng được 
PPT 3 mg/l khoảng từ 2-4% mẫu chuyển gen 
(bảng 3, hình 11). 
VN84 4137 Suphanbury 7 
Hình 10. Mô sẹo chuyển gen plasmid pCAMBIA3301-cry1Ab biểu hiện 
gen gus khi nhuộm trong dung dịch X-Gluc 
Giống VN84 4137 pCAMBIA3301-cry1Ab Giống Suphanbury 7 pCAMBIA3301-cry1Ab 
Giống Suphanbury 7 pCRY1B-1Ab Giống VN84 4137 pCRY1B-1Ab 
Hình 11. Mô sẹo chuyển gen được chọn lọc trên môi trường tạo mô sẹo 
Phan Tuong Loc et al. 
177 
Bảng 3. Tỷ lệ mô sẹo phát triển trên môi trường chọn lọc PPT 3 mg/l sau 4 tuần chuyển gen 
 pCAMBIA3301-cry1Ab pCRY1B-1Ab 
Giống VN84 4137 2% 3% 
Giống Suphanbury 7 4% 3% 
Thảo luận 
Suphanbury 7 và VN84 4137 là hai giống 
mía có năng suất và hàm lượng đường cao, CCS 
trên 11% đang được trồng nhiều trong các vùng 
nguyên liệu mía. Việc có thể thích hợp nuôi cấy 
in vitro, làm cơ sở cho các ứng dụng công nghệ 
sinh học đối với hai giống mía này, mang ý 
nghĩa thực tiễn cao. 
Mô lá non tạo mô sẹo 93,33-96,67% trên 
môi trường có bổ sung 2,4-D ở nồng độ 2-3 
mg/l tương tự với nghiên cứu của một số tác giả 
trước đây [2, 19, 23], các mẫu mô sẹo tái sinh 
chồi đạt tỉ lệ 100% trên môi trường có bổ sung 
BAP 2 mg/l và NAA 1 mg/l là các điều kiện 
thuận lợi để ứng dụng chuyển gen. 
Mô sẹo và cây mía con khá nhạy cảm với 
PPT, là một chất chọn lọc mạnh, bị ức chế sinh 
trưởng và chết ở nồng độ 3 mg/l, Điều này giúp 
khả năng chọn lọc cây thuần cao, tuy nhiên, sẽ 
khó nhân mô và tái sinh cây trong quá trình 
chọn lọc. 
Các dòng Agrobacterium tumefaciens sau 
khi được biến nạp plasmid pCAMBIA3301-
cry1Ab và pCRY1B-1Ab được dùng để chuyển 
gen vào hai giống mía. Kết quả bước đầu nhận 
được các mô sẹo biểu hiện GUS ở hai giống mía 
chuyển gen với plasmid pCAMBIA3301-
cry1Ab và các mô sẹo chuyển gen từ cả hai 
plasmid pCAMBIA3301-cry1Ab và pCRY1B-
1Ab có khả năng chống chịu và tiếp tục phát 
triển trên môi trường có bổ sung PPT 3 mg/l, 
điều này cho thấy, biến nạp gen từ 
Agrobacterium vào mô sẹo mía đã được thực 
hiện. Các mô sẹo chuyển gen sẽ được tiếp tục 
chọn lọc và cho tái sinh thành cây hoàn chỉnh. 
KẾT LUẬN 
Tạo được hai chủng Agrobacterium 
tumefaciens dùng để chuyển gen mía, gồm 
chủng chứa plasmid pCRY1B-1Ab và chủng 
chứa plasmid pCAMBIA3301-cry1Ab. 
Xác định được nồng độ 2,4-D thích hợp
cảm ứng tạo mô sẹo ở giống mía VN84 4137 là 
3 mg/l, Suphanbury 7 là 2 mg/l. Tổ hợp chất 
điều hòa sinh trưởng cho tỉ lệ tái sinh chồi 
100% từ mô sẹo ở hai giống mía VN84 4137 và 
Suphanbury 7 cao nhất là BAP 2 mg/l, NAA 1 
mg/l. 
Xác định được nồng độ PPT gây chết mô 
sẹo và cây con có thể dùng làm nồng độ bắt đầu 
chọn lọc các đối tượng chuyển gen trong điều 
kiện in vitro là 3 mg/l. 
Bước đầu thu được 2-4% mô sẹo chuyển 
gen giả định có biểu hiện gen gus và phát triển 
tốt trên môi trường chọn lọc với PPT 3 mg/l. 
Các mô chuyển gen giả định sẽ được tiếp 
tục chọn lọc trên môi trường có bổ sung PPT ở 
nồng độ cao hơn (5 mg/l) để chọn lọc mô và tái 
sinh cây thuần. Cây chuyển gen sẽ được phân 
tích bằng các kỹ thuật sinh học phân tử để xác 
định đặc điểm di truyền và biểu hiện gen. 
Lời cảm ơn: Các tác giả xin chân thành cảm ơn 
Bộ Khoa học và Công nghệ, Viện Khoa học và 
Công nghệ Việt Nam đã hỗ trợ về kinh phí cho 
công trình này. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Arvinth S., Selvakesavan R. K., 
Subramonian N., Premachandran M. N., 
2009. Transmission and expression of 
transgenes in progeny of sugarcane clones 
with cry1Ab and aprotinin genes, Sug Tech, 
11(3): 290-295. 
2. Arvinth S., Arun S., Selvakesavan R. K., 
Srikanth J., Mukunthan N., Ananda Kumar 
P., Premachandran M. N., Subramonian N., 
2010. Genetic transformation and 
pyramiding of aprotinin-expressing 
sugarcane with cry1Ab for shoot borer 
(Chilo infuscatellus) resistance, Plant Cell 
Rep., 29: 383-395. 
3. Arencibia A. D., Vaquez R. I., Prieto D., 
Tellez P., Carmona E. R., Coego A., 
Hernandez L., de La Riva G. A., Housein G. 
TẠP CHÍ SINH HỌC, 2012, 34(3SE): 170-179 
178 
S., 1997. Transgenic sugarcane plants 
resistant to stem borer attack. Mol. Breed, 3: 
247-255. 
4. Bano-Maqbool S., Riazuddin S., Loc N. T., 
Gatehouse A. M. R., Gatehouse J. A., 
Christou P., 2001. Expression of multiple 
insecticidal genes confers broad resistance 
against a range of different rice pests. Mol. 
Breed, 7: 85-93. 
5. Bohorova N., Frutos R., Royer M., Estanol 
P., Pacheco M., Rascon Q., Mclean S., 
Hoisington D., 2001. Novel synthetic 
Bacillus thuringiensis cry1B gene and the 
cry1B-cry1Ab translational fusion confer 
resistance to southwestern corn borer, 
sugarcane borer and fall armyworm in 
transgenic tropical maize. Theor. Appl. 
Genet., 103: 817-826. 
6. Braga D. P. V., Arrigoni E. D. P., Silvia-
Filho M. C., Ulian E. C., 2003. Expression 
of the Cry1Ab protein in genetically 
modified sugarcane for the control of 
Diatraea saccharalis (Lepidoptera: 
Crambidae). J. New Seeds, 5: 209-222. 
7. Casali N., Preston A., 2003. Methods in 
molecular Biology. E.coli plasmid vector. 
Methods and applications, Humana Press, 
235: 316. 
8. Chassy B.M. and Flickinger J.L., 1987. 
Transformation of Lacobacillus casei by 
electroporation. FEMS Microbiol Lett, 44: 
173-177. 
9. Christou P., Capell T., Kohli A., Gatehouse 
J. A., Gatehouse A. M. R., 2006. Recent 
developments and future prospects in insect 
pest control in transgenic crops. TRENDS 
in Plant Science, 11(6): 302-308. 
10. Cohen S. N., Chang A. C. Y., Hsu L., 1972. 
Nonchromosomal antibiotic resistance in 
bacteria: genetic transformation of 
Escherichia coli by R-factor DNA. Proc. 
Natl. Acad. Sci. USA, 69: 2110-2114. 
11. Dagert M., Erlich S. D., 1979. Prolonged 
incubation in calcium chloride improves the 
competence of Escherichia coli cells. Gene, 
6: 23-28. 
12. de Maagd R. A., Bravo A., Crickmore N.,
2001. How Bacillus thuringiensis has 
evolved specific toxins to colonize the 
insect world. TRENDS in Genetics, 17(4): 
193-199. 
13. Enriquez-Obregon G. A., 1998. Herbicide-
resistant sugarcane (Saccharum offcinarum 
L.) plants by Agrobacterium-mediated 
transformation. Planta, 206: 20-27. 
14. Fauconnier R., 1993. Sugar cane, 
Macmillan Press Ltd, London, UK. 
15. Fiedler S., Wirth R., 1988. Transformation 
of bacteria with plasmid DNA by 
electroporation. Anal. Biochem., 170: 38-
44. 
16. Hanahan D., 1983. Studies on the 
transformation of Escherichia coli with 
plasmids. J. Mol. Biol., 166: 557-580. 
17. Joyce P., Kuwahata M., Turner N., 
Lakshmanan P., 2010. Selection system and 
co-cultivation medium are important 
determinants of Agrobacterium-mediated 
transformation of sugarcane. Plant Cell 
Rep., 29: 173-183. 
18. Kim S., Kim C., Li W., Kim T., Li Y., Zaidi 
M. A., Altosaar I., 2008. Inheritance and 
field performance of transgenic Korean Bt 
rice lines resistant to rice yellow stem borer. 
Euphytica, 164: 829-839. 
19. Rashid H., Khan S. A., Zia M., Chaudhary 
M. F., Hanif Z., Chaudary Z., 2009. Callus 
induction and regeneration in elite 
sugarcane cultivar hsf-240. Pak. J. Bot., 
41(4): 1645-1649. 
20. Schnepf H. E., Crickmore N., Van Rie N., 
Dereclus J., Baum J., Feitelson J., Zeigler 
D.R., Dean D. H., 1998. Bacillus 
thuringiensis and its pesticidal crystal 
proteins. Microbiol. Mol. Biol. Rev., 62: 
775-806. 
21. Valderrama A. M., Velasquez N., Rodriguez 
E., Zapata A., Zaidi M. A., Altosaar I., 
Arango R., 2007. Resistance to Tecia 
solanivora (Lepidoptera : Gelechiidae) in 
three transgenic Andean varieties of potato 
expressing Bacillus thuringiensis Cry1Ac 
protein. J. Econ. Entomol., 100: 172-179. 
Phan Tuong Loc et al. 
179 
22. Weng L. X., Deng H., Xu J. L., Wang L. H., 
Jiang Z., Zhang H. B., Li Q., Zhang L. H., 
2006. Regeneration of sugarcane elite 
breeding lines and engineering of stem borer 
resistance. Pest Manage Sci., 62:178-187. 
23. Xu L. P., Que Y. X., Xu J. S., Fang S. R., 
Zhang M. Q., Chen Y. Q., Chen R. K., 
2008. Establishment of genetic 
transformation system and obtaining
transgenic sugarcane (var. badila) 
transformed with RS gene. Sugar Tech, 
10(2): 128-132. 
24. 
04/Phong-tru-sau-benh-hai-mia-2150229/. 
25. Http: //www.thesaigontimes.vn/Home/ 
kinhdoanh/dautu/45285/10-nam-i-ach-1-
trieu-tan-duong.html.
PRELIMINARY TRANSFORMATION OF Saccharum officinarum L. 
WITH Bt GENE 
Phan Tuong Loc, Hoang Van Duong, Mai Truong, Le Tan Duc, Tran Thi Ngoc Ha, 
Van Dac Thanh, Pham Duc Tri, Nguyen Thi Thanh, Nguyen Huu Ho 
Institute of Tropcial Biology, VAST 
SUMMARY 
Borer is one of the major pests of sugarcane that can cause a loss of crop yield. Spraying pesticides for 
the control of borer faces obstacles because the pest lives inside sugarcane stem and sugarcanes with sharp 
leaves are planted at high density in fields. Transformation of two sugarcane varieties, VN 84 4137 and 
Suphabury 7, with synthetic Bt genes, cry1Ab and hybrid cry1B-cry1Ab, aims to provide effective resistance 
against pests, mainly borer. Two strains of Agrobacterium tumefaciens were transformed with plasmids 
containing cry1Ab gene or cry1B-cry1Ab gene for plant transformation. Sugarcanes were investigated in vitro 
conditions of cultivation, which indicated that the highest calli formation from the young leaf rolls was 
obtained on the medium with 3 mg/l 2,4-D for VN84 4137 at 93.33% and 2 mg/l 2,4-D for Suphanbury 7 at 
96.67%. The highest number of calli forming shoots was achieved on the medium with the combination of 2 
mg/l BAP and 1 mg/l NAA at 100% for two varieties. Preliminary Agrobacterium-mediated transformation of 
sugarcane was obtained with calli expressing GUS and/or resistant to phosphinothricin at 3 mg/l, which was 
the lethal threshold for wild-type callus and in vitro young plants. 
Keywords: Agrobacterium tumefaciens, Bt, sugarcane, gen-transformation. 
Ngày nhận bài: 21-6-2012