Tài liệu Báo cáo Tốt nghiệp biện pháp mở rộng và nâng cao hiệu quả cho vay hộ sản xuất ở hội sở ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Hà Giang: Báo cáo tốt nghiệp 
“Biện pháp mở rộng và nâng cao hiệu quả cho vay hộ sản xuất ở Hội sở 
Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Hà Giang”
Mục lục 
Lời nói đầu 
Chương I 
hộ sản xuất và vai trò của tín dụng Ngân hàng nông nghiệp 
đối với sự phát triển của hộ sản xuất 
1.1. Vị trí, vai trò của kinh tế hộ sản xuất ................................................... 10 
1.1.1. Vị trí: .......................................................................................... 10 
1.1.2. Đặc trưng của kinh tế hộ sản xuất. .............................................. 11 
1.1.3. Sự phát triển của kinh tế hộ sản xuất và vai trò của hộ sản xuất. . 13 
1.1.3.1. Sự phát triển của kinh tế hộ sản xuất. ................................... 13 
1.1.3.2. Vai trò của hộ sản xuất đối với nền kinh tế nông nghiệp, nông 
thôn. .................................................................................... 14 
1.1.3.3. Xu hướng vận động của kinh tế hộ sản xuất: .................
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
86 trang | 
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1254 | Lượt tải: 0
              
            Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Báo cáo Tốt nghiệp biện pháp mở rộng và nâng cao hiệu quả cho vay hộ sản xuất ở hội sở ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Hà Giang, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Báo cáo tốt nghiệp 
“Biện pháp mở rộng và nâng cao hiệu quả cho vay hộ sản xuất ở Hội sở 
Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Hà Giang”
Mục lục 
Lời nói đầu 
Chương I 
hộ sản xuất và vai trò của tín dụng Ngân hàng nông nghiệp 
đối với sự phát triển của hộ sản xuất 
1.1. Vị trí, vai trò của kinh tế hộ sản xuất ................................................... 10 
1.1.1. Vị trí: .......................................................................................... 10 
1.1.2. Đặc trưng của kinh tế hộ sản xuất. .............................................. 11 
1.1.3. Sự phát triển của kinh tế hộ sản xuất và vai trò của hộ sản xuất. . 13 
1.1.3.1. Sự phát triển của kinh tế hộ sản xuất. ................................... 13 
1.1.3.2. Vai trò của hộ sản xuất đối với nền kinh tế nông nghiệp, nông 
thôn. .................................................................................... 14 
1.1.3.3. Xu hướng vận động của kinh tế hộ sản xuất: ........................ 17 
1.2. vai trò của tín dụng Ngân hàng trong việc phát triển kinh tế hộ. ........ 18 
1.2.1. Khái niệm tín dụng Ngân hàng. .................................................. 18 
1.2.2 Vai trò của tín dụng ngân hàng trong việc phát triển kinh tế hộ sản 
xuất ............................................................................................. 18 
1.2.2.1. Đáp ứng nhu cầu vốn cho hộ sản xuất để duy trì quá trình sản 
xuất liên tục, góp phần đầu tư phát triển nền kinh tế:........... 19 
1.2.2.2. Thúc đẩy quá trình tập trung sản xuất trên cơ sở đó góp phần 
tích cực vào quá trình vận động liên tục của nguồn vốn: ..... 19 
1.2.2.3. Tín dụng ngân hàng là công cụ tài trợ đắc lực cho các ngành 
kinh tế: ................................................................................ 20 
1.2.2.4. Tín dụng ngân hàng góp phần hạn chế cho vay nặng lãi ở 
nông thôn: ........................................................................... 21 
1.2.2.5. Tín dụng ngân hàng kiểm soát bằng đồng tiền và thúc đẩy sản 
xuất thực hiện chế độ hạch toán kinh tế: .............................. 21 
1.2.2.6. Tín dụng ngân hàng thúc đẩy hộ sản xuất tiếp cận mở rộng sản 
xuất hàng hoá: ..................................................................... 22 
1.2.2.7. Vai trò của tín dụng ngân hàng về mặt chính trị xã hội: ....... 22 
1.2.3. Đầu tư tín dụng đối với hộ sản xuất của Ngân hàng Nông nghiệp 
và Phát triển nông thôn:............................................................... 23 
1.2.3.1. Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả đầu tư tín dụng ngân hàng đối với 
hộ sản xuất : ........................................................................ 23 
1.2.3.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiẹu quả tín dụng đối với hộ sản 
xuất : ................................................................................... 26 
1.2.3.3. Qui trình và phương thức cho vay ........................................ 27 
Chương II 
thực trạng về cho vay hộ sản xuất ở hội sở Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông 
thôn tỉnh Hà Giang 
2.1- Tình hình kinh tế - xã hội trên địa bàn có ảnh hưởng đến hoạt động 
kinh doanh của Ngân hàng ................................................................. 31 
2.1.1- Hoàn cảnh kinh tế - xã hội và môi trường kinh doanh của Ngân 
hàng: ........................................................................................... 31 
2.1.1.1. Hoàn cảnh kinh tế- xã hội. ................................................... 31 
2.1.1.2. Môi trường kinh doanh của ngân hàng . ............................... 33 
2.1.2- Đặc điểm tình hình sản xuất kinh doanh của hộ sản xuất trên địa 
bàn thị xã Hà Giang: ................................................................... 33 
2.2- Khái quát hoạt động của hội sở NHNo&PTNT tỉnh Hà Giang: ......... 35 
2.2.1- Sơ lược quá trình hình thành và phát triển của Hội sở: ............... 35 
2.2.2 - Về tình hình hoạt động kinh doanh của Hội sở NHNo & PTNT 
Hà Giang ..................................................................................... 37 
2.2.2.1- Hoạt động huy động vốn:..................................................... 38 
2.2.2.2. Về hoạt động sử dụng vốn: .................................................. 41 
2.2.2.3. Hoạt động khác: ................................................................... 47 
2.3. Thực trạng cho vay hộ sản xuất ở Hội sở Ngân hàng nông nghiệp Hà 
Giang ................................................................................................... 50 
2.3.1. Tình hình cho vay kinh tế hộ ở Hội sở Ngân hàng Nông nghiệp Hà 
Giang: ......................................................................................... 50 
2.3.2. Hoạt động cho vay đối với kinh tế hộ sản xuất ở Hội sở Ngân hàng 
Nông nghiệp Hà Giang: ............................................................... 51 
2.3.3. Đánh giá kết quả và chất lượng tín dụng hộ sản xuất của Hội sở 
Ngân hàng Nông nghiệp Hà Giang: ............................................. 58 
2.3.4. Một số tồn tại và nguyên nhân: ................................................... 59 
Chương III 
một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Hội sở Ngân hàng Nông 
nghiệp và phát triển nông thôn Hà Giang 
3.1- Những Giải pháp đối với Hội sở ngân hàng Nông nghiệp và phát triển 
nông thôn Hà Giang. ........................................................................... 64 
3.1.1. Định hướng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ở Hội sở Ngân hàng 
Nông nghiệp Hà Giang. ............................................................... 64 
3.1.2 Giải pháp của Hội sở Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông 
thôn Hà Giang ............................................................................. 66 
3.1.2.1. Xây dựng chiến lược khách hàng hợp lý và có hiệu quả. ...... 66 
3.1.2.2. Cần phải chuyển từ vị trí bị động sang vị trí chủ động trong 
hoạt động tín dụng ............................................................... 66 
3.1.2.3. Nghệ thuật cho vay - một bộ phận quan trọng trong phân tích 
tín dụng. .............................................................................. 68 
3.1.2.4. áp dụng các biện pháp bù đắp rủi ro. .................................... 69 
3.1.2.5. Công tác đào tạo và sử dụng cán bộ. .................................... 71 
3.1.2.6. Tăng cường tếp cận với khách hàng thông qua các phương 
tiện thông tin đại chúng. ...................................................... 73 
3.2. Các giải pháp điều kiện ........................................................................ 74 
3.2.1. Từ Nhà nước ............................................................................... 74 
3.2.1.1. Nhà nước cần tạo môi trường pháp lý đầy đủ, ổn định cho 
hoạt động đầu tư tín dụng của ngân hàng đối với cho vay phát 
triển nông nghiệp nông thôn. ............................................... 74 
3.2.1.2. Khuyến khích và đẩy mạnh sự nghiệp phát triển kinh tế nông 
nghiệp nông thôn. ................................................................ 75 
3.2.1.3- Từng bước hoàn thiện cơ chế hoạt động của hệ thống NHTM 
góp phần nâng cao chất lượng tín dụng. .............................. 75 
3.2.1.4. Tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan hữu quan nhằm 
nânng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng. ...... 76 
3.2.2 Giải pháp từ phiá NHNN ............................................................. 77 
3.2.2.1. Hoàn thiện các văn bản về cho vay. ..................................... 77 
3.2.2.2. Thành lập công ty bảo hiểm tín dụng. .................................. 78 
3.2.2.3- Tăng cường hiệu quả các hoạt động thanh tra, giám sát các tổ 
chức tín dụng....................................................................... 80 
3.2.2.4. Tổ chức thông tin tín dụng có hiệu quả. ............................... 81 
3.2.2.5. Tăng cường hỗ trợ đối với các NHTM. ................................ 82 
kết luận 
Lời nói đầu 
 Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng và nhà nứơc trong đó có đổi 
mới về cơ chế quản lý kinh tế, những năm qua ngành ngân hàng đã thực hiện 
được chiến lược đổi mới mạnh mẽ từ mô hình tổ chức đến phương thức hoạt 
động của mình. Về mô hình tổ chức từ hệ thống ngân hàng một cấp chuyển 
thành hệ thống ngân hàng 2 cấp, hệ thống các ngân hàng thương mại làm 
nhiệm vụ kinh doanh tiền tệ tín dụng tăng cường huy động, khai thác mọi 
nguồn vốn, tích cực đầu tư cho các thành phần kinh tế, đổi mới công tác 
thanh toán và hiện đại hoá công nghệ ngân hàng. Do đó, đã góp phần quan 
trọng vào việc thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng liên tục ở tốc độ cao, lạm 
phát được kiểm soát ở mức độ hợp lý, giá trị đồng tiền ổn định. 
Với công cuộc đổi mới toàn diện ở nước ta diễn ra dưới sự lãnh đạo 
của Đảng cộng sản Việt Nam đã đem lại những thành tựu ban đầu đáng kể, 
đặc biệt là lĩnh vực kinh tế. Nền kinh tế nước ta dần dần đẩy lùi lạm phát, sản 
xuất được mở rộng thu nhập của dân cư được nâng cao và bước đầu có tích 
luỹ cho tái đầu tư. Những thành tựu đó có đóng góp không nhỏ của ngành 
ngân hàng với tư cách là một trung gian tài chính cung cấp vốn cho các 
ngành kinh tế, thúc đẩy và tăng đầu tư góp phần tăng trưởng kinh tế. 
Hệ thống Ngân hàng thương mại nói chung và NHNo & PTNT (NHNo 
& PTNT nói riêng là một trong những ngành có vốn lớn nhất để giúp cho nền 
kinh tế nói chung và cho nông nghiệp - nông thôn nói riêng phát triển, góp 
phần quan trọng trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cây trồng, vật nuôi 
khu vực nông thôn. 
 Hộ nông dân được coi là đơn vị kinh tế tự chủ, đời sống của nông dân 
ngày càng được nâng lên, bộ mặt nông thôn ngày càng đổi mới. Những kết 
quả đó có sự đóng góp to lớn của NHNo & PTNT với phương châm "đi vay 
để cho vay", Ngân hàng Nông nghiệp đã huy động được một khối lượng vốn 
lớn để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế nhiều thành phần khu vực nông 
nghiệp - nông thôn. 
Định hướng đầu tư vốn của Ngân hàng Nông nghiệp là tiếp cận khách 
hàng, đưa vốn đến người sản xuất. Vị trí của hộ sản xuất trong việc phát triển 
kinh tế hàng hoá trong nông nghiệp là vô cùng quan trọng, nó là nguồn lực 
dồi dào cung cấp lương thực, thực phẩm, nguyên liệu cho công nghiệp chế 
biến. Đồng thời nó cũng là thị trường tiêu thụ sản phẩm của ngành công 
nghiệp, tạo công văn việc làm, tận dụng mọi nguồn lực lao động trong nông 
thôn, góp phần hạn chế các tệ nạn xã hội nhất là trong khu vực nông thôn 
hiện nay. 
Hệ thống Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn nhận thấy 
rõ sự cần thiết phải chuyển hướng nhanh đối tượng tín dụng từ khu vực kinh 
tế quốc doanh và tập thể sang khu vực kinh tế ngoài quốc doanh và hộ sản 
xuất. Đây là sự chuyển hướng phù hợp với nguyện vọng của nhân dân. Mặt 
khác đi vào thị trường tín dụng nông thôn và phù hợp với chức năng và nhiệm 
vụ của Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn. Thị trường tín dụng 
nông thôn là mảnh đất còn chứa ẩn nhiều tiềm năng mà Ngân hàng Nông 
nghiệp và phát triển nông thôn cần phải vươn tới để thực hiện nhiệm vụ kinh 
doanh và thực hiện chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước là xoá đói - giảm 
nghèo. Song hiện nay quan hệ tín dụng giữa Ngân hàng Nông nghiệp và phát 
triển nông thôn đối với kinh tế hộ sản xuất còn hạn hẹp do nhiều vướng mắc 
và trở ngại. Vì vậy, việc nghiên cứu thực trạng nhằm tìm ra nguyên nhân và 
cách tháo gỡ là rất cần thiết. 
Qua thời gian học tập tại trường ĐHTCKT Hà Nội và quá trình thực 
tập nghiên cứu, khảo sát thực tế tại Hội sở Ngân hàng Nông nghiệp và phát 
triển nông thôn Hà Giang. Em chọn đề tài nghiên cứu: “Biện pháp mở rộng và nâng 
cao hiệu quả cho vay hộ sản xuất ở Hội sở Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Hà Giang -” 
làm đề tài viết luận văn tốt nghiệp. 
Ngoài lời nói đầu và kết luận, luận văn được chia làm 3 chương. 
Chương I: Hộ sản xuất và vai trò tín dụng Ngân hàng đối với sự 
phát triển của hộ sản xuất. 
Chương II: Thực trạng cho vay hộ sản xuất tại Hội sở Ngân hàng 
Nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Hà Giang. 
Chương III: Giải pháp nâng cao hiệu quả cho vay hộ sản xuất ở 
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Hà giang. 
Chương I 
hộ sản xuất và vai trò của tín dụng Ngân hàng nông nghiệp 
đối với sự phát triển của hộ sản xuất 
 Tiếp tục thực hiện đường lối đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh 
đạo lần thứ V đã đề ra là " Xoá bỏ triệt để quan liêu, bao cấp trong giá, lương, 
tiền là yêu cầu hết sức cấp bách, là khâu đột phá có tính chất quyết định để 
đẩy mạnh sản xuất, làm chủ thị trường, ổn định và cải thiện một bước đời 
sống nhân dân" 
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã kêu gọi toàn Đảng, toàn dân phải 
triệt để thực hiện công cuộc đổi mới, chuyển nền kinh tế nước ta từ cơ chế 
quản lý kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp sang vận hành theo cơ chế 
thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng Xã hội chủ nghĩa. 
Trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường, để xây dựng và phát triển 
một nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Vốn ngân sách Nhà nước tập 
trung đầu tư cho các mục tiêu lớn của Chính phủ như xây dựng cơ sở vật chất, 
chi cho quốc phòng an ninh, văn hoá xã hội... Bản thân các thành phần kinh tế 
trong điều kiện cơ chế mới có sự cạnh tranh cần vốn để phát triển mở rộng 
sản xuất, đổi mới công nghệ, do đó nhu cầu về vốn là rất lớn, nhất là khi Nhà 
nước cho phép các thành phần kinh tế được tự do đầu tư sản xuất trong khuôn 
khổ pháp luật dưới nhiều hình thức. Như vậy vấn đề đặt ra là việc cung ứng 
vốn cho các nhà sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế như thế nào?. điều đó 
có thể thực hiện được bằng nhiều cách khác nhau thông qua nhiều nguồn như: 
vốn tự có của các thành phần kinh tế, vốn ngân sách, vốn tín dụng, vốn liên 
doanh liên kết, vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài... Nhưng trong đó có thể 
nói nguồn vốn tín dụng của các ngân hàng thương mại có vai trò quan trọng 
nhất, vì chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn hoạt động của các doanh 
nghiệp. 
Ngân hàng thương mại là tổ chức trung gian, kinh doanh trên lĩnh vực 
tín dụng - tiền tệ, mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của 
khách hàng và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu, 
thanh toán vốn giưã các thành phần kinh tế có mở tài khoản tại ngân hàng và 
có trách nhiệm hoàn trả cho khách hàng khi họ rút vốn. 
Khi nền kinh tế mở cửa các thành phần kinh tế được khuyến khích tự 
do phát triển, kinh tế ngoài quốc doanh đã thực sự trỗi dậy phát triển nhộn 
nhịp, đa dạng và phong phú. Xét cụ thể về loại hình doanh nghiệp thì kinh tế 
ngoài quốc doanh bao gồm : Hợp tác xã, công ty, doanh nghiệp tư nhân, hộ 
sản xuất... 
Hiện nay được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đã mở rộng quan hệ 
Quốc tế nhiều tổ chức Quốc tế tài trợ vốn, đầu tư vốn cho nông nghiệp, lâm 
nghiệp nhiều nguồn vốn được hình thành. Song hiện nay nguồn vốn tín dụng 
của Ngân hàng Nông nghiệp vẫn là người bạn đồng hành chủ yếu cuả các hộ 
sản xuất. 
1.1. Vị trí, vai trò của kinh tế hộ sản xuất 
1.1.1. Vị trí: 
Nước ta là một nước nông nghiệp thuần tuý với trên 80% dân số sống ở 
khu vực nông thôn, sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn chiếm giữ vai 
trò hết sức quan trọng trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường 
và phát triển kinh tế của đất nước. “Chỉ khi nào nông thôn được công nghiệp 
hoá - hiện đại hoá, khi học vấn, kiến thức và công nghệ tiên tiến nằm trong 
tay nông dân, được bà con sử dụng thành thạo và vững chắc thay cho “con 
trâu đi trước, cái cày theo sau”, khi xưởng máy mọc lên ở các làng mạc, thị 
trấn, ngành nghề phát triển rộng khắp, một bộ phận đáng kể nông dân trở 
thành công nhân công nghiệp, hình thành cục diện mới ở các vùng nông thôn 
thì lúc đó mới có thể nói công nghiệp hoá - hiện đại hoá được hoàn thành cơ 
bản trên phạm vi cả nuớc”(1). Chính vì lẽ đó kinh tế nông nghiệp nông thôn 
mà chủ nhân là hộ sản xuất có vị trí vô cùng quan trọng trong công cuộc đổi 
mới đất nước. 
Hộ sản xuất ra đời là một yêu cầu bức xúc của ngành kinh tế, thể hiện 
chủ trương, chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta. Từ khi Chỉ thị 
100 khoán 10 ra đời, kinh tế hộ sản xuất đã hình thành và phát triển đa dạng. 
Thực chất hộ sản xuất là đơn vị kinh tế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về kết quả 
sản xuất cũng như tiêu thụ sản phẩm mà mình làm ra. Nói cách khác hộ sản 
xuất là chủ thể trong mọi mối quan hệ sản xuất kinh doanh. 
1.1.2. Đặc trưng của kinh tế hộ sản xuất. 
Hộ sản xuất là bộ phận quan trọng hợp thành tổng thể nền kinh tế quốc 
dân, có mối quan hệ chặt chẽ với các ngành kinh tế quốc dân khác và có 
những đặc điểm riêng sau: 
*Đặc trưng thứ nhất: 
Cùng với quá trình chuyển đổi nền kinh tế quốc dân, các hộ sản xuất ở 
nông thôn nước ta đang chuyển dần từ cơ chế khép kín, tự cung tự cấp sang 
nền kinh tế sản xuất hàng hoá. Ngày nay các hộ nông dân không đủ làm duy 
nhất một nghề nông mà đã biết kết hợp giữa sản xuất nông nghiệp kinh doanh 
ngành nghề phụ theo hướng ai có khả năng gì thì làm nghề đó. Sự chuyển đổi 
nói trên đã giúp cho các hộ sản xuất ở nông thôn bớt lệ thuộc vào yếu tố thời 
tiết, mùa vụ góp phần nâng cao thu nhập cho hộ, đẩy nhanh quá trình chuyển 
dịch cơ cấu kinh tế ở nông thôn. 
* Đặc trưng thứ hai: 
 Quy mô sản xuất và cơ sở vật chất kỹ thuật của các hộ sản xuất ở các 
vùng, các khu vực và các tỉnh thành khác nhau có sự chênh lệch đáng kể. 
Thậm chí đối với các hộ sản xuất trong cùng một vùng cũng có sự khác biệt 
về qui mô, cơ sở vật chất kỹ thuật, trình độ lực lượng lao động, khả năng vốn 
tự có, sở dĩ có sự khác biệt nói trên một phần là do mỗi vùng mỗi khu vực có 
những đặc điểm riêng về điều kiện địa lý, khí hậu nhưng phần lớn là do sự 
khác biệt về tiềm năng kinh tế giữa các vùng. Bên cạnh đó cũng có một yếu tố 
khác ảnh hưởng tới quy mô, cơ sở vật chất kỹ thuật của các hộ sản xuất đó là 
khả năng của chính bản thân các hộ đó. 
Do có sự chênh lệch lớn về quy mô và cơ sở vật chất kỹ thuật giữa các 
hộ, cùng với sự tồn tại của một số lượng lớn các hộ sản xuất nhỏ lẻ, tất yếu sẽ 
dẫn đến quá trình tích tụ và tập trung về ruộng đất, cơ sở vật chất kỹ thuật, 
quá trình tích tụ và tập trung này sẽ góp phần giảm bớt chất phân tán lạc hậu 
của nền kinh tế tiểu nông tạo điêù kiện thuận lợi để phát triển, mở rộng sản 
xuất kinh tế hộ. 
* Đặc trưng thứ ba: 
 Cùng với sự chuyển hoá nền kinh tế từ cơ chế tập trung quan liêu bao 
cấp sang cơ chế thị trường, kinh tế hộ sản xuất cũng sẽ suất hiện thêm nhiều 
hình thức tổ chức kinh tế hộ sản xuất khác nhau như hộ nhận khoán, hộ nhận 
thầu, hộ gia đình là hộ thành viên của hợp tác xã, nông trường, tập đoàn sản 
xuất, doanh nghiệp Nhà nước. Sự xuất hiện các hình thức tổ chức mới đã góp 
phần nâng cao hiệu quả kinh tế hộ sản xuất, tăng thu nhập của hộ. Tuy nhiên 
các hình thức tổ chức như thế này cũng chịu mức độ rủi ro rất lớn vì vậy Nhà 
nước cần ban hành các chính sách hỗ trợ thích hợp để kinh tế hộ sản xuất 
củng cố và nâng cao vị trí của mình trong tổng thể nền kinh tế quốc dân. 
Với những đặc trưng kể trên kinh tế hộ sản xuất được coi là nhân tố 
quyết định sự chuyển biến mạnh mẽ trong sản xuất nông nghiệp và phát triển 
nông thôn. 
 Trong điều kiện kinh tế nước ta hiện nay và trong tương lai, quan tâm 
phát triển kinh tế hộ sản xuất, làm cho hộ nghèo giảm bớt, hộ giàu thêm nhiều 
là vấn đề quan trọng trong phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới 
hiện đại rút ngắn khoảng cách giữa thành thị và nông thôn. Đây là vấn đề lớn 
quan trọng. 
 Hộ sản xuất thuộc nhiều ngành nghề khác nhau như dịch vụ, tiểu thủ 
công nghiệp, trồng trọt, chăn nuôi, song phần lớn hiện nay trong tổng số lao 
động nằm trong các ngành sản xuất vật chất thì riêng ngành nông nghiệp 
chiếm hơn 70%. Hộ sản xuất vừa sản xuất vừa làm nghề phụ kinh doanh để 
tăng thu nhập cho gia đình nâng cao đời sống . 
1.1.3. Sự phát triển của kinh tế hộ sản xuất và vai trò của hộ sản 
xuất. 
1.1.3.1. Sự phát triển của kinh tế hộ sản xuất. 
* Trước Chỉ thị 100. 
Sản xuất nông nghiệp nông thôn tồn tại dưới hình thức tập trung như 
hợp tác xã, nông trường quốc doanh... người lao động làm việc theo kiểu ghi 
công tính điểm, họ không có quyền gì trong vấn đề lựa chọn kế hoạch sản 
xuất, ăn chia, phân phối hay sở hữu tư liệu sản xuất. Lúc này khái niệm hộ sản 
xuất chưa có, hiệu quả sản xuất kém. 
* Sau Chỉ thị 100 và khoán 10. 
Khi chủ trương của Nhà nước được đưa ra thực hiện việc giao khoán 
sản phẩm cuối cùng đến nhóm người lao động thì hình thức hộ sản xuất nhận 
khoán ra đời. Họ là người nhận ruộng khoán và tự mình mua sắm vật tư sản 
xuất, tiến hành đầu tư thâm canh trên ruộng của mình và chỉ phải nộp sản 
phẩm theo quy định cho tập thể. Nhất là khi có quyết 652 của Nhà nước thực 
hiện giao ruộng đất lâu dài cho hộ gia đình thì kinh tế sản xuất đã được thực 
sự phát triển theo hướng đa năng trong tất cả các ngành nông - lâm - ngư - 
diêm nghiệp... Cùng trong bối cảnh đó, do biết sắp xếp bố trí lao động phù 
hợp mà các hộ tiểu thủ công nghiệp, hộ thương nghiệp dịch vụ đã hình thành, 
củng cố ngày càng phát triển. 
1.1.3.2. Vai trò của hộ sản xuất đối với nền kinh tế nông nghiệp, 
nông thôn. 
Trước đây kinh tế nông nghiệp nông thôn phát triển một cách ỳ ạch, 
hiệu quả thấp, vì vậy việc bố trí lao động chưa hợp lý, cách tổ chức sản xuất 
và phân phối sản phẩm chưa khích lệ được người lao động. Nhưng từ khi hộ 
sản xuất ra đời, kinh tế hộ sản xuất phát triển rộng rãi thì việc tận dụng lao 
động về mặt số lượng, cường độ đã được sử dụng hợp lý. 
Chính vì vậy, hộ sản xuất đã tự chủ trong tất cả các khâu công việc: Từ 
việc mua sắm vật tư thiết bị sản xuất đến việc bố trí cơ cấu cây trồng, vật nuôi 
cho phù hợp với đặc điểm của từng vùng đất, từng địa phương, từng thời kỳ 
nhằm thu được hiệu quả cao và tăng cường được khối lượng hàng hoá cho 
xuất khẩu Việt Nam từ một nước nghèo, đói ăn đã trở thành nước thứ 2 trên 
thế giới về xuất khẩu gạo. Đó là do có sự đóng góp to lớn của kinh tế hộ sản 
xuất nông nghiệp nông thôn. 
Không những thế, việc khai hoang mở rộng diện tích gieo trồng, khai 
thác mặt nước trồng thuỷ - hải sản... đã được thực hiện tốt, tạo ra sự phong 
phú về sản phẩm, đa dạng về chủng loại. Những làng nghề mọc lên cùng với 
truyền thống, kinh nghiệm lâu đời của cha ông đã góp phần làm cho bộ mặt 
kinh tế nông nghiệp nông thôn được đổi mới toàn diện. 
* Kinh tế hộ sản xuất góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lao 
động, giải quyết công ăn việc làm ở nông thôn, nguồn lao động dồi dào, giá rẻ 
là một trong những điều kiện thuận lợi của Việt Nam trong quá trình và hoà 
nhập với nền kinh tế thế giới. 
 Kinh tế hộ sản xuất có ưu thế là mức đầu tư cho một lao động thấp đặc 
biệt là trong ngành nông nghiệp, nông thôn do cấu tạo hữu cơ thấp qui mô sản 
xuất nhỏ. Kết quả nghiên cứu ở nước ta trong những năm qua cho thấy vốn 
đầu tư ban đầu cho một hộ gia đình là 1,3 triệu đồng cho một lao động, xí 
nghiệp tư nhân là 3 triệu đồng cho một lao động, xí nghiệp quốc doanh là 12 
triệu đồng trên một lao động ( chỉ là vốn cố định, chưa kể vốn lưu động). Như 
vậy chi phí cho một lao động trong hộ sản xuất thấp. 
 Trong điều kiện hiện nay, nước ta còn nghèo, vốn tích luỹ trong nước 
còn ít thì với đặc điểm kể trên kinh tế hộ sản xuất là một hình thức tổ chức 
kinh tế phù hợp, nâng cao thu nhập cho lực lượng lao động trong cả nước nói 
chung và nông thôn nói riêng. 
* Kinh tế hộ sản xuất nâng cao hiệu quả khai thác, sử dụng đất đai, tài 
nguyên, công cụ lao động. 
Việc giao quyền sử dụng, quản lý lâu dài đất đai, tài nguyên cho hộ sản 
xuất đã tạo ra động lực mới thúc đẩy các hộ chăm lo sản xuất, nâng cao hiệu 
quả sử dụng tài nguyên của các hộ sản xuất được gắn liền với hiệu quả sử 
dụng tài nguyên nên các hộ đã có những biện pháp thích hợp làm tăng độ màu 
mỡ của đất, kết hợp việc khai thác với duy trì, bảo vệ tài nguyên. Hộ sản xuất 
với tư cách là đơn vị kinh tế tự chủ sẽ phải tự chịu trách nhiệm và đã toàn 
quyền sử dụng đối với các công cụ sản xuất của mình, do đó họ sẽ tìm mọi 
cách thức, biện pháp để sử dụng chúng có hiệu quả nhất, kết hợp với việc bảo 
quản tốt để có thể sử dụng lâu dài. 
* Khả năng thích ứng với cơ chế thị trường, thúc đẩy sản xuất hàng hoá 
của nền kinh tế hộ. 
 Trong cơ chế thị trường có sự cạnh tranh, các đơn vị kinh tế tự chủ nói 
chung, các hộ sản xuất nói riêng có quyền quyết định mục tiêu, quy trình công 
nghệ sản xuất kinh doanh, trực tiếp quan hệ với thị trường, tự hạch toán lỗ lãi 
để muốn tồn tại và phát triển được trong cơ chế thị trường thì các doanh 
nghiệp phải không ngừng mở rộng sản xuất. Thường xuyên nâng cao chất 
lượng, mẫu mã sản phẩm cho phù hợp với như cầu của thị trường, phải kết 
hợp với việc hạ giá thành sản phẩm, hạ giá bán để khích thích nhu cầu người 
tiêu dùng. Một trong những ưu điểm lớn nhất của kinh tế hộ sản xuất là có 
được bộ máy gọn nhẹ, năng động do đó sẽ dễ dàng nắm bắt được thay đổi của 
thị trường để kịp thời nghiên cứu, điều chỉnh, triển khai phương thức sản xuất 
mới. Bên cạnh đó bộ máy tổ chức, quản lý gọn nhẹ còn góp phần làm giảm 
chi phí quản lý, từ đó giá thành sản phẩm hạ làm tăng thêm khả năng cạnh 
trạnh của sản phẩm trên thị trường. 
Tóm lại hộ sản xuất là một hình thức tổ chức kinh tế năng động, hiệu 
quả, có khả năng thích ứng với cơ chế thị trường. 
* Thúc đẩy sự phân công lao động dẫn tới chuyên môn hoá và do đó 
tạo khả năng hợp tác lao động trên cơ sở tự nguyện cùng có lợi. 
Một trong những đặc điểm cơ bản của kinh tế hộ sản xuất đó là sự 
chênh lệch về quy mô và cơ sở vật chất kỹ thuật giữa các hộ sản xuất, sự 
chênh lệch này dẫn đến tình trạng các hộ thuộc loại có thu nhập thấp thường 
không có khả năng tổ chức kinh doanh nhiều loaị hàng hoá hay trồng trọt, 
chăn nuôi nhiều loại cùng một lúc do đó giữa các hộ sản xuất thường có sự 
phân công lao động theo hướng ai giỏi nghề gì, có điều kiện tự nhiên, kỹ thuật 
vốn để sản xuất mặt hàng nào thì làm nghề đó. Các ngành nông lâm, ngư, 
diêm nghiệp thông thường các hộ sản xuất này thường chỉ chuyên môn hoá 
vào việc trồng trọt một loại cây, hay chăn nuôi một loại gia súc nào đó, vì như 
vậy họ sẽ có điều kiện tập trung vốn, kỹ thuật để nâng cao năng suất cây 
trồng, vật nuôi, trong công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, các hộ sản xuất 
thường tập trung vào một loại hàng hoá. Đối với các hộ kinh doanh dịch vụ 
đặc biệt là ở nông thôn thì sự chuyên môn hoá cũng được thể hiện rõ một số ở 
nông thôn đã tập trung đầu tư để kinh doanh các dịch vụ như tuốt lúa, xay xát 
thuê, bơm nước thuê... 
Để quá trình chuyên môn hoá đạt kết quả cao thì một yêu cầu tất yếu sẽ 
xuất hiện đó là sự hợp tác lao động giữa các hộ sản xuất với nhau chuyên môn 
hoá sẽ làm cho năng suất lao động tăng cao, chất lượng sản phẩm tốt hơn, 
trong khi đó hợp tác hoá sẽ làm cho quá trình sản xuất hàng hoá được hoàn 
thiện, đáp ứng đầy đủ nhu cầu của bản thân các hộ sản xuất và thị trường. 
 Tóm lại : Hộ sản xuất là một hình thức tổ chức kinh tế có vai trò quan 
trọng trong việc thúc đẩy sự phân công lao động dẫn tới chuyên môn hoá từ 
đó tạo ra khả năng hợp tác lao động trên cơ sở tự nguyện cùng có lợi. 
1.1.3.3. Xu hướng vận động của kinh tế hộ sản xuất: 
+ Xu hướng phát triển không đều giữa các hộ sản xuất: 
Trong nền kinh tế thị trường, muốn tồn tại được thì các doanh nghiệp 
phải không ngừng mở rộng sản xuất, tuy nhiên không phải bất cứ doanh 
nghiệp nào cũng có khả năng vốn, kỹ thuật để mở rộng phát triển sản xuất. 
Kinh tế hộ sản xuất cũng chịu ảnh hưởng lớn của quy luật nói trên trong nền 
kinh tế thi trường, hộ nào có trình độ quản lý, có vốn, có sức lao động, có điều 
kiện kỹ thuật thì sẽ có khả năng phát triển ngành nghề của mình theo ý muốn 
ngược lại những hộ nào không có đủ điều kiện ở trên thì họ sẽ bị phụ thuộc 
vào nhiều yếu tố, không chủ động tiến hành sản xuất được, do vậy họ đã 
nghèo lại càng nghèo thêm . Như vậy, việc chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế 
tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường một mặt làm tăng số hộ 
giàu ở nước ta lên, mặt khác cũng làm tăng hố sâu phân cách giàu nghèo dẫn 
đến có sự phát triển không đều giữa các hộ sản xuất. 
+ Xu hướng phát triển đa dạng các loại hình, các quy mô sản xuất: 
Tuỳ thuộc vào khả năng về vốn, lao động, điều kiện tự nhiên các hộ sản 
xuất sẽ lựa chọn đối tượng, phương án sản xuất kinh doanh, qui mô sản xuất 
sao cho có hiệu quả nhất. Nhờ vậy mà kinh tế hộ sản xuất phát triển đa dạng, 
các hộ có kinh nghiệm, có ruộng đất, không đủ điều kiện về vốn, kỹ thuật sẽ 
tập trung vào việc trồng lúa hoặc một số loại cây trồng, vật nuôi như chè, cà 
phê, mía, cây ăn quả, trâu bò, lợn gà... còn đối với hộ có điều kiện về vốn, kỹ 
thuật thì tổ chức sản xuất kinh doanh tổng hợp chặt chẽ giữa trồng và chăn 
nuôi với kinh doanh ngành nghề phụ. 
+ Xu hướng liên doanh liên kết hợp tác trong quá trình sản xuất: 
Để tồn tại và phát triển được trong cơ chế thị trường các hộ sản xuất 
phải bổ sung, hỗ trợ lẫn nhau, liên kết với nhau để nâng cao cạnh tranh. Chính 
sự liên kết đó sẽ tạo ra các hình thức hợp tác mới, sự liên doanh, liên kết hợp 
tác giữa các hộ sản xuất không đồng nghĩa với việc tập trung sản xuất những 
đơn vị nhỏ thành những xí nghiệp, hợp tác xã mà là hợp tác để tăng sức mạnh 
của từng đơn vị sản xuất. Khi trình độ sản xuất phát triển, có nhiều vấn đề hộ 
sản xuất không tự giải quyết được như những thông tin thị trường, khoa học 
công nghệ do đó sự phát triển kinh tế hộ đòi hỏi tất yếu phải hình thành các 
hình thức hợp tác kinh tế mới. 
1.2. vai trò của tín dụng Ngân hàng trong việc phát triển kinh tế hộ. 
1.2.1. Khái niệm tín dụng Ngân hàng. 
 Tín dụng là một phạm trù kinh tế tồn tại và phát triển qua nhiều hình 
thái kinh tế - xã hội . Theo giáo trình “Nghiệp vụ kinh doanh Ngân hàng 
nâng cao"thì tín dụng được định nghĩa như sau: “Tín dụng là sự chuyển 
nhượng tạm thời một lượng giá trị từ người sở hữu sang người sử dụng để 
sau một thời gian sẽ thu hồi một lượng giá trị lớn hơn lượng giá trị ban 
đầu". 
 Trong các giai đoạn và thời kỳ phát triển khác nhau của nền sản xuất 
hàng hoá, do có nhiều điều kiện tác động khác nhau nên có nhiều hình thức 
tín dụng khác nhau. Đối với đề tài này, ta chỉ nghiên cứu về tín dụng ngân 
hàng “ Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa một bên là ngân 
hàng, còn một bên là các thể nhân và các pháp nhân khác nhau trong nền 
kinh tế quốc dân " (Giáo trình “ lý thuyết tiền tệ “ - Đại học tài chính kế 
toán Hà nội - 1998 ). 
1.2.2 Vai trò của tín dụng ngân hàng trong việc phát triển kinh tế hộ 
sản xuất 
Ngân hàng đóng một vai trò hết sức quan trọng trong quá trình phát 
triển của nền kinh tế hàng hoá. Đối với Nhà nước thì tín dụng ngân hàng còn 
là một công cụ đắc lực, hữu hiệu trong quản lý kinh tế. Đối với các doanh 
nghiệp, cá nhân, thì tín dụng ngân hàng là nguồn tài trợ cho sự thiếu hụt tạm 
thời về vốn sản xuất. Đặc biệt là cơ chế quản lý mới hiện nay, Nhà nước đã 
giao quyền sử dụng đất lâu dài cho từng hộ sản xuất, mỗi hộ sản xuất gìơ đây 
trở thành một đơn vị kinh tế tự chủ, phải tính toán mức chi phí bỏ ra, khả 
năng thu nhập, xác định mức vốn cần thiết đầu tư cho sản xuất, khả năng cấp 
vốn tự có, số vốn cần phải đi vay do đó trong nền kinh tế thị truờng, tín dụng 
ngân hàng có vai trò rất lớn đối với quá trình phát triển của hộ sản xuất. 
1.2.2.1. Đáp ứng nhu cầu vốn cho hộ sản xuất để duy trì quá trình 
sản xuất liên tục, góp phần đầu tư phát triển nền kinh tế: 
 Khi chuyển đổi nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị 
trường thì nhu cầu trao đôỉ hàng hoá giữa các hộ sản xuất trong cùng một 
vùng hay giữa các vùng với nhau, ngày một gia tăng. Các hộ sản xuất ngày 
nay chỉ chỉ chuyên môn hoá sản xuất các loại nông sản hàng hoá có lợi nhất 
và họ loại dần các loại nông sản phẩm sản xuất theo kiểu tự cung tự cấp. Các 
hộ sản xuất bán cho xã hội sản phẩm hàng hoá mà họ sản xuất ra, đồng thời 
mua từ thị trường những hàng hoá mà họ cần để đạt được điều đó các hộ sản 
xuất cần nhiều vốn để mua vật tư, đầu tư đổi mới kỹ thuật, mua sắm máy móc 
thiết bị, trong khi vốn tự có của các hộ còn rất hạn chế, nên các hộ sản xuất 
cần tới sự trợ giúp của ngân hàng để mở rộng sản xuất được liên tục. 
 Vì thế tín dụng ngân hàng nó cực kỳ quan trọng trong việc đáp ứng nhu 
cầu vốn cho hộ sản xuất để phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn ở nước 
ta hiện nay. 
1.2.2.2. Thúc đẩy quá trình tập trung sản xuất trên cơ sở đó góp phần 
tích cực vào quá trình vận động liên tục của nguồn vốn: 
Tại một thời điểm nhất định trong xã hội luôn xuất hiện một lượng tiền 
tạm thời nhàn rỗi của các thành phần kinh tế, đồng thời cũng xuất hiện những 
tổ chức kinh tế, cá nhân cần vốn để sản xuất kinh doanh. Nghiệp vụ của ngân 
hàng là tập trung nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi để cho các đơn vị, cá nhân tạm 
thời thiếu vốn để sản xuất kinh doanh. Ngân hàng tập trung đầu tư tín dụng 
cho các hộ sản xuất kinh doanh có hiệu quả, phù hợp với định hướng phát 
triuển của Đảng và Nhà nước nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả kinh doanh 
của hộ sản xuất, khuyễn khích các hộ kinh doanh có hiệu quả hơn nữa để 
được ngân hàng trợ giúp cho vay. 
Đầu tư là quá trình tất yếu vừa hạn chế được rủi ro tín dụng cho ngân 
hàng, vừa thúc đẩy sự tăng trưởng kink tế. 
Ngân hàng thương mại với tư cách là trung gian tài chính, là cầu nối 
tiết kiệm và đầu tư đã thúc đẩy quá trình tập trung vốn, tập trung sản xuất trên 
cơ sở đó góp phần tích cực vào quá trình vận động liên tục của nguồn vốn. 
1.2.2.3. Tín dụng ngân hàng là công cụ tài trợ đắc lực cho các ngành 
kinh tế: 
 Thông qua hệ thống ngân hàng cụ thể là hoạt động tín dụng ngân hàng 
Nhà nước đã góp phần tài trợ cho các ngành kinh tế kém phát triển bằng việc 
cho vay ưu đãi với lãi suất thấp thời gian dài, mức vốn lớn. Trong điều kiện 
nước ta hiện nay, nông nghiệp là ngành sản xuất quan trọng đáp ứng phần lớn 
với nhu cầu cần thiết cho xã hội trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại 
hoá, nhưng sản xuất ở nông thôn chưa phát triển, kết cấu hạ tầng còn kém lại 
chịu ảnh hưởng khắt khe của điều kiện tự nhiên, đơn vị sản xuất chủ yếu là 
kinh tế hộ gia đình, năng suất lao động còn thấp, ruộng đất và người lao động 
còn thiếu, phương pháp canh tác kỹ thuật còn lạc hậu, khối lượng hàng hoá 
sản xuất ra chưa nhiều. Vì vậy trong gia đoạn tới Chính phủ cần tập trung đầu 
tư hỗ trợ cho nông nghiệp như việc nâng cấp cơ sở hạ tầng ở nông thôn và các 
điều kiện yếu tố khác cho sản xuất nông nghiệp như trạm bơn điện, hệ thống 
thuỷ lợi, cải tiến công cụ lao động. 
1.2.2.4. Tín dụng ngân hàng góp phần hạn chế cho vay nặng lãi ở 
nông thôn: 
Đặc điểm của sản xuất nông nghiệp mang tính tời vụ cao nên tại thời 
điểm chưa thu hoạch được, chưa có hàng hoá để bán thì người nông dân 
thường ở trong tình trạng thiếu thu nhập để đáp ứng nhu cầu về chi tiêu tối 
thiểu, từ đó tạo điều kiện để nạn cho vay nặng lãi hoành hoành, đặc biệt cơ 
bản của tín dụng cho vay nặng lãi là lãi suất cho vay rất cao, làm cho hộ sản 
xuất đã khó khăn lại càng khó khăn hơn và không bao giờ thoát khỏi vòng 
quẩn đó được. Nạn cho vay nặng lãi không những không thúc đẩy sản xuất 
phát triển mà còn kìm hãm sản xuất, đẩy người nông dân đến chỗ nghèo túng 
hơn, gây ra tiêu cực ở nông thôn. 
Đứng trước tình hình trên ngân hàng đã nắm bắt được thực tế và tiến 
hành cho vay trực tiếp đối với hộ sản xuất. Tạo điều kiện cho hộ sản xuất tiếp 
xúc với vốn vay ngân hàng, các ngân hàng đã đơn giản hoá các thủ tục cho 
vay, tổ chức mạng lưới ngân hàng tới tận các thôn xóm để đáp ứng được nhu 
cầu vốn cho sản xuất, khuyến khích người sản xuất chủ động trong đầu tư, đổi 
mới sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh doanh góp phần làm giàu cho bản thân 
và cho xã hội. 
Tín dụng ngân hàng thông qua việc mở rộng cho vay đối với hộ sản 
xuất đã góp phần phát triển kinh tế hộ, giải quyết được vần đề cho vay nặng 
lãi ở nông thôn, ngăn chặn được tình trạng một số kẻ có tiền lợi dụng bót lột 
người lao động để thu siêu lợi nhuận. 
1.2.2.5. Tín dụng ngân hàng kiểm soát bằng đồng tiền và thúc đẩy 
sản xuất thực hiện chế độ hạch toán kinh tế: 
 Các ngân hàng thương mại với tư cách là một trung gian tài chính hoạt 
động trong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng, thanh toán có khả năng kiểm soát bằng 
đồng tiền đối với hoạt động của nền kinh tế thông qua các nghiệp vụ tín dụng 
thanh toán. 
Để thực hiện được món vay, cán bộ tín dụng phải nắm được tình hình 
sản xuất kinh doanh trước, trong và sau khi cho vay có đạt được hiệu quả hay 
không để tiếp tục đầu tư mở rộng sản xuất. Qua đó tín dụng ngân hàng có thể 
kiểm soát được các hoạt động của hộ sản xuất. 
Nguyên tắc cơ bản của tín dụng ngân hàng là vay vốn phải được hoàn 
trả đầy đủ cả gốc và lãi đúng thời hạn khi sử dụng vốn vay các hộ sản xuất 
phải thực hiện đầy đủ các cam kết đã ghi trong hợp đồng tín dụng, phải trả nợ 
đúng hạn và các điều kiện kèm theo khác, như vậy để sản xuất kinh doanh có 
hiệu qủa, có đủ lợi nhuận trang trải lãi vay ngân hàng thì các hộ sản xuất phải 
hạch toán kinh tế. 
 1.2.2.6. Tín dụng ngân hàng thúc đẩy hộ sản xuất tiếp cận mở rộng 
sản xuất hàng hoá: 
Ngân hàng đã tạo ra một bước chuyển hướng quan trọng trong phương 
thức sản xuất của hộ sản xuất khi được ngân hàng đầu tư vốn, hộ sản xuất 
phải hạch toán kinh tế sao cho vốn vay được sử dụng có hiệu nhất, để tăng thu 
giảm chi nhằm thu lợi nhuận, để hoàn trả cả vốn và lãi vay cho ngân hàng. 
Muốn vậy hộ sản xuất phải nghĩ tới thị trường để tiêu thụ sản phẩm thì mới 
thu được lợi nhuận cao, giúp hộ sản xuất hình thành những biện pháp tốt nhất 
để tiếp cận và thích nghi với thị trường như nâng cao chất lượng sản phẩm, 
thay đổi các loại cây trồng vật nuôi cho phù hợp với nhu cầu thị trường, cải 
tiến cách thức sản xuất để tiết kiệm vật tư, giảm chi phí, thu hiệu quả cao nhờ 
sự tài trợ vốn của ngân hàng để mở rộng qui mô sản xuất, nhờ đó tính chất sản 
xuất hàng hoá cũng được tăng lên. 
1.2.2.7. Vai trò của tín dụng ngân hàng về mặt chính trị xã hội: 
Tín dụng ngân hàng không những thúc đẩy phát triển kinh tế mà còn có 
vai trò to lớn về mặt chính trị xã hội. Tín dụng ngân hàng góp phần giải quyết 
công ăn việc làm cho người lao động trong cả nước nói chung và ở nông thôn 
nói riêng đặc biệt là với một nước có trên 80% dân số sống ở nông thôn. Tín 
dụng ngân hàng thông qua cho vay mở rộng sản xuất đã góp phần giải quyết 
công ăn việc làm, nâng cao thu nhập cho người lao động, hạn chế được tệ nạn 
xã hội. 
Tín dụng ngân hàng góp phần làm giảm bớt những tệ nạn xã hội trong 
quá trình thực hiện chủ trương phát triển kinh tế đa thành phần, tạo thêm công 
ăn việc làm cho hộ sản xuất, tăng thu nhập, hạn chế bớt những phân hoá bất 
hợp lý trong xã hội, giữ vững được nền tảng an ninh chính trị, góp phần củng 
cố lòng tin của dân chúng nói chung và của các hộ sản xuất nói riêng vào sự 
lãnh đạo cuả Đảng và Nhà nước. 
Tóm lại: Tín dụng ngân hàng có vi trò to lớn đối với hộ sản xuất cả về 
mặt kinh tế lẫn xã hội, chính trị để tín dụng ngan hàng đến với hộ sản xuất, 
các ngân hàng phải ngày càng tự hoàn thiện mạng lưới tổ chức, biện pháp 
nghiệp vụ của mình để góp phần đáp ứng một cách thuận tiện, kịp thời nhu 
cầu vốn cho hộ sản xuất tạo điều kiện cho hộ sản xuất mở rộng sản xuất kinh 
doanh ngoài những nỗ lực của bản thân ngân hàng thì Nhà nước, các ngành, 
các cấp có liên quan cũng cần phải xây dựng các chính sách kinh tế phù hợp, 
tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho các ngân hàng ngày càng được mở 
rộng và đạt hiệu qủa cao hơn. 
1.2.3. Đầu tư tín dụng đối với hộ sản xuất của Ngân hàng Nông 
nghiệp và Phát triển nông thôn: 
1.2.3.1. Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả đầu tư tín dụng ngân hàng đối với 
hộ sản xuất : 
Tín dụng ngân hàng là hoạt động quan trọng đối với mỗi ngân hàng nói 
riêng và đối với nền kinh tế nói chung. Đối với nền kinh tế tín dụng ngân 
hàng có vai trò quan trọng trong việc thực hiện các chính sách kinh tế của 
Nhà nước, thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội. 
Đối với ngân hàng tín dụng ngân hàng là một hoạt động mang lại phần 
lớn thu nhập cho ngân hàng do đó đánh giá đúng hiệu quả tín dụng sẽ giúp 
các ngân hàng, các ngành có liên quan đưa ra được các biện pháp thích hợp để 
thực hiện các mục tiêu kinh tế, xã hội đã đề ra và là mục tiêu lợi nhuận của 
bản thân ngân hàng, hiệu quả tín dụng ngân hàng được thể hiện trên các mặt 
sau: 
- Sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế, hiệu quả tín dụng ngân 
hàng trước tiên được thể hiện trong các chỉ tiêu kinh tế xã hội nói chung của 
một số quốc gia. Tín dụng ngân hàng chỉ thực sự mạng lại hiệu quả cho nền 
kinh tế khi nó làm tăng tổng sản phẩm quốc dân, tạo công ăn việc làm cho 
người lao động, giảm lạm phát, góp phần thúc đẩy cơ cấu kinh tế, làm tăng 
khả năng cạnh tranh của hàng Việt Nam trên thị trường quốc tế tín dụng ngân 
hàng thực sự có hiệu quả khi nó góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển phù 
hợp với định hướng của Đảng và Nhà nước. 
- Mức độ lợi nhuận mà ngân hàng thu được với phương châm đi vay để 
cho vay, do đó, sự tồn tại và phát triển của ngân hàng phụ thuộc lớn vào khả 
năng mở rộng đầu tư, cụ thể là hoạt động ngân hàng có tập trung được nguồn 
vốn nhàn rỗi, có thực hiện cho vay nhiều, sử dụng vốn có hiệu qủa thì mới tồn 
tại và đứng vững được. Đối với các ngân hàng, hiệu quả tín dụng được thể 
hiện cụ thể nhất, dễ nhận ra nhất đó chính là lợi nhuận mà ngân hàng có được. 
Một ngân hàng được coi là có hiệu quả cao nếu có mức lợi nhuận thu được 
năm sau cao hơn năm trước. 
Mức độ rủi ro mà ngân hàng phải chịu trong cơ chế thị trường hiện nay, 
ngân hàng thương mại là đơn vị hạch toán kinh tế độc lập cho nên việc đảm 
bảo an toàn tín dụng là rất quan trọng hiệu quả kinh doanh của mỗi ngân hàng 
không chỉ phụ thuộc vào mức lãi suất mà ngân hàng thu được, mà còn phụ 
thuộc vào khả năng thu hồi an toàn của mỗi đồng vốn bỏ ra theo đúng kỳ hạn 
đã ghi trong hợp đồng tín dụng để tạo ra rủi ro các ngân hàng thương mại phải 
chấp hành đầy đủ các qui định, qui chế về an toàn tín dụng do ngân hàng Nhà 
nước ban hành, thẩm định cẩn thận trước khi cho vay, thường xuyên kiểm tra 
việc sử dụng vốn của người vay. 
+ Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả tín dụng ngân hàng đối với việc phát 
triển kinh tế hộ sản xuất. 
Chỉ tiêu 1: Doanh số cho vay hộ sản xuất 
 Tổng số hộ sản xuất 
Chỉ tiêu này phản ánh số vốn mà hộ sản xuất vay được từ ngân hàng, 
tín dụng ngân hàng được coi là có hiệu quả khi doanh số cho vay cao, số hộ 
được vay nhiều và số tiền vay trên mỗi lượt hộ lớn. 
Chỉ tiêu 2: Dư nợ cho vay hộ sản xuất trung, dài hạn 
 Tổng dư nợ cho vay hộ sản xuất 
Dư nợ cho vay trung và dài hạn phải đạt một tỷ trọng nhất định trong 
tổng dư nợ cho vay hộ sản xuất thì các hộ mới đủ vốn để cải tạo cơ sở vật chất 
sản xuất, từ đó nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ngăn chặn. Mục tiêu của ngân 
hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam là dư nợ cho vay trung, 
dài hạn chiếm 30% tổng dư nợ cho vay hộ sản xuất. 
Ngoài ra còn một số chỉ tiêu định tính phản ánh hiệu quả tín dụng ngân 
hàng đối với phát triển kinh tế hộ sản xuất như tốc độ chuyển dịch cơ cấu 
kinh tế nông nghiệp, nông thôn thu nhập hộ sản xuất. 
+ Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả đầu tư tín dụng cho hộ sản xuất đối 
với ngân hàng: 
Chỉ tiêu 1: Hiệu quả sử dụng vốn 
= 
Dư nợ cho vay bình quân 
x 100% 
Nguồn vốn huy động bình quân 
Các ngân hàng thương mại huy động vốn để cho vay, do đó cần phải 
xem xét hiệu quả sử dụng vốn ngân hàng thông qua mối quan hệ giữa nguồn 
vốn huy động và nguồn vốn cho vay, với mỗi đồng tiền gửi vào các ngân 
hàng sau khi giữ lại một tỷ lệ nhất định dưới dạng tiền dự trữ thì phải cố gắng 
cho vay càng nhiều càng tốt. Như vậy ngân hàng được coi là kinh doanh có 
hiệu quả khi có hiệu suất sử dụng vốn cao, hợp lý, an toàn. 
 Chỉ tiêu 2: Tốc độ tăng trưởng dư nợ cho vay hộ sản xuất hàng năm. 
Chỉ tiêu 3: Doanh số thu nợ hộ sản xuất 
 Doanh số cho vay hộ sản xuất 
 Tín dụng hộ sản xuất được coi là có hiệu quả đối với ngân hàng khi 
doanh số cho vay cao kết hợp với tỷ lệ doanh số thu nợ hộ sản xuất trên doanh 
số cho vay hộ sản xuất hợp lý để hạn chế bớt ruỉ ro. 
Chỉ tiêu 4: Tỷ lệ nợ quá hạn = 
Dư nợ quá hạn hộ sản xuất 
x 100% 
Tổng dư nợ cho vay hộ sản xuất 
 Đây là chỉ tiêu quan trọng để đánh giá hiệu quả tín dụng hộ sản xuất. 
Tín dụng hộ sản xuất chứa đựng nhiều rủi ro mà mỗi rủi ro là một cách thức 
đối với sự tồn tại và phát triển của ngân hàng đặc biệt là trong nền kinh tế thị 
trường hiện nay do đó việc đảm bảo thu hồi vốn vay đúng thời hạn là hết sức 
quan trọng và là yếu tố quyết định hiệu quả tới đúng hộ sản xuất đối với ngân 
hàng để tránh những rủi ro từ phiá khách hàng, ngân hàng không nên dựa dẫm 
vào tài sản thế chấp mà phải chủ động đầu tư vào hộ sản xuất kinh doanh có 
hiệu quả và ít rủi ro nhất. 
1.2.3.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiẹu quả tín dụng đối với hộ sản 
xuất : 
+ Về phiá khách hàng: 
 - Do sử dụng vốn vay sai mục đích. 
 - Do tình hình tài chính của hộ sản xuất có biến đổi. 
 - Do năng lực quản lý yếu kém và trình độ áp dụng công nghệ có phù 
hợp không. 
- Những vấn đề liên quan đến sự thay đổi thị trường cung cấp đầu vào. 
- Khách hàng thiếu sự sẵn sàng hoàn trả vốn vay.. 
+ Về phía ngân hàng: 
Chấp hành không nghiêm các qui trình cho vay. 
- Cán bộ tín dụng trình độ chuyên môn còn yếu, đạo đức nghề nghiệp 
còn hạn chế. 
- Yếu kém về mặt quản lý và điều hành. 
- Không chấp hành những qui định của pháp luật... 
+ Nhân tố khách quan: 
- Tình hình kinh tế xã hội của quốc gia 
- Cơ chế chính sách thay đổi 
- Những nguyên nhân khác từ bên ngoài quốc gia. 
- Các yếu tố tự nhiên và những vấn đề liên quan khác ... 
1.2.3.3. Qui trình và phương thức cho vay 
Căn cứ vào nghị định số 14/CP ngày 02/03/1993 của Thủ tướng Chính 
Phủ và thông tư số 01/TT-NH ngaỳ 26/3/1993 của Thống đốc Ngân hàng Nhà 
nước Việt Nam hướng dẫn thực hiện Nghị định " Về chính sách cho hộ sản 
xuất vay vốn và phát triển nông, lâm, ngư, diêm nghiệp và kinh tế nông 
thôn" Với mục đích là tạo điều kiện và khuyến khích những hộ vay vốn sản 
xuất kinh doanh vay vốn để phát triển sản xuất hàng hoá nông, lâm, ngư, diêm 
nghiệp, công nghiệp, mở ngành nghề mới và kinh doanh dịch vụ có hiệu quả 
thiết thực, tạo công ăn việc làm, góp phần xây dựng xã hội văn minh dân giàu 
nước mạnh. 
Nông nghiệp nông thôn là ngành khu vực có tỷ suất lợi nhuận thấp, rủi 
ro, cho nên để đảm bảo hiệu quả tín dụng đối với hộ sản xuất Ngân hàng 
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phải tuân thủ chặt chẽ các nguyên tắc tín 
dụng qui định: Hộ sản xuất phải sử dụng tiền vay đúng mục đích đã cam kết 
trong đơn xin vay và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về những sai trái 
trong quá trình sử dụng vốn vay, vốn vay phải được hoàn trả đầy đủ cả gốc và 
lãi đúng thời hạn ngoài ra vốn vay còn phải được đảm bảo bằng giá trị tài sản 
thế chấp. 
Khi các hộ sản xuất có nhu cầu vay vốn, ngân hàng sẽ xét duyệt cho 
vay nếu các hộ có đầy đủ các điều kiện mà ngân hàng quy định như: 
- Các hộ phải tín nhiệm đối với các tổ chức tín dụng trong việc sử dụng 
vốn vay và trả nợ đầy đủ đúng hạn cả gốc và lãi. 
- Có dự án đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh dịch vụ khả thi, có khả 
năng hoàn trả hoặc có dự án, phương án phục vụ đời sống khả thi phù hợp với 
quy định của pháp luật. 
- Có khả năng tài chính và có các nguồn thu nhập hợp pháp để thực 
hiện nghĩa vụ trả nợ cho tổ chức tín dụng. 
- Cam kết thực hiện bảo đảm bằng tài sản theo yêu cầu của tổ chức tín 
dụng nếu vay từ 10 triệu đồng trở lên và các hộ sản xuất phải có vốn tự có 
bằng tiền, giá trị vật tư, hay ngày công lao động đóng góp vào tổng số vốn 
của dự án sản xuất kinh doanh. Hộ sản xuất phải có hộ khẩu thường trú tại địa 
phương, những hộ ở địa phương khác đến phải có xác nhận của UBND nơi có 
hộ khẩu thường trú và được UBND nơi đến cho phép sản xuất kinh doanh. Hộ 
sản xuất phải chấp nhận sự kiểm tra giám sát của ngân hàng trước, trong và 
sau khi cho vay. Đồng thời hộ sản xuất phải cung cấp cho ngân hàng những 
tài liệu có liên quan đến việc sử dụng vốn vay đó. 
 Đối tượng cho vay cuả ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn 
Việt nam gồm có: 
- Cho vay ngắn hạn (dưới 1 năm) đối tượng là vật tư, chi phí trồng trọt, 
chăn nuôi, chi phí các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp vật tư, hàng hoá đối 
với các hộ làm dịch vụ và kinh doanh thương nghiệp. 
- Cho vay trung hạn (từ 1 năm -5 năm) đối tượng cho vay là chi phí mở 
rộng diện tích canh tác xây dựng cơ bản đồng ruộng để gieo trồng cây hàng 
năm, chi phí đào đắp ao hồ, xây dựng chuồng trại chi phí cải tiến, đổi mới 
công nghệ, chi phí sữa sữa lớn tàu thuyền, phương tiện vận tải loại nhỏ. 
- Cho vay dài hạn (trên 5 năm) đối tượng là chi phí xây dựng mới đồng 
ruộng, đồi cây, ao hồ, nhà xưởng, máy móc thiết bị tầu thuyền, phương tiện 
vận tải vừa và lớn, chí phí trồng và chăn sóc cây công nghiệp, cây ăn quả lâu 
năm, cây công nghiệp, khi xét duyệt cho vay ngân hàng yêu cầu các hộ vay 
vốn phải nộp đầy đủ các thủ tục theo từng loại hộ vay và thời hạn cho vay. 
- Cho vay ngắn hạn: 
+ Đối với hộ vay thực hiện bảo đảm bằng tài sản thủ tục vay vốn gồm: 
 Giấy đề nghị vay vốn có xác nhận của chính quyền địa phương và giấy 
chứng nhận quyền sử dụng đất, bản chính hoặc giấy nhận quyền sử dụng đất 
không có tranh chấp do UBND xã, phường, thị trấn cấp. Sổ vay theo mẫu in 
sẵn của Ngân hàng Nông nghiệp. 
 + Đối với hộ vay thực hiện bảo đảm bằng tài sản thủ tục vay vốn gồm: 
Giấy đề nghị vay vốn dự án đầu tư, hồ sơ tài sản có công chứng, hợp 
đồng tín dụng. 
- Cho vay trung và dài hạn: Ngoài những thủ tục cho vay ngắn hạn còn 
phải có thêm luận chứng kinh tế kỹ thuật, sơ đồ mặt bằng, dự toán chi phí 
công trình, thiết kế, hợp đồng thi công ( nếu có) 
- Quy trình cho vay trực tiếp hộ sản xuất: 
Sau khi ngân hàng đã nhận đủ thủ tục, hồ sơ vay vốn của các hộ sản 
xuất nếu không có thiếu sót nào thì cán bộ chuyên quản viết phiếu hẹn khách 
hàng chậm nhất là 15 ngày phải giải quyết. Trưởng phòng tín dụng cử cán bộ 
đi thẩm định, cán bộ tín dụng phải ghi rõ ý kiến của mình đồng ý hay không 
đồng ý, nếu không phải đi thẩm định thì giải quyết ngay trong ngày, khi cán 
bộ tín dụng đã thẩm định xong trình trưởng phòng tín dụng nếu không phải tái 
thẩm định thì trình giám đốc phê duyệt và thông báo cho khách hàng biết. Khi 
đã có quyết định cho vay, hồ sơ được chuyển cho cán bộ tín dụng để hướng 
dẫn khách hàng lập hồ sơ vay vốn sau đó bộ phận tín dụng chuyển hồ sơ vay 
vốn cho bộ phận kế toán để tiến hành giải ngân và sau mỗi định kỳ cán bộ tín 
dụng phải đi kiểm tra việc sử dụng vốn vay. 
- Quy trình cho vay qua tổ tín chấp: 
Tổ trưởng nhận giấy đề nghị vay vốn, lập danh sách thành viên được 
chọn đề nghị ngân hàng cho vay, cán bộ tín dụng cùng tổ trưởng trực tiếp 
thẩm định hộ vay vốn hoặc thẩm định điển hình, hướng dẫn làm hồ sơ, kiểm 
tra việc sử dụng vốn vay ngân hàng trực tiếp giải ngân đến từng hộ sản xuất 
và thu nợ trực tiếp khi đến hạn và xử lý các vi phạm. 
Mức lãi suất cho vay thoả thuận phù hợp với thị trường vốn trên địa 
bàn và từng loại cho vay theo các nguyên tắc trên. Đồng thời phải phù hợp 
với khung lãi suất đầu vào tối thiểu, lãi suất đầu ra tối đa do Tổng giám đốc 
công bố hoặc uỷ quyền cho giám đốc ngân hàng tỉnh, thành phố, khu cực 
công bố. 
Chương II 
thực trạng về cho vay hộ sản xuất ở hội sở 
Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển 
 nông thôn tỉnh Hà Giang 
2.1- Tình hình kinh tế - xã hội trên địa bàn có ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh 
của Ngân hàng 
 2.1.1- Hoàn cảnh kinh tế - xã hội và môi trường kinh doanh của 
Ngân hàng: 
2.1.1.1. Hoàn cảnh kinh tế- xã hội. 
Thị xã Hà Giang là trung tâm hành chính, trung tâm kinh tế, văn hoá 
của tỉnh. Là thị xã của tỉnh miền núi nên địa hình, địa lý tự nhiên rất khó khăn, 
hiểm trở, có tới 75% diện tích là đồi núi cao, sông, suối sâu, giao thông khó 
khăn, lâm thổ sản bị khai phá bừa bãi, lại bị chiến tranh biên giới (1979-1986) 
tàn phá chưa khôi phục được. 
Thị xã Hà Giang có diện tích tự nhiên 97km2 với 5 xã thuần nông và 4 
phường bán nông nghiệp, diện tích canh tác đất nông nghiệp là 1.200ha. 
Dân số của thị xã có gần 30 vạn người, hơn 10 dân tộc cùng chung 
sống. Tổng số hộ sản xuất 4.100 hộ với 13.900 khẩu, trong đó có 3.500 lao 
động. 
Kinh tế nông nghiệp đã chuyển dần từ sản xuất tự cấp, tự túc sang sản 
xuất chuyên canh và giao lưu hàng hoá đã phát triển. Trình độ dân trí dần 
được nâng cao, nhiều hộ đã biết áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản 
xuất nông nghiệp, phá bỏ tập tục du canh du cư, phá rừng làm nương rẫy, 
chăn nuôi gia súc thả rông. 
Bên cạnh đó, các điều kiện về môi sinh của thị xã chưa được tốt như 
nạn chặt cây, phá rừng, đào đãi vàng, quặng đã làm cho nguồn nước cạn kiệt, 
xói mòn, lũ quét và hạn hán xảy ra... gây nên sự mất mùa, gây thiệt hại tiền 
của cho các hộ sản xuất nông nghiệp. 
Trong những năm gần đây do chính sách đổi mới của Đảng, Nhà nước, 
quan hệ Việt - Trung được nối lại, cửa khẩu quốc gia Thanh Thuỷ (cách thị xã 
Hà Giang 20km) đã thông thương, giao lưu buôn bán được mở rộng, hàng 
ngàn hộ nông dân trước kia do chiến tranh biên giới phải bỏ nhà, ruộng nương 
đi sơ tán, nay trở lại làm ăn sinh sống. Phần lớn những hộ này đều thiếu vật 
tư, tiền vốn để tổ chức lại sản xuất, nhất là vốn một nhu cầu cấp bách đối với 
hộ nông dân ở Hà Giang. 
Trước yêu cầu đó, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, chính quyền các 
ngành các cấp và nhân dân trong tỉnh, đã nỗ lực phát huy truyền thống đoàn 
kết, vượt qua khó khăn tích cực khai thác tiềm năng nội lực, đồng thời tranh 
thủ sự giúp đỡ của trung ương và tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới theo 
hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, nên trong những năm qua kinh 
tế vẫn đạt mức tăng trưởng khá, cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch theo hướng 
phát triển sản xuất hàng hoá và phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của tỉnh 
nhất là trong lĩnh vực nông nghiệp. Trong năm 2001 tốc độ tăng trưởng GDP 
ước đạt 11%, sản xuất nông lâm nghiệp 42.071ha, tăng 3,54%, sản lượng 
lương thực quy thóc đạt 129.040 tấn, tăng 6,28% ; giá trị công nghiệp, xây 
dựng cơ bản 321.055 triệu 36,26%, các ngành dịch vụ khác tăng 35,45% so 
với năm trước, đời sống nhân dân ngày càng được nâng lên. 
Để hoà nhập với nền kinh tế thị trường Tỉnh Hà Giang đã đề ra phương 
hướng mục tiêu năm 2000 - 2005 là : Cơ cấu phát triển kinh tế là nông, lâm, 
công, nghiệp chế biến và dịch vụ trên cơ sở đó tập trung đẩy mạnh phát triển 
kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, mà trước hết là nông 
nghiệp nông thôn, khai thác có hiệu quả các nguồn lực tại địa phương tích cực 
chuyển dịch cơ cấu vật nuôi cây trồng, hình thành các tiểu vùng sản xuất hàng 
hoá, khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển sản xuất chế biến nông 
lâm sản. Kết hợp chặt chẽ giữa nông nghiệp phát triển tiểu thủ công nghiệp, 
mở rộng thương mại, chợ nông thôn nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh 
nhằm tăng thu nhập cải thiện một bước cơ bản đời sống vật chất, văn hoá cho 
người lao động, đổi mới bộ mặt nông thôn, đặc biệt là nông thôn vùng sâu 
vùng xa . 
2.1.1.2. Môi trường kinh doanh của ngân hàng . 
 Luật Ngân hàng Nhà nước, luật các Tổ chức tín dụng và các quyết định, 
chính sách của Đảng và Nhà nước là môi trường pháp lý ổn định đảm bảo 
điều kiện cơ bản để hoạt động cho các tổ chức tín dung nói chung và Hội sở 
NHNo & PTNT Hà Giang nói riêng. Giúp cho Hội sở NHNo&PTNT Hà 
Giang tạo cơ sở vững chắc cho quá trình hoạt động kinh doanh trên thị trường 
với nhiệm vụ chủ yếu là huy động vốn và cho vay . 
Với chức năng của Ngân hàng là kinh doanh tiền tệ tín dụng và dịch vụ 
Ngân hàng đối với các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế trong nước 
và ngoài nước, làm uỷ thác các nguồn vốn ngắn hạn, trung và dài hạn của 
chính phủ, các tổ chức kinh tế xã hội, thực hiện tín dụng tài trợ chủ yếu cho 
lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn . 
2.1.2- Đặc điểm tình hình sản xuất kinh doanh của hộ sản xuất trên 
địa bàn thị xã Hà Giang: 
Hà Giang là một tỉnh miền núi cao mới được chia tách từ tháng 
10/1991, nơi chưa hề có cho vay nông hộ, lại có những đặc thù như đã nêu 
trên, có nhu cầu vốn đầu tư rất lớn để khai thác tiềm năng tự nhiên, ứng dụng 
khoa học công nghệ, tổ chức sản xuất, tạo công ăn việc làm cho lao động... 
Trong khi các nguồn vốn khác không đáng kể, mọi nhu cầu vốn cho sản xuất 
nông nghiệp chủ yếu trông vào vốn tín dụng Ngân hàng. 
Với hơn 2.100 hộ sản xuất trên địa bàn thị xã rộng 97km2, gồm 5 xã, 4 
phường, cơ sở hạ tầng còn nhiều khó khăn, trình độ dân trí chưa cao, việc cho 
vay hộ sản xuất tại địa bàn thị xã Hà Giang không chỉ đơn thuần là vốn kinh 
doanh mà còn phục vụ chính sách chiến lược của Đảng, coi nông nghiệp là 
mặt trận hàng đầu, nông thôn, nông dân là bước đi lên công nghiệp hoá. 
Để cho vay được tới hộ sản xuất ở thị xã Hà Giang, thực chất là phải 
giải quyết được các vấn đề sau: 
Một là về cán bộ tín dụng: Yêu cầu về cán bộ tín dụng phải thực sự 
toàn diện trên mọi mặt, phải có trình độ, có năng lực, có đạo đức nghề nghiệp, 
có sức khoẻ, có quan điểm phục vụ nhân dân hết mình. 
Khi xuống cơ sở làm việc, cán bộ tín dụng phải độc lập xử lý các tình 
huống nghiệp vụ. Vì vậy không có đủ năng lực, không có đạo đức nghề 
nghiệp thì sẽ không giải quyết được công việc, dễ phát sinh tiêu cực. Mặt 
khác, muốn là bạn với nhà nông cũng đòi hỏi cán bộ tín dụng phải am hiểu kỹ 
thuật về cây trồng, vật nuôi để cùng tham gia với hộ nông dân, lựa chọn 
phương án tốt để đầu tư phát triển kinh tế. 
Với địa hình, địa lý tự nhiên của địa bàn phải trèo đèo, lội suối... nếu 
người cán bộ tín dụng không có sức khoẻ thì không thể tới các thôn bản, tới 
hộ sản xuất, không thể bám trụ để hoàn thành nhiệm vụ của mình. 
Nếu không có quan điểm vững vàng sẽ không thấy hết vai trò, trách 
nhiệm của mình trong sự nghiệp phát triển nông nghiệp - nông thôn của Đảng 
và Nhà nước, sẽ bị co lại trước khó khăn và nảy sinh tiêu cực, gây thiệt hại 
đến sức lao động, tiền bạc, thời gian của người dân, thay vì làm lợi cho họ. 
Hai là vấn đề màng lưới và hình thức đầu tư: Nếu để riêng cho cán bộ 
tín dụng trực tiếp nắm bắt nhu cầu của từng hộ, thẩm định từng món vay ở 
thôn bản thì không thể đáp ứng được nhu cầu đông đảo của hộ sản xuất mang 
tính thời vụ được. Thời vụ là cùng lúc có phân bón, cây giống làm sao hộ sản 
xuất thiếu vốn chờ được cán bộ tín dụng đi thẩm định từng hộ. Vì vậy vấn đề 
đòi hỏi là phải tổ chức cho vay qua các tổ trung gian: liên gia, tín chấp, tổ hỗ 
trợ vay vốn... Thành lập những tổ này sẽ chắp thêm những cánh tay vươn dài 
cho Ngân hàng nông nghiệp đến tận ngõ ngách, thôn, bản, tạo cơ sở nắm chắc 
địa bàn, nắm vững đối tượng để đầu tư đúng hướng, có hiệu quả. 
Ba là vấn đề pháp lý: Trong điều kiện môi trường pháp lý chưa hoàn 
chỉnh mà việc cho vay phải tuân thủ những quy định chặt chẽ để bảo toàn 
vốn, để vừa phục vụ đắc lực cho nông thôn, nông dân, vừa đạt được yêu cầu 
trên, thì không có cách nào khác là phải vận dụng linh hoạt luật với lệ để cho 
vay. Pháp luật đôi khi còn mơ hồ, khó hiểu đối với nông dân miền núi, nhưng 
luật lệ làng bản, dòng tộc lại có sức mạnh thiêng đối với họ. Nếu làm cho hoạt 
động tín dụng hộ sản xuất gắn với đời sống của bà con, gắn được với quyền 
lợi của làng bản thì khả năng đầu tư sẽ không ngừng được mở rộng với sự 
đảm bảo ngày càng cao. 
Bốn là hoạt động tín dụng phải đi đôi với ứng dụng khoa học kỹ thuật: 
Ngân hàng sẽ không thể đầu tư đại trà vào nông nghiệp, một ngành có tỷ suất 
lợi nhuận thấp, nếu không tính đến sự đầu tư khoa học kỹ thuật tương ứng để 
nâng cao năng suất, sản lượng, chất lượng sản phẩm, tạo tỷ suất hàng hoá cao, 
tỷ suất lợi nhuận lớn hơn, đảm bảo có lãi trả đủ vốn cho Ngân hàng (gốc và 
lãi) và tái sản xuất mở rộng. Ngân hàng không chỉ đơn thuần cho vay hộ sản 
xuất mà không tính đến điều kiện cung cấp giống, phân bón, thuốc trừ sâu 
bệnh, thị trường tiêu thụ sản phẩm... là những yếu tố có vai trò quan trọng đến 
việc tổ chức sản xuất của người nông dân. 
Năm là về lãi suất: Cần có một chính sách lãi suất hợp lý cho nông 
nghiệp, cho hộ sản xuất. Đặc biệt trước cơ chế khoán tài chính của Ngân hàng 
Nông nghiệp, nếu cứ bình đẳng lãi suất với các thành phần kinh tế thì nông 
dân chỉ có thể vay đủ vốn cho sản xuất giản đơn mà không dám vay nhiều để 
mở rộng sản xuất vì đơn giản là làm không đủ trả lãi cho ngân hàng. 
2.2- Khái quát hoạt động của hội sở NHNo&PTNT tỉnh Hà Giang: 
2.2.1- Sơ lược quá trình hình thành và phát triển của Hội sở: 
Hà Giang là tỉnh mới được chia tách ra từ tỉnh Hà Tuyên cũ vào tháng 
10/1991. Cùng đó, hệ thống Ngân hàng Hà Giang đã được hình thành, trong 
đó có Ngân hàng Nông nghiệp tỉnh Hà Giang. Cơ cấu tổ chức bộ máy hoạt 
động của Ngân hàng Nông nghiệp tỉnh lúc đó chủ yếu là tiếp quản và kiện 
toàn lại bộ máy hoạt động sẵn có của Ngân hàng thị xã Hà Giang và các Ngân 
hàng huyện. 
Đầu năm 1992, Hội sở Ngân hàng Nông nghiệp Hà Giang được thành 
lập trên cơ sở tiếp quản mọi hoạt động của Ngân hàng thị xã Hà Giang trước 
đây. Mô hình tổ chức của Hội sở Ngân hàng Nông nghiệp Hà Giang thực chất 
là thực hiện mô hình kéo dài từ Văn phòng Ngân hàng Nông nghiệp tỉnh, trực 
tiếp tổ chức hoạt động kinh doanh theo quy chế tổ chức hoạt động của Ngân 
hàng Nông nghiệp Việt Nam trên địa bàn thị xã Hà Giang. 
Cơ cấu tổ chức và biên chế của Hội sở như sau: 
sơ đồ mô hình tổ chức của NHNO 
P. Giám 
đốc 
phụ trách 
kế toán 
P. Giám 
đốc 
phụ trách 
kinh 
P. Giám 
đốc 
kiêm GĐ 
NH phục 
giám đốc 
TC 
HC 
KH 
NV 
KT 
TC 
KS 
nộ
i 
bộ 
Phòn
g 
kinh 
doan
h 
Phòn
g 
K.to
án 
giao 
Phòn
g 
ngân 
quỹ 
 
Phòn
g 
Kế 
hoạc
h 
Phòn
g 
kế 
toán 
 (Bộ máy của Hội sở gồm ---) 
Hội sở Ngân hàng Nông nghiệp Hà Giang là đơn vị nhận khoán tài 
chính trực tiếp với Văn phòng Ngân hàng Nông nghiệp tỉnh (như các Ngân 
hàng huyện), có bảng cân đối, quyết toán riêng. Thực hiện điện báo, báo cáo 
thống kê và các hoạt động theo quy định của hệ thống Ngân hàng Nông 
nghiệp. 
Địa bàn hoạt động gồm 3 xã, 4 phường thuộc thị xã Hà Giang. 
2.2.2 - Về tình hình hoạt động kinh doanh của Hội sở NHNo & 
PTNT Hà Giang 
Quá trình hoạt động kinh doanh của Hội sở NHNo & PTNT Hà Giang 
trong những năm qua có những thuân lợi và khó khăn sau : 
 - Thuận lợi : 
 Được sự quan tân của Tỉnh uỷ, Uỷ ban nhân dân, Ngân hàng Nhà nước, 
các ban ngành đã có nhiều biện pháp tháo gỡ giúp dân thoát khỏi khó khăn, đề 
ra một số chương trình hỗ trợ phát triển nông nghiệp nông thôn như cho vay 7 
chương trình kinh tế cho vay chăn nuôi bò, cho vay thâm canh lúa, ngô ..., 
Ngân hàng cho vay, ngân sách hỗ trợ lãi . Bên cạnh đó nhiều cơ chế chính 
sách mới của Chính phủ, của các ngành đã được ban hành kịp thời, tháo gỡ 
khó khăn vướng mắc trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng, đồng thời 
mở ra một bước mới trong đầu tư và phát triển nông nghiệp nông thôn . 
-Khó khăn : 
+ Trong những năm qua các tỉnh miền núi phía Bắc nói chung và tỉnh 
Hà giang nói riêng cũng gặp không ít những khó khăn do yếu tố tự nhiên tác 
động, hạn hán diễn ra trên diện rộng, thiếu nước trầm trọng trong sinh hoạt, 
trồng trọt chăn nuôi, đã ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất của bà con nông dân 
từ đó ảnh hưởng đến việc thu nợ, thu lãi của Ngân hàng . 
+ Dân trí thấp, địa bàn hoạt động hẹp giao thông đi lại khó khăn . 
+ Lãi suất trần cho vay liên tục thay đổi (quy định của Thống đốc Ngân 
hàng Nhà nước), dẫn đến chênh lệch lãi suất đầu vào ,đầu ra thấp . 
+ Vấn đề cạnh tranh tín dụng trên địa bàn tuy không lớn như ở các tỉnh 
miền xuôi, song đã có những tín hiệu không lành mạnh như điều chỉnh lãi 
suất tiền gửi, cho vay, lôi kéo khách hàng .... 
Cùng với thuân lợi và khó khăn chung của toàn tỉnh, đã phần nào ảnh 
hưởng trực tiếp dến hoạt động kinh doanh của Hội sở NHNo & PTNT Hà 
Giang. Nhưng quá trình hoạt động kinh doanh của Hội sở Ngân hàng nông 
nghiệp trong những năm qua đã có những bước thay đổi đáng kể . 
Hội sở Ngân hàng nông nghiệp đã giải quyết được những vấn đề cơ bản 
trong tư tưởng nhận thức cho toàn bộ cán bộ nhân viên và khẳng định muốn 
tồn tại và phát triển trong cơ chế thị trường, trong xu thế ngày càng có nhiều 
quan hệ mở rộng thì không có con đường nào khác là phải đổi mới hoạt động 
kinh doanh và kinh doanh thật sự . Hội sở Ngân hàng nông nghiệp đã xác 
định được trách nhiệm của mình đối với việc phát triển nông, lâm, nghiệp và 
phương châm đi vay để cho vay cụ thể trong 9 tháng đầu năm 2001 đã đạt 
được những kết quả sau : 
2.2.2.1- Hoạt động huy động vốn: 
Nhờ có đổi mới phong cách làm việc, thái độ phục vụ khách hàng, thực 
hiện đúng khẩu hiệu “vui lòng khách đến, vừa lòng khách đi”, đã thu hút được 
nhiều khách hàng đến gửi tiền, đa dạng hoá các hình thức huy động vốn. 
 NHNo & PTNT nhận thức được vai trò của nguồn vốn kinh doanh, 
nguồn vốn chính là tiền đề cho hoạt động kinh doanh, là động lực chính, là cơ 
sở để mở rộng hoạt động kinh doanh. Chính vì thế mà NHNo & PTNT đã tập 
trung khai thác mọi nguồn, coi công tác huy động vốn là của mọi người, mọi 
thành viên. Đáp ứng đầy đủ, kịp thời các nhu cầu vay vốn của các hộ sản 
xuất, hộ nghèo, hộ kinh doanh, các công ty thuộc các doanh nghiệp Nhà nước 
và doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Hội sở NHNo & PTNT đã huy động vốn 
bằng các hình thức sau: 
Tiền gửi của các tổ chức kinh tế. 
Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn. 
Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn 3 tháng. 
Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn 6 tháng. 
Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn 12 tháng. 
Kỳ phiếu 13 tháng. 
Hội sở Ngân hàng Nông nghiệp là đơn vị đóng tại Trung tâm kinh tế 
của tỉnh nên công tác huy động vốn có nhiều thuận lợi so với các chi nhánh 
khác ở huyện. Vì vậy kết quả huy động hàng năm luôn đáp ứng kịp thời cho 
các mục tiêu, chương trình phát triển kinh tế của địa phương và bổ sung cho 
các chi nhánh huyện. Khuyến khích khách hàng truyền thống, duy trì và nâng 
cao số dư tiền gửi, Hội sở Ngân hàng Nông nghiệp đã từng bước tìm kiếm 
thêm khách hàng mới, để khơi tăng nguồn vốn tại địa phương. 
Bảng 1 : tình hình Huy động vốn 
 Đơn vị : Triệu đồng 
Chỉ tiêu 
1999 2000 2001 
So sánh 
2001/2000 
Số tiền 
Tỷ 
trọng 
Số tiền 
Tỷ 
trọng 
Số tiền 
Tỷ 
trọng 
Số tiền  
I/Tổng nguồn vốn huy 
động 
38.006 100 45.274 100 65.851 100 20.577 45,44 
1. Tiền gửi các tổ chức KTế 6.109 16,7 8.270 18,28 12.500 18,98 4.230 51,14 
2. Tiền gửi tiết kiệm 28.483 74,79 34.792 76,84 51.551 78,28 16.759 48,16 
- Tiền gửi không kỳ hạn 2.366 6,22 3.500 7,7 5.100 7,74 1.600 74,28 
-Tiền gửi có kỳ hạn 26.117 68,71 31.292 69,11 46.451 64,46 15.159 48,44 
3.T/gửi kỳ phiếu, trái phiếu 3.414 8,98 2.212 4,48 1.800 2,73 -412 81,37 
 (Nguồn: theo bảng cân đối tài khoản tổng hợp năm 1999 - 2000 và 
09 tháng đầu năm 2001 của Hội sở NHNo & PTNT tỉnh Hà Giang) 
* Nhận xét: 
Qua biểu số liệu trên, cho thấy kết qủa huy động vốn tăng lên rõ rệt. 
Kết quả huy động vốn năm 2001 đạt 65.851 triệu đồng, tăng 19,12% so với 
năm 2000, tăng 73,26% so với năm 1999. 
Xét về cơ cấu nguồn vốn qua các kỳ ta thấy: 
- Vốn huy động từ dân cư năm 2001 đạt 53.351 triệu đồng, tăng 
44,17% so với năm 2000, tăng 67,35% so với năm 1999. 
- Vốn huy động từ các tổ chức kinh tế năm 2001 là 12.500 triệu đồng, 
tăng 51,14% so với năm 2000, tăng 104,6% so với năm 1999. 
Vốn huy động từ dân cư chiếm tuỷ trọng cao trong tổng nguồn, chủ yếu 
là tiền gửi có kỳ hạn. Tiền gửi có kỳ hạn dài hạn tạo điều kiện thuận lợi để Hội sở 
cho vay trung và dài hạn. 
Nguồn vốn huy động từ các tầng lớp dân cư là một trong những yếu tố quyết 
định mở rộng hay thu hẹp đầu tư của Hội sở. Do vậy Hội sở đã huy động bằng 
nhiều hình thức phù hợp với từng thời kỳ. 
2.2.2.2. Về hoạt động sử dụng vốn: 
Bên cạnh việc coi trọng công tác huy động vốn thì việc sử dụng vốn 
đầu tư tín dụng là yếu tố quyết định mở rộng hay thu hẹp đầu tư, là công việc 
nghiệp vụ có tính chất sống còn của ngân hàng, vì phần lợi nhuận mà ngân 
hàng thu được đều dựa trên việc đầu tư cho vay. Nếu sử dụng vốn có hiệu quả 
sẽ bù đắp được chi phí cho huy động vốn và thu được lợi nhuận. Nếu không 
sẽ gây ra nguy hại tới vốn tự có của ngân hàng. Vì thế Hội sở Ngân hàng 
Nông nghiệp đã và đang thực hiện tốt công tác tín dụng đồng thời chú trọng 
đến công tác huy động vốn theo hướng " Đi vay để cho vay " đến mọi thành 
phần kinh tế. Để đảm bảo công tác tăng trưởng tín dụng về chất lượng tín 
dụng thì Hội sở ngân hàng cũng được đặc biệt quan tâm. Tăng trưởng tín 
dụng phải đảm bảo an toàn hiệu quả . 
- Làm tốt việc phân loại khách hàng thuộc các thành phần kinh tế khác 
nhau, để có hướng đầu tư phù hợp. 
- Bên cạnh đó Hội sở ngân hàng còn mở rộng cho vay thông qua việc 
ký kết văn bản thoả thuận với các ban ngành, một mặt vừa tuyên truyền 
nghiệp vụ ngân hàng, mặt khác thông qua việc ký kết văn bản thoả thuận đôi 
bên nhằm gắn trách nhiệm của các ban ngành như Hội liên hiệp phụ nữ tỉnh, 
Hội nông dân tỉnh thành lập các tổ vay vốn ở các phường xã, giúp cho các hộ 
ở xa trung tâm có cơ hội tiếp cận được với ngân hàng nông nghiệp. Trong 
việc bảo toàn vốn cho vay. 
- Căn cứ vào các chương trình kinh tế của tỉnh, các dự án về chuyển 
dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi để có cơ sở đầu tư đúng hướng. 
- Hội sở ngân hàng đã sử lý kịp thời các món vay quá hạn bị rủi ro bất 
khả kháng, giúp cho hộ vay ổn định sản xuất, khắc phục dần trong việc trả nợ 
tiến vay cũng đã có được những kết quả nhất định. 
Biểu 2: 
Trong công tác tín dụng, đầu tư vốn là một trong những nhiệm vụ trọng 
tâm, xuyên suốt hoạt động ngân hàng. Có đẩy mạnh được công tác đầu tư 
vốn, ngân hàng mới phát huy được vai trò của mình trong cơ chế thị trường, 
đáp ứng đầy đủ nhu cầu vốn tín dụng cho phát triển sản xuất và trao đổi hàng 
hoá đến tất cả các thành phần kinh tế. Đồng thời với việc mở rộng tín dụng, 
Hội sở ngân hàng đã rất quan tâm đến việc thu nợ. Đây là một chỉ tiêu quan 
trọng phản ánh hiệu quả của quá trình đầu tư. Hội sở ngân hàng thường xuyên 
giám sát quá trình sử dụng vốn vay, đôn đốc thu nợ kịp thời khi đến hạn đựợc 
thể hiện qua biểu 2. 
* Về doanh số cho vay: 
- Doanh số cho vay năm 1999 là 38.699 triệu đồng. 
- Doanh số cho vay năm 2000 đạt 64.913 triệu đồng, tăng so với năm 
99 là 26 tỷ, tỷ lệ tăng là 67,68%. 
- Doanh số cho vay năm 2001 đạt 82.550 triệu đồng, tăng so với năm 
2000 là 17.637 triệu đồng, tỷ lệ tăng là 27,17%. 
Trong đó: 
- Cho vay ngắn hạn năm 2001 là 66.350 triệu đồng, chiếm 80,37% trên 
tổng doanh số. 
- Cho vay trung, dài hạn là 16.200 triệu đồng, chiếm 19,63% trên tổng 
doanh số. 
Từ kết quả trên đạt được đã chứng tỏ Hội sở đã tập trung đầu tư vào 
cho vay đối với hộ sản xuất và tiêu dùng cá nhân. 
* Về doanh số thu nợ qua các năm: 
- Năm 1999 là 36.021 triệu đồng. 
- Năm 2000 là 45.050 triệu đồng, tăng so với năm 99 là 9.029 triệu 
đồng, tỷ lệ tăng bằng 25,06%. 
- Năm 2001 đạt 63.100, tăng so với năm 2000 là 18.050 triệu đồng, tỷ 
lệ tăng là 40,06%. 
* Về doanh số dư nợ qua các năm: 
Biểu số liệu trên nói lên công tác mở rộng đầu tư tín dụng của Hội sở 
rất tích cực, liên tục qua các thời điểm đều tăng mạnh, dư nợ 2001 đạt 60.730 
triệu đồng, tăng so với năm 2000 là 27.141 triệu đồng, tỷ lệ tăng là 80,8%. 
Trong đó: 
- Dư nợ cho vay ngắn hạn năm 2001 là 35.172 triệu đồng, chiếm 
57,92%, trên tổng dư nợ. 
- Dư nợ cho vay trung và dài hạn năm 2001 là 25.558 triệu đồng, chiếm 
42,08%, trên tổng dư nợ. 
Xét về cơ cấu theo thành phần kinh tế cho thấy dư nợ của doanh nghiệp 
Nhà nước đã bắt đầu đi vào làm ăn có lãi so với những năm trước đây. Nhu 
cầu vốn so với năm 1999 tăng 582 triệu đồng, tỷ lệ tăng 8,02%, năm 2001 
tăng 1.700 triệu đồng, tỷ lệ tăng là 21,71%. Dư nơ của kinh tế ngoài quốc 
doanh, chiếm tỷ trọng lớn và tăng trưởng qua các thời điểm, chứng tỏ Hội sở 
đã đầu tư đúng hướng, phù hợp với mục tiêu, phương hướng phát triển kinh tế 
- xã hội của tỉnh nhà. Đặc biệt dư nợ của khu vực tư nhân và cá thể (kinh tế 
hộ) tốc độ tăng trưởng nhanh cả về số tuyệt đối và tỷ trọng, dư nợ đến năm 
2001 so năm 2000 tăng 27.141 triệu đồng, tỷ lệ tăng 80,8%; 
* Đánh giá kết quả chất lượng tín dụng qua biểu dư nợ quá hạn của 
Hội sở: 
Biểu số 3: tình hình nợ quá hạn của hội sở 
Đơn vị : Triệu đồng 
chỉ tiêu 1999 2000 2001 
So sánh 
2000/1999 
So sánh 
2001/2000 
Số 
tiền 
 
Số 
tiền 
 
I/Tổng số nợ quá hạn 722 327 236 -395 -54,7 -91 -27,83 
1. Phân loại NQH 
theo loại 
- Nợ quá hạn ngắn hạn 339 80 68 -259 76,4 -12 -15 
-Nợ quá hạn trung, dài 
hạn 
383 247 168 -136 35,5 -79 -31,99 
2. Phân loại NQH 
theo thời gian 
- NQH đến 180 ngày 148 97 88 -51 34,4 -9 -9,2 
- NQH từ 181-360 
ngày 
138 101 80 -37 26,8 -21 -20,8 
-NQH trên 360 ngày 436 129 68 -307 -70,4 -61 -47,3 
II/ Tỷ lệ NQH /Tổng 
dư nợ 
5,26 0,97 0,38 -4,29 -0,59 
(Nguồn : theo bảng cân đối tài khoản tổng hợp năm 1999, 2000 và 09 
tháng đầu năm 2001 của Hội sở NHNo & PTNT tỉnh Hà Giang) 
Hội sở NHNo & PTNT coi nhiệm vụ thu nợ là nhiệm vụ trọng tâm, Hội 
sở đã phối hợp với các ban ngành, uỷ ban nhân dân các cấp tăng cường thu 
hồi nợ quá hạn cụ thể, qua biểu số liệu trên đã nói lên chất lượng tín dụng của 
Hội sở chuyển biến rất tích cực, nợ quá hạn ở các thời điểm đều giảm. So 
sánh 2000 với 1999 số nợ quá hạn giảm một cách đột biến, với số tuyệt đối 
giảm 395 triệu đồng, tỷ lệ giảm 54,7%. Năm 2001 so với năm 2000 đã giảm 
91 triệu đồng, tỷ lệ giảm là 27,83%. Nguyên nhân do năm 2000, 2001, Hội sở 
đã tăng trưởng dư nợ rất mạnh và xử lý rủi ro được 184 món = 383 triệu đồng. 
Mặt khác, công tác thanh tra, kiểm tra trên địa bàn đã chấn chỉnh kịp 
thời các sai sót trong việc thực hiện các quy trình nghiệp vụ của Hội sở. Vì 
vậy công tác thẩm định, xét duyệt cho vay trong những năm gần đây chặt chẽ 
và hiệu quả hơn, ít phát sinh nợ quá hạn do nguyên nhân chủ quan từ Ngân 
hàng. 
Tóm lại: Với tốc độ tăng trưởng dư nợ, kết quả công tác cho vay - thu 
nợ, số dư nợ quá hạn giảm thấp dưới 1%, theo các biểu phân tích như trên, có 
thể kết luận chất lượng tín dụng của Hội sở rất tốt. Đồng thời cũng có thể kết 
luận việc thực hiện phát triển kinh tế của các hộ có kết quả và chất lượng cao. 
Đó chính là môi trường kinh doanh tiềm tàng cho Ngân hàng nông nghiệp đầu 
tư và khai thác. 
2.2.2.3. Hoạt động khác: 
bảng 4: Tình hình tài chính của Hội sở 
 Đơn vị: triệu đồng 
Chỉ tiêu 
1999 
2000 
2001 
so sánh năm 
2001/2000 
Số tiền Tỷ trọng 
Tổng thu nhập 2.210 3.385 2.504 -881 -26 
Tổng chi phí 2.010 2.817 1.851 -966 -34,43 
Chênh lệch thu - chi +200 +468 +653 +193 +41,23 
Hệ số lương 1,4 1,65 1,65 
(Nguồn : Theo bảng tính toán quỹ thu nhập 09 tháng đầu năm của Hội sở 
NHNo & PTNT) 
Trong quá trình kinh doanh, Hội sở đã luôn cố gắng tiết kệm các khoản 
chi phí không cần thiết và tích cực đôn đốc thu. Vì vậy kết quả kinh doanh 
hàng năm luôn có lãi và đạt được hệ số lương tối đa do Ngân hàng Nông 
nghiệp Việt Nam quy định (hệ số lương tối đa năm 1999 là 1,4, năm 2000 và 
2001 là 1,65), thu nhập bình quân cán bộ công nhân viên là 1.800.000đ/người 
không kể ăn ca. 
* Công tác thanh toán : 
Công tác thanh toán trong mấy năm gần đây đã có nhiều chuyển biến, 
đáp ứng yêu cầu thanh toán chi trả cho khách hàng đầy đủ nhanh gọn, công 
tác thanh toán không ngừng được cải tiến. Gần đây Hội sở NHNo & PTNT) 
đã được trang bị lại hệ thống máy vi tính nối mạng, đẩy mạnh ứng dụng tin 
học vào hệ thống thanh toán, ngày càng có nhiều khách hàng đến với Hội sở 
NHNo & PTNT). Thực hiện chế độ nghiệp vụ kế toán cho vay, kế toán thanh 
toán, kế toán tài sản... số liệu đảm bảo chính xác, cập nhật đầy đủ, đúng chế 
độ quy định, các nghiệp vụ kế toán khác như thanh toán liên hàng, chuyển 
tiền được thực hiện thường xuyên, đảm bảo nhanh chóng, chính xác theo yêu 
cầu của khách hàng và đúng chế độ quy định, thái độ và tác phong giao dịch 
của cán bộ tận tình, chu đáo. 
* Công tác ngân quỹ 
Tổng thu tiền mặt và ngân phiếu trong năm 2001 : 139.395 triệu 
Tổng chi tiền mặt, ngân phiếu năm 2001 : 139.353 triệu 
Trong năm đã trả lại tiền thừa cho khách hàng 144 món, số tiền 
27.605.000đ, phát hiện và thu hồi tiền giả 640 tờ tiền giả với số tiền 
23.355.000đ 
Nhìn chung công tác ngân quỹ của Hội sở đã chấp hành tốt các quy 
định về an toàn kho quỹ, các sổ quỹ, sổ ra vào kho, sổ bàn giao chìa khoá 
kho... đều được lập và ghi chép đúng chế độ quy định, không để xảy ra mất 
mát, thiếu hụt quỹ. 
Ngoài việc thực hiện tốt công tác chuyên môn, nghiệp vụ, Hội sở còn 
làm tốt các mặt công tác khác như thiết lập tốt mối quan hệ với các cơ quan 
pháp luật trên địa bàn cùng kết hợp thực hiện tốt nhiệm vụ chuyên môn, đặc 
biệt trong công tác thu nợ. Bên cạnh đó, Hội sở còn luôn tổ chức và tham gia 
các phong trào văn hoá - thể thao, hội thi tìm hiểu luật, thi công đoàn, thi 
nghiệp vụ kiểm ngân, tin học, cán bộ tín dụng giỏi... tạo ra phong trào thi đua 
sôi nổi trong cơ quan, động viên cán bộ thêm hăng say trong công việc. 
2.3. thực trạng cho vay hộ sản xuất ở Hội sở Ngân hàng nông nghiệp Hà Giang 
2.3.1. Tình hình cho vay kinh tế hộ ở Hội sở Ngân hàng Nông nghiệp 
Hà Giang: 
Thực hiện chủ trương, chính sách của Tỉnh uỷ, UBND tỉnh, sự chỉ đạo 
của Ban lãnh đạo Ngân hàng Nông nghiệp tỉnh, trong các năm qua kết quả 
hoạt động kinh doanh của Hội sở Ngân hàng Nông nghiệp Hà Giang đã đi 
đúng hướng, thực hiện tốt nhiệm vụ kinh doanh, phục vụ kịp thời cho các 
chương trình, mục tiêu phát triển kinh tế của địa phương, đã góp phần thúc 
đẩy nền kinh tế nông nghiệp địa phương phát triển với các chương trình về 
lương thực, thực phẩm, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi trong nông 
nghiệp, xây dựng một nông thôn mới giúp cho hộ sản xuất từ kinh tế thuần 
nông chuyển dần sang đa canh, từ kinh tế tự cung, tự cấp của người nông dân 
sản xuất nhỏ, manh mún sang kinh tế hàng hoá. 
Cũng từ nền kinh tế thuần nông mà dân còn nghèo, việc tạo lập nguồn 
vốn trong nông nghiệp rất khó khăn, các món vay nhỏ lẻ, tản mạn, chi phí 
cao, kết quả kinh doanh thấp, mức thu nhập của cán bộ Ngân hàng Nông 
nghiệp không cao, môi trường và địa bàn hoạt động còn nhiều khó khăn phức 
tạp, đó là những khó khăn nhất của Hội sở Ngân hàng Nông nghiệp Hà Giang. 
Nhưng trong những năm gần đây, Hội sở đã bám sát chủ trương, chính 
sách của Tỉnh uỷ, UBND tỉnh, HĐND tỉnh về phát triển kinh tế nông nghiệp - 
nông thôn, bám sát thị trường nông thôn, đáp ứng được yêu cầu về vốn cho 
sản xuất, chăn nuôi phục vụ chương trình phát triển kinh tế - xã hội của địa 
phương. 
Hiện nay trên địa bàn có nhiều tổ chức tài chính cung cấp tín dụng cho 
nông nghiệp - nông thôn, nhưng NHNo&PTNT vẫn là tổ chức tài chính lớn 
nhất cung cấp tín dụng cho lĩnh vực này. Chỉ có Ngân hàng Nông nghiệp mới 
tới tận thôn bản, tận hộ để cung cấp vốn cho từng dự án, cho từng con trâu, 
bò, cung cấp vốn cho từng cân phân bón, từng cân giống lúa mới... cho bà con 
có cơ hội để phát triển kinh tế, chỉ có Ngân hàng Nông nghiệp mới là người 
bạn tận tuỵ với nhà nông. 
Cơ cấu đầu tư tín dụng của Hội sở Ngân hàng Nông nghiệp Hà Giang 
đã thực sự chuyển biến một cách tích cực, tỷ lệ đầu tư trung hạn cho hộ sản 
xuất mỗi năm một tăng, thực chất đó là tạo lập thị trường, tạo khách hàng ổn 
định trong quá trình kinh doanh. 
2.3.2. Hoạt động cho vay đối với kinh tế hộ sản xuất ở Hội sở Ngân 
hàng Nông nghiệp Hà Giang: 
* Về cho vay: 
Nhìn chung, từ khi Hội sở triển khai cho vay hộ sản xuất, bước đầu đã 
đúc kết được kinh nghiệm về quá trình cho vay hộ sản xuất. 
Thúc đẩy phát triển kinh tế ở nông thôn, góp phần từng bước hình 
thành các vùng kinh tế, tạo khả năng phát triển kinh tế hàng hoá trên địa bàn 
thị xã Hà Giang. 
Góp phần củng cố các đoàn thể xã hội, hạn chế cho vay nặng lãi ở nông 
thôn, tạo điều kiện ban đầu để đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật, ứng dụng vào 
sản xuất và chế biến nông sản, giải phóng phần nào sức lao động cho nông 
dân, mở rộng các ngành nghề, tạo thêm công ăn việc làm ở nông thôn. 
Năm 2001, Hội sở đã đầu tư tín dụng vào các lĩnh vực kinh tế nông 
nghiệp như sau: 
Lĩnh vực trồng trọt, lĩnh vực chăn nuôi, tiểu thủ công nghiệp, vận tải, 
thương nghiệp dịch vụ, ngành nghề khác. Số lượt hộ đến Hội sở vay vốn 
trong năm 2001 là 1.850 lượt. 
bảng 5 : 
(quay ngang) 
Số liệu biểu trên cho thấy Hội sở NHNo&PTNT đã rất chú trọng tới 
việc mở rộng mạng lưới kinh doanh, do đó doanh số cho vay thu nợ hộ sản 
xuất liên tục tăng trong những năm qua. 
- Tổng doanh số cho vay năm 2000 đạt 15.397 triệu đồng tăng 164 % 
so với năm 1999. (ứng với số tuyệt đối là 9.567 triệu đồng). 
- Tổng doanh số cho vay năm 2001 đạt 36.080 triệu đồng, tăng 
144,33% so với năm 2000. (ứng với số tuyệt đối là 20.683 triệu đồng). 
+ Doanh số cho vay trung và dài hạn năm 2001 là 17.660 triệu đồng 
chiếm 48,94% trong tổng doanh số cho vay, tăng 80,81% so với năm 2000, 
điều đó chứng tỏ Hội sở đã tập trung đầu tư vào các dự án chiều sâu có hiệu 
quả, nhằm tạo lập một thị trường lâu dài và bền vững tới các hộ. Đồng thời 
cũng phù hợp với chương trình kinh tế của địa phương về phát triển cây chè là 
mũi nhọn của địa phương, phát triển đàn trâu, bò, cho vay chất lợp đối với 
đồng bào nông thôn gặp khó khăn (tỉnh hỗ trợ lãi suất). 
+ Doanh số cho vay ngắn hạn năm 2000 là 18.420 triệu đồng, chiếm 
51,05% trên tổng doanh số cho vay, tăng 122,18% so với năm 2000. Là do 
phần lớn hộ sản xuất vay ngân hàng là nông dân, các hộ nông dân vay vốn 
chủ yếu để trang trải chi phí ngắn hạn như mua thức ăn chăn nuôi, phân bón, 
cây giống.. 
Để đạt được mục tiêu chất lượng tín dụng, Hội sở đã thực hiện nhiều 
biện pháp mạnh mẽ nhằm chấn chỉnh công tác tín dụng như: 
- Tổ chức phân loại khách hàng để có chính sách ưu đãi về lãi suất và 
vốn đầu tư tạo điều kiện cho khách hàng sản xuất kinh doanh có hiệu quả, 
giữu được khách hàng vay vốn thường xuyên. 
- Mở hội nghị khách hàng, tuyên truyền các quy chế, chính sách của 
ngành, qua đó củng cố mối quan hệ giữa khách hàng với ngân hàng, rút kinh 
nghiệm để phục vụ tốt hơn. 
- Thẩm định và giải ngân kịp thời các dự án cho vay theo các trương 
trình kinh tế của tỉnh, Chỉnh phủ. 
* Về thu nợ : 
Song song với công tác cho vay là công tác thu nợ, mục tiêu của tín 
dụng là an toàn vốn và có lợi nhuận, cho vay phải thu được cả gốc và lãi. Do 
cán bộ tín dụng của Hội sở đã làm tốt công tác thẩm định khi cho vay và 
thường xuyên kiểm tra, giám sát đối với quá trình sử dụng vốn vay của khách 
hàng nên bảo đảm thu nợ được đúng hạn.Từng cán bộ tín dụng đã bám sát địa 
bàn của mình, thường xuyên kiểm tra, đôn đốc khách hàng sử dụng vốn vay 
đúng mục đích, có hiệu quả, làm tiền đề thuận lợi cho công tác thu nợ, hạn 
chế tối đa nợ quá hạn phát sinh. 
Qua số liệu trên ta thấy tình hình thu nợ của hộ sản xuất đạt kết quả 
đáng khích lệ ở các năm gần đây: 
- Tổng doanh số thu nợ năm 1999 là 5.830 triệu đồng. 
- Tổng doanh số thu nợ năm 2000 là 15.397 triệu đồng, tăng 164% so 
với năm 1999, ứng với số tiền là 9.567 triệu đồng. 
- Tổng doanh số thu nợ năm 2001 là 21.559 triệu đồng, tăng 216,07% 
so với năm 2000, ứng với số tuyệt đối là 14.738 triệu đồng. 
Có được doanh số thu nợ như trên là do Hội sở đã phối hợp tốt với các 
cấp uỷ chính quyền các phường xã trên địa bàn, tổ chức vận động tuyên 
truyền cho người vay nắm được tích chất của tín dụng là hoàn trả. Đối với các 
trường hợp chây ỳ không chịu trả nợ thì ngân hàng phối hợp với các cơ quan 
luật pháp để xử lý những món nợ đã đến hạn và quá hạn, đối với những 
trường hợp do nguyên nhân khách quan bất khả kháng. Ngân hàng làm rõ 
nguyên nhân để khoanh nợ và có phương pháp xử lý. Đồng thời xem xét 
người vay bị rủi ro mà có phương án sản xuất kinh doanh khả thi, thì ngân 
hàng tiếp tục cho vay để người vay có vốn sản xuất và sẽ có thu nhập để trả 
nợ ngân hàng. 
* Về tình hình dư nợ : 
Sau khi nền kinh tế chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang 
nền kinh tế thị trường, để tồn tại trong hoạt động kinh doanh tín dụng của 
ngân hàng thì chỉ tiêu dư nợ tín dụng là một trong những chỉ tiêu hàng đầu. Vì 
thế bằng mọi biện pháp ngân hàng mở rộng khối lượng tín dụng của mình tức 
là tăng dư nợ. Một trong những đặc trưng cơ bản của hình thức tổ chức kinh 
tế hộ là quy mô sản xuất còn nhỏ bé, lạc hậu, vốn tự có ít, Do đó để mở rộng 
sản xuất kinh doanh, hầu hết các hộ kể cả có thu nhập ở mức khá đều có nhu 
cầu vay vốn ngân hàng. Nhận thức được thực trạng trên, Hội sở 
NHNo&PTNT Hà Giang đã có nhiều biện pháp khuyến khích các hộ sản xuất 
vay vốn ngân hàng, như đơn giản thủ tục vay vốn, mở rộng mạng lưới kinh 
doanh, giảm lãi suất cho vay. Với phương châm coi trọng cho vay hộ sản xuất 
trong thoì gian qua Hội sở đã tạo điều kiện cho các hộ sản xuất vay vốn để 
phát triển kinh tế. Tạo công ăn việc làm cho người lao động. Hội sở luôn chú 
trọng đến việc tăng tỷ trọng dư nợ trung và dài hạn. Bên cạnh đó nâng cao 
khả năng tiếp cận khách hàng, giảm chi phí hoạt động và tăng khả năng thu 
hồi nợ. Ngân hàng đã cải tiến phương thức cho vay theo hướng tăng dần dư 
nợ, cho vay hộ sản xuất theo hướng tăng dần dư nợ, cho vay hộ sản xuất theo 
phương thức gián tiếp thông qua tổ chức kinh tế, tài chính trung gian. 
Để đánh giá thực trạng cho vay hộ sản xuất ở Hội sở Ngân hàng Nông 
nghiệp qua bảng phân tích trên: 
- Tổng dư nợ năm 1999 là 6.006 triệu đồng. 
- Tổng dư nợ năm 2000 là 12.582 triệu đồng, tăng 109,49% so với năm 
1999, ứng với số tuyệt đối 6.576 triệu đồng. 
- Tổng dư nợ năm 2001 là 37.103 triệu đồng, tăng 194,82% so với năm 
2000, ứng với số tuyệt đối là 25.518 triệu đồng. 
 - Dư nợ cho vay hộ sản xuất phân theo ngành nghề. 
+ Dư nợ cho vay ngành nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn trong tổng dư 
cho vay hộ sản xuất, dư nợ năm 1999 chiếm 43,29%, năm 2000 chiếm 
54,66%, năm 2001 chiếm 112,3% trên tổng dư nợ. Do tỉnh đã quan tâm phát 
triển ngành nông nghiệp như áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật, đưa các 
cây trồng, con giống có giá trị hàng hoá cao vào sản xuất, đầu tư các cơ sở hạ 
tầng cho nông nghiệp nông thôn được thoả đáng, có chính sách bảo hộ sản 
phẩm nông nghiệp một cách hợp lý. Từ đó sản xuất phát triển khả năng hấp 
thụ vốn lớn tạo điều kiện cho ngân hàng mở rộng đầu tư tăng trưởng tín dụng. 
* Dư nợ quá hạn hộ sản xuất 
Khi xen xét chất lượng tín dụng phải xem xét trên nhiều mặt, một chỉ 
tiêu quan trọng để đánh giá dư nợ đó có lành mạnh không là chỉ tiêu nợ quá 
hạn. 
biểu số 6 : dư nợ quá hạn hộ sản xuất 
Đơn vị: triệu đồng 
chỉ tiêu 1999 2000 2001 
So sánh 
2000/1999 
So sánh 
2001/2000 
Số 
tiền 
 
Số 
tiền 
 
I/Tổng số nợ quá hạn 722 327 236 -395 -54,7 -91 -27,83 
1. Phân loại NQH 
theo loại 
- Nợ quá hạn ngắn hạn 339 80 68 -259 76,4 -12 -15 
-Nợ quá hạn trung, dài 
hạn 
383 247 168 -136 35,5 -79 -31,99 
2. Phân loại NQH 
theo thời gian 
- NQH đến 180 ngày 148 97 88 -51 34,4 -9 -9,2 
- NQH từ 181-360 
ngày 
138 101 80 -37 26,8 -21 -20,8 
-NQH trên 360 ngày 436 129 68 -307 -70,4 -61 -47,3 
II/ Tỷ lệ NQH /Tổng 
dư nợ 
5,26 0,97 0,38 -4,29 -0,59 
(Nguồn : theo bảng cân đối tài khoản tổng hợp năm 1999,2000 và 09 tháng 
đầu năm 2001 của Hội sở NHNo & PTNT tỉnh Hà Giang) 
Số liệu biểu trên cho biết tỷ lệ nợ quá hạn trong thời gian qua của Hội 
đã giảm mạnh. Nợ quá hạn hộ sản xuất năm 2001 giảm 91 triệu đồng so với 
năm 2000, tỷ lệ giảm là 27,83%. Là do công tác theo dõi nợ chặt chẽ diễn 
biến của dư nợ, thường xuyên đánh giá chất lượng tín dụng kiểm tra việc sử 
dụng vốn vay của khách hàng, do đó thu nợ kip thời những khoản nợ đến hạn. 
Các trường hợp có nợ quá hạn khó đòi, kéo dài, Hội sở đã phối hợp tốt với 
các cơ quan chức năng của địa phương để thu nợ như phát mại tài sản thế 
chấp, cầm cố, bảo lãnh... 
Nợ quá hạn trung, dài hạn chiếm tỷ trọng lớn trên tổng số nợ quá hạn. 
Nguyên nhân là do những năm trước đây Hội sở thực hiện cho vay theo 
chương trình của tỉnh trồng cây cà phê của tỉnh đã bị thất bại, do thời tiết và 
khí hậu của Hà Giang không phù hợp, hạn hán kéo dài đã làm chết hàng loạt 
đồi rừng cà phê. Số ít còn sống thì năng suất và chất lượng không cao, đã tác 
động mạnh vào thu nhập của các hộ và Ngân hàng Nông nghiệp nói chung, 
Hội sở nói riêng. 
Tuy nhiên, trong những năm qua, Hội sở đã có rất nhiêu biện pháp tích 
cực giúp các hộ có điều kiện để khôi phục lại sản xuất, thu hồi được vốn của 
Ngân hàng. Mặt khác sử dụng vốn vay có hiệu quả của các thành phần kinh tế 
ngày một nâng cao . 
2.3.3. Đánh giá kết quả và chất lượng tín dụng hộ sản xuất của Hội 
sở Ngân hàng Nông nghiệp Hà Giang: 
Với tốc độ tăng trưởng của dư nợ, kết quả công tác cho vay, thu nợ, tỷ 
lệ nợ quá hạn qua các năm giảm thấp dưới 3%, và giảm dần trong những năm 
tiếp theo năm 2001 tỷ lệ dư nợ quá hạn chỉ còn dưới 1% trên tổng dư nợ. 
Theo các biểu số liệu và phân tích như trên, chứng tỏ chất lượng tín dụng hộ 
sản xuất của Hội sở rất tốt, các chiến lược đầu tư, kinh doanh của Hội sở đúng 
hướng, đó chính là môi trường kinh doanh tiềm tàng cho Hội sở đầu tư và 
khai thác. 
Với kết quả hoạt động kinh doanh như vậy, Hội sở Ngân hàng Nông 
nghiệp Hà Giang đã có đóng góp tích cực vào công cuộc phát triển kinh tế 
nông nghiệp và nông thôn, đồng vốn của Ngân hàng đã được sử dụng đúng 
mục đích, khai thác triệt để khả năng nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư, tăng 
nhanh vòng quay đồng vốn. 
Nhiều hộ gia đình đã giàu lên nhờ được vay vốn Ngân hàng, hàng 
nghìn lao động đã có công ăn việc làm, bộ mặt nông thôn ngày một đổi mới. 
Nhờ đồng vốn Ngân hàng, từ các nhu cầu thiết yếu của hộ nông dân 
như cây, con giống, phân bón... đến các phương tiện khoa học kỹ thuật như 
ứng dụng khoa học, máy móc, thiết bị... đều được đáp ứng đầy đủ và kịp thời. 
Vốn Ngân hàng đã thực sự góp phần giúp nông dân khắc phục khó khăn trong 
sản xuất kinh doanh. 
Với số vốn đầu tư trong năm 2001 của Hội sở đã giúp cho các hộ mua 
sắm và đầu tư được như sau: 
Lợn giống và lợn thịt: 2793 con = 2.150 triệu đồng. 
Trâu, bò giống và sức kéo: 1820 con = 5.460 triệu đồng 
Mua sắm máy móc, thiết bị trị giá: = 1.000 tỷ đồng 
Cho vay trồng và chăm sóc cây chè 102ha = 2.117 triệu đồng 
Cho vay trồng và tu bổ rừng 372ha = 2.292 triệu đồng 
Cho vay thâm canh lúa, ngô lai 857ha = 1.710 triệu đồng 
Cho vay ngành nghề khác = 772 triệu đồng 
Số lượt hộ đến vay vốn là 2.500 lượt 
2.3.4. Một số tồn tại và nguyên nhân: 
Qua nghiệp vụ cho vay hộ sản xuất ở Hội sở NHNo & PTNT tỉnh Hà 
Giang đã đạt được những thành tựu đáng kể, song vẫn còn một số tồn tại cần 
được khắc phục biểu hiện tập trung ở một số điểm sau: 
Về tài sản đảm bảo tiền vay: 
Đối với các hộ nông thôn ở miền núi, tài sản lớn có giá trị để đảm bảo 
tiền vay là ngôi nhà. Xét về mặt giá trị có thể tới 3-4 chục triệu đồng, nhưng 
vẫn không đủ tiêu chuẩn làm đảm bảo vì khi khách hàng vay vốn không trả 
được nợ phải phát mại tài sản thì thật khó tìm đươc người mua ngôi nhà ở 
lưng chừng đồi, bên bờ suối, với nhà nọ cách nhà kia khá xa (200-300m). Khi 
có người mua thì giá trị đã bị mất tới 50-60% cho nên việc định giá tài sản khi 
cho vay và số tiền thu được khi thanh lý tài sản là quá trình khó khăn và phức 
tạp, thường kéo dài thời gian tới vài năm, gây nên nhiều phí tổn ảnh hưởng 
đến kết quả kinh doanh cũng như việc tập trung nguồn vốn của Ngân hàng. 
Đối với việc thế chấp bằng quyền sử dụng đất để đảm bảo tiền vay thì 
có thể các hộ có nhu cầu vốn sản xuất kinh doanh có thể vay được và Ngân 
hàng cũng yên tâm hơn vì đối với đất ở, đất nông nghiệp, đất rừng không thể 
thiếu đối với các hộ sản xuất, nhưng quyền này do cơ quan có thẩm quyền xét 
cấp. Cho đến nay ở thị xã Hà Giang mới chỉ có khoảng 60-65% số hộ được 
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Do vậy một số hộ có nhu cầu về vốn 
sản xuất lại không có quyền sử dụng đất lâu dài, rất khó trong việc đảm bảo 
tiền vay, hoặc khi không trả được nợ nếu không có quyền sử dụng đất khi bán 
thanh lý vì ít người mua, hoặc có mua cũng bị giảm giá từ 20-30%, làm thiệt 
hại cho khách hàng, ảnh hưởng đến khả năng thu nợ của Ngân hàng. 
- Trong quá trình cho vay phục vụ các chương trình kinh tế của tỉnh 
(ngân sách tỉnh trợ cấp lãi suất trong thời hạn vay) như cho vay trồng cây cà 
phê, mua máy sao sấy chè mi ni, máy bóc vỏ cà phê, máy tuốt lúa, máy cày, 
máy gặt... Bằng chính sách cởi mở để đưa ứng dụng khoa học kỹ thuật vào 
nông nghiệp. Nhưng trên thực tế, do cây cà phê không phù hợp với chất đất 
và khí hậu đã bị chết đến 70% diện tích trồng, mặt khác do trình độ nhiều hộ 
có hạn đã không biết sử dụng máy móc nên chẳng được bao lâu máy hỏng, 
làm ăn thua lỗ, hết thời hạn không trả được nợ Ngân hàng, ngân sách cũng 
không trả lãi, dẫn đến Ngân hàng là người gánh hậu quả. 
Đây là vấn đề nan giải do lực lượng sản xuất còn bất cập so nhu cầu sản 
xuất hàng hoá trên quy mô lớn, sản xuất chưa thoát khỏi tình trạng sản xuất 
nhỏ, phân tán, cơ sở vật chất kỹ thuật và kết cấu hạ tầng còn thấp kém, đã làm 
ảnh hưởng đến việc đầu tư vốn theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá. 
Việc đầu tư vốn phần nào còn mang tính chắp vá, dàn trải theo diện 
rộng, đầu tư theo chiều sâu chưa nhiều, tính khả thi của một số dự án vay vốn 
chưa cao. 
Trình độ dân trí có hạn, nên khi vay vốn Ngân hàng với số lượng lớn để 
đầu tư trung hạn như trồng rừng, trồng cây ăn quả... chỉ quen làm theo kinh 
nghiệm nhà nông thì khi phải lập một dự án sản xuất kinh doanh lại không có 
khả năng làm được. Do vậy nhiều khi nhu cầu vốn rất cần, song lại ngại phiền 
hà, không làm được dự án, đây cũng là trở lại cho việc đẩy mạnh đầu tư tín 
dụng. 
Khả năng cạnh tranh trong kinh doanh của Ngân hàng Nông nghiệp 
trên địa bàn còn nhiều hạn chế, chủ yếu là về cơ chế lãi suất. ở mọi thời điểm, 
bao giờ Ngân hàng Đầu tư và Phát triển cũng có lãi suất huy động cao hơn lãi 
suất cho vay thấp hơn so với Ngân hàng Nông nghiệp, chính vì vậy đã ảnh 
hưởng không nhỏ tới kết quả huy động vốn cũng như việc mở rộng đầu tư cho 
vay, nhất là đối với các dự án có tính chiều sâu, cần khối lượng vốn lớn, thời 
hạn dài. 
Đối với các ngành pháp luật chưa đồng bộ, chưa cương quyết cùng với 
Ngân hàng để phát mại tài sản khi khách hàng làm ăn thua lỗ do chủ quan gây 
ra không trả được nợ, các hồ sơ khi chuyển sang toà thụ lý và giải quyết phải 
mất thời gian khá dài, tốn kém chi phí. 
* Nguyên nhân tồn tại: 
- Do điều kiện của một Ngân hàng miền núi chưa thực sự theo kịp với 
yêu cầu phát triển của nền kinh tế thị trường nói chung và yêu cầu đổi mới 
trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng nói riêng. 
- Do trình độ nghiệp vụ của cán bộ tín dụng còn nhiều hạn chế, chưa 
ngang tâm với việc quản lý một khối lượng vốn lớn trên địa bàn rộng, đường 
sá đi lại khó khăn, với số lượng hộ sản xuất quá lớn. Do vậy việc kiểm tra 
thẩm định dự án cho vay, kiểm tra, đôn đốc thu nợ, thu lãi không được kịp 
thời, do vậy không phát hiện được sớm những món vay có tỷ lệ rủi ro cao làm 
ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của Ngân hàng và với việc tập trung nguồn 
vốn. Điều này cũng dễ nảy sinh tư tưởng hạn chế cho vay cho các hộ sản xuất. 
- Cơ sở hạ tầng trong nông nghiệp còn gặp nhiều khó khăn, đường sá đi 
lại chưa thuận tiện, các hộ nông dân còn thiếu nhiều thông tin cần thiết về giá 
cả và thị trường tiêu thụ, dẫn đến thị trường tiêu thụ của người sản xuất còn 
hạn hẹp và không ổn định. 
- Hiện nay có rất nhiều nguồn vốn từ ngân sách quốc gia và nguồn 
nguồn ưu đãi khác tập trung đầu tư vào lĩnh vực phát triển nông nghiệp nông 
thôn, qua các định chế tài chính khác như Ngân hàng Phục vụ người nghèo, 
Hệ thống quỹ tín dụng nhân dân, chương trình phủ xanh đất trống đồi núi 
trọc... cũng làm hạn chế đến việc đầu tư tín dụng của Ngân hàng Nông 
nghiệp. Cũng do có nhiều ưu đãi này làm cho một số hộ nông dân có tư tưởng 
ỷ nại vào Nhà nước, không chủ động xây dựng các phương án sản xuất kinh 
doanh có lãi với trách nhiệm hoàn trả cả gốc và lãi. 
- Đối với các cấp, các ngành ở địa phương, chỉ chú trọng đến việc đầu 
tư vốn phục vụ các chương trình phát triển kinh tế của địa phương, nhưng lại 
không quan tâm đến chất lượng đầu tư tín dụng của Ngân hàng.Vì vậy khi hộ 
sản xuất sử dụng vốn vay không có khả năng trả được nợ thì buộc Ngân hàng 
phải xử lý nợ vay để đảm bảo thu hồi vốn. Nhưng việc làm này của Ngân 
hàng lại không được các cấp, các ngành hữu quan đồng tình ủng hộ, làm ảnh 
hưởng tới công tác thu nợ của Ngân hàng để đầu tư quay vòng đồng vốn, từ 
đó làm hạn chế rất nhiều đến những hộ vay vốn nhưng tài sản quá ít. 
- Ngoài ra còn một số nguyên nhân tồn tại khác phải bàn đến, đó là cơ 
chế lãi suất còn bất cập, chênh lệch lãi suất đầu vào và đầu ra còn thấp so chi 
phí một món vay quá cao. Cụ thể đối với hộ sản xuất ở cách xa nhau thường 
hay vay lẻ tẻ, mỗi lần đến kiểm tra, giải quyết cho hộ vay vốn phải mất nhiều 
thời gian của cán bộ tín dụng và chi phí công tác, nhiều khi hạch toán số lãi 
thu được và chi phí bỏ ra Ngân hàng phải chịu lỗ. Nhưng so với Ngân hàng 
Đầu tư và Phát triển trên địa bàn thì cao hơn, do vậy lợi thế trong kinh doanh 
của Ngân hàng Nông nghiệp phải chịu nhiều thiệt thòi. 
- Công tác dịch vụ khuyến nông chưa mang lại hiệu quả cao, dẫn đến 
tính khả thi của một số dự án đầu tư thấp. Cụ thể đối với một số cây trồng, vật 
nuôi điển hình như: dự án trồng cây cà phê, cây cải dầu, dự án nuôi dê bách 
thảo... 
Trên đây là những tồn tại và nguyên nhân ảnh hưởng tới công tác đầu 
tư tín dụng hộ sản xuất chưa được khai thác triệt để khả năng tiềm tàng sẵn có 
trong nông nghiệp. Vì vậy trong quá trình hoạt động kinh doanh, Hội sở Ngân 
hàng Nông nghiệp tỉnh Hà Giang đã vượt khó đi lên, ngày càng thâm nhập 
vào môi trường nông thôn. Từ những kinh nghiệm đến việc đầu tư đã hạn chế 
được rủi ro và chất lượng tín dụng ngày càng được nâng cao. Trong những 
năm qua Hội sở NHNo&PTNT tỉnh Hà Giang đã đạt được những thành tựu 
nhất định góp phần tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy nền sản xuất phát triển, tạo 
việc làm cho các hộ sản xuất, góp phần xoá đói giảm nghèo. Nhưng trong quá 
trình cho vay đối với các hộ ở vùng sâu, vùng xa, Hội sở Ngân hàng Nông 
nghiệp Hà Giang cần có những biện pháp hữu hiệu để hạn chế và khắc phục 
tồn tại, nhằm không ngừng nâng cao hiệu quả vốn vay, đảm bảo an toàn tài 
sản của Nhà nước, tăng thu nhập cho Ngân hàng, đồng thời phục vụ tốt nhất, 
đắc lực nhất cho sự nghiệp xây dựng nông nghiệp - nông thôn trên địa bàn, 
góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu, chương trình kinh tế của tỉnh Đảng 
bộ về phát triển nông nghiệp - nông thôn. 
Chương III 
một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại 
Hội sở Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Giang 
3.1- Những Giải pháp đối với hội sở ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn 
Hà Giang. 
3.1.1. Định hướng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ở Hội sở Ngân 
hàng Nông nghiệp Hà Giang. 
Thực hiện chủ trương phát triển kinh tế xã hội của Đảng, Nhà nước và 
Nghị quyết của đại hội Đảng bộ tỉnh Hà Giang lần thứ XIII, phải tiếp tục xoá 
đói giảm nghèo, tạo công ăn việc làm giảm bớt lao động dư thừa trong xã hội, 
các doanh nghiệp phải là những đơn vị tiên phong trong công cuộc đó. Phải 
vươn lên cạnh tranh chiếm lĩnh thị trường, khai thác mọi tiềm năng sẵn có của 
tỉnh, mang lại nguồn vốn ổn định lâu dài. Phục vụ thúc đẩy sản xuất tạo đã 
cho việc công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Để thực hiện chủ trương đó 
NHNo & PTNT nói chung và Hội sở Ngân hàng Nông nghiệp nói riển đã đề 
ra một số định hướng về nâng cao hiệu quả cho vay hộ sản xuất ở NHNo & 
PTNT trong thời gian tới. 
- Tập trung đẩy mạnh chiến lược huy động vốn đặc biệt là nguồn vốn 
huy động tại địa phương, tranh thủ sự hỗ trợ của các ngân hàng cấp trên phấn 
đấu mức huy động tại địa phương tăng 25%, so với năm 2001. 
- Đẩy mạnh cho vay đối với tất cả các thành phần kinh tế trong tỉnh 
theo các chương trình dự án có hiệu quả và có khả năng thu hồi vốn. Chú 
trọng đầu tư 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
Báo cáo tốt nghiệp- Biện pháp mở rộng và nâng cao hiệu quả cho vay hộ sản xuất ở Hội sở Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Hà Giang.pdf