Bạo lực và bắt nạt ở học sinh một số trường Trung học Cơ sở và Trung học Phổ thông năm 2017

Tài liệu Bạo lực và bắt nạt ở học sinh một số trường Trung học Cơ sở và Trung học Phổ thông năm 2017: Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Cơng Cộng 375 BẠO LỰC VÀ BẮT NẠT Ở HỌC SINH MỘT SỐ TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ VÀ TRUNG HỌC PHỔ THƠNG NĂM 2017 Trần Quỳnh Anh*, Nguyễn Thị Hồng Diễm** TĨM TẮT Đặt vấn đề: Bạo lực và bắt nạt ở lứa tuổi học sinh trung học cơ sở (THCS) và trung học phổ thơng (THPT) là một trong những vấn đề cần quan tâm hiện nay do mức độ phổ biến và những hậu quả về thể chất và tinh thần. Mục tiêu: Xác định tỷ lệ học sinh tham gia đánh nhau trong 12 tháng qua, tỷ lệ học sinh bị bắt nạt trong 30 ngày qua và tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến tỷ lệ học sinh tham gia đánh nhau và bị bắt nạt. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mơ tả cắt ngang được tiến hành trên 6.407 học sinh của 24 trường trung học cơ sở và trung học phổ thơng tại 4 tỉnh Hải Phịng, Nghệ An, Kon Tum, Cần Thơ. Học sinh tự điền vào bộ câu hỏi điều tra Sức khỏe học sinh tồn cầu (Global School-based Student health Survey Questionnaires). ...

pdf6 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 292 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bạo lực và bắt nạt ở học sinh một số trường Trung học Cơ sở và Trung học Phổ thông năm 2017, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Cơng Cộng 375 BẠO LỰC VÀ BẮT NẠT Ở HỌC SINH MỘT SỐ TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ VÀ TRUNG HỌC PHỔ THƠNG NĂM 2017 Trần Quỳnh Anh*, Nguyễn Thị Hồng Diễm** TĨM TẮT Đặt vấn đề: Bạo lực và bắt nạt ở lứa tuổi học sinh trung học cơ sở (THCS) và trung học phổ thơng (THPT) là một trong những vấn đề cần quan tâm hiện nay do mức độ phổ biến và những hậu quả về thể chất và tinh thần. Mục tiêu: Xác định tỷ lệ học sinh tham gia đánh nhau trong 12 tháng qua, tỷ lệ học sinh bị bắt nạt trong 30 ngày qua và tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến tỷ lệ học sinh tham gia đánh nhau và bị bắt nạt. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mơ tả cắt ngang được tiến hành trên 6.407 học sinh của 24 trường trung học cơ sở và trung học phổ thơng tại 4 tỉnh Hải Phịng, Nghệ An, Kon Tum, Cần Thơ. Học sinh tự điền vào bộ câu hỏi điều tra Sức khỏe học sinh tồn cầu (Global School-based Student health Survey Questionnaires). Kết quả: Tỷ lệ học sinh đã tham gia đánh nhau và bị bạn đánh trong 12 tháng qua là 14,5% và 13,4%. Trong 30 ngày qua, tỷ lệ học sinh bị bắt nạt là 18,4%. Học sinh nam cĩ nguy cơ bị đánh cao gấp 2 lần (OR=1,91; 95% CI:1,66-2,18); tham gia đánh nhau cao gấp 3 lần (OR=3,29; 95% CI:2,81-3,86); và bị bắt nạt cao gấp 1,2 lần so với học sinh nữ (OR=1,21; 95% CI:1,04-1,40). Học sinh THCS cĩ nguy cơ bị đánh cao gấp 2,4 lần (OR=2,4; 95% CI:2,08-2,76); tham gia đánh nhau cao gấp 2,5 lần (OR=2,51; 95% CI: 2,14-1,09) và bị bắt nạt cao gấp 1,9 lần (OR=1,92; 95% CI:1,64-2,24) so với nhĩm học sinh THPT. Kết luận: Tỷ lệ học sinh trải nghiệm với bạo lực thể chất và bắt nạt dưới 20% trong số học sinh được điều tra. Học sinh THCS, học sinh nam cĩ nguy cơ trải nghiệm với bạo lực thể chất và bắt nạt nạt cao hơn học sinh THPT, học sinh nữ. Từ khĩa: học sinh, bạo lực, bắt nạt, đánh nhau ABSTRACT VIOLENCE AND BULLYING AMONG SECONDARY SCHOOLS AND HIGH SCHOOL STUDENTS IN 2017 Tran Quynh Anh, Nguyen Thi Hong Diem * Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 – No. 5 - 2019: 374 – 380 Background: Violence and bullying among secondary school and high school students is one of important public health concerns nowadays due to prevalence and consequences on students’ physical and mental health. Objectives: 1) To estimate the percentage of students who were in physical fight during past 12 months and bullied during past 30 days. 2) To analyze some related factors with fighting and bulling among students Methods: A cross-sectional study was conducted on 6.407 students at 24 secondary and high schools grades in four provinces of Hải Phịng, Nghệ An, Kon Tum, Cần Thơ. Students completed GSHS self-reported questionnaire. Results: The percentage of students who were in a physical fight and being fighted during past 12 months were 14.5% and 13.4%, respectively. The percentage of students who reported being bullied during past 30 days was 18.4%. Male student had a twice higher risk of being fighted (OR=1,91; 95% CI=1,66-2,18); three times higher risk of being in physical fight (OR=3,29; 95% CI=2,81-3,86); and 1.2 times higher risk of being bullied *Viện Đào tạo Y học Dự phịng và Y tế Cơng cộng-Trường Đại học Y Hà Nội **Cục Y tế Dự phịng-Bộ Y tế Tác giả liên lạc: TS.Trần Quỳnh Anh ĐT: 0983513183 Email: tranquynhanh@hmu.edu.vn Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2018 Chuyên Đề Y Tế Cơng Cộng 376 (OR=1,21; 95% CI=1,04-1,40) than female students. Secondary school students had 2.4 times higher risk of being fighted (OR=2,4; 95% CI=2,08-2,76); 2.5 times times higher risk of being in physical fight (OR=2,51; 95% CI=2,14-1,09) and twice higher risk of being bullied (OR=1,92; 95% CI=1,64-2,24) than high school students. Conclusion: The number of secondary and high school students experienced with physical violence and bullying was under 20%. Secondary school students, male students had higher risks of experiences with physical violence and bullying than high school students and female students. Keywords: school students, violence, bullying, fighting ĐẶT VẤN ĐỀ Bạo lực và bắt nạt trong học sinh đang trở thành một vấn đề y tế cơng cộng nghiêm trọng do mức độ phổ biến và những hậu quả về thể chất và tinh thần lên trẻ em(12). Hậu quả của bạo lực và bắt nạt cĩ thể là những tổn thương về thể chất hoặc tinh thần, thậm chí là cái chết. Ngồi ra, bạo lực và bắt nạt ở lứa tuổi học sinh cũng cĩ thể mang tới những hành vi trong tương lai cĩ ảnh hướng xấu tới sức khỏe như lạm dụng rượu, sử dụng ma túy, tự sát. Trầm cảm, rối loạn lo âu và nhiều vấn đề tâm thần khác cũng là hậu quả của bạo lực và bắt nạt(2,11). Bạo lực học đường được định nghĩa như là một dạng bạo lực ở nhĩm tuổi trẻ xảy ra ở trường học, trên đường đến trường hoặc trong suốt những sự kiện tổ chức tại trường học.Một học sinh cĩ thể là thủ phạm, nạn nhân hoặc người chứng kiến. Người gây ra bạo lực học đường cĩ thể là học sinh, giáo viên hoặc nhân viên trường học(2,9). Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) và Quỹ Nhi đồng Liên hợp Quốc (UNICEF) đã phân loại bạo lực học đường thành 3 dạng chính: bạo lực thể chất, bạo lực tinh thần và bạo lực tình dục(12,14). Bạo lực về thể chất được cho là những hành động xâm phạm về thể xác với ý định làm tổn thương cơ thể của nạn nhân như là đánh, đá, nhốt, chém bằng dao hoặc bắn bằng súng. Bạo lực tinh thần bao gồm những xâm phạm bằng lời nĩi hoặc cảm xúc như là cách ly, phớt lờ, sỉ nhục, lan truyền tin đồn, chế giễu, làm nhục, đe dọa hay những trừng phạt tâm lý khác. Bạo lực tinh thần cĩ thể kết hợp hoặc khơng với bạo lực thể chất. Bạo lực tình dục là những đe dọa về tình dục, quấy rối hoặc lạm dụng tình dục, ép buộc hay cưỡng bức tình dục(12). Mặt khác, bạo lực học đường cịn cĩ thể phân loại thành các dạng trừng phạt như trừng phạt thân thể, trừng phạt tinh thần, bạo lực tình dục và giới; đánh nhau và bắt nạt(2,9). Trừng phạt thân thể như là đánh hoặc vụt bằng gậy thường được sử dụng như một hình thức kỉ luật phố biến ở nhiều nơi trên thế giới. Bắt nạt là một hình thức bạo lực thường trên sân trường và chiếm tỷ cao hơn đánh nhau(8). Bắt nạt thường xảy ra khi cĩ sự khơng cân bằng về quyền lực giữa kẻ bắt nạt và nạn nhân. Bắt nạt cĩ thể được định nghĩa như là một hành vi bạo lực cĩ chủ ý và hung hăng lên nạn nhân, khiến cho nạn nhân cảm thấy bất lực và dễ bị tổn thương(1,13). Bắt nạt cĩ thể là những hành vị bạo lực về thể chất như đánh đập, phá hủy tài sản hay là bạo lực về tinh thần như trêu chọc, xúc phạm, đe dọa hoặc cơ lập(7). Nguyên nhân của bắt nạt thường cĩ liên quan đến sự phân biệt đối xử với những học sinh đến từ những gia đình nghèo, dân tộc thiểu số hay cĩ những đặc điểm khác biệt về ngoại hình hoặc tính cách(9). Theo kết quả của Điều tra sức khỏe học sinh Tồn cầu sử dụng số liệu từ năm 2003 đến 2005 thì cĩ từ 20% đến 65% trẻ em trong độ tuổi đến trường đã bị bắt nạt bằng lời nĩi hoặc thể chất trong 1 tháng(13). Mặc dù bắt nạt phổ biến trong sân trường tuy nhiên khơng phải bắt nạt luơn luơn được tố cáo. Một nghiên cứu tại Anh đã cho thấy khoảng 30% học sinh đã khơng kể với bất cứ ai về việc bị bắt nạt tại trường học(10). Hình thức phổ biến nhất của bắt nạt là thơng qua lời nĩi, tuy nhiên bắt nạt bằng thể chất cũng thường xuyên diễn ra và cĩ thể kết hợp đồng thời cùng bắt nạt bằng lời nĩi(6,7). Ở nước ta đã cĩ một số nghiên cứu về bạo Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Cơng Cộng 377 lực và bắt nạt ở học sinh nhưng ở quy mơ nhỏ. Năm 2017 Cục Y tế Dự phịng tiến hành một khảo sát về hành vi sức khỏe của học sinh tại 4 tỉnh Hải Phịng, Nghệ An, Kontum, Cần Thơ nhằm cung cấp những bằng chứng cập nhật về thực trạng hành vi sức khỏe của học sinh, giúp cho việc đưa ra các chính sách ưu tiên trong chăm sĩc sức khỏe học sinh. Trong khuơn khổ khảo sát này, bạo lực và bắt nạt ở học sinh trung học cơ sở (THCS) và trung học phổ thơng (THPT) là một nội dung quan trọng đã được triển khai. Mục tiêu nghiên cứu Xác định tỷ lệ học sinh tham gia đánh nhau trong 12 tháng qua và tỷ lệ học sinh bị bắt nạt trong 30 ngày qua. Tìm hiểu một số yếu tố liên quan với tỷ lệ học sinh tham gia đánh nhau và bị bắt nạt. ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu Học sinh tại các trường học được lựa chọn vào nghiên cứu. Tổng cộng mỗi tỉnh nghiên cứu 6 trường tại 1 quận và 2 huyện. Tiêu chí chọn quận, huyện Là quận, huyện cĩ điều kiện kinh tế xã hội trung bình trong tỉnh, khơng chọn quận, huyện giàu hay quận, huyện nghèo của tỉnh. Tại mỗi quận, huyện sẽ lựa chọn 02 trường, 01 trường trung học cơ sở và 01 trường trung học phổ thơng. Phương pháp nghiên cứu Thiết kế nghiên cứu Mơ tả cắt ngang Địa điểm nghiên cứu Lựa chọn chủ đích 4 tỉnh tham gia vào nghiên cứu là Hải Phịng, Nghệ An, Kon Tum, Cần Thơ. Đây là 4 tỉnh nằm ở các vùng sinh thái khác nhau của đất nước và cĩ điều kiện kinh tế xã hội khác nhau. Tại mỗi tỉnh, lựa chọn cĩ chủ đích 01 quận và 02 huyện để cĩ được số liệu của khu vực thành thị và nơng thơn trong tỉnh. Cỡ mẫu Cỡ mẫu ước tính cho 1 tỉnh. Sử dụng cơng thức tính cỡ mẫu ước lượng cho một tỷ lệ trong quần thể. Cỡ mẫu n tính được = 1.050. Số học sinh điều tra tại mỗi tỉnh là 1.050 x 1,5 (hệ số chọn mẫu) = 1.600 học sinh. Học sinh điều tra cho 4 tỉnh là 1.600 x 4 = 6.400 học sinh. Thực tế đã điều tra trên 6.407 học sinh. Chọn mẫu Tại mỗi tỉnh chọn chủ đích 6 trường: 2 trường khu vực thành thị và 4 trường khu vực nơng thơn. Trong 2 trường ở mỗi khu vực cĩ 1 trường THCS và 1 trường THPT. Tại mỗi trường THCS, chọn học sinh khối 8 và khối 9, mỗi khối chọn ngẫu nhiên 3 lớp. Tại mỗi trường THPT, chọn học sinh cả ba khối 10, 11 và 12, mỗi khối chọn ngẫu nhiên 2 lớp, triển khai tồn bộ học sinh trong lớp tham gia vào nghiên cứu. Tiêu chí chọn đối tượng nghiên cứu: Học sinh cĩ mặt tại lớp học tại thời điểm tiến hành điều tra và đồng ý tham gia điền phiếu. Kỹ thuật và cơng cụ thu thập thơng tin Nghiên cứu sử dụng kỹ thuật phỏng vấn gián tiếp. Học sinh tự điền vào bộ câu hỏi tự điền khuyết danh, chiều cao và cân nặng của học sinh được đo bằng thước đo chiều cao gắn tường và cân điện tử. Bộ câu hỏi của Điều tra sức khỏe học sinh tồn cầu (Global School-related Health Student Survey) tại Việt Nam được sử dụng cho nghiên cứu này. Bộ câu hỏi Điều tra sức khỏe học sinh tồn cầu gồm 80 câu hỏi, trong đĩ cĩ các câu hỏi về số lần tham gia đánh nhau, bị đánh và bị bắt nạt. Số liệu được thu thập tại lớp học. Học sinh của lớp được chọn được đề nghị ở lại lớp sau giờ học để điền phiếu. Học sinh được giải thích rõ về mục đích của nghiên cứu. Học sinh tham gia nghiên cứu tự nguyện. Nghiên cứu viên cĩ mặt tại lớp học để giải thích những thắc mắc của học sinh trong khi điền phiếu. Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2018 Chuyên Đề Y Tế Cơng Cộng 378 Biến số nghiên cứu Tham gia đánh nhau trong 12 tháng qua: từ 1 lần trở lên. Đánh nhau là khi 2 học sinh cĩ sức khỏe như nhau đánh nhau. Bị đánh trong 12 tháng qua: từ 1 lần trở lên. Bị đánh là khi một học sinh bị một học sinh (hoặc người khác) khỏe hơn hoặc nhiều học sinh (người khác) đánh. Bị bắt nạt trong 30 ngày qua. Việc bắt nạt xảy ra khi một học sinh hoặc một nhĩm học sinh nĩi hay làm một việc gì đĩ xấu đối với một học sinh khác. Khi một học sinh bị trêu tức quá nhiều hoặc bị tẩy chay Xử lý và phân tích số liệu Số liệu được làm sạch, nhập và phân tích bằng phần mềm EPI DATA và STATA. Các số liệu được trình bày dưới dạng số lượng, tỷ lệ phần trăm. Test thống kê Chi- bình phương được sử dụng trong phân tích đơn biến. Hồi quy logistics được sử dụng trong phân tích đa biến. KẾT QUẢ Bảng 1: Thơng tin về đối tượng nghiên cứu Trường Giới THCS THPT Tổng n % n % n % Nam 1.594 48,79 1.357 43,22 2.951 46,06 Nữ 1.673 51,21 1.783 56,78 3.456 53,94 Tổng 3.267 100 3.140 100 6.407 100 Tổng số đối tượng nghiên cứu là 6.407 học sinh, trong đĩ nữ chiếm tỷ lệ cao hơn nam (53,94% và 46,06%). Tỷ lệ nữ cao hơn ở cả hai nhĩm cấp học. Bảng 2: Thực trạng bạo lực và bắt nạt ở học sinh theo cấp học Trường THCS THPT Tổng n % n % n % Bị bắt nạt Cĩ 716 22,2 458 14,4 1174 18,4 Khơng 2.504 77,8 2.714 85,6 5218 81,6 Đánh nhau Cĩ 642 19,8 284 9,1 926 14,5 Khơng 2.614 80,2 2.855 90,9 5469 85,5 Bị bạn đánh Cĩ 577 17,8 275 8,8 852 13,4 Khơng 2.665 82,2 2.857 91,2 5522 86,6 Trong 30 ngày qua, tỉ lệ hoc sinh bị bắt nạt là 18,4%. Tỷ lệ đánh nhau và bị bạn đánh trong 12 tháng qua tương đương nhau (14% và 13%). Tỉ lệ học sinh bị bắt nạt, đánh nhau và bị đánh ở trường THCS cao hơn THPT. Bảng 0: Thực trạng bạo lực và bắt nạt ở học sinh theo theo giới Giới Nam Nữ Tổng n % n % n % Bị bắt nạt Cĩ 701 23,9 473 13,7 1.174 18,4 Khơng 2.241 76,1 2.977 86,3 5218 81,6 Đánh nhau Cĩ 667 22,6 259 7,5 926 14,5 Khơng 2.278 77,4 3.191 92,5 5.469 85,5 Bị bạn đánh Cĩ 435 14,8 417 12,2 852 13,4 Khơng 2.502 85,2 3.020 87,8 5.522 86,6 Tỉ lệ học sinh bị bắt nạt, đánh nhau, bị bạn đánh ở nam đều cao hơn nữ, đặc biệt là tỉ lệ đánh nhau ở nam cao gấp 3 lần ở nữ (22,6% và 7,5%). Tỉ lệ bị bạn đánh ở hai nhĩm khá tương đồng với nam là 14,8% và nữ là 12,2%. Bảng 4: Mơ hình hồi quy logistic thể hiện mối liên quan giữa giới, cấp học, dân tộc, học lực của học sinh và bạo lực, bắt nạt Bị đánh Tham gia đánh nhau Bị bắt nạt OR (95% CI) OR (95% CI) OR (95% CI) Giới Nữ Nam 1,91 (1,66-2,18) 3,29 (2,81-3,86) 1,21 (1,04-1,40) Cấp học THPT THCS 2,40 (2,08-2,76) 2,51(2,14-2,94) 1,92 (1,64-2,24) Dân tộc Kinh Khác 1,07 (0,76-1,51) 0,71 (0,46- 1,09) 0,74(0,48-1,13) Học lực Xuất sắc 1 1 1 Giỏi 0,77 (0,51-1,17) 0,69 (0,44-1,10) 1,04 (0,61-1,78) Khá 0,91 (0,60-1,37) 0,80 (0,51-1,25) 1,30 (0,77-2,19) TB 1,01(0,66-1,54) 1,16 (0,73-1,84) 1,51 (0,89-2,58) Kết quả phân tích cho thấy giới tính là một trong những yếu tố dự đốn khả năng bị đánh, tham gia đánh nhau và bị bắt nạt của học sinh, Với OR tương ứng là 1,91 (95% CI: 1,66 – 2,18); 3,29 (95% CI: 2,81 – 3,86); 1,21 (95% CI: 1,04 – 1,40), học sinh nam cho thấy xu hướng bị đánh cao gấp 2 lần, xu hướng tham gia đánh nhau cao gấp 3 lần, và xu hướng bị bắt nạt cao gấp 1,2 lần so với học sinh nữ. Khi phân tích các yếu tổ liên quan đến nhĩm Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Cơng Cộng 379 trường thì học sinh THCS đã cho thấy xu hướng bị đánh cao gấp 2,4 lần (OR: 2,4; 95% CI: 2,08 – 2,76); tham gia đánh nhau cao gấp 2,5 lần (OR: 2,51; 95% CI: 2,14 – 1,09) và bị bắt nạt cao gấp 1,9 lần (OR: 1,92; 95% CI: 1,64 – 2,24) so với nhĩm học sinh THPT. Các mối liên quan giữa dân tộc, học lực với tỷ lệ học sinh bị đánh, tham gia đánh nhau, và bị bắt nạt khơng được tìm thấy. BÀN LUẬN Đây là một điều tra khảo sát hành vi sức khỏe học sinh lứa tuổi vị thành niên quy mơ lớn triển khai tại 4 tỉnh Hải Phịng, Nghệ An, Kon Tum, Cần Thơ. Đây là 4 tỉnh nằm ở các vùng sinh thái khác nhau của đất nước và cĩ điều kiện kinh tế xã hội khác nhau. Tổng cộng đã cĩ 12 trường trung học cơ sở và 12 trường trung học phổ thơng được chọn vào tham gia nghiên cứu với số lượng học sinh tham gia trả lời phiếu lên đến hơn 6000 em. Năm 2012 Cục Y tế Dự phịng đã phối hợp với Tổ chức Y tế Thế giới triển khai một điều tra sử dụng Bộ câu hỏi của Điều tra sức khỏe học sinh tồn cầu (Global School-related Health Student Survey). Do đĩ bộ câu hỏi này đã được chuẩn hĩa tiếng Việt và tỷ lệ của cuộc khảo sát này cĩ thể so sánh với điều tra năm 2012. Trong tổng số 6.407 học sinh của 24 trường từ 4 tỉnh tham gia vào nghiên cứu, học sinh nữ chiếm tỷ lệ cao hơn nam (53,9% và 46,06%). Tỷ lệ nữ cao hơn ở cả hai nhĩm tuổi: từ 13-15 và từ 16- 17. Với bộ câu hỏi của Điều tra sức khỏe học sinh tồn cầu, học sinh tham gia vào nghiên cứu tự báo cáo về các trải nghiệm đối với việc đánh nhau, bị đánh trong 12 tháng qua và bắt nạt trong 30 ngày qua. Theo bộ câu hỏi, đánh nhau là khi 2 học sinh cĩ sức khỏe như nhau đánh nhau. Bị đánh là khi một học sinh bị một học sinh (hoặc người khác) khỏe hơn hoặc nhiều học sinh (người khác) đánh.Việc bắt nạt xảy ra khi một học sinh hoặc một nhĩm học sinh nĩi hay làm một việc gì đĩ xấu đối với một học sinh khác. Khi một học sinh bị trêu tức quá nhiều hoặc bị tẩy chay cũng được gọi là bị bắt nạt. Khi hai học sinh khỏe như nhau cãi nhau, đánh nhau hoặc trêu đùa nhau cho vui thì khơng gọi là bắt nạt. Như vậy trong nghiên cứu này tập trung vào đo lường tỷ lệ học sinh tham gia đánh nhau và bị bắt nạt, việc này cĩ thể xảy ra trong khuơn viên trường học hoặc bên ngồi trường học. Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ học sinh bị bạn đánh trong 12 tháng qua là 13,4%. Tỷ lệ học sinh đã tham gia đánh nhau trong 12 tháng qua là 14,5%. Trong 30 ngày qua, tỷ lệ học sinh báo cáo bị bắt nạt là 18,4%. Như vậy tỷ lệ học sinh báo cáo bị bắt nạt cao hơn tỷ lệ đánh nhau, mặc dù tỷ lệ đánh nhau được hỏi trong 12 tháng qua cịn tỷ lệ bắt nạt được hỏi trong 30 ngày qua. Kết quả này cũng tương đồng với các nghiên cứu trước đây cho rằng bắt nạt là một hình thức bạo lực thường trên sân trường và chiếm tỷ cao hơn đánh nhau(8). So sánh theo cấp trường và theo giới cho thấy cĩ những sự khác biệt. Trong đĩ số học sinh bị bạn đánh chủ yếu ở nhĩm học sinh THCS với 17,8%, cao hơn gấp đơi tỷ lệ này ở học sinh THPT (8,8%). So sánh theo giới, số học sinh nam bị đánh cao hơn số học sinh nữ với 14,8% và 12,2%. Tỷ lệ tham gia đánh nhau của nhĩm học sinh THCS là 22,2%, cao hơn tỷ lệ này ở nhĩm học sinh THPT với 14,4%. So sánh theo giới, số học sinh nam tham gia đánh nhau cao gấp 3 lần số học sinh nữ (22,6% và 7,5%). Tỷ lệ học sinh THCS bị bắt nạt trong 30 ngày qua cao hơn tỷ lệ này ở học sinh THPT. Số học sinh nam bị bắt nạt nhiều hơn học sinh nữ (23.9% và 13,7%). Phân tích hồi quy logistics cho thấy học sinh nam cĩ nguy cơ đánh nhau, bị đánh và bị bắt nạt cao hơn học sinh nữ. Học sinh THCS cĩ nguy cơ tham gia đánh nhau và bị bắt nạt cao hơn học sinh THPT. Trong nghiên cứu của chúng tơi, học sinh THCS được chọn vào khảo sát là học sinh lớp 8 và lớp 9. Như vậy, các chương trình tuyên truyền, giáo dục kỹ năng sống cho học sinh nên ưu tiên hướng tới nhĩm tuổi này và hướng tới các học sinh nam. Nghiên cứu của chúng tơi khơng phát hiện thấy mối liên quan giữa dân tộc và học lực của học sinh với đánh Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2018 Chuyên Đề Y Tế Cơng Cộng 380 nhau và bắt nạt. Khi so sánh với kết quả của Điều tra Tồn cầu về Sức khỏe học sinh (GSHS) năm 2013 tại Việt Nam cho thấy tỷ lệ học sinh bị đánh và bị bắt nạt trong nghiên cứu này thấp hơn so với GSHS 2013. Tỷ lệ trong điều tra GSHS 2013 lần lượt là 17,3% và 23,4%. Điều tra GSHS 2013 cũng báo cáo tỷ lệ học sinh bị đánh ở cấp THCS cao hơn cấp THPT, và ở nam cao hơn nữ. Về tỷ lệ bắt nạt trong 30 ngày qua, điều tra GSHS 2013 cho thấy tỷ lệ cao hơn ở cấp THCS, nhưng lại khơng cĩ khác biệt về giới(1). Một nghiên cứu mới đây ở Trung quốc, thu thập số liệu từ 7 tỉnh với học sinh ở tất cả các cấp học, đã cho biết tỷ lệ bắt nạt được báo cáo, bắt nạt người khác và chứng kiến bắt nạt lần lượt là 26,10%, 9,03% và 28,90%. Nghiên cứu này cũng cho thấy học sinh cấp học thấp hơn cĩ nguy cơ bị bắt nạt cao hơn và học sinh nam cĩ nguy cơ bị bắt nạt cao hơn, tương tự như nghiên cứu của chúng tơi(4). Đồng thời, kết quả nghiên cứu của chúng tơi cũng thấp hơn với một số nghiên cứu khác trước đĩ(6,5). Sự khác biệt này cĩ thể được giải thích do sự khác nhau về các nhĩm đối tượng tham gia và các câu hỏi về bạo lực học đường. Kết quả nghiên cứu của tổ chức Young Lives thực hiện tại Việt Nam năm 2013 cho thấy cĩ 5% học sinh đã từng bị phạt bởi giáo viên và một trong những nguyên nhân bỏ học của học sinh là do sự la mắng của giáo viên(6). Theo UNICEF và WHO thì bạo lực học đường cĩ thể xảy ra giữa các học sinh nhưng cũng cĩ thể gây ra bởi giáo viên hoặc nhân viên trường học(12,14). Tuy nhiên, các hình thức bạo lực do giáo viên gây ra khơng nhận được nhiều sự chú ý vì một số trường học chấp nhận trừng phạt về thể chất và bằng lời nĩi như là các hình thức rèn luyện kỉ luật cho học sinh. Bên cạnh đĩ, học sinh cũng thường sợ hãi và khơng báo cáo các hình thức bạo lực do giáo viên gây ra(4). Do hạn chế của bộ câu hỏi GSHS, trong nghiên cứu này chúng tơi chỉ đo lường được tỷ lệ bạo lực thể chất (đánh nhau) mà chưa tìm hiểu được các dạng bạo lực khác, cũng như chưa tìm hiểu được đối tượng gây bạo lực (do giáo viên, cha mẹ, bạn bè hay từ những người khác). Chúng tơi cũng mới tính tốn được tỷ lệ bị bắt nạt mà chưa đo lường được tỷ lệ học sinh bắt nạt các bạn khác. Mặc dù vậy, kết quả nghiên cứu của chúng tơi đã cung cấp những đề xuất quan trọng trong việc các chương trình sức khỏe học sinh nên tập trung ưu tiên vào nhĩm học sinh THCS, nhĩm học sinh nam, và vấn đề bắt nạt đang nổi trội hơn bạo lực thể chất. KẾT LUẬN Tỷ lệ học sinh đã tham gia đánh nhau và bị bạn đánh trong 12 tháng qua là 14,5% và 13,4%. Trong 30 ngày qua, tỷ lệ học sinh báo cáo bị bắt nạt là 18,4%. Học sinh THCS, học sinh nam cĩ nguy cơ tham gia đánh nhau và bị bắt nạt cao hơn học sinh THPT, học sinh nữ. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. CDC (2013). Global School-based Student Health Survey 2013 - Vietnam factsheet. WHO, https://extranet.who.int/ncdsmicrodata/index.php/catalog/482. 2. Covell K (2005). United Nations Secretary-General’s Study on Violence Against Children, North American Regional Consultation. Toronto: UNICEF Canada. 3. Gladden RM, et al (2014). "Bullying surveillance among youths: Uniform definitions for public health and recommended data elements, version 1.0". CDC, https://www.cdc.gov/violenceprevention/pdf/bullying- definitions-final-a.pdf. 4. Han Z, Zhang G and Zhang H (2017). School Bullying in Urban China: Prevalence and Correlation with School Climate Int. J Environ Res Public Health, 14(10):1116. 5. Horton P (2011). School bullying and power relations in Vietnam. Linkưping University Electronic Press, https://www.researchgate.net/publication/274210483_School_Bu llying_and_Power_Relations_in_Vietnam. 6. Nguyen Thi Thu Hang và Tran Ngo Thi Minh Tam (2013). "School Violence Evidence from Young Lives in Vietnam". Vietnam Policy, pp.1. 7. Olweus D (1995). Bullying at School: What We Know and What We Can Do (Understanding Children's Worlds)–UK. Oxford: Blackwell Publishing. 8. Olweus D, Awiria O and Byrne B (1994). "Bullying at School- What We Know and What We Can DoCoping with Bullying in Schools". URL: https://www.amazon.com/Bullying-School- What-Know-Can/dp/0631192417. 9. Pinheiro PS (2006). "World report on violence against children". Unicef, https://www.unicef.org/violencestudy/reports.html 10. Smith PK, et al (2000). "What good schools can do about bullying: Findings from a survey in English schools after a decade of research and action”. Childhood, 7(2):193-212.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfbao_luc_va_bat_nat_o_hoc_sinh_mot_so_truong_trung_hoc_6462_2212149.pdf