Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 22 * Số 2 * 2018 Tổng Quan
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân năm 2018 41
BẢO TỒN THẦN KINH TỰ ĐỘNG VÙNG CHẬU 
TRONG PHẪU THUẬT UNG THƯ TRỰC TRÀNG 
Phan Thanh Tuấn*, Trần Văn Minh Tuấn*, Hồ Tiến Duy* 
ĐẠI CƯƠNG 
Ung thư đại trực tràng là loại ung thư đứng 
hàng đầu trong nhóm ung thư đường tiêu hóa. 
Độ tuổi mắc bệnh ngày càng giảm dần. Hiện 
nay, điều trị trong phẫu thuật ung thư trực tràng 
nói riêng là điều trị đa mô thức giúp tỉ lệ sống 5 
năm ngày càng tăng; trong đó, phẫu thuật đóng 
vai trò rất quan trọng. Theo khuyến cáo của 
nhiều trung tâm y khoa lớn trên thế giới, phẫu 
thuật cắt toàn bộ mạc treo trực tràng (total 
mesorectal exsecion – TME) được xem là 
phương pháp điều trị phẫu thuật chuẩn cho 
bệnh lý ung thư trực tràng. TME là phẫu thuật 
bao gồm (1) cắt trọn khối mạc treo trực tràng bao 
gồm: mạch máu, dẫn lưu bạch huyết, mô mỡ 
cũng như các mạc của trực tràng thành khối 
“đóng gói U”, và (2) phân tích cũng như nhận 
biết hệ thần kinh tự động trong phẫu thuật. 
Hình 1. Mẫu bệnh phẩm Hình 2. Diện cắt đúng trong TME 
Trong những ung thư trực tràng trên và 
giữa, điều trị phẫu thuật cắt trước thấp kèm 
TME với diện cắt dưới U từ 4-5cm, kèm nối 
đại trực tràng là phẫu thuật ưu tiên. Độ rộng 
của phẫu thuật TME được khuyến cáo để 
đảm bảo nạo hạch đầy đủ cũng như nâng 
cao khả năng đạt được diện cắt vòng âm. 
Trong ung thư trực tràng thấp xâm lấn cơ 
thắt, sự kết hợp của phẫu thuật APR với 
TME giúp đảm bảo tốt về mặc ung thư học 
cũng như giảm nguy cơ tái phát. Tuy nhiên, 
việc cắt tận gốc mạc treo trực tràng trong 
phẫu thuật TME có thể tăng nguy cơ tổn 
thương các cơ quan, mạch máu, thần kinh 
lân cận trong vùng chậu trong lúc phẫu 
thuật cũng như hậu phẫu. 
Chứng năng, giải phẫu của hệ thần kinh tự 
động vùng hạ vị. 
Trong biến chứng lâu dài sau phẫu thuật 
TME, ngoài tỉ lệ ung thư tái phát, tỉ lệ rối 
loạn chứng tiết niệu và chức năng sinh dục 
cũng cần phải quan tâm, vì chính điều này 
ảnh hưởng nhiều tới chất lượng cuộc sống 
của BN sau phẫu thuật(11,3,2).. 
* Bệnh viện Bình Dân, Tp.HCM. 
Tác giả liên lạc: BS. Phan Thanh Tuấn ĐT: 0919.223.070 Email: 
[email protected] 
Tổng Quan Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 22 * Số 2 * 2018
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân năm 2018 42
Hình 3. Giải phẫu vùng tiểu khung 
Bảng 1: Tổng hợp các rối loạn chức năng hệ thần kinh tự động trong phẫu thuật hậu môn trực tràng. 
 Rối loạn chức năng tình dục Rối loạn chức năng hệ niệu 
Phẫu thuật vùng chậu 
TME trong ung thư trực tràng +++ + 
Cắt toàn bộ đại tràng trong UC (loét đại tràng) + 
+ 
Cắt đại tràng + + 
Phẫu thuật vùng tầng sinh môn 
Phẫu thuật cắt trĩ + ++ 
Phẫu thuật cắt cơ thắt trong + ++ 
Phẫu thuật cắt u trực tràng- hậu môn qua ngã 
bụng và tầng sinh môn (APR) 
+++ + 
+++ = rất phổ biến; ++ = phổ biến, + = không phổ biến 
Rối loạn chức năng niệu dục là vấn đề 
phổ biến trong điều trị ung thư trực tràng. Ít 
nhất 50% bệnh nhân có điều trị ung thư trực 
tràng bị rối loạn và suy giảm chức năng tình 
dục. Rối loạn chức năng niệu dục bao gồm 
vấn đề giảm ham muốn tình dục, bất lực ở 
nam giới cũng như khô âm đạo, giao hợp 
đau ở nữ giới. 
Rối loạn chức năng đường tiết niệu xảy ra 
trên gần 1/3 bệnh nhân có phẫu thuật điều trị 
ung thư trực tràng, với nguyên nhân chính là 
do tổn thương thần kinh tự động trong lúc 
phẫu thuật(11,3,2,8). Nhiều báo cáo cho thấy tổn 
thương thần kinh tự động có liên quan đến 
những bệnh nhân ung thư trực tràng mà đã 
được phẫu thuật TME hay APR+TME. Do đó, 
việc bảo tồn hệ thần kinh tự động trong phẫu 
thuật TME được đề ra nhằm giúp giảm rối 
loạn trên hệ tiết niệu, sinh dục và đồng thời 
vẫn đảm bảo khả năng điều trị ung thư, tuy 
nhiên tỉ lệ tái phát và thời gian sống 5 năm 
không có sự khác biệt(9,13,6). 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 22 * Số 2 * 2018 Tổng Quan
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân năm 2018 43
Rối loạn chức năng niệu dục là do tổn 
thương hệ thần kinh tự động và hệ thần kinh 
thực thể trong vùng chậu. Vùng tiểu khung 
được chia thành hai phần thần kinh tự động: 
phần trên cơ nâng (chịu chi phối của thần 
kinh tự động), phần dưới cơ nâng(chịu chi 
phối của thần kinh thực thể thông qua sợi 
thần kinh bịt) (9,2). 
Hình 5. Sơ đồ đám rối hạ vị 
Đám rối thần kinh tự động bao gồm: 
đám rối hạ vị trên chứa thần kinh giao cảm, 
đám rối hạ vị dưới chứa cả thần kinh giao 
cảm và đối giao cảm; và thần kinh hạch chậu 
chứa thần kinh đối giao cảm. Thần kinh hạ vị 
là sợi thần kinh kết nối giữa đám rối hạ vị 
trên và đám rối hạ vị dưới. Đám rối hạ vị 
dưới là trung tâm kiểm soát các hoạt động tự 
động của tạng chậu, gồm mạng lưới sợi thần 
kinh nằm hai bên của trực tràng và lớp ở 
giữa của bó mạch chậu trong. Chức năng 
giao cảm của đám rối hạ vị dưới xuất phát từ 
hai nguồn, phần lớn đi từ đám rối hạ vị trên. 
Đám rối hạ vị trên không chứa hệ thần kinh 
phó giao cảm, nó hoàn toàn là đám rối thần 
kinh giao cảm. Đám rối hạ vị trên nằm ở chỗ 
chia nhánh của động mạch chủ và đi xuống 
dưới chậu, chia thành hai sợi thần kinh hạ vị 
trái và phải(12,7). Hai mạng lưới thần kinh hạ 
vị đi vào hai bên của trực tràng và vòng ra 
Tổng Quan Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 22 * Số 2 * 2018
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân năm 2018 44
hai bên di xuống dưới khoảng 7,5- 10 cm 
trong khung chậu tạo thành đám rối hạ vị 
dưới. Phần còn lại của đám rối hạ vị dưới 
chứa thần kinh giao cảm từ mạc chậu tạo 
thành từ sợi thần kinh cùng. Khác với đám 
rối hạ vị trên, đám rối hạ vị dưới có chứa hệ 
thần kinh phó giao cảm. Các sợi phó giao 
cảm đi từ hạch giao cảm chậu (S2,3,4) trong 
đám rối hạ vị dưới đi vào mạc chậu và chi 
phối đối giao cảm cho ruột dưới (bắt đầu từ 
1/3 xa của đại tràng ngang), trực tràng, niệu 
quản, bàng quang, tuyến tiền liệt và cơ 
quang sinh dục. Tóm lại, đám rối thần kinh 
hạ vị trên và dưới chi phối hoạt động giao 
cảm và đối giao cảm cho các hoạt động trong 
tạng chậu. 
Trong phẫu thuật cắt trước thấp, tỉ lệ tổn 
thương, mất kiểm soát phân và rối loạn chức 
năng niệu dục sau mổ là 60% với BN có xạ 
trị trước mổ và 40% với BN không có xạ trị. 
Tổn thương đám rối thần kinh hạ vị và 
nhánh thần kinh cho cơ nâng của thần kinh 
bịt là nguyên nhân chủ yếu của rối loạn đi 
tiêu sau phẫu thuật cắt trực tràng(2,10). 
Hình 6. Sơ đồ hệ thần kinh tự động 
Tên cơ quan Chức năng giao cảm Chức năng đối giao cảm 
Ruột- co thắt 
Lòng ruột 
Tăng co thắt 
Giảm nhu động- giảm trương lực 
Giảo co thắt 
Tăng nhu động và trương lực cơ 
Bàng quang 
Cơ tam giác 
Giãn nhẹ 
Co 
Co 
Giãn 
Dương vật Xuất tinh Cương 
Ống dẫn tinh Xúc tiến sự phát tán trước khi xuất tinh 
Chúng ta được biết cơ nâng hậu môn 
(được coi là cơ hoành của sàn chậu) được chi 
phối bởi các nhánh thần kinh từ đám rối 
chậu và thần kinh bịt (S3,S4). Tổn thương 
thần kinh cho cơ nâng trong phẫu thuật 
TME làm rối loạn quá trình tống phân và 
nước tiểu sau mổ.(sau mổ: són phân 41,6%, 
són tiểu 17% và tiểu không hết 22,2%)(2). 
Những lưu ý trong phẫu thuật TME làm 
giảm nguy cơ tổn thương hệ thần kinh tự 
động. 
Việc quan sát kĩ và cắt chính xác là yêu cầu 
chính trong quá trình di động trực tràng trong 
cả phương pháp mổ hở, mổ nội soi cũng như 
mổ robot. Nói chính xác hơn là phẫu thuật 
TME cần chính xác trong việc cắt cao động 
mạch mạc treo tràng dưới, bóc tách một cách 
cẩn thận để vào khoang “Holly “khoang” để 
đi xuống sàn chậu, băng qua mạc treo trực 
tràng(trọn vẹn của màng ranh giới) để tới 
điểm “end-to-end” của giải phẫu(9,13,6). 
Những khó khăn trong việc phẫu thuật 
là những bệnh nhân có khung chậu hẹp, 
khung chậu cong nhiều hay xương cùng nhô 
cao. Điều này trở lên tồi tệ ở những bệnh 
nhân có chỉ số BMI (chỉ số khối cơ thể) cao và 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 22 * Số 2 * 2018 Tổng Quan
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân năm 2018 45
mỡ mạc treo nhiều. Dính vùng chậu do xạ trị 
hay viêm quanh u cũng như sự xâm lấn của 
U sẽ làm cho các phẫu thuật viên quyết định 
đi ngoài “khoang” để đảm bảo diện cắt vòng 
an toàn và sạch u, tuy nhiên việc này gây 
tăng nguy cơ tổn thương hệ thần kinh tự 
động. Ngoài ra, phương pháp nạo hạch chậu 
bên mà đang được một vài trung tâm lớn 
trên thế giới bắt đầu thực hiện cũng có khã 
năng gây tổn thương hệ thần kinh tự động 
và phương pháp nạo hạch chậu đang được 
một vài trung tâm lớn trên thế giới bắt đầu 
thực hiện(9). 
Hình 7. Giải phẫu các mạc quanh trực tràng 
Các bước trong phẫu thuật TME và đặc 
điểm nhận biết thần kinh tự động: 
Cắt động mạch mạc treo tràng dưới: 
Giải phẫu thần kinh: 
Đám rối hạ vị trên nằm ngang đốt sống 
L5, nằm phía trái trước của động mạch chủ 
và chia thành hai nhánh. Đám rối hạ vị trên 
xuất phát từ các hạch giao cảm cạnh động 
mạch chủ từ T10-L3, đi xuống dưới tới u nhô 
và chia thành hai nhánh vào thần kinh hạ vị. 
Nó chạy cách 2cm trục giữa niệu quản và 
động mạch chậu hai bên. Thần kinh hạ vị 
chạy chéo và vòng ra trước hướng về trực 
tràng và hai bên của mạc trực tràng nơi mà 
được bao phủ bởi mạc chậu trong. Để rồi 
chia nhánh vào đám rối hạ vị dưới(2,9). 
Hình 8. phẫu tích động mạch mạc treo tràng 
dưới 
Kĩ thuật phẫu tích 
Bắt đầu bóc tách tìm “khoang” từ tĩnh 
mạch mạc treo tràng dưới, “khoang” tiếp cận 
ngay dưới tĩnh mạch mạc treo tràng dưới 
gần gốc Treizt, rồi đi vòng qua phải xuống 
gốc của động mạch mạc treo tràng dưới để 
đảm bảo liên tục của “khoang” mạc treo và 
không gây tổn thương đám rối hạ vị trên 
ngay gốc mạc treo tràng dưới. Chúng ta tiếp 
tục “khoang” đi ra mạc bên và đi trên cấu 
trúc niệu quản, bó mạch sinh dục và các 
nhánh thần kinh quang động mạch chậu để 
đảm bảo sự toàn vẹn của “khoang”(9,14). 
Cắt động mạch mạc treo tràng dưới nên 
cách gốc động mạch chủ từ 1,5cm- 2cm, để 
tránh tổn thương đám rối hạ vị trên ngay 
phía trên của động mạch chủ. 
Cầm mảng lớn động mạch mạc treo 
tràng dưới làm tăng nguy cơ tổn thương 
nhánh trái của đám rối hạ vị trên, dẫn tới 
Tổng Quan Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 22 * Số 2 * 2018
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân năm 2018 46
làm dứt liên kết với nhánh thần kinh bên 
phải ngay “khoang” trước động mạch chủ. 
Quan sát mạc Gerota trong quá trình di 
động niệu quản và bó mạch sinh dục để bảo 
tồn các sợi thần kinh của đám rối hạ vị trên. 
Tại vị trí u nhô, nơi phân chia của mạc 
treo đại tràng sigma và mạc treo trực tràng là 
nơi rất dể gây tổn thương đám rối trước 
xương cùng và đám rối hạ vị. Để tránh đi 
nhầm “khoang”, điều quan trọng là bóc tách 
“khoang” ngay dưới của động mạch trực 
tràng trên để đi vào “khoang” trước mạc 
trước xương cùng, hay có thể đi gần 2cm 
trước u nhô để vào “khoang”. 
Hình 9. Đi “khoang” trước Ụ nhô Hình 10. Đi “khoang” trước xương cùng 
Thành chậu bên 
Giải phẫu thần kinh 
Đám rối hạ vị dưới nhận các nhánh phó 
giao cảm từ rễ thần kinh S2-S5. Những sợi 
thần kinh này được che phủ bởi mạc thành, 
xuyên qua mạc chậu trong, chạy vào khoang 
trước xương cùng và chia các nhánh vào trực 
tràng qua các dây chằng bên. Các nhánh 
tạng của đám rối hạ vị dưới đi ra trước và 
chia nhánh vào túi tinh, bàng quang, tuyến 
tiền liệt, cổ tử cung, âm đạo. Tạo thành đám 
rối niệu âm đạo(Frankenha¨user’s) ở mạc 2 
bên cạnh tử cung. Sợi thần kinh phó giao 
cảm kết hợp với sợi giao cảm hạ vị tạo thành 
liên kết hình chữ Y với đám rối chậu. 
Dây chằng trực tràng bên thực sự không 
tồn tại, phần lớn các tác giả gọi như vậy để 
chỉ vùng mỡ mạc nối, có thể chứa động mạc 
trực tràng giữa liên kết giữa mạc chậu và 
trực tràng trong lúc di động trực tràng. Đám 
rối hạ vị dưới chia các nhánh vào trực tràng 
qua dây chằng này ngay 2cm dưới nến gấp 
phúc mạc. Theo các nghiên cứu, dẫn lưu 
hạch bạch huyết của trực tràng không di qua 
dây chằng treo trực tràng bên. 
Kĩ thuật phẫu tích 
Cách tốt nhất để phẫu tích đi mặt bên là 
đi mặt sau trực tràng xuống thấp tới cơ 
nâng. Quan sát thấy được các sợi thần kinh 
hạ vị đi vào lớp sau của mạc thành, và có thể 
dính sợi thần kinh vào mạc treo trực tràng ở 
hai bên. Phẫu thuật viên nên dùng móc để 
tách cẩn thận nhằm tránh tổn thương các sợi 
thần kinh(5). 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 22 * Số 2 * 2018 Tổng Quan
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân năm 2018 47
Hình 11. Đi “khoang” bên T 
Hình 12. Đi “khoang” bên T 
Phân chia quanh cơ quan niệu dục 
Giải phẫu thần kinh 
Đám rối chậu là mạng lưới thần kinh, 
nằm ở khoảng trực tràng dưới và chia nhánh 
vào trực tràng, bàng quang, túi tinh, tuyến 
tiền liệt, niệu đao màng, tử cung và âm đạo. 
Ở nam, các bó sợi thần kinh(hay Walsh) xuất 
phát từ đám rối chậu bao gồm các sợi thần 
kinh có đáp ứng với kích thích cương chạy 
vào bên ngoài của mạc Denonvilliers. Các sợi 
thần kinh này nằm ngay bên của túi tinh vị 
trí 2h và 10h, và nằm ngay trước phần sau 
bên của tiền liệt tuyến rồi cho nhánh vào 
đám rối quanh tiền liệt tuyến. Ở nữ, các sợi 
thần kinh này đi vào tử cung âm đạo, mạc 
sau âm đạo rồi vào điểm giao của niệu quản 
và động mạch bàng quang. 
Kĩ thuật phẫu tích 
Phẫu tích đi dưới phúc mạc trực tràng từ 
tuyến tiền liệt, túi tinh và âm đạo, nơi mà rất 
dễ gây tổn thương thần kinh. Điều đó yêu 
cầu phẫu thuật viên cần hiểu rõ mạc 
Denonvilliers và sự bao phủ phía trước của 
mạc treo trực tràng. Có thể rất khó nhận biết 
mạc Denonvilliers ở người già cũng như BN 
đã xạ trị trước mổ hay khung chậu hẹp. Tuy 
nhiên, một số khuyến cáo cho rằng có thể đi 
sát vào trực tràng và nhận biết mạc 
Denonvilliers bằng cách quan sát cơ vòng 
của trực tràng(7,1,4). 
Hình 13. Đi “khoang” mặt trước 
KẾT LUẬN 
Bảo tồn thần kinh tự động vùng chậu 
trong phẫu thuật ung thư trực tràng là một 
phần quan trọng trong cuộc mổ nhằm bảo 
đảm bảo tồn chức năng niệu dục của bệnh 
nhân sau mổ, và việc nhận biết đúng các cấu 
trúc giải phẫu cũng như thần kinh tự động 
vùng chậu giúp tăng tỷ lệ bảo tồn được thần 
kinh này. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Bertrand A., Droupy, Ripoche, Benoit, Adalian (2016): 
Anatomical basis of the coordination between smooth and 
striated urethral and anal sphincters: Loops of regulation 
between inferior hypogastric plexus and pudendal nerve. 
Immuno-histological study with 3D reconstruction. Surgical 
and Radiologic Anatomy, 38(8): 963-972. 
Tổng Quan Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 22 * Số 2 * 2018
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân năm 2018 48
2. Christian W, Marilyne M. Lange, and. Bonsing B.A (2008): 
Causes of Fecal and Urinary Incontinence After Total 
Mesorectal Excision for Cancer Based on Cadaveric Surgery: 
A Study from the Cooperative Clinical Investigators of the 
Dutch Total Mesorectal Excision Trial. Journal of Clinical 
oncology, 26(27). 
3. Elroy P W and Divine E (2014): The Anatomical Basis for 
Autonomic Dysfunction in Surgical Coloproctology. 
International Journal of Surgical Research, 3(1): 7-14. 
4. Johnson (2012): Colorectal and uterine movement and tension 
of the inferior hypogastric plexus in cadavers. Chiropractic & 
Manual Therapies, 20. 
5. Kim N.K., Kim Y W, & Cho M S (2015): Total mesorectal 
excision for rectal cancer with emphasis on pelvic autonomic 
nerve preservation: Expert technical tips for robotic surgery. 
Surgical Oncology, 24(3): 172-180. 
6. Kraima D., Kenter R (2014): Careful dissection of the distal 
ureter in radical pelvic surgery is highly important: A 
reappraisal for the vesical plexus. European Journal of Surgical 
Oncology, 40(11):107. 
7. Kraima VS (2015): New insights in the neuroanatomy of the 
human adult superior hypogastric plexus and hypogastric 
nerves. Autonomic Neuroscience: Basic and Clinical, 2015. 189: 
p. 60-67. 
8. Liu L., Cao Y., Zhang G., Zhang L., Wang P. (2011): Long-term 
outcomes after laparoscopic total mesorectal excision for 
advanced rectal cancer. South African Journal of Surgery, 49(4): 
186-189. 
9. Min H C, et al. (2016): Pelvic autonomic nerve preservation in 
radical rectal cancer surgery: changes in the past 3 decades. 
Gastroenterology Report, 4(3): 173–185. 
10. Nam K K (2005): Anatomic Basis of Sharp Pelvic Dissection 
for Curative Resection of Rectal Cancer. Yonsei Medical Journal, 
46(6): 737 - 749. 
11. Oktar Asoglu, et al. (2009): Impact of laparoscopic surgery on 
bladder and sexual function after total mesorectal excision for 
rectal cancer. Surg Endosc, 23: 296–303. 
12. R. Spacckman and B Wrigley (2007): The inferior hypogastric 
plexus: A different view. Journal of Obstetrics and 
Gynaecology,27(2): 130 – 133. 
13. Wałęga P, Romaniszyn M, Wałęg M, Szymon Ś J, & Nowak W 
(2017): Intraoperative neuromonitoring of hypogastric plexus 
branches during surgery for rectal cancer - preliminary report. 
Polski Przeglad Chirurgiczny, 89(2): 69-72. 
14. Zhou H., Ruan C., Sun Y., Zhang J., Wang Z., & Hu Z (2015): 
Nerve-Guided Laparoscopic Total Mesorectal Excision for 
Distal Rectal Cancer. Annals of Surgical Oncology, 22(2): 550-
551. 
Ngày nhận bài báo: 21/12/2017 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 31/01/2018 
Ngày bài báo được đăng: 25/03/2018