Tài liệu Biến động phúc lợi ở nông thôn Việt Nam, 2006 đến 2010: Báo cáo đầy đủ và các bài nghiên cứu và 
tóm tắt chính sách khác của chúng tôi có sẵn 
trên trang web của CIEM: www.ciem.org.vn/ 
Chúng tôi chân thành cảm ơn sự hỗ trợ tài 
chính từ Dự án Danida. 
Trang 1 Tóm tắt chính sách 03 của 2012 
 Tóm tắt chính sách này tóm lược 
ngắn gọn nghiên cứu sâu sử dụng 
số liệu của các cuộc Điều tra Tiếp 
cận Nguồn lực của Hộ gia đình 
Việt Nam (VARHS) trong giai đoạn 
2006-2010 để xem xét các thay 
đổi trong phúc lợi của hộ gia đình 
nông thôn ở 12 tỉnh của Việt Nam. 
 Các kết quả thể hiện sự cải thiện 
ấn tượng của ba tiêu chí về phúc 
lợi: tiêu dùng thực phẩm, thu 
nhập và tài sản của hộ. 
 Số liệu kinh tế vĩ mô cho thấy 
rằng kinh tế chung của Việt Nam 
đã tăng trưởng nhanh. Số liệu 
VARHS cho phép các tác giả tìm 
hiểu liệu tăng trưởng này có tác 
động đem lại lợi ích cho các vùng 
nông thôn hay không. 
 Số liệu cho thấy sự thay đổi lớn 
trong phát triển kinh tế: có những 
bước tiến khác nhau đáng kể giữa 
các tỉnh, ...
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 5 trang
5 trang | 
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 418 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Biến động phúc lợi ở nông thôn Việt Nam, 2006 đến 2010, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Báo cáo đầy đủ và các bài nghiên cứu và 
tóm tắt chính sách khác của chúng tôi có sẵn 
trên trang web của CIEM: www.ciem.org.vn/ 
Chúng tôi chân thành cảm ơn sự hỗ trợ tài 
chính từ Dự án Danida. 
Trang 1 Tóm tắt chính sách 03 của 2012 
 Tóm tắt chính sách này tóm lược 
ngắn gọn nghiên cứu sâu sử dụng 
số liệu của các cuộc Điều tra Tiếp 
cận Nguồn lực của Hộ gia đình 
Việt Nam (VARHS) trong giai đoạn 
2006-2010 để xem xét các thay 
đổi trong phúc lợi của hộ gia đình 
nông thôn ở 12 tỉnh của Việt Nam. 
 Các kết quả thể hiện sự cải thiện 
ấn tượng của ba tiêu chí về phúc 
lợi: tiêu dùng thực phẩm, thu 
nhập và tài sản của hộ. 
 Số liệu kinh tế vĩ mô cho thấy 
rằng kinh tế chung của Việt Nam 
đã tăng trưởng nhanh. Số liệu 
VARHS cho phép các tác giả tìm 
hiểu liệu tăng trưởng này có tác 
động đem lại lợi ích cho các vùng 
nông thôn hay không. 
 Số liệu cho thấy sự thay đổi lớn 
trong phát triển kinh tế: có những 
bước tiến khác nhau đáng kể giữa 
các tỉnh, và ở tất cả các tỉnh phần 
lớn các hộ dân tộc thiểu số không 
tăng phúc lợi của họ. 
 Các hộ có nhiều tài sản sản xuất 
hơn và có trình độ giáo dục cao 
hơn dường như thường có phúc lợi 
cao hơn. 
 Tuy nhiên, các nhóm dân tộc thiểu 
số thường có mức chi tiêu thực 
phẩm, thu nhập hoặc tài sản thấp 
hơn nhiều so với mức trung bình. 
 Nhìn chung, nghiên cứu này cho 
thấy rằng tăng trưởng kinh tế đã 
đem lại lợi ích cho nhiều hộ gia 
đình nông thôn, nhưng các nhà 
hoạch định chính sách cần phải 
tiếp tục tập trung vào số lượng lớn 
các hộ nông thôn mà vẫn chưa 
được hưởng lợi từ sự tăng trưởng 
kinh tế vĩ mô mạnh mẽ này. 
Biến động phúc lợi ở nông thôn 
Việt Nam, 2006 đến 2010 
Andy McKay, 
Khoa Kinh tế, Trường Đại học Tổng hợp Sussex 
Finn Tarp, 
Nhóm Nghiên cứu Kinh tế Phát triển (DERG) 
Trường Đại học Tổng hợp Copenhagen (UoC), và UNU-WIDER, Helsinki 
1. Giới thiệu 
Việt Nam đã đạt được sự phát triển kinh tế đáng kể kể từ khi bắt 
đầu quá trình Đổi mới vào năm 1986 với các tỷ lệ tăng trưởng kinh 
tế cao bằng việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế từ một nền kinh tế nhà 
nước và khu vực hợp tác xã sang một nền kinh tế mà trong đó khu 
vực kinh tế tư nhân và đầu tư nước ngoài tạo ra tỷ lệ giá trị sản 
lượng quốc gia cao. 
Ở cấp độ hộ gia đình, cuộc cách mạng trong chính sách kinh tế vĩ 
mô này đã làm tăng thu nhập của cả vùng nông thôn và thành thị 
và tạo ra tỷ lệ tăng trưởng thu nhập của các vùng này cao hơn, qua 
đó thể hiện thành tựu ấn tượng từ khía cạnh phát triển con người. 
Cũng như các nước khác có các lợi ích từ việc tăng trưởng kinh tế 
mạnh mẽ, Việt Nam tiếp tục phải đối mặt với các thách thức rõ rệt 
trong việc hoàn thành quá trình chuyển đổi nền kinh tế từ kế hoạch 
hóa tập trung sang mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội 
chủ nghĩa. 
Để cung cấp nguồn lực cho các nhà hoạch định chính sách, Điều tra 
Tiếp cận Nguồn lực của Hộ gia đình Việt Nam (VARHS) được thực 
hiện tại 12 tỉnh của Việt Nam. Tóm tắt chính sách này tóm lược 
nghiên cứu sâu sử dụng số liệu của cuộc điều tra được thực hiện 
vào các năm 2006, 2008, và 2010. 
Đặc điểm chính của cuộc điều tra này là cấu trúc số liệu dạng bảng 
qua các năm 2006, 2008 và 2010, với khoảng 2.100 hộ được điều 
tra lặp ở cả ba năm, qua đó có thể theo dõi mỗi hộ qua các năm. 
Chúng tôi đánh giá các thay đổi trong phúc lợi của hộ bằng việc đo 
các thay đổi theo thời gian về: 
 Việc chi tiêu cho thực phẩm 
 Thu nhập 
 Sở hữu các tài sản 
TÓM TẮT CHÍNH SÁCH: 
03của năm 2012 
 Trang 2 Tóm tắt chính sách 03 của 2012 
 Phúc lợi có thể có một vài định nghĩa khác nhau, 
nhưng ở đây chúng tôi mong đợi rằng chi tiêu cho 
thực phẩm, thu nhập và sở hữu tài sản có mối 
tương quan lớn với nhiều cách tính khác của phúc 
lợi. 
2. Tóm tắt các phát hiện 
2.1 Chi tiêu cho thực phẩm 
Chi tiêu cho thực phẩm là một cách tính phúc lợi 
của hộ mang tính trực giác, khi chúng ta đánh giá 
tiêu dùng thực phẩm cho nhu cầu của bản thân hộ 
(tiêu dùng thực phẩm nhiều hơn và tốt hơn), và 
cũng là một cách tính phúc lợi khi hộ trở nên giàu 
hơn thì họ sẽ tiêu dùng nhiều thực phẩm hơn với 
chất lượng cao hơn, qua đó đưa ra cho các nhà 
nghiên cứu một cách tính hữu ích về việc các hộ 
gia đình nông thôn nhận được bao nhiêu lợi ích từ 
tăng trưởng kinh tế quốc gia. 
Đầu tiên là việc so sánh theo tỉnh, cụ thể các giá trị trung 
vị cho thấy rằng hai tỉnh phía Tây Bắc là Lai Châu và 
Điện Biên có các mức chi tiêu cho thực phẩm rất thấp, và 
tương tự như vậy là trường hợp rõ ràng của Lào Cai ở 
Đông Bắc, một tỉnh được xếp hạng thấp nhất vào năm 
2010 về mặt chi tiêu trung bình, và cũng là tỉnh có sự 
giảm lớn trong mức tiêu trung bình so với năm 2006. 
Năm 2010, mức chi tiêu trung bình cho thực phẩm cao 
nhất được báo cáo ở Khánh Hòa, Quảng Nam, Đắk 
Nông, Long An và Hà Tây, nhưng có sự thay đổi rất lớn 
vè vị trí của các tỉnh qua từng năm. 
2.2 Thu nhập 
Các cuộc điều tra năm 2006, 2008, và 2010 cũng 
đã hỏi các hộ về thu nhập của hộ theo nguồn thu 
nhập, như thu nhập từ nông nghiệp, tiền lương, 
các hoạt động khác được trả công, hoặc các 
khoản tiền hỗ trợ của hộ từ họ hàng, con cái hoặc 
những người khác. 
Có hai kết quả chính từ phân tích về thu nhập. 
Thứ nhất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế là không 
giống nhau giữa các tỉnh ở Việt Nam: Ở các tỉnh 
Lào Cai, Lai Châu, Điện Biên, Đắk Lắk, Đắk Nông 
và Lâm Đồng, hơn một nửa thu nhập trung bình 
của hộ đến từ nông nghiệp. 
Ngược lại, thu nhập từ tiền công, tiền lương và 
các hoạt động phi nông nghiệp khác lại là nguồn 
thu nhập chính ở các tỉnh Nghệ An, Quảng Nam, 
Long An, Phú Thọ, Hà Tây và Khánh Hòa. 
Số liệu VARHS cho thấy sự khác nhau đáng kể 
trong tốc độ chuyển dịch cơ cấu của các vùng kinh 
tế nông thôn: ở một số tỉnh các hộ tiếp tục phụ 
thuộc nhiều vào thu nhập từ nông nghiệp, và ở 
một số tỉnh khác các mức thu nhập từ tiền công 
và các hoạt động phi nông nghiệp khác đang ngày 
càng tăng cao hơn. 
Nhìn vào các thông tin tương đương liên quan đến thu 
nhập cho thấy một sự tăng mạnh, trung bình khoảng 
64% trong giai đoạn 2006-10, với các mức tăng lên ở tất 
cả các tỉnh (ngoại trừ Lào Cai cho giai đoạn 2006 đến 
2008). Mức tăng trung bình lớn nhất là ở Khánh Hòa và 
mức tăng đối với thu nhập ở giá trị trung vị lớn nhất là ở 
Nghệ An. 
Chi tiêu 
thực phẩm 
theo tỉnh 
2006 2008 2010 Thay đổi: 
2006 tới 
2010 
Khánh Hòa 162.9 123.6 254.3 91.4 
Hà Tây 118 154.4 191.9 73.9 
Phú Thọ 108 142.5 156 48 
Long An 148.4 167.7 189 40.6 
Quảng Nam 129.8 167.5 169.2 39.4 
Điện Biên 78.4 75.5 115.1 36.7 
Nghệ An 93.6 138.2 122.1 28.5 
Đắk Nông 141.9 170 162.6 20.7 
Lai Châu 75.2 100.9 90 14.8 
Lâm Đồng 141.1 96.4 146.1 5 
Đắk Lắk 125 157.6 126.2 1.2 
Lào Cai 92 72.9 58.7 -33.3 
Thu nhập 
trung bình 
theo tỉnh 
2006 2008 2010 Thay đổi: 
2006 tới 
2010 
Khánh Hòa 5453 7012 12813 7360 
Hà Tây 7377 8894 13058 5681 
Phú Thọ 7064 9482 12711 5647 
Long An 5496 5985 10948 5452 
Quảng Nam 4352 5193 7860 3508 
Điện Biên 6889 8162 9102 2213 
Nghệ An 3199 3762 5201 2002 
Đắk Nông 3311 3418 5280 1969 
Lai Châu 9202 10440 11064 1862 
Lâm Đồng 4941 3790 6623 1682 
Đắk Lắk 5244 6118 6473 1229 
Lào Cai 6666 8514 7491 825 
 Trang 3 Tóm tắt chính sách 03 của 2012 
 So sánh mức thu nhập giữa các tỉnh, Lai Châu và 
Điện Biên có các mức thu nhập thấp nhất năm 
2010, và tỉnh có mức cao nhất về thu nhập trung 
bình năm 2010 là Long An. 
Nhưng lại một lần nữa có sự thay đổi giữa các 
năm về vị trí tương đối của các tỉnh, cũng như sự 
thay đổi phụ thuộc vào liệu các giá trị trung bình 
hay trung vị của thu nhập được xem xét. Về mặt 
thu nhập, chưa đến một nửa hộ gia đình nằm 
trong nhóm 25% hộ nghèo nhất năm 2006 vẫn 
nằm trong số 25% hộ nghèo nhất năm 2010. Sự 
thay đổi thậm chí cao hơn nếu xét theo tiêu chí về 
chi tiêu cho thực phẩm. 
2.3 Các tài sản 
Một cách tính phúc lợi hữu ích khác là sở hữu các 
tài sản của hộ, khi các hộ giàu hơn sở hữu nhiều 
tài sản hơn. Do tài sản được tích lũy qua thời 
gian, cách tính phúc lợi này ít thay đổi hơn, ví dụ 
so với cách tính phúc lợi dựa vào mức chi tiêu cho 
thực phẩm. Các nhà nghiên cứu đã xuất phát từ 
một chỉ số đơn lẻ là chỉ số về tài sản để đo mức 
phúc lợi của hộ gia đình dựa trên lượng tài sản mà 
hộ sở hữu như điện thoại, ti vi, và các phương tiện 
vận tải. 
Các kết quả là nhất quán với các cách tính phúc 
lợi từ thu nhập và chi tiêu cho thực phẩm. Các 
tỉnh Lào Cai, Lai Châu, và Điện Biên có các chỉ số 
về tài sản thấp nhất; các chỉ số cao nhất được 
tìm thấy ở Phú Thọ, Đắk Nông, Nghệ An và Hà 
Tây. 
Phát hiện chính đó là trong khi phúc lợi tăng ở 12 
tỉnh điều tra, mức độ tăng lại không giống nhau 
giữa các tỉnh. Giải quyết vấn đề không đồng đều 
về các lợi ích đạt được từ tăng trưởng kinh tế vĩ 
mô này vẫn là thách thức chính cho các nhà 
hoạch định chính sách. 
2.4 Các mô hình phúc lợi và sự thay đổi 
phúc lợi: chúng ta có thể kết luận điều 
gì? 
Tất cả các cách tính phúc lợi là nhất quán trong 
việc xác định Lai Châu, Điện Biên và Lào Cai là 
các tỉnh nghèo nhất, và một số cách tính lại cho 
thấy rằng Đắk Nông, Long An và Hà Tây thường là 
các tỉnh có sự thể hiện tốt nhất về phúc lợi trung 
bình của hộ. 
Nhưng đối với các tỉnh còn lại, có sự khác nhau 
đáng kể giữa các cách tính phúc lợi khác nhau và 
đôi khi giữa các năm khác nhau đối với cùng một 
cách tính. 
Long An trên thực tế là tỉnh được xếp hạng thấp 
theo cách tính về tài sản nhưng không phải theo 
cách tính về thu nhập hoặc chi tiêu cho thực 
phẩm; dường như ở đây thu nhập cao không đi 
cùng với việc chi tiêu nhiều cho tích lũy tài sản 
của hộ. 
Quảng Nam là một tỉnh được xếp hạng tương đối 
cao và đang cải thiện vị trí nếu tính theo mức chi 
tiêu cho thực phẩm, chỉ đứng ở vị trí ở giữa (và 
đang giảm) nếu tính theo chỉ số tài sản, nhưng lại 
ở vị trí tương đối thấp nếu tính theo thu nhập (đặc 
biệt ở năm 2010). 
Trong một vài trường hợp khác, thực sự có nhiều 
sự thay đổi giữa các năm khi sử dụng cùng một 
cách tính phúc lợi; ví dụ theo cách tính mức chi 
tiêu cho thực phẩm, năm 2006 Khánh Hòa và Lâm 
Đồng là các tỉnh đứng ở vị trí đầu nhưng năm 
2008 các tỉnh này lại đứng ở vị trí nửa cuối. Như 
đã được chú ý ở trên, các xếp hạng theo chỉ số tài 
sản là nhất quán nhất trong cả giai đoạn từ 2006 
đến 2010. 
2.5 Cái gì dẫn đến các thay đổi về phúc 
lợi của hộ? 
Phân tích hồi quy cho phép các tác giả tìm ra các 
đặc điểm nào của hộ được thể hiện trong bộ số 
liệu VARHS là có liên quan tới sự thay đổi phúc 
lợi. Cụ thể, kết quả này có giá trị về mặt chính 
sách khi một số đặc điểm của hộ, một cách đáng 
tin cậy, làm tăng lên trong chi tiêu cho thực 
phẩm, trong thu nhập được báo cáo, hoặc trong 
chỉ số tài sản. 
Giá trị tài 
sản trung 
bình theo 
tỉnh 
2006 2008 2010 Thay đổi: 
2006 tới 
2010 
Khánh Hòa 0.548 1.563 2.525 1.977 
Hà Tây -3.094 -2.934 -1.268 1.826 
Phú Thọ -0.096 1.049 1.666 1.762 
Long An 0.827 1.452 2.457 1.63 
Quảng Nam -0.781 0.035 0.61 1.391 
Điện Biên -1.837 -2.135 -0.474 1.363 
Nghệ An -0.443 0.754 0.893 1.336 
Đắk Nông 0.587 1.126 1.772 1.185 
Lai Châu 1.221 1.383 2.202 0.981 
Lâm Đồng -0.264 1.208 0.523 0.787 
Đắk Lắk -0.049 0.62 0.465 0.514 
Lào Cai -0.843 -0.645 -0.78 0.063 
 Trang 4 Tóm tắt chính sách 03 của 2012 
 Như với bất kỳ nghiên cứu thống kê nào, nhiều 
công việc cần được thực hiện để trả lời các câu hỏi 
chi tiết về các mô hình qua thời gian. Tuy nhiên, 
nghiên cứu sâu này cung cấp một số các kết quả 
bước đầu rất thú vị cho các nhà hoạch định chính 
sách. 
Có hai kết quả chính, đó là: 
 Việc có nhiều thành viên của hộ đang làm 
việc cho phép các hộ chi tiêu nhiều hơn 
vào thực phẩm 
 Việc thành viên của hộ thuộc dân tộc thiểu 
số làm thấp đi đáng kể sự thay đổi trong 
mức chi tiêu cho thực phẩm. 
2.5.1 Các tài sản sản xuất và phúc lợi 
Trong mỗi biện pháp kiểm tra thống kê, các hộ 
lớn hơn tăng ít hơn trong chi tiêu cho thực phẩm. 
Điều này cho thấy rằng trong khi chi tiêu cho thực 
phẩm đang tăng, về mặt trung bình, đối với tất cả 
các hộ trong điều tra, các hộ lớn hơn có mức chi 
tiêu cho thực phẩm theo đầu người thấp hơn. Như 
chúng tôi kỳ vọng, các hộ có nhiều tài sản hơn, 
như xe máy hoặc điện thoại, có mức tăng lớn hơn 
trong chi tiêu cho thực phẩm. 
Số liệu VARHS khẳng định rằng các hộ có nhiều 
đầu vào sản xuất hơn có thể tăng chi tiêu của họ 
cho tiêu dùng thực phẩm: số thành viên của hộ 
đang lao động là một chỉ số quan trọng, cũng như 
chỉ số về quy mô đất đai, và phương tiện vận tải 
như xe máy. Các hộ thể hiện không bị tác động 
quá nhiều bởi các cú sốc tiêu cực như thời tiết 
xấu, và các hộ có chủ hộ là nữ không thể hiện 
khác so với các hộ có chủ hộ là nam. 
Giáo dục có mối quan hệ dương mạnh với tăng 
trưởng chi tiêu cho thực phẩm. Các hộ mà chủ hộ 
là người dân tộc thiểu số có tỷ lệ tăng trưởng chi 
tiêu cho thực phẩm thấp hơn đáng kể. 
Một điều thú vị đó là các hộ là thành viên của 
nhiều tổ chức chính trị có tăng trưởng lớn hơn 
trong chi tiêu cho thực phẩm, qua đó gợi ý rằng 
vốn xã hội (giá trị của các mối tương tác và liên 
kết xã hội) có thể làm tăng phúc lợi của hộ. Cuối 
cùng, ở một số vòng điều tra, việc có kinh doanh, 
có sổ đỏ đối với đất đai của hộ, và việc sở hữu vật 
nuôi là các yếu tố làm cho tăng trưởng trong chi 
tiêu vào thực phẩm tăng lên. 
2.5.2 Phúc lợi của các nhóm dân tộc 
thiểu số 
Phát hiện đáng chú ý nhất đó là có sự khác nhau 
đáng kể về phúc lợi giữa các nhóm dân tộc. Chi 
tiêu cho thực phẩm trung bình của các hộ người 
Kinh nhiều hơn gấp hai lần so với con số này của 
các hộ không phải người Kinh, và mức tăng 
trưởng về chi tiêu cho thực phẩm giai đoạn này là 
4,0% đối với các hộ người Kinh nhưng chỉ 2,6% 
đối với các hộ không phải người Kinh (và thậm chí 
còn thấp hơn đối với các hộ này ở các tỉnh phía 
Bắc). 
Trong khi một số sáng kiến chính sách được thực 
hiện để cải thiện thực trạng của các nhóm dân tộc 
thiểu số, bằng chứng này cho thấy rằng những sự 
khác nhau đáng kể tiếp tục tồn tại ở các vùng 
nông thôn Việt Nam. Phúc lợi giảm đi của các hộ 
nông thôn thường được giải thích bởi sự cách biệt: 
các vùng này nhìn chung thường rất xa các thành 
phố lớn, xa các mạng lưới giao thông, các trung 
tâm hành chính, hay các thị trấn/thành phố. 
Các nhà nghiên cứu có thể sử dụng số liệu VARHS 
để kiểm tra tác động đồng thời của khoảng cách 
đến các cách tính phúc lợi giống như các đặc điểm 
khác của hộ. Bằng việc bao gồm một biến về sự 
xa cách được định nghĩa như là khoảng cách đến 
đường giao thông, các tác giả thấy rằng biến 
khoảng cách không giải thích cho các mức phúc 
lợi thấp hơn của các hộ dân tộc thiểu số. 
Đặc điểm về dân tộc chứ không phải là sự xa cách 
tiếp tục là biến quyết định đến phúc lợi của hộ, 
điều đó chỉ ra rằng có các cộng đồng rõ ràng vẫn 
đang bị ’tụt hậu’ trong suốt thời kỳ tăng trưởng 
kinh tế vĩ mô nói chung. 
Các hộ dân tộc thiểu số có trình độ giáo dục tốt 
hơn có phúc lợi cao hơn, qua đó thấy rằng giáo 
dục có thể bù đắp cho tác động “âm” của đặc 
điểm dân tộc đến phúc lợi. Tuy nhiên, các tác 
động dương của giáo dục không vượt qua được 
các tác động âm của đặc điểm dân tộc, và, trong 
mọi trường hợp, số liệu VARHS cho thấy rằng các 
hộ không phải người Kinh có mức giáo dục trung 
bình thấp hơn, bởi vậy điều này dường như không 
thể bù đắp được tác động âm của đặc điểm dân 
tộc. 
3. Kết luận 
Có nhiều kết quả tích cực từ nghiên cứu: nhiều hộ 
được hưởng lợi ích từ việc tăng trưởng kinh tế 
quốc gia thông qua việc tăng lên trong chi tiêu về 
thực phẩm, các mức thu nhập cao hơn hoặc có 
nhiều tài sản hơn. Tuy nhiên, chuyển dịch cơ cấu 
kinh tế từ sản xuất nông nghiệp sang các hoạt 
động tạo thu nhập được đa dạng hóa và hiện đại 
 Trang 5 Tóm tắt chính sách 03 của 2012 
 vẫn chưa hoàn thành, và có một số nhóm ở khu 
vực nông thôn không được hưởng lợi tương ứng 
với mức tăng trưởng kinh tế. 
Nhiều tỉnh đã phát triển ổn định, nhất quán nếu 
xét về các giá trị trung bình của các cách tính 
phúc lợi, nhưng một số tỉnh như Điện Biên chỉ có 
sự tiến bộ ở một vài năm. Đối với hầu hết các tỉnh 
và theo hầu hết các cách tính, ít nhất một trong 
năm hộ đã thực sự trở nên tồi tệ đi trong thời kỳ 
này. Ví dụ nổi bật nhất là trường hợp của Lào Cai, 
trong đó năm 2010 các hộ bị tồi tệ hơn so với 
năm 2008. Ở cả cấp độ hộ và tỉnh, sự tăng trưởng 
ấn tượng không được thể hiện ở tất cả các hộ và 
tất cả các tỉnh. 
Ngoài các lợi ích không đồng đều từ sự tăng 
trưởng, chúng tôi thấy ba kết quả quan trọng: 
 Các hộ có các mức tài sản sản xuất cao 
hơn, như nhiều thành viên đang lao động 
hơn, thể hiện tăng nhiều hơn trong mức 
chi tiêu của hộ cho thực phẩm theo thời 
gian. 
 Các nhóm dân tộc thiểu số tiếp tục “tụt 
hậu” và không tăng lên trong các mức chi 
tiêu cho thực phẩm, thu nhập, hay việc 
nắm giữ tài sản của hộ. Số liệu VARHS cho 
thấy rằng nhiều sự tiến bộ vẫn có thể được 
thực hiện để cải thiện phúc lợi. 
 Tăng trưởng kinh tế quốc gia là cao, nhưng 
tác động đến phúc lợi của hộ vẫn chưa 
được chia sẻ công bằng giữa các tỉnh hay 
giữa các hộ ở các vùng nông thôn; một số 
hộ vẫn đang bị “bỏ lại đằng sau”./. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 13518421023120_2488_2208356.pdf 13518421023120_2488_2208356.pdf