Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
 33
BIỂU HIỆN DA CỦA BỆNH NHÂN CÓ RỐI LOẠN CHỨC NĂNG 
TUYẾN GIÁP TẠI BỆNH VIỆN ĐẠI HỌC Y DƯỢC THÀNH PHỐ 
HỒ CHÍ MINH 
Lê Thị Loan*, Lê Thái Vân Thanh** 
TÓM TẮT 
Mở đầu: Bệnh rối loạn chức năng tuyến giáp là bệnh có biểu hiện lâm sàng đa dạng, trong đó có biểu hiện 
trên da, là dấu hiệu gợi ý bệnh nhân bị bệnh lý về tuyến giáp và ngược lại. Mục đích nghiên cứu về những biểu 
hiện da trên bệnh nhân có rối loạn chức năng tuyến giáp cũng như mối tương quan giữa biểu hiện da và mức độ 
rối loạn chức năng tuyến giáp nhằm giúp bác sĩ lâm sàng có định hướng chẩn đoán bệnh lý rối loạn chức năng 
tuyến giáp dựa vào biểu hiện da. Vì vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu biểu hiện da của bệnh nhân có rối loạn 
chức năng tuyến giáp. 
Phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 108 bệnh nhân có rối loạn chức năng tuyến 
giáp, trong đó có 93 trường hợp cường giáp và 15 trường hợp suy giáp. Không nhận vào những bệnh nhân đã và 
đang điều trị bệnh rối loạn chức năng tuyến giáp hoặc sử dụng thuốc làm rối loạn chức năng tuyến giáp. 
Kết quả: Bệnh cường giáp có biểu hiện da ẩm, lòng bàn tay đỏ, tổn thương móng, phù niêm trước xương 
chày, sạm da, rụng tóc, da khô. Bệnh suy giáp có da khô, tổn thương móng, da bị vàng, giảm lông 1/3 ngoài lông 
mày, dày sừng lòng bàn tay, rụng tóc, phù niêm mặt, sạm da. Có mối tương quan giữa số lượng loại biểu hiện da 
trên 1 bệnh nhân và nồng độ TSH như sau tương quan nghịch ở bệnh nhân cường giáp và tương quan thuận ở 
bệnh nhân suy giáp. 
Kết luận: Số lượng loại biểu hiện da trên một bệnh nhân có tương quan với nồng độ TSH. 
Từ khóa: Rối loạn chức năng tuyến giáp, biểu hiện da, nồng độ TSH [TSH], cường giáp, suy giáp. 
ABSTRACT 
DERMATOLOGIC MANIFESTATIONS IN PATIENTS WITH THYROID DYSFUNCTION 
IN UNIVERSITY MEDICAL CENTER AT HO CHI MINH CITY 
Le Thi Loan, Le Thai Van Thanh 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 22 - No 1- 2018: 33 – 38 
Background: Thyroid dysfunction is a disease which has a variety of clinical symptoms and signs, including 
cutaneous manifestations that suggest thyroid disease and vice versa. The purpose of this study was to investigate 
skin findings in patients with thyroid disorders as well as the correlation between dermatologic signs and severity 
of thyroid dysfunction to help clinical practitioners can be oriented to diagnose thyroid dysfunction based on skin 
findings. So that we have conducted a research to investigate dermatologic manifestations in patients with thyroid 
dysfunction. 
Study methods: A cross-sectional descriptive study of 108 patients with thyroid dysfunction disease, 
including 93 cases with hyperthyroidism and 15 cases with hypothyroidism. Do not admitted to patients who 
have been and are being treated for thyroid disorders or who use drugs that change the function of thyroid gland. 
Results: Hyperthyroidism (overactive thyroid) may present with hyperhidrosis (excessive sweating), palmar 
erythema (palmar redness), nail disorders (like nail thinning or brittle nail), pretibial myxedema (red and swollen 
* Học viên Cao học - Bộ môn Da Liễu – ĐHYD TP.HCM ** Bộ môn Da Liễu – ĐHYD TP.HCM 
Tác giả liên lạc: TS. BS Lê Thái Vân Thanh ĐT: 0903774310 Email: 
[email protected] 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 1 * 2018
 34
skin in anterior of tibia), melisma, alopecia (hair loss), xerodermatic (neurosis cutis, abnormal dry skin). 
Hypothyroidism (underactive thyroid) often has xerodermatic, nail disorders, jaundice (yellow skin), loss of 
outside 1/3 of eyebrows, palmoplantar hyperkeratosis (thickened skin on the palms and soles), alopecia (hair loss), 
myxedema (soft tissue swelling), and melisma. There is a correlation between the number of skin manifestations in 
one patient and TSH status: inversely correlated with hyperthyroidism and positively correlated with 
hypothyroidism. 
Conclusion: The number of dermatologic manifestations in one patient is correlated with TSH 
concentration. 
Keywords: thyroid dysfunction, dermatologic manifestations, TSH concentration [TSH], hyperthyroidism, 
hypothyroidism 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Bệnh lý tuyến giáp thường xảy ra ở tất cả 
quốc gia trên thế giới. Cường giáp và suy giáp là 
2 bệnh lý rối loạn chức năng tuyến giáp khá phổ 
biến. Tỉ lệ mắc bệnh trên thế giới của cường giáp 
là 1,2% và suy giáp là 4,6%(11,1). 
Bệnh rối loạn chức năng tuyến giáp biểu 
hiện lâm sàng đa dạng, không chỉ trên các cơ 
quan nội tiết mà còn tác động nặng nề lên các cơ 
quan toàn thân khác như: tim mạch, thần kinh, 
da Có nhiều nghiên cứu trên thế giới ghi nhận 
có mối liên quan giữa bệnh lý rối loạn chức năng 
tuyến giáp với các biểu hiện da trên lâm sàng 
như: da khô, phù niêm, tóc rụng, giòn dễ gãy, 
móng gồ ghề, tăng sắc tố ở các nếp, giãn mao 
mạch biểu hiện mặt đỏ và hồng ban lòng bàn 
tay (4,6). Các biểu hiện trên da nhiều khi là dấu 
hiệu gợi ý cho bác sĩ biết bệnh nhân bị bệnh lý về 
tuyến giáp và ngược lại. Có nhiều công trình 
nghiên cứu ở nước ngoài về mối liên hệ giữa 
bệnh lý tuyến giáp và biểu hiện da nhưng đa số 
chỉ nghiên cứu về các biểu hiện da riêng lẻ, chưa 
khái quát rõ ràng giữa mối liên hệ với các biểu 
hiện da trong cùng một nghiên cứu, trong khi đó 
tại Việt Nam vẫn chưa có nghiên cứu nào tương 
tự (9,8). 
Vì vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu biểu 
hiện da của bệnh nhân có rối loạn chức năng 
tuyến giáp tại bệnh viện Đại Học Y Dược Thành 
Phố Hồ Chí Minh, để hiểu rõ hơn về biểu hiện 
da của bệnh nhân có rối loạn chức năng tuyến 
giáp, góp phần trong việc chẩn đoán và điều trị 
những bệnh nhân có rối loạn chức năng tuyến 
giáp khi bệnh nhân có biểu hiện da liên quan 
hoặc giải quyết các vấn đề về da do rối loạn chức 
năng tuyến giáp gây ra nhằm nâng cao chất 
lượng cuộc sống của bệnh nhân. 
Mục tiêu nghiên cứu 
1. Xác định tỷ lệ các loại biểu hiện da trên 
bệnh nhân có rối loạn chức năng tuyến giáp. 
2. So sánh sự khác biệt biểu hiện da của bệnh 
cường giáp, suy giáp và khảo sát mối liên quan 
giữa biểu hiện da với yếu tố dịch tễ trong bệnh 
nhân có rối loạn chức năng tuyến giáp. 
3. Khảo sát mối liên quan biểu hiện da và 
tình trạng rối loạn chức năng tuyến giáp. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Thiết kế nghiên cứu 
Nghiên cứu mô tả cắt ngang. 
Đối tượng nghiên cứu 
Tất cả bệnh nhân có rối loạn chức năng 
tuyến giáp thỏa tiêu chí chọn mẫu đến khám và 
điều trị tại bệnh viện Đại Học Y Dược Thành 
Phố Hồ Chí Minh. 
Tiêu chí chọn vào 
Bệnh nhân được chẩn đoán rối loạn chức 
năng tuyến giáp. 
Đồng ý tham gia nghiên cứu. 
Tiêu chí loại ra 
Bệnh nhân đang sử dụng các thuốc làm thay 
đổi nồng độ hormone tuyến giáp: amidarone, 
corticoid, heparin, phenytoin, furosemide liều 
cao, dopamine, estrogen. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
 35
Bệnh nhân đã hoặc đang điều trị bệnh 
RLCNTG. 
Phương pháp nghiên cứu 
Công thức tính cỡ mẫu 
Cỡ mẫu được tính theo công thức: 
2
2
2
1
)1(
d
pp
Zn
Trong đó: 
 n: cỡ mẫu nghiên cứu cần có (96) 
 Z1- : hệ số tin cậy, với độ tin cậy 95% thì Z1- 
 xác suất sai lầm loại 1 ( 
 P: chỉ số mong muốn của tỷ lệ (Theo nghiên cứu Neerja 
Puri p = 0,5) 
 d: độ chính xác (d=0.1). 
Thông tin khảo sát 
Nồng độ TSH (định lượng), nồng độ FT4 
(định lượng), số lượng loại biểu hiện da trên một 
bệnh nhân (định lượng), lòng bàn tay đỏ (định 
tính), da khô (định tính), da ẩm ướt (định tính), 
rụng tóc (định tính), phù niêm (định tính), da bị 
vàng (định tính), dày sừng lòng bàn tay (định 
tính), giảm lông 1/3 ngoài lông mày (định tính), 
tổn thương móng (định tính), sạm da (định tính), 
bệnh da kèm theo (định tính), tuổi (định lượng), 
giới tính (nhị giá), nơi sinh sống (định tính), thể 
bệnh rối loạn chức năng tuyến giáp (định tính), 
phân độ nặng bệnh rối loạn chức năng tuyến 
giáp (định tính). 
Phân tích số liệu 
Số liệu thu thập được nhập bằng phần mềm 
Microsoft Excel 2010 và xử lý bằng phần mềm 
SPSS 22.0. Sử dụng phương pháp phân tích 
thống kê mô tả, kiểm định Shapiro Wilk, phép 
kiểm Chi bình phương và Fisher, phân tích hồi 
qui/ tương quan, có ý nghĩa thống kê khi p < 0,05 
với độ tin cậy 95%. 
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
Từ tháng 10/2016 đến tháng 4/2017 có 108 
bệnh nhân tham gia nghiên cứu bao gồm 93 
bệnh nhân cường giáp và 15 bệnh nhân suy giáp, 
chúng tôi thu được kết quả sau đây 
Tỉ lệ biểu hiện da của bệnh nhân có rối loạn 
chức năng tuyến giáp 
Bảng 1: Tỷ lệ biểu hiện da của bệnh nhân có rối 
loạn chức năng tuyến giáp 
Biểu hiện da Cường giáp 
(n=93) (n,%) 
Suy giáp 
(n=15) (n,%) 
Phù niêm 34 (36,56) 4 (26,67) 
Da khô 11 (11,83) 15 (100) 
Da bị vàng 0 8 (53,33) 
Giảm lông 1/3 ngoài lông mày 0 7 (46,67) 
Dày sừng LBT 0 6 (40) 
Da ẩm ướt 65 (69,89) 0 
LBT đỏ 57 (61,29) 0 
Rụng tóc 26 (27,96) 5 (33,33) 
Sạm da 32 (34,41) 1 (6,67) 
Tổn thương móng 54 (58,06) 8 (53,33) 
Bệnh da kèm theo 16 (17,20) 4 (26,67) 
Trong bệnh cường giáp: biểu hiện da ẩm ướt 
chiếm tỉ lệ cao nhất là 69,89%. Còn bệnh suy 
giáp: biểu hiện da khô chiếm tỉ lệ cao nhất là 
100%. 
Tỉ lệ vị trí phù niêm 
Phù niêm trước xương chày chiếm 36,56% 
trong cường giáp còn phù niêm mặt chiếm 
26,67% trong suy giáp. 
Tỉ lệ vị trí sạm da 
Trong bệnh rối loạn chức năng tuyến giáp thì 
sạm da toàn thân chiếm đa số, lần lượt là cường 
giáp chiếm 20,43% còn suy giáp là 6,67%. 
Tỉ lệ loại tổn thương móng 
Trong bệnh cường giáp: tỉ lệ móng lõm gồ 
ghề chiếm tỉ lệ cao nhất là 38,71%, còn bệnh suy 
giáp: tổn thương móng lõm gồ ghề chiếm tỉ lệ 
cao nhất là 46,67%. 
Tỉ lệ bệnh da kèm theo 
Trong bệnh cường giáp: bệnh mày đay 
chiếm tỉ lệ cao nhất là 7,53%, còn trong bệnh suy 
giáp: bệnh viêm da cơ địa dị ứng chiếm tỉ lệ cao 
nhất là 20%. 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 1 * 2018
 36
Khảo sát số lượng loại biểu hiện da trên 1 bệnh 
nhân 
Bảng 2: Số lượng loại biểu hiện da trên 1 bệnh 
nhân 
 Trung bình số biểu hiện da 
(TB ± ĐLC) 
Cường giáp 3,02 ± 0,15 
Suy giáp 3,6 ± 0,56 
Trong bệnh cường giáp: trung bình số lượng 
biểu hiện da là 3,02 ± 0,15, còn bệnh suy giáp: 
trung bình số lượng biểu hiện da là 3,6 ± 0,56. 
Tỉ lệ nhóm số lượng loại biểu hiện da trên 1 
bệnh nhân 
Bảng 3: Tỷ lệ nhóm số lượng loại biểu hiện da trên 
1 bệnh nhân 
Nhóm số lượng loại biểu hiện 
da trên 1 bệnh nhân 
Cường giáp 
(%) 
Suy giáp (%) 
0 – 1 17,20 20 
2 – 3 38,71 33,33 
4 – 5 43,01 26,67 
≥ 6 1,08 20 
Trong cường giáp: nhóm có 4 – 5 biểu hiện 
da chiếm tỉ lệ cao nhất là 43,01%, còn suy giáp: 
nhóm có 2 – 3 biểu hiện da chiếm tỉ lệ cao nhất là 
33,33%. 
Sự khác biệt biểu hiện da của bệnh cường giáp, suy giáp 
Bảng 4: Sự khác biệt biểu hiện da của bệnh cường giáp, suy giáp 
Biểu hiện da 
Bệnh rối loạn chức năng tuyến giáp (n=108) 
Cường giáp (n=93) 
(n,%) 
Suy giáp (n=15) 
(n,%) 
p 
Da khô 11 (11,83) 15 (100) < 0,001 
LBT đỏ 57(61,29) 0 < 0,001 
Da ẩm ướt 65 (69,89) 0 < 0,001 
Da bị vàng 0 8 (53,33) < 0,001 
Giảm lông 1/3 ngoài lông mày 0 7 (46,67) < 0,001 
Dày sừng LBT 0 6 (40) < 0,001 
Phù niêm 
Trước xương chày 34 (36,56) 0 0,003 
Phù mặt 0 4 (26,67) 0,0002 
Da vảy cá 0 2 (13,33) 0,018 
Biểu hiện da: da khô, lòng bàn tay đỏ, da ẩm 
ướt, da bị vàng, giảm lông 1/3 ngoài lông mày, 
dày sừng lòng bàn tay, phù niêm trước xương 
chày, phù niêm mặt, da vảy cá có liên quan đến 
bệnh rối loạn chức năng tuyến giáp. 
Mối liên quan giữa biểu hiện da và độ nặng của 
bệnh rối loạn chức năng tuyến giáp 
Biểu hiện da: dày sừng lòng bàn tay (P=0,01), 
giảm lông 1/3 ngoài lông mày (P=0,02) có liên 
quan đến mức độ nặng của bệnh suy giáp. 
Nhóm số lượng loại biểu hiện da trên 1 bệnh 
nhân (P=0,01) có liên quan đến nhóm nặng của 
bệnh rối loạn chức năng tuyến giáp. 
Mối tương quan giữa số lượng loại biểu hiện 
da trên 1 bệnh nhân và [TSH] trong cường giáp 
Tương quan giữa số lượng loại biểu hiện da 
trên 1 bệnh nhân và [TSH] trong cường giáp là 
tương quan nghịch, vừa (r=-0,368; p=0,003). 
Phương trình hồi qui tuyến tính: [TSH] = -
0,008 x số lượng loại biểu hiện da + 0,036. 
Mối tương quan giữa số lượng loại biểu hiện 
da trên 1 bệnh nhân và [TSH] trong suy giáp 
Tương quan giữa số lượng loại biểu hiện da 
trên 1 bệnh nhân và [TSH] trong SG là tương 
quan thuận, rất chặt chẽ (r=0,79; p=0,003). 
Phương trình hồi qui tuyến tính: [TSH] = 
9,421 x số lượng loại biểu hiện da + 2,801. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
 37
BÀN LUẬN 
Tỉ lệ biểu hiện da của bệnh nhân rối loạn chức 
năng tuyến giáp 
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi trong 
cường giáp: tỉ lệ phù niêm trước xương chày là 
36,56%, da ẩm ướt là 69,89%, lòng bàn tay đỏ là 
61,29% tương tự tỉ lệ trong nghiên cứu của 
Neerja Puri và cộng sự (tỉ lệ phù trước xương 
chày là 42,8%, da ẩm ướt là 64,3%, lòng bàn tay 
đỏ 57,1%). Còn biểu hiện rụng tóc lan tỏa không 
sẹo chiếm tỉ lệ 27,96%, sạm da 34,41% trong 
nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn nhiều so với 
nghiên cứu Neerja Puri (rụng tóc lan tỏa không 
sẹo chiếm tỉ lệ là 71,4%, sạm da là 50%). Tổn 
thương móng trong nghiên cứu này là 58,06% 
cao hơn nhiều so với nghiên cứu Neerja Puri (tỉ 
lệ tổn thương móng là 28,6%)(9). 
Biểu hiện da trong suy giáp của nghiên 
cứu chúng tôi: da khô chiếm tỉ lệ là 100%, da 
bị vàng chiếm tỉ lệ là 53,33%, rụng tóc lan tỏa 
chiếm tỉ lệ là 33,33%, các tỉ lệ này tương đồng 
với nghiên cứu của Neerja Puri (da khô, thô 
ráp chiếm tỉ lệ 100%, da bị vàng là 52,75%, 
rụng tóc lan tỏa là 33,3%). Còn biểu hiện da 
giảm lông 1/3 ngoài lông mày chiếm tỉ lệ là 
46,67%, dày sừng lòng bàn tay chiếm tỉ lệ là 
40%, cao hơn trong nghiên cứu của Neerja 
Puri (rụng 1/3 ngoài lông mày chiếm tỉ lệ là 
22,2%, dày sừng lòng bàn tay là 33,3%)(9). Biểu 
hiện phù niêm mặt chiếm tỉ lệ 26,67% cao hơn 
trong nghiên cứu của Neerja Puri (tỉ lệ là 12%), 
nhưng tương đương với tỉ lệ trong nghiên cứu 
Keen MA và cộng sự là 28,68%(4). Tổn thương 
móng chiếm tỉ lệ 53,33% cao hơn trong nghiên 
cứu Neerja Puri (tỉ lệ 38,9%)(9). 
Sự khác biệt biểu hiện da của bệnh cường giáp, 
suy giáp 
Biểu hiện da khô chiếm tỉ lệ trong suy giáp 
cao hơn cường giáp trong nghiên cứu của 
chúng tôi. Mối liên quan giữa da khô và suy 
giáp cũng đã được Richard L. Dobson và cộng 
sự nghiên cứu(6). 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, da ẩm ướt 
thường xảy ra trên bệnh cường giáp, tương đồng 
với nghiên cứu của Flávio Ramalho Romero và 
cộng sự, biểu hiện da ẩm ướt có liên quan đến 
bệnh cường giáp(10). 
Trong nghiên cứu biểu hiện da lòng bàn tay 
đỏ xuất hiện liên quan đến cường giáp. Để tìm 
mối liên quan này Weiss M và cộng sự thí 
nghiệm với máy laser Doppler và nội soi mao 
mạch ở móng. Kết quả đã cho thấy sự tăng lưu 
lượng máu phụ thuộc vào tình trạng của tuyến 
giáp(8). 
Trong nghiên cứu của chúng tôi biểu hiện 
rụng tóc, tổn thương móng có xuất hiện ở 2 
nhóm bệnh nhân cường giáp và suy giáp nhưng 
không có sự khác biệt giữa 2 nhóm. Còn giảm 
lông 1/3 ngoài lông mày có liên quan đến suy 
giáp. Hale và Ebling đã tiến hành nghiên cứu 
bằng cách tiêm T4 vào bụng của chuột, quan sát 
thấy có sự giảm cả 2 thời kỳ sinh trưởng của 
vòng phát triển lông (telogen và anagen). Thời 
gian mọc lại của lông bị ngắn lại 10%(2,3). 
Dày sừng lòng bàn tay có liên quan đến bệnh 
suy giáp trong nghiên cứu của chúng tôi. Mối 
liên quan này cũng thể hiện rõ trong nghiên cứu 
của Safer JD và cộng sự(13). 
Ở nghiên cứu của chúng tôi, biểu hiện da bị 
vàng có liên quan đến bệnh suy giáp. Theo 
Saadia Z và cộng sự tiến hành nghiên cứu trên 
150 người, trong đó có 60 người bị suy giáp và 90 
người chức năng tuyến giáp bình thường, kết 
quả tương đồng với nghiên cứu chúng tôi là 
nhóm suy giáp có tỉ lệ da bị vàng cao hơn(12). 
Trong nghiên cứu của chúng tôi phù niêm 
trước xương chày có liên quan đến cường giáp 
còn phù niêm mặt liên quan đến suy giáp. Theo 
Patil M và cộng sự đã ghi nhận trường hợp 1 
bệnh nhân Graves 38 tuổi có phù niêm trước 
xương chày(7). Còn trong nghiên cứu của Saadia 
Z và cộng sự thấy phù mặt xảy ra ở bệnh suy 
giáp(12). Như vậy nghiên cứu của chúng tôi cũng 
tương đồng với các nghiên cứu trên. 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 1 * 2018
 38
Mối tương quan giữa số lượng loại biểu hiện 
da trên 1 bệnh nhân và [TSH] trong cường giáp, 
suy giáp 
Trong nghiên cứu của chúng tôi tương quan 
giữa số lượng loại biểu hiện da trên 1 bệnh nhân 
cường giáp và [TSH] là tương quan nghịch, vừa 
có nghĩa là trên bệnh nhân cường giáp, thấy số 
lượng loại biểu hiện da tăng thì [TSH] thấp và 
ngược lại. Còn tương quan giữa số lượng loại 
biểu hiện da trên 1 bệnh nhân và [TSH] trong 
suy giáp là tương quan thuận, rất chặt chẽ nghĩa 
là số lượng loại biểu hiện da trên 1 bệnh nhân 
suy giáp tăng thì [TSH] tăng. Như vậy có sự liên 
kết rất chặt chẽ giữa số lượng biểu hiện da trên 1 
bệnh nhân và [TSH] trong bệnh rối loạn chức 
năng tuyến giáp. 
Có thể do nguyên nhân chủ yếu của cường 
giáp là rối loạn tự miễn dịch cơ quan đặc hiệu 
với sự xuất hiện của kháng thể kháng thụ thể 
tiếp nhận TSH. Kháng thể này có tác dụng kích 
thích tuyến giáp nên được gọi là kháng thể kích 
thích tuyến giáp- thyroid stimulating 
immunoglobulins (TSI) hay thyroid stimulating 
antibodies (TSAb), kháng thể này tác động như 
một chủ vận TSH làm tăng tổng hợp hormon 
giáp và làm tăng biểu hiện kháng nguyên tuyến 
giáp. Nguyên nhân của suy giáp chủ yếu là bệnh 
viêm giáp tự miễn liên quan đến tự kháng thể 
thụ thể TSH. Đa số bệnh nhân rối loạn chức 
năng tuyến giáp do cơ chế tự miễn dịch với thụ 
kháng thể [TSH]. Điều này có thể giải thích được 
có sự tương quan giữa số lượng loại biểu hiện da 
trên 1 bệnh nhân và [TSH](5). 
KẾT LUẬN 
Trong bệnh cường giáp biểu hiện da ẩm ướt 
có tỉ lệ cao nhất (69,89%), các biểu hiện da niêm 
thường gặp khác là lòng bàn tay đỏ, phù niêm 
trước xương chày; trung bình số lượng biểu hiện 
da là 3,02 ± 0,15. Trong bệnh suy giáp có tỉ lệ da 
khô cao nhất (100%), các biểu hiện da niêm 
thường gặp khác là giảm lông 1/3 ngoài lông 
mày và dày sừng lòng bàn tay (ở bệnh suy giáp 
nặng), da bị vàng, phù niêm mặt, da vảy cá; 
trung bình số lượng biểu hiện da là 3,6 ± 0,56. 
Bệnh nhân có 4 – 5 biểu hiện da chiếm tỉ lệ cao 
nhất trong rối loạn chức năng tuyến giáp trên 
lâm sàng. Số lượng loại biểu hiện da trên 1 bệnh 
nhân cường giáp tăng thì [TSH] giảm và ngược 
lại. Số lượng loại biểu hiện da trên 1 bệnh nhân 
suy giáp và [TSH] cùng tăng hoặc cùng giảm. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Garber JR, Cobin RH, Gharib H, Hennessey JV, Klein I, et 
al (2012), Clinical Practice Guidelines for Hypothyroidism in 
Adults: Cosponsored by the American Association of Clinical 
Endocrinologists and the American Thyroid Association, 
Endocrine practice, 18(6), 988 – 1012. 
2. Hanley K, et al (1997), “Epidermal steroid sulfatase and 
cholesterol sulfotransferase are regulated during late gestation 
in the fetal rat”, J Invest Dermatol, 10(8), 871. 
3. Hanley K, et al (1997), “Hypothyroidism delays fetal stratum 
corneum development in mice”, Pediatr Res, 4(2), 610. 
4. Keen MA, et al (2013), “A Clinical Study of the Cutaneous 
Manifestations of Hypothyroidism in Kashmir Valley”, Indian 
J Dermatol, 58(4), 326. 
5. Mai Thế Trạch (2003). Cường giáp. Nội tiết học đại cương, 
tr.145-162, nhà xuất bản y học, TP HCM. 
6. Means MA, et al (1963),” Cytological changes in the sweat 
gland in hypothyroidism”, JAMA, 18(6), 113. 
7. Patil MM, et al (2015), “Pretibial myxedema”, QJM, 108(12), 
985. 
8. Pazos-Moura CC, Moura EG, Breitenbach MM, Bouskela 
E, (1998),” Nailfold capillaroscopy in hypothyroidism: blood 
flow velocity during rest and postocclusive reactive 
hyperemia”, Angiology 4(9), 471. 
9. Puri N (2012), “A study on cutaneous manifestations of 
thyroid disease”, Indian J Dermatol, 57(3), 247-8. 
10. Romero FR, Haddad GR, Miot, HA et al (2016), “Palmar 
hyperhidrosis: clinical, pathophysiological, diagnostic and 
therapeutic aspects”, An Bras Dermatol, 91(6), 716–725. 
11. Ross DS, Burch HB, Cooper DS, Greenlee MC, et al (2016),” 
American Thyroid Association Guidelines for Diagnosis and 
Management of Hyperthyroidism and Other Causes of 
Thyrotoxicosis”, Thyroid, 26(10), 1343- 1421. 
12. Saadia Z., Alzolibani AA, Robaee AA, et al (2010), 
“Cutaneous Manifestations of Hypothyroidism amongst 
Gynecological consultations”, Int J Health Sci (Qassim). 2010 
Nov;4(2):168-77 
13. Safer JD, et al (2001), “Topical triiodothyronine stimulates 
epidermal proliferation, dermal thickening and hair growth in 
mice and rats”, Thyroid, 11(7), 717–724. 
Ngày nhận bài báo: 14/11/2017 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 17/11/2017 
Ngày bài báo được đăng: 28/02/2018