Báo cáo Tìm hiểu thực trạng và giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường Mỹ

Tài liệu Báo cáo Tìm hiểu thực trạng và giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường Mỹ: TRƯỜNG …………………. KHOA………………………. -----š›&š›----- Báo cáo tốt nghiệp Đề tài: Thực trạng và giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường Mỹ MỤC LỤC LỜI NÓI ĐẦU 1.Tính cấp thiết của đề tài: Cuộc cách mạng khoa học công nghệ phát triển với tốc độ vũ bão, đưa tới một sự đột biến trong tăng trưởng kinh tế của mỗi quốc gia và đưa xã hội loài người bước vào một kỷ nguyên mới - kỷ nguyên của nền văn minh trí tuệ. Trong bối cảnh ấy xu hướng quốc tế hoá và toàn cầu hoá là đòi hỏi tất yếu đối với tất cả mọi quốc gia trên thế giới và Việt Nam cũng không thể là một ngoại lệ. Hoà vào xu hướng hội nhập ấy, để có thể tiến nhanh, tiến kịp thời đại thì Việt Nam cần phải phát huy những lợi thế vốn có của mình. Là một quốc gia có dân số khoảng trên 80 triệu, thu nhập bình quân đầu người thấp thì lợi thế lớn nhất đối với Việt Nam là có một lực lượng lao động dồi dào với giá nhân công rẻ. Bởi vậy, phát triển công nghiệp dệt may trong giai đoạn đầu của qúa trình công nghiệp hoá, h...

doc110 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1039 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Báo cáo Tìm hiểu thực trạng và giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường Mỹ, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG …………………. KHOA………………………. -----š›&š›----- Báo cáo tốt nghiệp Đề tài: Thực trạng và giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường Mỹ MỤC LỤC LỜI NÓI ĐẦU 1.Tính cấp thiết của đề tài: Cuộc cách mạng khoa học công nghệ phát triển với tốc độ vũ bão, đưa tới một sự đột biến trong tăng trưởng kinh tế của mỗi quốc gia và đưa xã hội loài người bước vào một kỷ nguyên mới - kỷ nguyên của nền văn minh trí tuệ. Trong bối cảnh ấy xu hướng quốc tế hoá và toàn cầu hoá là đòi hỏi tất yếu đối với tất cả mọi quốc gia trên thế giới và Việt Nam cũng không thể là một ngoại lệ. Hoà vào xu hướng hội nhập ấy, để có thể tiến nhanh, tiến kịp thời đại thì Việt Nam cần phải phát huy những lợi thế vốn có của mình. Là một quốc gia có dân số khoảng trên 80 triệu, thu nhập bình quân đầu người thấp thì lợi thế lớn nhất đối với Việt Nam là có một lực lượng lao động dồi dào với giá nhân công rẻ. Bởi vậy, phát triển công nghiệp dệt may trong giai đoạn đầu của qúa trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước có vai trò đặc biệt quan trọng đối với Việt Nam. Ngoài việc sản xuất hàng tiêu dùng thiết yếu cho nhân dân, tạo công ăn việc làm cho hàng triệu người lao động trong xã hội, xuất khẩu hàng dệt may còn góp phần làm tăng kim ngạch xuất khẩu của quốc gia. Hàng dệt may hiện đang đứng thứ hai trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam, sau dầu thô. Trong năm 2003, hàng dệt may xuất khẩu tăng 30,8%, kim ngạch tăng khoảng 850 triệu USD đưa hàng dệt may trở thành một trong số những mặt hàng xuất khẩu có giá trị lớn nhất của Việt Nam. Trước mắt việc xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường Mỹ còn gặp nhiều khó khăn như chất lượng hàng hoá chưa ổn định cộng với việc chưa am hiểu luật pháp kinh doanh cũng như phong tục, tập quán của thị trường Mỹ của các doanh nghiệp Việt Nam nhưng trở ngại lớn nhất vẫn là việc hàng dệt may của Việt Nam chưa được hưởng quy chế tối huệ quốc của Mỹ. Nhưng dù sao hiệp định thương mại Việt-Mỹ được ký kết vào tháng 7/2000 là một cơ hội mới, to lớn cho ngành dệt may nước ta vì đây là một thị trường nhập khẩu hàng dệt may lớn nhất thế giới. Do vậy, việc đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Mỹ được xem là một trong những ưu tiên hàng đầu để phát triển sản xuất, tăng thu ngoại tệ cho đất nước, tạo công ăn việc làm cho người dân và ổn định xã hội. 2.Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn tình hình sản xuất, xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang thị trường Mỹ, thực trạng của thị trường Mỹ và yêu cầu bức thiết của việc cần phải đẩy nhanh tốc độ và kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang thị trường Mỹ. Nhóm chúng tôi chọn đề tài : “Thực trạng và giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường Mỹ” nhằm khái quát thị trường dệt may tại Mỹ cũng như thực trạng xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang Mỹ từ đó đề ra một số giải pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường Mỹ trong thời gian tới. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: Đối tượng của đề tài là nghiên cứu thực trạng và giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang thị trường Mỹ. Phạm vi nghiên cứu của đề tài giới hạn ở việc xuất khẩu mặt hàng dệt may của Việt Nam sang thị trường Mỹ mà không mở rộng sang các thị trường khác. 4. Phương pháp nghiên cứu: Trong đề tài này chúng tôi sử dụng phương pháp thống kê, so sánh số liệu của nhóm hàng dệt may xuất khẩu, các mặt hàng sản xuất, xuất khẩu chủ đạo của nó những năm gần đây.Đề tài còn kết hợp phương pháp tổng hợp, phân tích đánh giá đồng thời vận dụng các quan điểm, đường lối, chính sách phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước để làm sáng tỏ nội dung nghiên cứu của đề tài. 5. Bố cục của đề tài: Với nội dung như vậy, đề tài của chúng tôi sẽ gồm các phần: Mục lục Lời nói đầu Chương I: Những vấn đề cơ bản về xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam . Chương II: Tổng quan về thị trường dệt may Mỹ. Chương III: Thực trạng xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Mỹ. Chương IV: Các giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường Mỹ. Kết luận Tài liệu tham khảo Do còn có những hạn chế trong việc cập nhật thông tin cùng với những hạn chế kiến thức của bản thân, nên trong đề tài không thể tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô và các bạn để đề tài này được hoàn thiện. Cuối cùng xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến Th.S Nguyễn Anh Tuấn cùng các thầy cô ở khoa Thương Mại Trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân đã giúp đỡ chúng em hoàn thành đề tài đúng thời hạn. Nhóm thực hiện Chương I: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY CỦA VIỆT NAM I. Những vấn đề cơ bản về xuất khẩu hàng hoá . I.Khái niệm chung về xuất khẩu hàng hoá 1.Khái niệm hoạt động xuất khẩu Xuất khẩu là một bộ phận cấu thành quan trọng cuả hoạt động ngoại thương, trong đó hàng hoá dịch vụ được bán cho nước ngoài nhằm thu ngoại tệ. Nếu xem xét dưới góc độ các hình thức kinh doanh quốc tế thì xuất khẩu là hình thức cơ bản đầu tiên của doanh nghiệp khi bước vào kinh doanh quốc tế. Mỗi công ty luôn hướng tới xuất khẩu những sản phẩm và dịch vụ của mình ra nước ngoài. Xuất khẩu còn tồn tại ngay cả khi công ty đã tiến hành các hình thức cao hơn trong kinh doanh quốc tế. Các lý do để một công ty thực hiện xuất khẩu là: Thứ nhất, sử dụng những lợi thế của quốc gia mình Thứ hai, giảm chi phí, giảm giá thành sản phẩm Khi một thị trường chưa bị hạn chế bởi thuế quan , hạn ngạch, các quy định khắt khe về tiêu chuẩn kỹ thuật, trên thị trường có ít đối thủ cạnh tranh hay năng lực của doanh nghiệp kinh doanh quốc tế còn chưa có đủ khả năng để thực hiện các hình thức cao hơn thì xuất khẩu được lựa chọn. So với đầu tư rõ ràng xuất khẩu đòi hỏi một lượng vốn ít hơn, rủi ro thấp hơn, thu được lợi nhuận trong một thời gian ngắn. 2.Vai trò của hoạt động xuất khẩu Trong xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới, không một quốc gia nào có thể tự sản xuất tất cả các sản phẩm hàng hoá, dịch vụ đáp ứng nhu cầu trong nước. Vì vậy tham gia vào hoạt động thương mại quốc tế là điều kiện cần thiết cho mỗi quốc gia. Mỗi quôc gia phải thông qua trao đổi, mua bán với các quốc gia.nhằm thoả mản nhu cầu của mình. Như vậy, hoạt động xuất khẩu góp phần quan trọng vào sự phát triển hay suy thoái, lạc hậu của quốc gia so với thế giới. ích lợi của hoạt động xuất khẩu được thể hiện như sau: 2.1.Đối với nền kinh tế thế giới Thông qua hoạt động xuất khẩu, cácb quốc gia tham gia vào phân công lao động quốc tế.Các quốc gia sẽ tập trung vào sản xuất và sản xuất những hàng hoá và dịch vụ mà mình không có lợi thế. Xét trên tổng thể nền kinh tế thế giới thì chuyên môn hoá sản xuất và xuất khẩu sẽ làm cho việc sử dụng các nguôn lực có hiệu quả hơn và tổng sản phẩm xã hội toàn thế giới tăng lên. Bên cạnh đó xuất khẩu góp phần thắt chặt thêm quan hệ quốc tế giữa các quốc gia. 2.2. Đối với nền kinh tế quốc dân Xuất khẩu tạo nguồn vốn quan trọng, chủ yếu để quốc gia thoả mãn nhu cầu nhập khẩu và tĩch luỹ để phát triển sản xuất Mỗi quốc gia muốn tăng trưởng và phát triển kinh tế lại rất cần những tư liệu sản xuất để phục vụ cho công cuộc CNH- HĐH. Để có những tư liệu sản xuất đó, họ phải nhập khẩu từ nước ngoài và để bù đắp nguồn vốn bị thiếu hụt họ sẽ lấy từ xuất khẩu. Ở các nước kém phát triển vật ngăn cản chính đối với nền kinh tế là thiếu tiềm lực về vốn trong quá trình phát triển. Nguồn vốn huy động từ nước ngoài được coi là cở chính nhưng mọi cơ hội đầu tư hoặc vay nợ từ nước ngoài thấy được khả năng xuất khẩu của đất nước đó, vì đây là nguồn chính để đảm bảo nước này có thể trả nợ. Đẩy mạnh xuất khẩu được xem như một yếu tố quan trọng kích thích sự tăng trưởng kinh tế Việc đẩy mạnh xuất khẩu sẽ tạo điều kiện mở rộng qui mô sản xuất, nhiều ngành nghề mới ra đời phục vụ cho xuất khẩu, gây phản ứng dây chuyền giúp cho các ngành kinh tế khác phát triển theo, dẫn đến kết quả tăng tổng sản phẩm xã hội và nền kinh tế phát triển nhanh. Xuất khẩu có ích lợi kích thích đổi mới trang thiết bị và công nghiệp sản xuất Để có thể đáp ứng được nhu cầu cao của thế giới về qui cách phẩm chất sản phẩm thì một sản phẩm sản xuất phải đổi mới trang thiết bị công nghệ, mặt khác người lao động phải năng cao tay nghề, học hỏi những kinh nghiệm sản xuất tiên tiến. * Đẩy mạnh xuất khẩu có ích lợi đến sự thay đổi cơ cấu kinh tế ngành theo hướng sử dụng có hiệu quả nhất lợi thế so sánh tuyệt đối và tương đối của đất nước Xuất khẩu tạo khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ,cung cấp đầu vào cho sản xuất, khai thác tối đa sản xuất trong nước. Xuất khẩu tạo những tiền đề kinh tế kỹ thuật nhằm cải tạo và nâng cao năng lực sản xuất trong nước. Điều này có ý nghĩa là xuất khẩu là phưong tiện quan trọng tạo vốn, kỹ thuật và công nghệ tiên tiến từ thế giới bên ngoài vào trong nước nhằm hiện đại hoá nền kinh tế của đất nước, tạo ra năng lực sản xuất mới. Thông qua xuất khẩu, hàng hoá trong nước sẽ tham gia vào cuộc cạnh tranh trên thi trường thế giới về giá cả và chất lượng. Cuộc cạnh tranh này đòi hỏi các nhà sản xuất trong nước phải tổ chức lại sản xuất, hình thành cơ cấu sản xuất phù hợp với nhu cầu thị trường. Ngoài ra, xuất khẩu còn đòi hỏi các nhà doanh nghiệp phải luồng đổi mới công hoàn thiện công tác quản lý sản xuất, kinh doanh, nâng cao chất lượng sản phẩm và hạ giá thành. * Xuất khẩu có tác động trực tiếp đến việc giải quyết công ăn việc làm và cải thiện đới của nhân dân Tác động của xuất khẩu đến đời sống bao gồm nhiều mặt. Ngoài ra một phần kim ngạch xuất khẩu còn dùng để nhập khẩu những vật phẩm tiêu dùng thiết yếu phục vụ cho đời sống và đáp ứng ngày càng phong phú hơn nhu cầu tiêu dùng của nhân dân. Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy kinh tế đối ngoại giữa các quốc gia Xuất khẩu và các quan hệ kinh tế đối ngoại có tác động qua lại phụ thuộc lẫn nhau. Hoạt động xuất khẩu là một hoạt động chủ yếu, cơ bản là hình thức ban đầu của hoạt động kinh tế đối ngoại, từ đó thúc đẩy các mối quan hệ khác như du lịch quốc tế, bảo hiểm, vận tải quốc tế, tín dụng quốc tế…phát triển theo. Ngược lại sự phát triển của các ngành này lại là những điều kiện tiền đề cho hoạt động xuất khẩu phát triển. 2.3. Đối với doanh nghiệp Ngày nay xu hướng vươn ra thị trường nước ngoài là một xu hướng chung của tất cả các quốc gia và các doanh nghiệp. Việc xuất khẩu hàng hoá dịch vụ đem lại lợi ích sau: Thông qua xuất khẩu các doanh nghiệp trong nước có cơ hội tham gia vào cuốc cạnh tranh trên thị trường thế giới về giá cả, chất lượng. Những yếu tố đó đòi hỏi doanh nghiệp phải hình thành một cơ câu sản xuất phù hợp với thị trường. Xuất khẩu đòi hỏi các doanh nghiệp luôn luôn đổi mới và hoàn thiện công tác quản lý sản xuất, kinh doanh nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành. Xuất khẩu tạo điều kiện cho các doanh nghiệp mở rộng thị trường, mở rộng quan hệ kinh doanh với các bạn hàng cả trong và ngoài nước, trên cơ sở hai bên cùng có lợi, tăng doanh số và lợi nhuận, đồng thời phân tán và chia sẻ rủi ro, mất mát trong hoạt trong hoạt động kinh doanh, tăng cường uy tín kinh doanh của doanh nghiệp. Xuất khẩu khuyến khích việc phát triển các mạng lưới kinh doanh của doanh nghiệp, chẳng hạn như hoạt động đâu tư, nghiên cứu và phát triển các hoạt động sản xuất, marketing…,cũng như sự phân phối và mở rộng trong việc cấp giấy phép. 3.Nhiệm vụ của xuất khẩu Xuất phát từ mục tiêu chung của xuất khẩu là xuất khẩu để nhập khẩu đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế. Nhu cầu của nền kinh tế đa dạng:phục vụ cho sự nghiệp CNH - HĐH đất nước, cho tiêu dùng, cho xuất khẩu và tạo thêm công ăn viềc làm. Xuất khẩu là để nhập khẩu. Phải xuất phát từ nhu cầu thị trường để xác định phương hướng, tổ chức hàng nhập khẩu thích hợp. Để thực hiện tốt mục tiêu trên, hoạt động xuất khẩu cần hướng vào thực hiện các nhiệm vụ sau: Phải ra sức khai thác có hiệu quả mọi nguồn lực của đất nước (đất đai, tài nguyên thiên nhiên, cơ sở vật chất). Nâng cao nâng lực sản xuất hàng hoá xuất khẩu tăng nhanh khối lượng và kim ngạch xuất khẩu. Tạo hiệu quả những mặt hàng(nhóm hàng) xuất khẩu chủ lực đáp ứng những đòi hỏi của thị trường thế giới và của khu vực về chất lượng, số lượng, có sức hấp dẫn và khả năng cạnh tranh cao. Năng lực cạnh tranh của những sản phẩm "made in Việt Nam" chia làm ba nhóm: - Nhóm có khả năng cạnh tranh và cạnh tranh coa hiệu quả. - Nhóm có khả năng có điều kiện. - Nhóm có khả năng thấp. 4. Nội dung của hoạt động xuất khẩu 4.1.Nghiên cứu thị trường 4.1.1.Lựa chọn mặt hàng xuất khẩu Đây là một trong những nội dung ban đầu cơ bản nhưng rất quan trọng và rất cần thiết để tiến hành hoạt động xuất khẩu. Để lựa chọn được mặt hàng mà thị trường cần, đòi hỏi doanh nghiệp phải có quá trình nghiên cứu, phân tích có hệ thống nhu cầu thị trường từ đó giúp cho doanh nghiệp chủ động trong quá trình sản xuất kinh doanh 4.1.2.Lựa chọn thị trường xuất khẩu Sau khi đã lựa chọn được mặt hàng xuất khẩu, doanh nghiệp cần phải tiến hành lựa chọn thị trường xuất khẩu mắt hàng đó. Việc lựa chọn thị trường đòi hỏi doanh nghiệp phân tích tổng hợp nhiều yếu tố bao gôm cả những yếu tố vi mô cũng như yếu tố vĩ mô và khả năng của doanh nghiệp. Đây là một quá trình đòi hỏi nhiều thời gian và chi phí. 4.1.3.Lựa chọn bạn hàng Lựa chọn bạn hàng căn cứ khả năng tài chính, khả năng thanh toán của bạn hàng và căn cứ vào phương thức và phương tiện thanh toán. Việc lựa chọn bạn hàng luôn theo nguyên tăc đôi bên cùng có lợi. Thông thường khi lựa chọn bạn hàng, các doanh nghiệp thường trước hết lưu tâm đến những mối quan hệ cũ của mình. Sau đó những bạn hàng của các doanh nghiệp khác trong nước đã quan hệ cũng là một căn cứ để xem xét lựa chọn ở các nước đang phát triển. Các bạn hàng thường phân theo khu vực thị trường mà tuỳ thuộc vào sản phẩm mà doanh nghiệp lựa chọn để buôn bán quốc tế mà các quốc gia ưu tiên. 4.1.4.Lựa chọn phương thức giao dịch Phương thức là những cách thức mà doanh nghiệp sử dụng để thực hiện các mục tiêu và kế hoạch kinh doanh của mình trên thị trường thế giới. Hiện nay có rất nhiều phương thức giao dịch khác nhau như: giao dịch thông thường, giao dịch qua trung gian, giao dịch thông qua hội chợ hay triển lãm. Tuỳ vào khả năng của mỗi doanh nghiệp mà lựa chọn phương thức giao dịch sao cho đảm bảo các mục tiêu của sản xuất kinh doanh. 4.2.Đàm phán và ký kết hợp đồng Đây là một khâu quan trọng trong kinh doanh xuất khẩu, vì nó quyết định đến tính khả thi hay không khả thi của kế hoạch kinh doanh của doanh nghiệp. Kết quả của đàm phán sẽ là hợp đồng được ký kết. Đàm phán có thể thông qua thư tín, điện tín và trực tiếp. Tiếp theo công việc đàm phán, các bên tiến hành ký kết hợp đồng xuất khẩu, trong đó qui định ngươi bán có nghĩa vụ chuyển quyền sở hữu hàng hoá cho người mua, con người mua có nghĩa vụ trả cho người bán một khoản tiền ngang giá trị theo các phương tiện thanh toán quốc tế. 4.3.Thực hiện hợp đồng xuất khẩu, giao hàng và thanh toán Sau khi đã ký kết hợp đồng hai bên thực hiện những gì mình đã cam kết trong hợp đồng. Với tư cách là nhà xuất khẩu, doanh nghiệp sẽ thực hiện những công việc sau : *Giục mở L/C và kiểm tra L/C đó : Trong hoạt động buôn bán quốc tế hiện nay, việc sứ dụng L/C đã trở thành phổ biến hơn cả, do lợi ich của nó mang lại. Sau khi người nhập khẩu mở L/C, người xuất khẩu phải kiểm tra cẩn thận, chi tiết các điều kiện trong L/C xme có phù hợp với những điều kiện của hợp đồng hay không. Nếu không phù hợp hoặc có sai sót thì cần phải thông báo cho người nhập khẩu biết để sửa chữa kịp thời còn nếu khong thấy có sai sót thì thông báo cho bên nhậo khẩu biết và tiến hành chuyển bị giao hàng hoá. *Xin giấy phép xuất khẩu Trong một số trường hợp, mặy hàng xuất khẩu thuộc danh mục Nhà nước quản lý, doanh nghiệp cần phải tiến hành xin giấy phép xuất khẩu do phòng cấp giấy phép xuất khẩu của Bộ Thương Mại quản lý *Chuẩn bị hàng xuất khẩu Đối với những doanh nghiệp sau khi thu mua nguyên phụ liệu sản xuất ra sản phẩm, cần phải lựa chọn, kiểm tra, đóng gói bao bì hàng hoá xuất khẩu, kẻ ký mã hiệu sao cho phù hợp với hợp đồng đã ký và luật pháp của nước nhập khẩu *Kiểm định hàng hoá Trươc khi xuất khẩu, các nhà xuất khẩu phải có nghĩa vụ kiểm tra số lượng, trọng lượng hàng hoá. Việc kiểm tra phải được tiến hành hai cấp cơ sở và ở cửa khẩu nhăm đảm bảo quyền lợi cho khach hàng va uy tín của nhà sản xuất *Thuê phương tiện vận chuyển Doanh nghiệp xuất khẩu có thể tự thuê phương tiện vận chuyển hoặc uỷ thác cho một công ty uỷ thác thuê tàu. Điều này phụ thuộc vào điều kiện cơ sở giao hàng trong hợp đồng. Cơ sở pháp lý điếu tiết mối quan hệ giữa các bên uỷ thác thuê tàu với bên nhận uỷ thác là hợp đồng uỷ thác thuê tàu. Có hai loại hợp đồng uỷ thác thuê tàu: Hợp đồng uỷ thác thuê tàu cả năm và hợp đồng thuê tàu chuyến. Nhà xuất khẩu căn cứ vào đặc điểm của hàng hoá để lựa chọn hợp đồng thuê tàu cho thích hợp. *Mua bảo hiểm hàng hoá Hàng hoá trong buôn bán quốc tế thường xuyên được chuyên chở bằng đường biển, điều này thường gặp rất nhiều rủi ro, do đó cần phải mua bảo hiểm cho hàng hoá. Công việc cần phải thực hiện thông qua hợp đồng bảo hiểm. Có hai loại hợp đồng bảo hiểm :Hợp đồng bảo hiểm bao và hợp đồng bảo hiểm chuyến.khi mua bảo hiểm cần lưu ý những điều kiện bảo hiểm và lựa chọn công ty bảo hiểm. *Làm thủ tục hải quan Hàng hoá khi vườt qua biên giới quốc gia để xuất khẩu đều phải làm thủ tục hải quan. Việc làm thủ tục hải quan bao gồm ba bước chủ yếu sau: -Khai báo hải quan: Doanh nghiệp khai báo tất cả các đặc điểm hàng hoá về số lượng, chất lượng, giá trị, tên phương tiện vận chuyển, nước nhập khẩu. Các chứng từ cần thiết, phải xuất trình kèm theo là: Giây phép xuất khẩu, phiếu đóng gói, bảng kê chi tiết…. Xuất trình hàng hoá Thực hiện các quyết định của hải quan *Giao hàng lên tàu Trong bước này doanh nghiệp cần tiến hành các công việc sau: - Lập bản đăng ký hàng chuyên chở. - Xuất trình bản đăng ký cho người vận tải để lấy hồ sơ xếp hàng. - Trao đổi với cơ quan điều độ cảng để nắm vững ngày giờ làm hàng - Bố trí phương tiện vận tải đưa hàng vào cảng, xếp hàng lên tàu - Lấy biên lai thuyền phó, sau đó đổi biên lai, sau đó biên lai thuyền phó lấy vận đơn đường biển hoàn hảo và chuyển nhượng được, sau đó lập bộ chứng từ thanh toán *Thanh toán Thanh toán là bước cuối cùng của việc thực hiện hợp đồng nếu không có sự tranh chấp khiêú nại. Trong buôn bán quốc tế, có rất nhiều phương thức thanh toán khác nhau: - Phương thức chuyển tiền - Phương thức thanh toán mở tài khoản - Phương thức thanh toán nhờ thu - Phương thức thanh toán tín dụng chứng từ Đối với nhà xuất khẩu về phương tiện thanh toán cần phải xem xét những vấn đề sau: Người bán muốn bảo đảm rằng, người mua có các phương tiện tài chính để trả tiền mua hàng theo đúng hợp đồng đã ký Người bán muốn việc thanh toán được thực hiện đúng hạn Trên bình diện quốc tế, hai phương tiện thanh toán là nhờ thu (D/P và D/A) và thư tín dụng ( chủ yếu là L/C không huỷ ngang) được áp dụng phổ biến hơn cả. Đến đây nếu không có sựe tranh chấp và khiếu nại, một thương vụ xuất khẩu coi như đã kết thúc và doanh nghiệp lại tiến hành một thương vụ mới 5. Các yếu tố ảnh hưởng đến xuất khẩu Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động mua bán hàng hoá quốc tế nói chung và hoạt động xuất khẩu nói riêng cho phép các nhà kinh doanh thấy được những gì họ sẽ phải đối mặt và đứng trước tinh thế đó thì họ phải xử lý như thế nào? ở đây có thể nghiên cứu ảnh hưởng của các nhom yếu tố chủ yếu sau: 5.1.Các yếu tố kinh tế Các yếu tố kinh tế ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động kinh doanh xuất khẩu, hơn nữa các yếu tố này rất rộng nên các doanh nghiệp có thể lựa chọn và phân tích các yếu tố thiết thực nhất để đưa ra các biện pháp tác động cụ thể 5.1.1.Tỷ giá hối đoái và tỷ suất ngoại tệ của hàng xuất khẩu Tỷ giá hối đoái là giá cả của một đơn vị tiền tệ này thể hiện bằng một số đơn vị tiền tệ của nước kia. Tỷ giá hối đoái và chính sách tỷ giá hối đoái là nhân tố quan trọng để doanh nghiệp đưa ra quyết định liên quan đến hoạt động mua bán hàng hoá quốc tế nói chung và hoạt động xuất khẩu nói riêng. Để nhận biết được sự tác động của tỷ giá hối đoái đối với các hoạt động của nền kinh tế nói chung, hoạt động xuất khẩu nói riêng các nhà kinh tế thường phân biệt tỷ giá hối đoái danh nghĩa (TGDN) và tỷ giá hối đoái thực tế (TGTT) Tỷ giá hối đoái danh nghĩa (tỷ giá chính thức) là tỷ giá được nêu trên các phương tiện thông tin đại chúng như: Báo chí, đài phát thanh, tivi…Do ngân hang Nhà nước công bố hàng ngày. Tuy nhiên tỷ hối đoái chính thức không phải là một yếu tố duy nhất ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của các nhà sản xuất trong nước về các mặt hàng. Vấn đề đối với các nhà xuất khẩu và những doanh nghiệp có hàng hoá cạnh tranh với các nhà nhập khẩu là có được hay không một tỷ giá chính thức, được điều chỉnh theo lạm phát trong nước và lạm phát xảy ra tại các nền kinh tế của các bạn hàng của họ.Một tý giá hối đoái chính thức được điều chỉnh theo các quá trình lạm phát có liên quan gọi là tỷ giá hối đoái thực tế. Nếu tỷ giá hối đoái thực tế thấp hơn so với nước xuất khẩu và cao hơn so với nước nhập khẩu thì lợi thế sẽ thuộc về nước xuất khẩu do giá nguyên vật liệu đầu vào thấp hơn, chi phí nhân công rẻ hơn làm cho gia thành sản phẩm ở nước xuất khẩu rẻ hơn so với nước nhập khẩu. Còn đối với nước nhập khẩu thì cầu về hàng nhập khẩu sẽ tăng lên do phải mất chi phí lớn hơn để sản xuất hàng hoá ở trong nước. Điều này đã tạo điều kiện thuận lợi cho các nước xuất khẩu tăng nhanh được các mặt hàng xuất khẩu của mình, do đó có thể tăng được lượng dự trữ ngoại hối . Tương tự, tỷ suất ngoại tệ hàng xuất khẩu cũng như: “Một chiếc gậy vô hình ” đã làm thay đổi, chuyển hướng giữa các mặt hàng, các phương án kinh doanh của doanh nghiệp xuất khẩu. 5.1.2.Mục tiêu và chiến lược phát triển kinh tế Thông qua mục tiêu và chiến lược phát triển kinh tế thì chính phủ có thể đưa ra các chính sách khuyến khích hay hạn chế xuất nhập khẩu. Chẳng hạn chiến lược phát triển kinh tế theo hướng CNH- HĐH đòi hỏi xuất khẩu để thu ngoại tệ đáp ứng nhu cầu nhập khẩu cac trang thiết bị máy móc phục vụ sản xuất, mục tiêu bảo hộ sản xuất trong nước đưa ra các chính sách khuyến khích xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu hàng tiêu dùng… 5.1.3.Thuế quan, hạn nghạch và trợ cấp xuất khẩu *Thuế quan Trong hoạt động xuất khẩu thuế quan là loại thuế đánh vào từng đơn vị hàng xuất khẩu. Việc đánh thuế xuất khẩu được chính phủ ban hành nhằm quản lý xuất khẩu theo chiều hướng có lợi nhất cho nền kinh tế trong nước và mở rộng các quan hệ kinh tế đối ngoại. Tuy nhiên, thuế quan cũng gây ra một khoản chi phí xã hội do sản xuất trong nước tăng lên không có hiệu quả và mức tiêu dùng trong nước lại giảm xuống. Nhìn chung công cụ này thường chỉ áp dụng đối với một số mặt hàng nhằm hạn chế số lượng xuất khẩu và bổ sung cho nguồn thu ngân sách. *Hạn ngạch Được coi là một công cụ chủ yếu cho hàng rào phi thuế quan, nó được hiểu như qui định của Nhà nước về số lượng tối đa của một mặt hàng hay của một nhóm hàng được phép xuất khẩu trong một thời gian nhất định thông qua việc cấp giấy phép. Sở dĩ có công cụ này vì không phải lúc nào Nhà nước cũng khuyến khích xuất khẩu mà đôi khi về quyền lợi quốc gia phải kiểm soát một vài mặt hàng hay nhóm hàng như sản phẩm đặc biệt, nguyên liệu do nhu cầu trong nước còn thiếu… *Trợ cấp xuất khẩu Trong một số trường hợp chính phủ phải thực hiện chính sách trợ cấp xuất khẩu để tăng mức độ xuất khẩu hàng hoá của nước mình, tạo điều kiện cho sản phẩm có sức cạnh tranh về giá trên thị trường thế giới. Trợ cấp xuất khẩu sẽ làm tăng giá nội địa của hàng xuất khẩu, giảm tiêu dùng trong nước nhưng tăng sản lượng và mức xuất khẩu. 5.2.Các yếu tố xã hội Hoạt động của con người luôn luôn tồn tại trong một điều kiện xã hội nhất định. Chính vì vậy, các yếu tố xã hội ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của con người. Các yếu tố xã hội là tương đối rộng, do vậy để làm sáng tỏ ảnh hưởng của yếu tố này có thể nghiên cứu ảnh hưởng của yếu tố văn hoá, đặc biệt là trong ký kết hợp đồng. Nên văn hoá tạo nên cách sống của mỗi cộng đồng sẽ quyết định các thức tiêu dùng, thứ tự ưu tiên cho nhu cầu mong muốn được thoả mãn và cách thoả mãn của con người sống trong đó. Chính vì vậy văn hoá là yếu tố chi phối lối sống nên các nhà xuất khẩu luôn luôn phải qua tâm tìm hiểu yếu tố văn hoá ở các thị trường mà mình tiên hành hoạt động xuất khẩu. 5.3.Các yếu tố chính trị pháp luật yếu tố chính trị là nhân tố khuyến khích hoạc hạn chế quá trình quốc tế hoá hoạt động kinh doanh. Chính sách của chính phủ có thể làm tăng sự liên kết các thị trường và thúc đây tốc độ tăng trưởng hoạt động xuất khẩu bằng việc dỡ bỏ các hàng rào thuế quan, phi thuế quan, thiết lập các mối quan hệ trong cơ sở hạ tầng của thị trường. Khi không ổn định về chính trị sẽ cản trở sự phát triển kinh tế của Đất nước và tạo ra tâm lý không tốt cho các nhà kinh doanh. Các yếu tố chính trị pháp luật ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động xuất khẩu. Cac công ty kinh doanh xuất khẩu đều phải tuân thủ các qui định mà chính phủ tham gia vào các tổ chức quốc tế trong khu vực và trên thế giới cũng như các thông lệ quốc tế: Các qui định của luật pháp đối với hoạt động xuất khẩu(thuế, thủ tục qui định về mặt hàng xuất khẩu,qui định quản lý về ngoại tệ..) Các hiệp ước, hiệp định thương mại mà quốc gia có doanh nghiệp xuất khẩu tham gia Các qui địmh nhập khẩu của các quốc gia mà doanh nghiệp có quan hệ làm ăn. Các vấn đề về pháp lý và tập quán quốc tế có liên quan đến việc xuất khẩu(công ước viên 1980, Incoterm 2000…) Qui định về giao dịch hợp đồng, về bảo hộ quyền tác giả, quyền sở hữu trí tuệ Qui định về lao động, tiền lương, thời gian lao động, nghỉ ngơi, đình công, bãi công Qui định về cạnh tranh độc quyền, về các loại thuế. Qui định về vấn đề bảo về môi trường, tiêu chuẩn chất lượng, giao hàng, thực hiện hợp đồng. Qui định về quảng cáo hướng dẫn sử dụng. Ngoài những vấn đề nói trên chính phủ còn thực hiện các chính sách ngoại thương khác như :Hàng rào phi thuế quan, ưu đãi thuế quan.... Chính sách ngoại thương của chính phủ trong mỗi thời kỳ có sự thay đổi. Sự thay đổi đó là một trong những rủi ro lớn đối với nhà làm kinh doanh xuất khẩu. Vì vậy họ phải nắm bắt được chiến lược phát triển kinh tế của đất nước để biết được xu hướng vận động của nền kinh tế và sự can thiệp của Nhà nước. 5.4. Các yếu tố về tự nhiên và công nghệ - Khoảng cách địa lý giữa các nước sẽ ảnh hưởng đến chi phí vận tải, tới thới gian thực hiện hợp đồng, thời điểm ký kết hợp đồng do vậy, nó ảnh hưởng tới việc lựa chọn nguồn hàng, lựa chọn thị trường, mặt hàng xuất khẩu… - Vị trí của các nước cũng ảnh hưởng đến việc lựa chọn nguồn hàng, thị trường tiêu thụ ví dụ: Việc mua bán hàng hoá với các nước có cảng biển có chi phí thấp hơn so với các nước không có cảng biển. - Thời gian thực hiện hợp đồng xuất khẩu có thể bị kéo dài do bị thiên tai như bão, động đất… - Sự phát triển của khoa hóc công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin cho phép các nhà kinh doanh nắm bắt một cách chính xác và nhanh chóng thông tin, tạo điều kiện thuận lợi cho việc theo dõi, điều khiển hàng hoá xuất khẩu, tiết kiệm chi phí, nâng cao hiệu quả hoạt động xuất khẩu. Đồng thời yếu tố công nghệ còn tác động đến quá trình sản xuất, gia công chế biến hàng xuất khẩu, các lĩnh vực khác có liên quan như vận tải, ngân hàng… 5.5.Yếu tố hạ tầng phục vụ cho hoạt động xuất khẩu Các yếu tố hạ tầng phục vụ hoạt động xuất khẩu ảnh hưởng trực tiếp đến xuất khẩu, chẳng hạn như: - Hệ thống giao thông đặc biệt là hệ thống cảng biển: Mức độ trang bị, hệ thống xếp dỡ, kho tàng…hệ thống cảng biển nếu hiện đại sẽ giảm bớt thời gian bốc dỡ, thủ tục giao nhận cũng như đảm bảo an toàn cho hàng hoá xuất khẩu. - Hệ thống ngân hàng: Sự phát triển của hệ thống ngân hàng cho phép các nhà kinh doanh xuất khẩu thuận lợi trong việc thanh toán, huy động vốn. Ngoài ra ngân hàng là một nhân tố đảm bảo lợi ích cho nhà kinh doanh băng các dịch vụ thanh toán qua ngân hàng. - Hệ thống bảo hiểm ,kiểm tra chất lượng hàng hoá cho phép các hoạt động xuất khẩu được thực hiện một cách an toàn hơn, đồng thời giảm bớt được mức độ thiệt hại khi có rủi ro xảy ra… 5.6. ảnh hưởng của tình hình kinh tế - xã hội thế giới và quan hệ kinh tế quốc tế Trong xu thế khu vực hoá, toàn cấu hoá thì sự phụ thuộc giữa các nước ngày càng tăng. Chính vì thế mỗi biến động của tình hình kinh tế xã hội trên thế giới đều ít nhiều trực tiếp hoặc gián tiếp ảnh hưởng đến nền kinh tế trong nước. Lĩnh vực xuất khẩu hơn bất cứ một hoạt động nào khác bị chi phối mạnh mẽ nhất, ở đây cũng do một phần tác động của các mối quan hệ kinh tế quốc tế. Khi xuất khẩu hàng hoá từ nước này sang nước khác, người xuất khẩu phải đỗi mặt với các hàng rào thuế quan, phi thuế quan. Mức độ lỏng lẻo hay chặt chẽ của các hàng rào này phụ thuộc chủ yếu vào quan hệ kinh tế song phương giữa hai nước nhập khẩu và xuất khẩu. Ngày nay, đã và đang hình thành rất nhiều liên minh kinh tế ở các mức độ khác nhau, nhiều hiệp định thương mại song phương, đa phương được ký kết với mục tiêu đẩy mạnh hoạt động thương mại quốc tế. Nếu quốc gia nào tham gia vào các liên minh kinh tế này hoặc ký kết các hiệp định thương mại thì sẽ có nhiều thuận lợi trong hoạt động xuất khẩu của mình. Ngược lại, đó chính là rào cản trong việc thâm nhập vào thị trường khu vực đó. 5.7.Nhu cầu của thị trường nước ngoài Do khả năng sản xuất của nước nhập khẩu không đủ để đáp ứng được nhu cầu tiêu dung trong nước, hoặc do các mặt hàng trong nước sản xuất không đa dạng nên không thoả mãn được nhu cầu của người tiêu dùng, nên cũng là một trong những nhân tố để thúc đẩy xuất khẩu của các nước có khả năng đáp ứng được nhu cầu trong nước và cả nhu cầu của nước ngoài. 5.8. Các nhân tố thuộc về doanh nghiệp . 5.8.1.Tiềm lực tài chính Là một yếu tố tổng hợp phản ánh sức mạnh của doanh nghiệp thông qua khối lượng ( nguồn) vốn mà doanh nghiệp có thể huy động vào kinh doanh, khả năng phân phối ( đầu tư ) có hiệu quả các nguồn vốn. Khả năng quản lý có hiệu quả các nguồn vốn trong kinh doanh cuả doanh nghiệp thể hiện qua các chỉ tiêu: - Vốn chủ sở hữu - Vốn huy động - Tỷ lệ tái đầu tư về lợi nhuận - Khả năng trả nợ ngắn hạn và dài hạn - Các tỷ lệ về khả năng sinh lợi 5.8.2. Tiềm năng con người . Trong kinh doanh đặc biệt trong lĩnh vực thương mại dịch vụ, hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu, con người là yếu tố quan trọng hàng đầu để đảm bảo thành công. Chính con người với năng lực thật của họ mới lựa chọn đúng được cơ hội và sử dụng sức mạnh khác mà họ đã và sẽ có:vốn , tài sản, kỹ thuật, công nghệ …Một cách có hiệu quả để khai thác và vượt qua cơ hội. 5.8.3. Tiềm lực vô hình ( Tài sản vô hình ): Tiềm lực vô hình tạo nên sức mạnh của doanh nghiệp trong hoạt động thương mại. Tiềm lực vô hình không phải tự nhiên mà có, tuy có thể hình thành mỗt cách tự nhiên nhưng nhìn chung tiềm lực vô hình cần được tạo dựng một cách có ý thức thông qua các mục tiêu và chiến lược xây dựng tiềm lực vô hình cho doanh nghiệp và cần chú ý đến khía cạnh này trong tất cả các hoạt động của doanh nghiệp. Tiềm lực của doanh nghiệp có thể là: - Hình ảnh và uy tín của doanh nghiệp trên thương trường. - Mức độ nổi tiếng của nhãn hiệu hàng hoá - Uy tín và mối quan hệ xã hội của lãnh đạo doanh nghiệp 5.8.4.Khả năng kiểm soát, chi phối, độ tin cậy của nguồn cung cấp hàng hoá và dự trữ hợp lý hàng hoá của doanh nghiệp. Yếu tố này ảnh hưởng đến đầu vào của doanh nghiệp và tác động mạnh mẽ đến kết quả thực hiện các chiến lược kinh doanh cũng như ở khẩu tiêu thụ sản phẩm. Không kiểm soát hoặc không đảm bảo được sự ổn định, chủ động về nguồn cung cấp hàng hoá cho doanh nghiệp thì việc thực hiện các hợp đồng xuất khẩu không thể đảm bảo, có thể phá vỡ hoặc làm hỏng hoàn toàn kế hoạch kinh doanh của doanh nghiệp. 5.8.5. Trình độ tổ chức quản lý. Mỗi một doanh nghiệp là một hệ thống với những mối liên kết chặt chẽ với nhau hướng tới mục tiêu. Một doanh nghiệp muốn đạt được mục tiêu của mình thì đông thời đạt đến một trình độ tổ chức, quản lý tương ứng Khả năng tổ chức, quản lý doanh nghiệp dựa trên quan điểm tổng hợp bao quát, tập trung vào những mối liên hệ tương tác của tất cả các bộ phận tạo thành tổng thể tạo nên sức mạnh thực sự cho doanh nghiệp. 5.8.6.Trình độ tiên tiến của trang thiết bị, công nghệ, bí quyết công nghệ của doanh nghiệp Ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất, chi phí, gía thành và chất lượng hàng hoá được đưa ra đáp ứng khách hàng trong và ngoài nước. 5.8.7. Cơ sở vật chất kỹ thuật của doanh nghiệp Cơ sở vật chất kỹ thuật phản ánh nguồn tài sản cố định doanh nghiệp có thể huy động vào kinh doanh: thiết bị , nhà xưởng…Nếu doanh nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật càng đầy đủ và hiện đại thì khả năng nắm bắt thông tin cũng như việc thực hiện các hoạt động kinh doanh xuất khẩu càng thuận tiện và có hiệu quả. 5.9. Yếu tố cạnh tranh Cạnh tranh, một mặt thúc đẩy cho doanh nghiệp đầu tư máy móc thiết bị, nâng cấp chất lượng và hạ giá thành sản phẩm…Nhưng một mặt nó dễ dàng đẩy lùi các doanh nghiệp không có khả năng phản ứng hoặc chậm phản ứng với sự thay đổi của môi trường kinh doanh. Các yếu tố cạnh tranh được thể hiện qua mô hình sau: Mô hình: Sức mạnh của Michael Porter Đối thủ mới tiềm năng Nhà cung cấp Các mặt hàng và các dịch vụ thay thế Người mua Cạnh tranh giữa các công ty hiện tại Sự đe doạ của các đối thủ cạnh tranh Khả năng mặc cả của người mua Khả năng mặc cả của nhà cung cấp Sự đe doạ của các hàng hoá thay thế Qua mô hình các doanh nghiệp có thể thấy được các mối đe doạ hay thách thức với cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong ngành là trung tâm. Xuất phát từ đây doanh nghiệp có thể đề ra sách lược hợp lý nhằm hạn chế đe doạ và tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp mình. - Sự đe doạ của các đối thủ cạnh tranh tiềm tàng: các thủ này chưa có kinh nghiệm trong việc thâm nhập vào thị trường quốc tế song nó có tiềm năng lớn về vốn, công nghệ, lao động và tận dụng được lợi thế của người đi sau, do đó dễ khắc phục được những điểm yếu của các doanh nghiệp hiện tại để có khả năng chiếm lĩnh thị trường. Chính vì vậy, một doanh nghiệp phải tăng cường đầu tư vốn, trang bị thêm máy móc thiết bị hiện đại để tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm, nhưng mặt khác phải tăng cường quảng cáo, áp dụng các biện pháp hỗ trợ và khuyếch trương sản phẩm giữ gìn thị trường hiện tại, đảm bảo lợi nhuận dự kiến. - Sức ép của người cung cấp: nhân tố này có khả năng mở rộng hoặc thu hẹp khối lượng vật tư đầu vào, thay đổi cơ cấu sản phẩm hoặc sẵn sàng liên kết với nhau để chi phối thị trường nhằm hạn chế khả năng cuả doanh nghiệp hoặc làm giảm lợi nhuận dự kiến, gây ra rủi ro khó lường trước cho doanh nghiệp . Vì thế hoạt động xuất khẩu có nguy cơ gián đoạn. - Sức ép người tiêu dùng : Trong cơ chế thị trường, khách hàng được coi là "thượng đế". Khách hàng có khả năng làm thu hẹp hay mở rộng qui mô chất lượng sản phẩm mà không được nâng giá bán sản phẩm. Một khi nhu cầu của khách hàng thay đổi thì hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung và hoạt động xuất khẩu nói riêng cũng phải thay đổi theo sao cho phù hợp. Các yếu tố cạnh tranh trong nội bộ ngành: khi hoạt động trên thị trường quốc tế, các doanh nghiệp thường hiếm khi có cơ hội dành được vị trí độc tôn trên thị trường mà thường bị chính các doanh nghiệp sản xuất và cung cấp các loại sản phẩm tương tự cạnh tranh gay gắt. Các doanh nghiệp này có thể là doanh nghiệp của quốc gia nước sở tại, quốc gia chủ nhà hoặc một nước thứ ba cùng tham gia xuất khẩu mặt hàng đó. Trong một số trường hợp các doanh nghiệp sở tại này lại được chính phủ bảo hộ do đó doanh nghiệp khó có thể cạnh tranh được với họ. II. Khái quát chung về xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam. 1.Vị trí của ngành Dệt-May Việt Nam trong chiến lược tăng trưởng hướng về xuất khẩu Nghị quyết của Đảng đã chỉ ra hướng phát triển của Việt Nam đó là tăng trưởng hướng về xuất khẩu. Thực tế cho thấy con đường phát triển nhanh, bền vững không phải qua việc chuyên môn hoá ngày càng sâu để sản xuất những sản phẩm sơ chế, mà là thông qua việc mở rộng các ngành sản xuất, chế tạo hướng về xuất khẩu, thay thế nhập khẩu bằng những sản phẩm trong nước sản xuất hiệu quả hơn để khai thác tốt lợi thế so sánh về nguồn nhân lực, tài nguyên thiên nhiên, vốn kỹ thuật, công nghệ, thị trường cho sự phát triển. Cơ sở lý luận của chiến lược kinh tế hướng về xuất khẩu bắt nguồn từ nguyên lý tổng cầu là yếu tố quyết định mức sản xuất. Tư tưởng cơ bản của chiến lược tăng trưởng hướng về xuất khẩu là nhằm phát huy lợi thế so sánh và xu thế quốc tế hoá đời sống kinh tế , mở rộng phân công lao động quốc tế. Lý luận về tổng cầu hiệu quả đã mở ra cách lập luận mới về nền kinh tế mở, lấy nhu cầu của thị trường thế giới làm mục tiêu cho nền sản xuất trong nước. Tình hình đó đòi hỏi mỗi quốc gia phải có phương thức phù hợp, có cách đi hợp lý, cải tạo và thay đổi chính nền kinh tế nước mình sao cho thích ứng với đòi hỏi của thị trường thế giới.Thực chất của chiến lược kinh tế hướng về xuất khẩu là đặt nền kinh tế quốc gia và mỗi ngành sản xuất trong nước trong quan hệ cạnh tranh với thị trường quốc tế nhằm phát huy lợi thế so sánh, buộc nhà sản xuất trong nước phải luôn luôn đổi mới công nghệ, không thể tồn tại với năng suất thấp, nhanh chóng nâng cao khả năng tiếp thị, tự do hoá thương mại . Mục đích cuối cùng là đáp ứng nhanh nhạy nhu cầu của thị trường với giá rẻ, chất lượng cao, kể cả thị trường trong nước và quốc tế. Hướng về xuất khẩu không có nghĩa là xem nhẹ nhu cầu và thị trường trong nước, không chú ý thay thế nhập khẩu mà tất cả các sản phẩm sản xuất trong nước phải có sức cạnh tranh trên thị trường thế giới, từ đó xác định cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng có hiệu quả nhất. Chiến lược tăng trưởng mạnh hướng về xuất khẩu trong ngành Dệt-May nước ta đòi hỏi việc tăng kim ngạch xuất khẩu phải tăng nhanh hơn tốc độ tăng trưởng sản xuất. Ý nghĩa quan trọng của tăng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may không chỉ ở chỗ tạo ra ngoại tệ để nhập khẩu mà còn có những tác dụng Khai thác ưu thế sẵn có sản xuất với khối lượng lớn cho thị trường, từ đó tạo ra sản phẩm với giá thành thấp... Thực tế cho thấy, hướng đi quan trọng nhất đối với nước ta trong những năm trước mắt là tập trung vào xuất khẩu nhóm mặt hàng công nghiệp nhẹ và thủ công nghiệp, nâng cao tỷ trọng của nhóm mặt hàng này trong cơ cấu xuất khẩu chung lên trên 50%, trong đó dệt may và giày dép là hai mặt hàng chính. Xuất khẩu hàng dệt may đã, đang và sẽ là ngành hàng xuất khẩu quan trọng hàng đầu của Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ 21. Với sức tăng trưởng cao (trung bình từ 30-40%/năm) liên tục và ổn định suốt mười năm qua, xuất khẩu hàng dệt may đã vượt qua các mặt hàng xuất khẩu chủ lực khác vươn lên chiếm thứ hạng cao trong danh sách các mặt hàng chủ lực. Trong những năm qua, do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính châu á , suy thoái kinh tế kéo dài ở Nhật và sự kiện ngày 11/9 đã làm cho tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam chậm lại song tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may vẫn không ngừng tăng lên. Từ một ngành không có tên tuổi trong danh mục các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam trong những năm đầu thập niên 90, thậm chí có dấu hiệu suy sụp vào những năm 1992, đến năm 1995 kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may mà chủ yếu là may sẵn đã đứng thứ hai trong danh sách 10 mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam và dự kiến năm 2004 sẽ tăng 4250 triệu USD tức là so với năm 2003 tăng 18,1% . Điều đó chứng tỏ sự lớn mạnh vượt bậc của ngành công nghiệp Dệt-May Việt Nam, đồng thời khẳng định tính đúng đắn trong việc mạnh dạn xây dựng ngành dệt may thành một ngành xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. 2. Cơ cấu các mặt hàng trong xuất khẩu. Tuy hiện nay sản phẩm dệt , may đã đa dạng và phong phú song hầu hết các sản phẩm hướng vào các thị trường mới chỉ là những sản phẩm đơn giản như khăn bông, găng tay...Sợi bông cao cấp, có chải kỹ cho mặt hàng sơ mi và cho sản phẩm dệt kim mặt ngoài có xử lý hoàn tất cao cấp chưa nhiều sợi OE nhằm giảm giá nguyên liệu đầu vào phục vụ hàng dệt kim. Hàng khăn bông xuất khẩu có thị trường rất lớn thì tỷ trọng còn quá bé. Các mặt hàng quần áo dệt kim thể thao hoặc vải Jean thun từ nguyên liệu đàn tính cao (sợi lycra, spandex) còn rất ít.Các mặt hàng Jacket mật độ cao, sử dụng sợi kéo từ microfiber chưa có. Các nguyên liệu tổng hợp biến tính Acrylic pha len để sản xuất các mặt hàng Complet chưa có. Đặc biệt về khâu thiết kế mẫu sản phẩm của ta còn rất yếu do chưa được coi trọng về đầu tư cơ sở mode, thông tin và tiếp cận thị trường. Hầu hết việc thiết kế đều do Viện mẫu thời trang Việt Nam đảm nhận song việc nghiên cứu lại thực sự bị hạn chế do chưa xây dựng được đội ngũ nghiên cứu thiết kế, sản xuất thử mặt hàng từ các cơ sở sản xuất kinh doanh đến ngành, bao gồm các chuyên gia giỏi công nghệ từ vật liệu dệt đến xử lý hoàn tất và các nhà thiết kế vân hoa, mẫu mốt thời trang, trong khi ở nhiều nước trên thế giới có cả ngành thời trang may mặc với bề dày nhiều năm, chính yếu tố này cũng góp phần làm giảm tính cạnh tranh của hàng Việt Nam . Thêm vào đó, tình trạng thiếu nguyên liệu sản xuất trong nước cho ngành may cả về số lượng, chủng loại và chất lượng (50% mặt hàng xuất sang EU đều phải nhập nguyên liệu từ nước ngoài) đã làm cho giá sản phẩm của ta cao hơn nhiều so với một số nước như Trung Quốc, Ấn Độ... 3. Các thị trường xuất khẩu của hàng dệt may Việt Nam. 3.1 .Thị trường có hạn ngạch Các nước EU là thị trường xuất khẩu hàng dệt may theo hạn ngạch lớn nhất của Việt Nam, đặc biệt là sau khi ký hiệp định khung về hợp tác toàn diện Việt Nam-EU được chính thức ký kết ngày 17/7/1995 quy định hai bên cho nhau hưởng chế độ đãi ngộ tối huệ quốc và ngày 17/11/1997, Hiệp định buôn bán hàng dệt may giữa Việt Nam và EU giai đoạn 1998-2000 đã được ký kết tại Brussel (Bỉ). Hiệp định này có khá nhiều thuận lợi cho phía Việt Nam. Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may từ Việt Nam sang EU tăng trưởng từ 3-6%/năm. Các nước EU nhập khẩu hàng dệt may lớn nhất của Việt Nam năm 2000 là : Đức: 257,825 triệu USD,Pháp: 81,212 triệu USD , Hà Lan :50,128 triệu USD, Italy : 44,248 triệu USD. Sau 5 năm thực hiện Hiệp định, EU đã trở thành thị trường hạn ngạch lớn nhất của Việt Nam với tốc độ tăng trưởng kim ngạch cao, bình quân trên 23%/năm trong đó năm 2001, toàn ngành dệt may đạt kim ngạch xuất khẩu là 2082 triệu USD thì xuất khẩu sang EU đã đạt 745 triệu, tăng 6,7 % so với năm 2000. Năm 2002, toàn ngành dệt may cả nước đạt kim ngạch xuất khẩu là 2700 triệu USD , tuy nhiên kim ngạch xuất khẩu sang EU lại giảm vài trục triệu USD so với năm 2001 chỉ đạt khoảng 720 triệu USD. Mặt hàng áo Jacket luôn chiếm vị trí chủ yếu trong cơ cấu xuất khẩu hàng dệt may sang EU. Năm 2000 Việt Nam đã xuất khẩu sang EU 18 triệu chiếc, đạt trị giá khoảng 360 triệu USD, tăng gấp 3 lần mức xuất khẩu năm 1993. Biểu đồ 1 - Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào EU giai đoạn 1994-2002 (đơn vị: triệu USD) Tuy nhiên, xuất khẩu hàng dệt may sang EU vẫn còn rất nhiều khó khăn như: Thiếu bạn hàng tiêu thụ trực tiếp, không ký hợp đồng trực tiếp được với các bạn hàng của EU mà phải qua trung gian nên gần 80% hàng may xuất sang EU phải thông qua nước thứ ba, hiệu quả kinh tế thấp. Phần gia công cho nước khác để xuất sang EU thì không được hưởng ưu đãi thuế quan dành cho Việt Nam. Số lượng và hàng hoá EU giành cho Việt Nam còn quá thấp so với nhiều nước và khu vực : chỉ bằng 5% của Trung Quốc, 10-20% của các nước ASEAN. Việt Nam chỉ sử dụng hết một nửa năng lực sản xuất cho thị trường EU. Số hạn ngạch bị hạn chế thành nhiều nhóm so với các nước khác : Thái Lan có 20 nhóm hàng. Trong khi đó Việt Nam năm 1993/1995 có 106 nhóm hàng, 1996/1998 có 54 nhóm, từ 1998 có 29 nhóm. Sản phẩm xuất khẩu chỉ tập trung vào một số sản phẩm truyền thống (hàng quen làm, dễ thu lợi nhuận ) như: áo Jacket, áo sơ mi, quần tây. Các sản phẩm có yêu cầu phức tạp, chất lượng cao thì Việt Nam chưa sản xuất được hoặc sản xuất với tỷ lệ rất nhỏ. EU là một thị trường đòi hỏi chất lượng rất cao, điều kiện thương mại nghiêm ngặt và được bảo hộ đặc biệt. Các khách hàng EU nổi tiếng là khó tính về mẫu mốt, thị hiếu. Khác với Việt Nam, nơi giá cả có vai trò khá quyết định trong việc mua hàng, đối với phần lớn người châu Âu “ Thời trang” là một trong những yếu tố quyết định. Chỉ khi các yếu tố chất lượng , thời trang, giá cả hấp dẫn thì khi đó sản phẩm mới có cơ hội bán được ở Châu Âu. Việc nhiều nước Châu Á khác, đặc biệt là Trung Quốc với tiềm năng xuất khẩu lớn và đã có nhiều kinh nghiệm có mặt tại thị trường EU là một khó khăn đối với Việt Nam trong việc thâm nhập thị trường này, nhất là khi Trung Quốc trở thành thành viên của WTO. Một trong những vấn đề cần quan tâm hiện nay là 70% kim ngạch xuất khẩu vào EU được thực hiện thông qua nước trung gian như Hồng Công, Đài Loan, Hàn Quốc...do nguyên liệu, phụ liệu sản xuất trong nước còn yếu kém, chưa có mẫu mã phù hợp thị hiếu và do chưa có bạn hàng trên thị trường mua bán trực tiếp ở các nước EU, vì thế đã dẫn đến tình trạng phụ thuộc vào các bạn hàng trung gian đồng thời lại không tận dụng được những ưu đãi quota mà các nước EU dành cho ta. Do vậy, vấn đề đặt ra là làm sao chúng ta có thể tiếp cận và bán trực tiếp các sản phẩm của mình trực tiếp cho các khách hàng EU. 3.2 .Thị trường phi hạn ngạch Thị trường Nhật Bản Thị trường xuất khẩu hàng dệt may không hạn ngạch của Việt Nam lớn nhất là Nhật Bản. Kim ngạch xuất khẩu sang thị trường này tăng nhanh qua các năm. Năm 1995 lần đầu tiên Việt Nam lọt vào danh sách 10 nước xuất khẩu hàng dệt may lớn nhất vào Nhật Bản, đến năm 1997 đã vượt lên vị trí thứ 7. Trong khi xuất khẩu hàng dệt may sang Nhật của hầu hết các nước năm 1997 giảm mạnh thì xuất khẩu của Việt Nam tăng cả về kim ngạch lẫn thị phần. Hàng may mặc Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản không chỉ tăng nhanh về kim ngạch mà còn đa dạng về chủng loại và tăng mạnh về khối lượng. Các loại áo khoác gió nam, quần áo cho người lái xe tải, áo sơ mi, quần âu... là những mặt hàng chủ yếu của Việt Nam xuất sang thị trường Nhật Bản. Hàng dệt may Việt Nam xuất sang thị trường Nhật Bản được hưởng thuế ưu đãi theo hệ thống GSP của Nhật Bản. Đây là thuận lợi lớn cho ngành may xuất khẩu của Việt Nam. Tuy nhiên, hàng dệt may xuất khẩu sang Nhật Bản phải cạnh tranh quyết liệt với hàng dệt của nhiều nước, đặc biệt là Trung Quốc và các nước ASEAN khác. Năm 1998 do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính-tiền tệ khu vực, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may vào Nhật bị giảm mạnh, trên dưới 180 triệu USD. Nhật Bản cũng là thị trường đòi hỏi rất khắt khe về tiêu chuẩn chất lượng, từ nguyên phụ liệu đến quy trình sản xuất đều phải tuân thủ nghiêm ngặt theo tiêu chuẩn chất lượng JIS ( Japan Industrial Standard ) cũng như các điều luật , các quy định ứng dụng với sản xuất và nhập khẩu hàng hoá. Mặc dù do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng khu vực, nền kinh tế suy thoái, sức mua giảm , tồn kho cao và sự mất giá của đồng Yên Nhật làm tăng giá thành nhập khẩu buộc nhiều công ty Nhật Bản phải cắt giảm nhập khẩu nói chung nhưng sang năm 1999 xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường Nhật lại có sự khởi sắc với tốc độ tăng trưởng đạt 30% so với năm 1998, đặc biệt năm 2000 đạt kim ngạch 619.581 ngàn USD tăng 48,5% so với năm 1999. Với tốc độ tăng trưởng kim ngạch như hiện nay, triển vọng giá trị xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường Nhật Bản có thể đạt 3-3,5 tỷ USD vào năm 2005. Thị trường Bắc Mỹ: Khu vực này được coi là thị trường xuất khẩu đầy tiềm năng của Việt Nam với sức tiêu thụ hàng dệt may rất lớn (khoảng 40 kg/người/năm). Mặc dù chưa được hưởng ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP) và tối huệ quốc (MFN) nhưng các doanh nghiệp Việt Nam đã bắt đầu tiếp cận được với thị trường này. Tuy kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang khu vực này còn thấp nhưng lại có tốc độ tăng trưởng cao trung bình khoảng 11,6%. Trong tình hình hiện nay, khi nhiều thị trường xuất khẩu phi hạn ngạch của Việt Nam giảm mạnh thì xuất khẩu sang thị trường Bắc Mỹ khá ổn định và đạt kim ngạch xuất khẩu 50,038 triệu USD trong năm 1998, 59,266 triệu USD năm 1999 và đạt 79,450 triệu USD năm 2000 .Đẩy mạnh xuất khẩu sang khu vực thị trường này đang là mục tiêu chiến lược của ngành Dệt may Việt Nam trong thời gian tới . Bảng 1 : Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt của Việt Nam vào thị trường Bắc Mỹ Đơn vị : Ngàn USD Năm 1996 1997 1998 1999 2000 Xuất khẩu vào Bắc Mỹ 16,86 41,257 50,038 59,266 9,450 Xuất khẩu cả nước 1.150 1.503 1.448 1.747 1.892 % XK vào Bắc Mỹ 1,5 2,7 3,5 3,4 4,2 Nguồn : Vụ Xuất Nhập Khẩu. Bộ Thương Mại Thị trường SNG và một số nước Đông Âu: Là thị trường có dân số lớn (trên 300 triệu dân) lại không có những quy định hạn chế về số lượng, có nguyên liệu bông dồi dào , máy dệt tốt và rẻ nên đây là một thị trường hai chiều : có thể xuất hàng hoá và nhập nguyên liệu, máy móc thiết bị ... Mặc dù hiện nay yêu cầu về mẫu mã, chủng loại và chất lượng của thị trường này đã cao hơn trước, song đây vẫn là thị trường dễ tính, phù hợp với trình độ may của Việt Nam và lại là thị trường quen thuộc của Việt Nam nên ưu điểm là dễ thực hiện song một nhược điểm khi xuất khẩu sang thị trường này là việc đồng tiền vẫn không ổn định gây ảnh hưởng tới việc sản xuất và tiêu thụ hàng hoá. Đây là thị trường xuất khẩu chủ yếu của ngành dệt may nước ta trước năm 1990. Nhờ có tiềm năng về nguyên liệu bông, vật tư, kỹ thuật ... và có nhu cầu lớn về nhập khẩu hàng dệt may nên chúng ta có thể xuất khẩu với số lượng lớn mặt hàng này thông qua phương thức hàng đổi hàng. Các cơ sở dệt may của Việt Nam tại Nga hiện vẫn còn song hoạt động không có hiệu quả do chưa tìm ra một phương thức buôn bán thích hợp lại gặp phải những trở ngại trong kinh doanh. Buôn bán giữa Việt Nam với SNG và một số nước Đông Âu hiện nay chủ yếu vẫn là Việt Nam làm hàng trả nợ và hàng đổi hàng, trong đó hàng dệt may chiếm một tỷ lệ rất nhỏ. Ngoài ra, còn có một lượng đáng kể hàng dệt may xuất khẩu qua con đường tiểu ngạch sang các nước SNG và một số nước Đông Âu nhưng do nhiều nguyên nhân nên hoạt động cũng kém hiệu quả. Để có thể trở lại hoạt động buôn bán hàng dệt may sang thị trường này đòi hỏi các doanh nghiệp cần phải tích cực mở rộng hoạt động tiếp thị, tìm ra phương thức kinh doanh hợp lý và cần có sự can thiệp ở cấp vĩ mô giữa hai nhà nước thì hàng dệt may Việt Nam mới có thể xâm nhập mạnh mẽ vào thị trường này được . Thị trường các nước trong khu vực Hàng năm hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu một lượng lớn sản phẩm sang các nước trong khu vực như Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore, Hồng Công... Tuy nhiên, các nước này không phải là thị trường nhập khẩu chính mà là nước nhập khẩu hoặc thuê Việt Nam gia công để tái xuất sang nước thứ ba. Đây cũng là thị trường quan trọng cung cấp nguyên phụ liệu cho các doanh nghiệp Việt Nam. Biểu đồ 2: kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang các nước năm 2001,2002. Năm 2001 Năm 2002 Các nước khác 19% Mỹ 2%% EU32% Đài Loan 16% Nhật Bản 31% Các nước khác 19% Mỹ 35%% EU19% Đài Loan 9% Nhật Bản 18% Nguồn: Tổng công ty dệt may Việt Nam CHƯƠNG II. TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG DỆT MAY MỸ I. khái quát chung về nước mỹ và thị trường Mỹ Vài nét về nước mỹ và nền kinh tế mỹ . Mỹ là một trong những cường quốc kinh tế, khoa học, công nghệ và quân sự hàng đầu thế giới, đồng thời cũng là một trong ba trung tâm kinh tế và tài chính quốc tế lớn nhất thế giới. Với diện tích 9.363.364 km2, với nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú và đa dạng (dầu mỏ, khí đốt, than, quặng Uran, thủy điện... ) nước Mỹ đã đạt tới trình độ của một quốc gia phát triển về công nghiệp. Những ngành mũi nhọn của Mỹ là chế tạo hàng không , điện tử, tin học, nguyên tử , vũ trụ , hoá chất. Ngoài ra, công nghiệp luyện kim, dệt, chế tạo xe hơi... cũng đạt trình độ phát triển cao. Ngành nông nghiệp Mỹ có trình độ phát triển cao với ưu thế chính về cơ giới hoá, kỹ thuật canh tác tiên tiến, giống có năng suất cao, sử dụng hiệu quả phân bón, hệ thống thuỷ lợi hoàn hảo. Ngành dịch vụ Mỹ (dịch vụ đời sống, vận tải, thông tin, thương mại, ngân hàng, tài chính, bảo hiểm...) rất phát triển chiếm tới 70% thu nhập quốc dân và thu hút 70% lao động cả nước. Hệ thống giao thông vận tải Mỹ hiện đại với hơn 3 triệu người làm việc. Cả nước có gần 150 triệu chiếc xe ô tô (gấp 2 lần ở Nhật Bản ), có tổng chiều dài đường sắt là 310.000 km, khối lượng vận tải đường không chiếm 40% tổng khối lượng vận tải hàng không thế giới. Mỹ là nước có trình độ khoa học và công nghệ tiên tiến trong hầu hết các lĩnh vực và luôn luôn có nhu cầu và khả năng trao đổi khoa học, kỹ thuật và chuyển giao công nghệ. Lực lượng nghiên cứu khoa học kỹ thuật và công nghệ có tới 95 vạn người, chưa kể số nhân viên kỹ thuật. Mỹ có nền đại học đa dạng, với 1200 cơ sở đào tạo trong đó có 891 trường đại học, đặc biệt có 35 trường đại học nổi tiếng nhất đào tạo cả cho người nước ngoài. Về ngoại thương, Mỹ là nước nhập siêu. Năm 1999, tổng kim ngạch nhập khẩu là 1.156,106 tỷ USD, năm 2000 là 1.314,493 tỷ USD chủ yếu từ các nước Canada, Nhật Bản,Mehico, Trung Quốc, Đức, Đài Loan, Anh, Hàn Quốc, Singapore... Trong khi đó, tổng kim ngạch xuất khẩu đạt trị giá 888,027 tỷ USD (năm 1999) và 978,606 tỷ USD (năm2000) chủ yếu sang các nước như Canada, Nhật Bản, Mehico, Anh, Hàn Quốc, Hà Lan... Với sức mạnh kinh tế , khoa học, kỹ thuật và công nghiệp, quân sự, Mỹ đang chi phối đời sống kinh tế và chính trị quốc tế. Là thành viên của nhiều tổ chức kinh tế tài chính quốc tế cũng như các tổ chức thuộc hệ thống Liên Hiệp Quốc, Mỹ có vị trí quan trọng và ở nhiều nơi có tiếng nói quyết định . Mỹ có hệ thống pháp luật về thương mại vô cùng rắc rối và phức tạp. Bộ luật Thương mại (Uniform Commercial Code ) được coi như xương sống của hệ thống pháp luật về thương mại. Một điểm đáng chú ý đối với các doanh nghiệp khi xâm nhập vào thị trường Mỹ đó là những chính sách ưu đãi. Bởi nếu được hưởng ưu đãi này thì hàng hoá sẽ có sức cạnh tranh lớn hơn rất nhiều so với khi không được hưởng. Các chính sách ưu đãi như sau: -Quy chế tối huệ quốc (MFN: Most Favoured Nations ) là chính sách thương mại truyền thống quan trọng của Mỹ. Chính sách này cho phép hàng hoá của bạn hàng nhập vào Mỹ được hưởng tỷ lệ thuế thấp hơn so với mức thuế của các bạn hàng không được hưởng quy chế này và ngược lại họ cũng phải giành cho hàng hoá của Mỹ những ưu đãi tương tự. -Chế độ thuế quan phổ cập (GSP : Generalised System of Preferences) là chế độ ưu đãi thuế quan mà Mỹ và 17 nước công nghiệp phát triển dành cho các nước đang phát triển, nếu đạt được sẽ còn có lợi hơn cả quyền được hưởng MFN. Hầu hết các nước được hưởng đều là thành viên của WTO. Nội dung chính của GSP là miễn thuế hoàn toàn hoặc ưu đãi thuế thấp cho các mặt hàng nhập từ các nước đang phát triển được họ cho hưởng GSP mà không có điều kiện có đi có lại và mặt hàng được hưởng ưu đãi GSP phải đáp ứng tiêu chuẩn mà Mỹ đề ra. Hiệp định thương mại Việt- Mỹ sẽ tạo ra một cơ hội lớn cho việc đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá Việt Nam vào thị trường Mỹ theo đó thuận lợi lớn nhất để nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam là được hưởng quy chế MFN , tuy nhiên Việt Nam cần phải nỗ lực hơn nữa để được hưởng quy chế GSP của Mỹ. 2. Thị trường Mỹ. 2.1..Mỹ là thị trường lớn, thị hiếu đa dạng và tương đối dễ tính: Trước hết phải thấy rằng Mỹ là một dân tộc chuộng mua sắm và tiêu dùng. Họ có tâm lý là càng mua sắm nhiều thì càng kích thích sản xuất và dịch vụ tăng trưởng, do đó, nền kinh tế sẽ phát triển. Hàng hóa dù chất lượng cao hay vừa đều có thể được bán trên thị trường Mỹ vì các tầng lớp dân cư ở nước này đều tiêu thụ nhiều hàng hoá. Riêng đối với các nước đang phát triển và Việt Nam khi xuất hàng vào thị trường Mỹ cần phải lấy giá cả làm yếu tố quan trọng, mẫu mã có thể không quá cầu kỳ, nhưng phải đa dạng và hợp thị hiếu. Những đặc điểm riêng về địa lý và lịch sử đã hình thành nên một thị trường người tiêu dùng khổng lồ và đa dạng nhất thế giới.Tài nguyên phong phú, không bị ảnh hưởng nặng nề của hai cuộc chiến tranh thế giới cộng với chiến lược phát triển kinh tế lâu dài đã tạo cho Mỹ một sức mạnh kinh tế khổng lồ và thu nhập cao cho người dân. Với thu nhập đó, mua sắm đã trở thành nét không thể thiếu trong văn hoá hiện đại của nước này. Cửa hàng là nơi họ đến mua hàng, dạo chơi, gặp nhau trò chuyện và mở rộng giao tiếp xã hội. Qua thời gian người tiêu dùng Mỹ có một niềm tin gần như tuyệt đối vào hệ thống các cửa hàng đại lý bán lẻ của mình, họ có sự đảm bảo về chất lượng, bảo hành và các điều kiện vệ sinh an toàn khác. Điều này cũng làm cho họ có ấn tượng rất mạnh với lần tiếp xúc đầu tiên với các mặt hàng mới. Nếu ấn tượng này là xấu, hàng hoá đó sẽ khó có cơ hội quay lại. Vì vậy, sự xâm nhập của các nhà xuất khẩu đơn lẻ thường không mấy khi đe doạ được sự hiện thương mại của những người đến trước. Con đường mà các doanh nghiệp Nhật Bản đã đi thường tốn từ 10-20 năm để có lòng tin giờ đây phần nào không còn tỏ ra thích hợp tại thị trường Mỹ. Đối với đồ dùng cá nhân như quần áo, may mặc và giày dép, nói chung người Mỹ thích sự giản tiện, nhưng hiện đại, hợp mốt và với yếu tố khác biệt, độc đáo thì càng được ưa thích và được mua nhiều. Mọi người có thể mặc đồ gì họ thích. ở những thành phố lớn, nam giới thường mặc comple, nữ giới mặc váy hoặc juyp khi đi làm; trong khi đó ở nông thôn thì thường ăn mặc khá xuyềnh xoàng; quần jean và quần vải thô rất phổ biến. Tuy vậy, hầu hết người Mỹ kể cả lớn tuổi, ngoài giờ làm việc thường ăn mặc thoải mái theo ý họ. Ở Mỹ không có các lề ước và tiêu chuẩn thẩm mỹ xã hội mạnh và bắt buộc như ở các nước khác. Các nhóm người khác nhau vẫn sống theo văn hoá, tôn giáo của mình và theo thời gian hoà trộn, ảnh hưởng lẫn nhau, tạo sự khác biệt trong thói quen tiêu dùng ở Mỹ so với người tiêu dùng ở các nước châu Âu. Cùng một số đồ vật nhưng thời gian sử dụng của họ có thể chỉ bằng một nửa thời gian sử dụng của người tiêu dùng các nước phát triển khác. Với sự thay đổi luôn như vậy, giá cả lại trở nên có vai trò rất quan trọng. Điều này giải thích tại sao hàng hóa tiêu dùng từ một số nước đang phát triển chất lượng kém hơn nhưng vẫn có chỗ đứng trên thị trường Mỹ vì giá bán thực sự cạnh tranh ( trong khi điều này lại khó xảy ra tại châu Âu). Nói tóm lại, phân phối, giá cả và chất lượng là những yếu tố ưu tiên đặc biệt trong thứ tự cân nhắc quyết định mua hàng của người dân Mỹ. Các phân tích cụ thể cho thấy thị hiếu người tiêu dùng Mỹ rất đa dạng do nhiều nền văn hoá khác nhau đang cùng tồn tại. Ví dụ : Người gốc châu á chuộng màu sắc các đồ dùng thiên về nền và nhã hơn người gốc châu Âu..Sở thích về màu sắc khác nhau từ miền Bắc xuống miền Nam. Người miền Bắc chuộng màu ấm cúng như đỏ , nâu... trong khi người miền Nam thích các gam màu mát như xanh dương, trắng, nâu nhạt... Điạ lý rộng lớn, phong cảnh đa dạng cũng tạo cho người dân Mỹ một thói quen ham du lịch, ưa khám phá trong và ngoài nước. Tất cả hàng hoá tiêu dùng liên quan đến các chuyến du lịch bằng xe hơi đều có một thị trường hết sức rộng lớn. Các đồ dùng liên quan đến thể thao bán rất chạy với đủ dải thị trường từ hàng rất đắt cho giới thu nhập cao hay hàng rẻ cho dân nghèo. Xác định rõ phân đoạn thị trường mình sẽ thâm nhập để xuất khẩu là một chìa khoá để đi đến thành công, nếu không , tốt nhất nhà xuất khẩu nên tham gia vào một hệ thống phân phối sẵn có và theo các tiêu chuẩn kỹ thuật cũng như thương mại mang tính toàn cầu mà họ đề ra. 2.2. Cơ cấu xuất nhập khẩu hàng hoá của Mỹ: Là một siêu cường quốc kinh tế trên thế giới, Mỹ là nước có nền ngoại thương lớn nhất thế giới. Chính sách thương mại của Mỹ rất rộng mở, trừ một số ít mặt hàng có hạn ngạch còn lại thì mọi công ty của Mỹ đều có quyền xuất nhập khẩu trực tiếp các mặt hàng. Các công ty xuyên quốc gia của Mỹ có quan hệ sản xuất và buôn bán với nhiều nước trên thế giới và họ luôn tìm kiếm cơ hội kinh doanh ở mọi thị trường. Năm 1998, do tỷ giá USD thay đổi ở nhiều nước mà lượng hàng nhập khẩu của một số khu vực bị giảm sút mạnh làm cho xuất khẩu của Mỹ bị ảnh hưởng lớn (tăng 1,5%), nhưng nhập khẩu vẫn tăng mạnh ( tăng 10,6%). Năm 1999, xuất khẩu của Mỹ bắt đầu phục hồi, tổng kim ngạch đạt 960 tỷ USD, tăng khoảng 4% so với năm 1998 trong khi đó kim ngạch nhập khẩu đạt 1230 tỷ USD, tăng khoảng 13% so với năm 1998. Sự phục hồi nền kinh tế thế giới cộng với sự tăng trưởng mạnh mẽ của nền kinh tế Mỹ năm 2000 đã đem lại một năm thành công đối với hoạt động xuất nhập khẩu của Mỹ với tổng kim ngạch đạt 2400 tỷ USD, tăng trên 10% so với năm 1999. Xu hướng nhập siêu hàng hoá hàng năm của Mỹ ngày càng lớn là do sự tăng trưởng kinh tế và thay đổi cơ cấu kinh tế Mỹ. Năm 1999 thâm hụt thương mại của Mỹ vượt mức 250 tỷ USD tăng mạnh so với mức thâm hụt 169 tỷ USD của năm 1998. Sang năm 2000 thâm hụt thương mại là 350 tỷ USD Thị trường xuất nhập khẩu của Mỹ có dung lượng lớn, phong phú và đa dạng. Cơ cấu hàng xuất khẩu của Mỹ gồm : máy móc, thiết bị (32%), các mặt hàng công nghiệp (25%), thiết bị vận tải các loại (16%), hoá chất (19%), nông sản (9%), hàng hoá khác (7%).Trong cơ cấu hàng nhập khẩu thì hàng chế tạo là chủ yếu chiếm tới 77,8% tổng kim ngạch nhập khẩu năm 1998, bên cạnh đó các mặt hàng tiêu dùng cũng có vị trí quan trọng, chiếm 20% tổng kim ngạch nhập khẩu. Theo dự báo chiến lược của Mỹ, nền kinh tế Mỹ sẽ tiếp tục phát triển trong những năm đầu của thế kỷ 21. Hàng năm tốc độ tăng trưởng GDP vào khoảng 3-4% và xuất nhập khẩu tăng trưởng trong khoảng 5-10%/năm Các nước xuất khẩu hàng vào Mỹ Có trên 170 nước có hàng hoá xuất khẩu sang Mỹ, Việt Nam đứng thứ hạng 72 trong số này. 3. Cơ chế quản lý của Mỹ đối với hàng nhập khẩu Hoạt động nhập khẩu hàng hoá vào Mỹ chịu sự điều tiết bởi hệ thống luật chặt chẽ, chi tiết và chính phủ Mỹ thông qua 5 cơ quan cơ bản để điều tiết nền ngoại thương của Mỹ. Việc nắm vững cơ chế quản lý hàng nhập khẩu của Mỹ cho phép đề xuất những giải pháp thâm nhập thị trường Mỹ có hiệu quả. 3.1.Hệ thống luật cơ bản điều tiết hoạt động nhập khẩu vào Mỹ: * Luật thuế suất năm 1930: Luật này ra đời nhằm điều tiết hàng hoá nhập khẩu vào Mỹ, bảo vệ chống lại việc nhập khẩu hàng hoá giả , luật này qui định mức thuế rất cao đối với hàng nhập khẩu . Đến nay nhiều điều khoản của luật này vẫn còn hiệu lực song thuế suất đã được nhièu lần sửa đổi và hạ xuống nhiều . *Luật buôn bán năm 1974: Luật này định hướng cho các hoạt động buôn bán. Luật có nhiều điều khoản cho phép đền bù tổn thất cho các ngành công nghiệp Mỹ bị cạnh tranh bởi hàng nhập khẩu. Đạo luật này gây ra nhiều bất lợi cho hàng hoá nhập khẩu vào Mỹ vì hàng hoá của Mỹ đã được chính phủ đứng sau lưng bảo hộ. *Hiệp định buôn bán năm 1979: Bao gồm các điều khoản về sự bảo trợ của chính phủ về các chướng ngại kỹ thuật trong buôn bán , các sửa đổi thuế bù trừ và thuế chống hàng thừa, ế -một loại thuế đánh vào các loại hàng hoá bị cho là có trợ giá hoặc bán phá giá. Hiệp định này được thông qua nhằm mục đích thực hiện một bộ luật được thông qua nhằm mục đích thương lượng tại vòng đàm phán Tokyo của GATT. *Luật thuế tổng hợp về buôn bán và cạnh tranh năm 1988: luật này uỷ nhiệm Tổng thống Mỹ tham gia Vòng đàm phán uruguay đồng thời thiết lập thủ tục đặc biệt (Super301) cho phép Mỹ áp dụng các biện pháp trừng phạt đối với các quyết định không chịu mở cửa cho hàng hoá Mỹ vào và vi phạm quyền sở hữu trí tuệ của Mỹ. 3.2. Một số tổ chức liên quan đến luật thương mại. Luật thương mại của Mỹ được thi hành bởi nhiều tổ chức, cơ quan nhưng chủ yếu là năm cơ quan sau: * Uỷ ban thương mại quốc tế(ITC) và phòng thương mại quốc (ITA). Đây là cơ quan có liên quan đến việc qui định có đánh thuế hàng thừa ế hay không. Trong một vụ xử kiện chống hàng thừa ế, ITA xác định hàng nhập khẩu có bị bán phá giá hay không còn ITC tiến hành giám định sự tổn hại của việc bán phá giá cho công nghiệp bản xứ. * Đại diện thương mại Mỹ ( USTR) Được thành lập theo luật buôn bán năm 1974, là nơi tiếp xúc của những người muốn điều tra về các vi phạm hiệp định thương mại. * Cơ quan quản lý thực phẩm và thuốc men ( FDA) Là cơ quan kiểm tra và bảo đảm chất lượng thực phẩm, thuốc men nhập vào Mỹ. * Cơ quan bảo vệ môi trường ( EPA) Là cơ quan thiết lập và giám sát các tiêu chuẩn chất lượng không khí, nước, ban hành những qui định về chất thải… * Cục hải quan Mỹ (USCD) Là cơ quan thuộc bộ ngân khố có nhiệm vụ tính thuế và thu lệ phí đánh vào hàng nhập khẩu, thi hành các luật và hiệp ước thương mại, chống buôn lậu và khai gian. 3.3. Thuế nhập khẩu hàng hoá vào Mỹ 3.3.1.Biểu thuế nhập khẩu Biểu thuế nhập khẩu là nội dung quan trọng nhất trong luật thuế của Mỹ. Biểu thuế này có hơn 1600 trang, liệt kê rất chi tiết các loại hàng hoá và thuế xuất nhập khẩu trong đó cột thuế xuất dành cho hàng hoá nhập khẩu từ những nước không có qui chế quan hệ thương mại bình thường(NTR) với Mỹ và cột thuế dành cho các nước có qui chế (NTR). Các loại thuế hải quan được phân loại dựa trên: - Thuế quan theo giá: Dựa trên phần trăm giá trị đã xác định của hàng hoá được nhập - Thuế theo lượng: Là thuế đánh theo trọng lượng hay dung tích hàng hoá, một số lượng qui định trên trọng lượng đơn vị hoặc các số đo khác về số lượng. - Thuế hỗn hợp: Tức là thuế quan theo lượng và theo giá, là loại thuế đánh trên trọng lượng cộng thêm phần trăm của giá trị ( theo giá ) Bảng liệt kê thuế đã được công bố cho mọi nước có quan hệ thương mại với Mỹ nhưng nên chú ý là các loại thuế luôn chịu sự thay đổi. 3.3.2.Hạn ngạch thuế quan Mỹ áp dụng hạn ngạch để kiểm soát về khối lượng hàng nhập khẩu trong một thời gian nhất định. Phần lớn hạn ngạch nhập khẩu do cục hải quan quản lý và chia làm hai loại * Hạn ngạch thuế quan: Qui định số lượng đối với loại hàng nào đó được nhập khẩu vào Mỹ được hưởng mức thuế thấp trong một thời gian nhất định, nếu vượt sẽ bị đánh thuế cao. Hạn ngạch tuyệt đối: Là hạn ngạch về số lượng cho một chủng loại hàng hoá nào đó được nhập khẩu vào Mỹ trong một thời gian nhất định, nếu vượt sẽ không được phép nhập khẩu. Có hạn ngạch tuyệt đối mang tính toàn cầu, nhưng có hạn ngạch tuyệt đối chỉ áp dụng đỗi với từng nước riêng biệt. 3.3.3. áp mã thuế nhập khẩu . Luật pháp Mỹ cho chủ hàng được chủ động xếp ngạch thuế cho các mặt hàng nhập và nộp thuế theo kê khai , do đó người nhập hàng cần phải hiểu nguyên tắc xếp loại . Trước khi xếp ngạch thuế, phải cố tìm được sự mô tả chính xác của món hàng trong biểu thuế nhập khẩu. Trong trường hợp món hàng có 2-3bộ phận có mã số thuế khác nhau thì phải dựa vào đặc tính chủ yêú của món hàng để xếp loại. Ví dụ , nhập khẩu máy ảnh đựng trong bao da thì mã số thuế của món hàng là máy ảnh chứ không phải da. Nếu dựa vào đặc tính chủ yếu cũng không xếp loại được, thì áp dụng nguyên tắc xếp loại theo mặt hàng gần với mặt hàng được mô tả nhất trong biểu thuế. Nếu cũng không được thì xếp loại theo mục đích sử dụng của mặt hàng. Trường hợp mặt hàng có nhiều đặc tính sử dụng thì xếp loại theo đặc tính sử dụng chính . Đối với vải khi xếp loại sẽ áp dụng nguyên tắc cân lượng .Ví dụ vải dược xếp từ hai loại sợi cotton và polyester, nếu sợi cotton chiếm tỷ lệ lớn hơn thì xếp vào mã số thuế của vải cotton, ngược lại thì xếp vào mã số thuế của pholyester. trong trường hợp mặt hàng có nhiều bộ phận khác nhau và các bộ phận này có thể tách ra để sử dụng độc lập, thi phải tách ra để ấn định mã số thuế cho từng loại riêng. Ví dụ :nhập dàn máy hát trong đó bộ phận CD và cassette, nếu hai bộ phận có thể tách ra để sử dụng độc lập, thì phần CD phải xếp vào mã số thuế của CD và cassette xếp vào mã số của cassette. 3.3.4 Định giá tính thuế hàng nhập khẩu . Nguyên tắc chung là đánh thuế theo giá giao dịch, nhưng giá giao dịch ở đây không phải là giá trên hoáa đơn mà phải cộng thêm nhiều chi phí khác như :tiền đóng gói , tiền hoa hồng cho trung gian nếu người mua phải trả, tiền máy móc thiết bị của nhà nhập khẩu mua cấp cho nhà sản xuất để giúp nhà sản xuất làm ra được món hàng cần đặt, tiền lệ phí bản quyền, tiền thưởng thêm cho người bán nếu có….Ngoài ra giá giao dịch để đánh thuế không tính phí vận chuyển và phí bảo hiểm lô hàng. Tuy nhiên, có nhiều trường hợp không xác định được giá giao dịch hoặc Hải Quan Mỹ không chấp nhận giá giao dịch để xác định thuế. Ví dụ, công ty Mỹ nhận hàng của một công ty con của mình ở Việt Nam, Hải Quan sẽ không chấp nhận dùng giá giao dịch. Khi ấy phải dùng các nguyên tắc định giá khác. Có bốn nguyên tắc định giá được Hải Quan Mỹ áp dụng theo thứ tự ưu tiên: - Định giá theo món hàng giống hệt hoặc tương tự. - Tính giá suy ngược, nghĩa là lấy giá bán lẻ trên thị trường trừ đi các chi phí để tính giá nhập khẩu. - Xác định giá thành, nghĩa là tính toán các chi phí sản xuất ra món hàng để suy ra giá gần với giá nhập khẩu. - Biện pháp tổng hợp nhiều yếu tố để suy ra giá nhập. Tuy nhiên biện pháp này rất hiếm khi sử dụng đến. 3.4. Những quy định đối với hàng hoá nhập khẩu vào Mỹ 3.4.1. Quy định về xuất sứ hàng nhập khẩu đưa vào Mỹ. Việc xác định xuất sứ rất quan trọng vì hàng nhập khẩu ở những nước đang phát triển hoặc những nước đã ký kết hiệp định thương mại với Mỹ sẽ được hưởng thuế xuất thấp hơn. Xuất sứ của mặt hàng được xác định theo nguyên tắc biến đổi phần lớn về giá trị và được định nghĩa như sau: sản phẩm được xác định vào nước gốc là nơi cuối cùng sản xuất ra sản phẩm với du lịch sản phẩm đã biến dạng để mang tên mới và có đặc tính sử dụng mới. Ví dụ khi Việt Nam nhập khẩu vải để may thành áo xuất khẩu sang Mỹ thì sản phẩm mang xuất xứ Việt Nam, vì khi ấy tên của sản phẩm mới là áo và để mặc khác với sản xuất đặc tính ban đầu của vải. Hoặc Việt Nam nhập khẩu da về may mũ giày, rồi đưa đi nước khác để gắn với đế thành giầy hoàn chỉnh, trường hợp này xuất xứ của sản phẩm được ghi là Việt Nam . Khi xuất khẩu vào Mỹ, muốn được hưởng thuế xuất ưu đãi theo nước xuất xứ, luật Mỹ quy định trên sản phẩm phải ghi nhãn của nước xuất xứ. Sản phẩm xuất xứ từ Việt Nam thì phải ghi made in Việt Nam. Quy định này chỉ bắt buộc với sản phẩm hoàn chỉnh, khi nhập vào Mỹ có thể bán thẳng cho người tiêu dùng. Có một quy định đặc biệt là hàng hoá gốc từ Mỹ đưa sang nước khác để sắp xếp lại, gia công thêm và đóng gói khi nhập khẩu trở lại Mỹ sẽ không phải đóng thuế nhập khẩu cho phần nguyên liệu có gốc từ Mỹ. Dựa vào quy định này, Việt Nam có thể nhận vải cắt sẵn của công ty Mỹ cung cấp, về may thành áo quần… rồi xuất khẩu trở lại Mỹ sẽ chỉ phải chịu thuế nhập khẩu đối với phần phí gia công. 3.4.2.Quy định về nhãn hiệu hàng hoá nhập khẩu vào Mỹ Quy định: Mọi hàng hoá nhập khẩu có xuất xứ ngoại quốc, phải ghi rõ ràng, không tẩy xoá được, ở chỗ dễ nhìn thấy được trên bao bì xuất nhập khẩu. Tên người mua cuồi cùng ở Mỹ, tên bằng tiếng Anh nước xuất xứ hàng hoá đó. Hàng đến tay người mua cuối cùng thì trên các bao bì, vật dụng chứa đựng bao bì tiêu dùng của hàng hoá cũng phải ghi rõ nước xuất xứ của hàng hoá bên trong. Luật pháp Mỹ quy định: Các nhãn hiệu hàng hoá phải được đăng ký tại cục Hải Quan Mỹ. Hàng hoá mang nhãn hiệu giả hoặc sao chép, bắt chước một nhãn hiệu đã đăng ký bản q uyền của một công ty Mỹ hay một công ty nước ngoài đã đăng bản quyền đều bị cấm nhập khẩu vào Mỹ. Bản sao đăng ký nhãn hiệu hàng hoá phải nộp cho cục Hải Quan Mỹ và được lưu giữ theo quy định hàng nhập khẩu vào Mỹ có nhãn hiệu giả sẽ bị tịch thu sung công. Theo "Copyrigh Revíion Act" của Mỹ, hàng hoá nhập khẩu vào Mỹ theo các bản sao chép các thương hiệu đã đăng ký mà không được phép của người có bản quyền là vi phạm luật bản quyền, sẽ bị bắt giữ và tịch thu, các bản sao các thương hiệu đó sẽ bị huỷ. Các chủ sở hữu bản quyền muốn được cục Hải Quan Mỹ bảo vệ quyền lợi thì cần đăng ký khiếu nại bản quyền tại văn phòng bản quyền theo các thủ tục hiện hành. Sử lý vi phạm * Hàng nhập vào Mỹ không tuân thủ quy định trên sẽ bị phạt mức 10% giá trị lô hàng và phải thực hiện thêm một số yêu cầu nữa. Tuy nhiên, không phải có nghĩa là người nhập khẩu được miễn thi hành nghĩa vụ đã quy định. * Hàng nhập khẩu không đáp ứng đúng yêu cầu về ghi mác mã sẽ bị giữ lại ở khu vực Hải Quan Mỹ cho tới khi người nhập khẩu thu xếp tái xuất trở lại, phá huỷ đi hoặc tới khi hàng được xem là bỏ để chính phủ định đoạt toàn bộ hoặc từng phần. * Phần 304(h) Luật thuế của Mỹ quy định ai cố tình vi phạm, cố tình che dấu sẽ bị phạm tiền 5000 USD hoặc bỏ tù dưới 1 năm. Trường hợp có sự phối hợp với nước ngoài để thay đổi tẩy xoá mác mã về xuất xứ hàng hoá thị bị phạm 100000USD với lần đầu và các vi phạm sau đó là 250000USD. II. Thị trường dệt may Mỹ 1.Thực trạng thị trường dệt may Mỹ 1.1. Dự báo nhu cầu nhập khẩu dệt may của Mỹ: Theo thống kê của phòng Thương Mại Mỹ, kim ngạch nhập hàng dệt may của Mỹ năm 1998 đạt 55,864 tỷ USD, năm 1999 đạt 67,732 tỷ USD (tăng 21,2%). Năm 2000 con số này đã đạt 76,396 tỷ USD, tăng 12% so với năm 1999 ,năm 2004 la năm đánh dấu sự gia tăng lớn của mặt hàng dệt may vào thị trường lớn Mỹ .Như vậy, có thể nói hiện nay Mỹ là nước nhập khẩu may mặc lớn nhất thế giới. Thị trường này đã, đang và sẽ là một thị trường đầy sức hấp dẫn với các nhà xuất khẩu. Tuy nhiên cần thấy được những nhân tố ảnh hưởng đến nguồn cung cấp hàng dệt may vào Mỹ cũng như cơ cấu nhập khẩu trong tương lai của thị trường này: Những nhân tố ảnh hưởng đến các nguồn cung cấp vào năm 2005 sau khi thực hiện thoả thuận từng bước bãi bỏ hạn ngạch trong khuôn khổ WTO/ATL: Quy chế thành viên Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Ưu đãi thuế quan (Mỹ và các nước khác) Chất lượng Giá cả Giao hàng đúng hạn Những nỗ lực của Cục Hải quan Mỹ trong việc thực thi pháp luật. Những mối quan ngại về đạo đức lên quan đến nguồn cung cấp (mối quan hệ giữa thương mại và lao động). Trong quá trình từng bước bãi bỏ hạn ngạch về nhập khẩu hàng dệt may, Mỹ cũng chịu các tác động lớn của các nhân tố trên. Đây là những quy định, lưu ý cho bất cứ nước nào muốn nhập khẩu hàng dệt may vào Mỹ. Về cơ cấu nhập khẩu: Từ năm 1995 đến năm 1999, kim ngạch nhập khẩu hàng dệt kim đã tăng từ 13,856 tỷ USD lên 22 tỷ USD, trong khi hàng dệt thoi tăng từ 336,177 triệu USD lên 864,401 triệu USD. áo Jacket chiếm 51% tổng kim ngạch hàng dệt thường nhập khẩu vào Mỹ và chiếm tới 61% tổng kim ngạch gia tăng trong năm 1997. áo khoác (HS 6201 và HS 6202) cũng có mức tăng đáng kể- tương ứng 391 triệu USD- chiếm 25,2%và 240 triệu USD- chiếm 23,2%. HS 6110 (áo cổ chui và gile)- chiếm 40% mức tăng kim ngạch trong năm 1997. Các mặt hàng khác có mức tăng đáng kể là áo sơ mi nam (HS 6105)- tăng 280 triệu USD và áo sơ mi nữ (HS 6104) tăng 191 triệu USD. Trong cơ cấu nhập khẩu may mặc vào Mỹ, các mặt hàng sau có giá trị nhập khẩu lớn nhất: Bảng 2 Cơ cấu các mặt hàng nhập khẩu vào Mỹ Đơn vị: Tỷ USD Mặt hàng Năm 1999 Năm 2000 Comple, bộ trang phục nữ 8,71 10,7 Comple, bộ trang phục nam 6,97 7,68 Sơ mi nam dệt thoi 3,03 3,24 Sơ mi nữ dệt thoi 2,28 2,64 áo len, áo gile 9,46 7,96 Váy lót nữ và pyjama 1,87 1,74 T-shirt, may ô 3,32 3,94 Sơ mi nam dệt kim 1,88 1,96 Nguồn:Textile asia1/2001 Trong tương lai, cùng với sự phát triển và thịnh vượng của nhiều nước, thị trường hàng dệt may sẽ còn tiếp tục tiến triển theo xu thế mở rộng, khối lượng buôn bán không ngừng tăng lên, việc dịch chuyển sản xuất, xuất khẩu hàng may mặc từ các nước giàu sang các nước nghèo là quy luật tất yếu. Theo Hiệp định dệt may ATC (Agreement on Textiles and Clothing) ký giữa các thành viên Tổ chức thương mại thế giới WTO, đến năm 2005 sẽ không còn hạn ngạch đối với các nước thành viên nữa. Là một nước còn chưa được tham gia vào tổ chức này, Việt Nam sẽ phải chịu sự cạnh tranh gay gắt trong một môi trường cạnh tranh quyết liệt. Trước tình hình đó ngành dệt may Việt Nam cần phải làm gì để thâm nhập và tăng lượng xuất khẩu trên thị trường đầy tiềm năng này? Đây vẫn đang là một câu hỏi không dễ trả lời cho các công ty xuất nhập khẩu Việt Nam. Tuy nhiên, chúng ta đang có thuận lợi lớn trước mắt là Hiệp định thương mại Việt- Mỹ đã được ký kết, đã được chính phủ hai nước thông qua và có hiệu lực từ ngày 10/12/2001. Theo sự thoả thuận giữa hai nước Việt –Mỹ, hai bên sẽ sớm ký một hiệp định song phương về hàng dệt may trong một tương lai gần. Sự kiện này mở ra cho ngành công nghiệp dệt may Việt Nam nói riêng và nền kinh tế Việt Nam nói chung nhiều cơ hội nhưng cũng không ít những thách thức trong việc phát triển kinh tế. Ngành dệt may Việt Nam, ngoài việc nghiên cứu kỹ thị trường dệt may Mỹ cần phải tìm hiểu rõ những thuận lợi và khó khăn mà Hiệp định Thương mại Việt-Mỹ đem lại để từ đó có thể xác định được các mục tiêu và chiến lược thâm nhập thị trường dệt may cuả nước này một cách chính xác và có hiệu quả nhất. 1.2. Một số nhà cung cấp sản phẩm dệt may chủ yếu trên thị trường Mỹ. Mỹ là một thị trường tiêu thụ đầy triển vọng cho nhà sản xuất nào biết tìm hiểu và khai thác để đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng Mỹ. Số lượng hàng dệt may nhập khâủ của Mỹ tăng đều qua các năm. Nếu như năm 1999 Mỹ giá trị nhập khẩu là 67,732 tỷ USD thì sang năm 2001 con số này lên đến 76,396 tỷ USD, tăng 12,8%. Với nhu cầu nhập khẩu ngày càng lớn như vậy, Mỹ đã trở thành một điểm nóng thu hút sự chú ý của các nhà đầu tư và xuất khẩu. Các đối thủ cạnh tranh chính của Việt Nam trên thị trường dệt may Mỹ theo thứ tự ưu tiên như sau: Bảng 3 - Các nước xuất khẩu dệt may hàng đầu sang Mỹ (năm2001) (đơn vị: triệu USD) Các nước xuất khẩu Kim ngạch xuất khẩu Tỷ lệ (%) Mêhico Trung Quốc Hồng Kông Canada Hàn Quốc ấn Độ Đài Loan Thái Lan Băngladesh Pakistan 8945,218 6536,340 4402,973 3162,438 2930,856 2633,325 2475,586 2441,426 2204,975 1923,687 12,74 9,31 6,27 4,50 4,17 3,75 3,52 3,48 3,14 2,74 Thế giới 70238,821 100 Nguồn:hiệp hội dệt may Việt Nam. 1.2.1. Mehico: Mehico có vị trí địa lý thuận lợi gần các trung tâm dệt may lớn trên thế giới như Mỹ và Bắc Mỹ. Chính vì vậy, nước này dễ kiểm soát sản xuất và bảo đảm tiến độ giao hàng, giá nhân công tương đối rẻ, đặc biệt lại có hệ thống ưu đãi về thuế quan (GSP) và hạn ngạch. Hàng hoá cắt ở các khu vực dệt may lớn đưa gia công ở các nước này không bị hạn chế bằng hạn ngạch. Đồng thời chính sách ưu đãi chung về thuế quan đã giúp ngành xuất khẩu may mặc ở khu vực này phát triển nhanh chóng. Nếu năm 1997, lượng xuất khẩu hàng dệt may vào Mỹ của Mehico còn đứng thứ hai sau Trung Quốc thi đến năm 1999, hàng dệt may Mehico đã chiếm 13,5% thị phần, dẫn đầu các nước xuất khẩu dệt may vào Mỹ. Năm 2000, kim ngạch xuất khẩu của Mehico đạt 10,287 tỷ USD tăng 12,34% so với năm 1999 (9,149 tỷ USD).Sang năm 2001 đạt 8,9 tỷ USD. Như vậy, tình hình xuất khẩu hàng dệt may từ Mehico vào Mỹ như vậy chứng tỏ các ưu đãi mà Mehico được hưởng là rất thuận lợi. Đây là một đối thủ không dễ cạnh tranh đối với các nước mới xuất khẩu hàng dệt may vào Mỹ, trong đó có Việt Nam. 1.2.2. Trung Quốc: Là một nước có lợi thế về nguồn lao động dồi dào, ngành công nghiệp dệt may Trung Quốc ra đời sớm và có vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, chiếm 15,8% GDP. Xuất khẩu hàng dệt may Trung Quốc chiếm 25% tổng giá trị xuất khẩu của cả nước và chiếm 13% tổng kim ngạch thế giới. Trung tuần tháng 11 năm 2001, Trung Quốc đã chính thức được gia nhập vào tổ chức thương mại Thế giới WTO. Đây là một bước ngoặt quan trọng đánh dấu sự phát triển và hội nhập của Trung Quốc trên trường quốc tế. Cùng với nhiều ưu đãi khác, Trung Quốc không còn bị quản lý bằng hạn ngạch khi xuất khẩu sang thị trường Mỹ. Dệt may là một trong các ngành thế mạnh của Trung Quốc mà Việt Nam cần tìm ra giải pháp để cạnh tranh. Tuy không còn dẫn đầu về lượng xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường Mỹ như đầu những năm 90, nhưng hàng dệt may Trung Quốc vãn có nhiều lợi thế và chiếm lĩnh đáng kể trên thị trường Mỹ. Ưu thế của hàng Trung Quốc là giá cả thấp, hạn ngạch và thuế quan ưu đãi, chủng loại hàng hoá phong phú. Ngoài ra, cách tiêu thụ bằng kênh phân phối quy mô nhỏ nhưng mật độ dày đã đảm bảo cung cấp hàng đến mọi nơi trên thị trường rộng lớn này. Cho đến nay, thế mạnh về khả năng cung cấp hàng trong thời gian ngắn và giá cả hợp lý của Trung Quốc vẫn làm các nước xuất khẩu khác kính nể, học tập. 1.2.3. Hồng Kông: Trong 5 năm trở lại đây, ngành công nghiệp dệt may Hồng Kông đã chuyển sang mô hình mới: vừa sản xuất, vừa bán buôn, vừa bán lẻ. Mô hình mới naỳ đã tận dụng được năng lực sản xuất sẵn có ở quy mô gia đình, đồng thời có thể mua vào bán ra kịp thời theo thị hiếu. Theo đó, các hãng mở rộng mạng lưới bán lẻ ra nước ngoài. Những cải tiến mới như vậy đã giúp ngành dệt may Hồng Kông nhanh chóng đạt được những thành tựu đáng kể. Năm 1999, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may từ Hồng Kông vào Mỹ đạt 4,525 tỷ USD, chiếm 6,7% thị phần. Năm 2000, con số này tăng tới 4,763 tỷ USD (tăng 5,3%), và năm 2001 con số này là 4,4 tỷ USD. Tuy nhiên, cho đến nay Hồng Kông vẫn giữ được vị trí thứ 3 về xuất khẩu dệt may sang Mỹ. 1.2.4. Hàn Quốc: Là một nước công nghiệp mới, Hàn Quốc sớm tìm cho mình một con đường phát triển mạnh mẽ nền kinh tế đất nước thông qua xuất khẩu thu ngoại tệ. Trong đó không thể không kể đến phần đóng góp không nhỏ của ngành công nghiệp dệt may. Năm 1999, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may vào Mỹ của Hàn Quốc đạt 2,927 tỷ USD, năm 2000 đạt 3,165 tỷ USD, tăng 8,1%. Tuy nhiên, với việc hiện đại hoá các máy móc thiết bị, nâng cao trình độ khoa học kỹ thuật, Hàn Quốc hiện nay đang đứng ở vị trí cao trong việc xuất khẩu hàng dệt may sang Mỹ- Vị trí mà chỉ gần 5 năm trước còn thuộc về một nước có ngành dệt may phát triển lâu đời- Đài Loan. 1.3. Thị hiếu tiêu dùng hàng dệt may ở Mỹ . Đối với mặt hàng dệt may, thị hiếu của người tiêu dùng Mỹ có những đặc điểm sau: * Có nhu cầu mua sắm định kỳ vào các dịp lễ hoặc cuối năm ở những đợt bán giảm giá. *Thích chủng loại đa dạng. * Kiểu mẫu phù hợp thị hiếu thẩm Mỹ, thay đổi theo thời gian và khí hậu. * Sản phẩm độc đáo và nhạy bén với thời trang. * Mặt hàng được tiêu thụ mạnh ở Mỹ là quần tây, bộ complet, áo T-shirt. 1.4. Tổ chức hệ thống phân phối hàng dệt may của Mỹ Có thể chia các công ty kinh doanh bán lẻ hàng dệt may ở Mỹ thành 7 nhóm theo thứ tự giá cả mặt hàng từ cao đến thấp như sau: Công ty chuyên doanh( Special store) gồm hệ thống các cửa hàng chuyên kinh doanh một nhóm sản phẩm dệt may có chất lượng cao, nhãn hiệu nổi tiếng, giá bán một đơn vị sản phẩm có thể rất cao. Cửa hàng siêu thị(departememt store) là hệ thống bán lẻ tổng hợp hàng tiêu dùng, trong đó hàng quần áo và dụng cụ tiêu dùng gia đình là chủ yếu. Công ty bán lẻ quốc gia( Chain store hoặc National Account) gồm các cửa hàng chuyên bán hàng dệt may được tổ chức thành một mạng lưới rộng khắp toàn quốc. Cửa hàng siêu thị bình dân (Discount store) được tổ chức tương tự như cửa hàng siêu thị nhưng quy mô rất rộng và doanh số rất lớn vì bán hàng theo giá đại chúng. Các công ty bán hàng giảm giá(Off-Price store) được tổ chức như cửa hàng siêu thị bình dân nhưng giá bán hàng rẻ hơn rất nhiều. Công ty bán hàng qua bưu điện, tivi, catalogue ( Mail order) là các công ty tổ chức giới thiệu sản phẩm qua catalogue, tờ quảng cáo rời…nhận đơn đặt hàng và giao hàng tận nhà qua đường bưu điện, điện thoại… đây là hình thức bán hàng ngày càng phát triển tại Mỹ vì tính tiện lợi và nhanh chóng của nó. Các cửa hàng bán lẻ khác thường bán hàng với giá rẻ chỉ bằng 15-20% so với giá hàng bán ở các siêu thị, có các đặc điểm về nguồn hàng như sau: Hàng không có nhãn hiệu nổi tiếng. Hàng được nhập thẳng từ các nguồn giá rẻ từ các nước thuộc Châu á, Nam Mỹ ở dạng không có bao bì và có thể được trang trí thêm tại Mỹ. Các chính sách của chính phủ Mỹ đối với hàng dệt may. 2.1.Chính sách bảo hộ hàng dệt may trong nước của Mỹ. Như đã phân tích ở trên về tình hình khó khăn của ngành dệt may ở Mỹ, cho nên ngành này là một trong những ngành được sự bảo hộ cao của nhà nước Mỹ. Các biện pháp Mỹ đã thực hiện để bảo hộ cho ngành dệt may có thể kể là: Năm 1972, Mỹ đã thành lập Uỷ ban phụ trách việc thực hiện các Hiệp định về dệt (Committee for Implementation of Textile Agreement-CITA) nhằm kiểm soát việc thực hiện các hiệp định song phương về dệt. áp dụng các biện pháp thuế quan thông qua Biểu thuế quan hài hoà của Mỹ. ở Biểu thuế quan này, hàng dệt may sẽ được phân loại theo hệ thống mã số quốc tế gồm 6 chữ số và tuỳ vào sự phân loại này mà có mức thuế suất tương ứng . Thông qua các hiệp định song phương về hàng dệt may giữa Mỹ với các nước, Mỹ quy định hạn ngạch và Luật Thương Mại Mỹ cũng cho pháp chính phủ Mỹ đơn phương áp dụng các loại hạn ngạch mang tính hành chính đối với các loại hàng dệt may nhập khẩu từ các nước khác vào Mỹ. Các biện pháp kỹ thuật khác cũng được Mỹ áp dụng để bảo hộ thị trường nội địa về dệt may như: Luật xác định sản phẩm sợi dệt, Luật nhãn hiệu sản phẩm len. Luật điều tiết nhập khẩu hàng dệt may vào thị trường Mỹ. Mỹ là thành viên của tổ chức Thương Mại Thế Giới (WTO), có tham gia Hiệp định đa sợi(MFA- Multi-Fibex Arrangememt) cho nên hàng dệt may vào nước Mỹ phải tuân thủ những nguyên tắc chung của MFA. Vì thế khi đưa hàng dệt may các doanh nghiệp Việt Nam cần nắm vững hai vấn đề sau đây: Quy định chung của Hiệp định đa sợi-MFA. Hiệp định cho phép mỗi thành viên của MFA được xây dựng những thoả thuận song phương giữa nước xuất khẩu và nước nhập khẩu hàng dệt. Cho phép mỗi nước được đơn phương định đoạt các biện pháp khi thấy rằng thị trường dệt của mình bị phương hại. Cho phép áp dụng hạn ngạch (Quota) để hạn chế số lượng hàng dệt nhập khẩu vào quốc gia mình. Hạn ngạch này sẽ được xoá bỏ vào năm 2005 giữa các nước thành viên Hiệp định đa sợi. Quy định hệ thống hạn ngạch hàng dệt Mỹ: Căn cứ vào các quyết định của MFA, Tổng thống Mỹ quyết định việc đàm phán hàng dệt song phương giữa Mỹ và các nước. Tính đến hết năm 1998, Mỹ đã ký hiệp định song phương với 45 nước, trong đó có 37 nước thành viên thuộc WTO. Hiệp định hàng dệt song phương được xây dựng trên cơ sở thương lượng với thời hạn có hiệu lực từ 3-6 năm. Về vấn đề đàm phán hiệp định song phương về hàng dệt giữa Mỹ với nước xuất khẩu như sau: Mức quota nhập khẩu hàng dệt vào thị trường Mỹ sẽ được xác định trên cơ sở trị giá hoặc khối lượng hàng dệt đã đưa vào thị trường Mỹ ở thời điểm đàm phán. Thường khi khối lượng hàng dệt đưa vào Mỹ đạt 100000 tá sản phẩm thì Hải qua của Mỹ bắt đầu theo dõi và khi khối lượng này tăng lên 200000 tá sản phẩm thì Mỹ chính thức đề nghị đàm phán để xác định hạn ngạch nhập khẩu. Như vậy, để Việt Nam có thể nhận được hạn ngạch nhập khẩu lớn thì trong 1-2 năm đầu kể từ khi Hiệp định có hiệu lực các doanh nghiệp xuất khẩu dệt may Việt Nam phải nỗ lực tối đa để đưa khối lượng hàng hoá lớn sang thị trường này. Những nhân tố ảnh hưởng tới khả năng xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam vào thị trường Mỹ. Những nhân tố tác động thuận lợi. doanh nghiệp lớn không có được như: Ngành dệt mày Việt Nam có nguồn lao động dồi dào và giá nhân công rẻ. Hàng dệt may Việt Nam đã có cải tiên về mẫu mã và được khách hàng trong và ngoài nước ưa chuộng. Việt Nam đi sau trong việc hội nhập kinh tế nên có điều kiện tiếp thu các điều kiện kỹ thuật mới và tiên tiến cũng như tiếp thu các kinh nghiệm của các nước đi trước. Phần lớn các doanh nghiệp dệt may thường có quy mô vừa và nhỏ lên có những lợi thế mà các ạt và thích nghi dễ dàng với sự biến động của thị trường + Có khả năng tận dụng mọi nguồn lao động khắp các miền của đất nước, từ thành thị đến nông thôn + Không cần vốn lớn có điều kiện tiết kiệm chi phí, tăng lợi nhuận trong hoạt động sản xuất và kinh doanh. + Dễ đổi mới trang thiết bị, cải tiến quy trình công nghệ, mẫu mã để mở rộng thị trường. + Có điều kiện trợ lực tốt cho các doanh nghiệp quy mô lớn, chẳng hạn như hoạt động chân rết cho các công ty trong sản xuất và kinh doanh. Những nhân tố tác động tiêu cực. Mặc dù hiệp định thương mại song phương Việt Mỹ có hiệu lực đã đem lại cho ngành dệt may Việt Nam nhỉều vận hội mới song bên cạnh đó vẫn còn nhiều thách thức lớn đòi hỏi Chính phủ Việt Nam, Bộ Công Nghiệp và toàn ngành phải từng bước nỗ lực để vượt qua : - Do đặc điểm của thị trường tiêu thụ hàng dệt may Mỹ có xu hướng ngày càng cạnh tranh quyết liệt nên sản phẩm may mặc Việt Nam trên thị trường Mỹ phải cạnh tranh gay gắt với sản phẩm của các “cường quốc dệt may”như: Trung Quốc, Hồng Công, Đài Loan, Hàn Quốc, Ấn Độ... trong khi Việt Nam lại là nước đi sau, năng lực sản xuất còn bé, chất lượng sản phẩm chưa cao, thua kém về vốn, công nghệ quản lý, thị phần và kinh nghiệm trên thị trường ....Đây chính là thách thức to lớn đối với việc duy trì và đầy mạnh xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường Mỹ. - Đối với hàng dệt may, thị trường Mỹ đòi hỏi chặt chẽ về chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9000, các quy định về nhãn hiệu hàng hoá, xuất xứ sản phẩm. Đặc biệt, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam cần lưu ý đến một tập quán thương mại của Mỹ là thường yêu cầu mua hàng FOB, trong khi ngành may Việt Nam chủ yếu là gia công xuất khẩu. Đây là một trở ngại không nhỏ trong việc tăng cường xuất khẩu hàng may mặc sang Mỹ. Ngoài ra, do không có nhiều đối tác nên hàng Việt Nam đến thị trường này trước đây thường phải qua một đối tác nước thứ ba. Hiện nay, mặc dù Tổng Công Ty Dệt May Việt Nam đã thực hiện nhiều biện pháp nhằm thúc đẩy xuất khẩu sản phẩm sang thị trường này một cách trực tiếp: như lập trụ sở giao dịch tại Mỹ nhằm hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong nước xuất khẩu sang Mỹ... Vì vậy, nếu doanh nghiệp Việt Nam không tăng nhanh khối lượng hàng vào thị trường Mỹ trong thời gian tới thì hạn ngạch nhận được sau này sẽ rất thấp và điều đó sẽ làm ảnh hưởng rất nhiều đến giá trị hàng xuất khẩu. - Hiện nay tình trạng cơ sở vật chất, công nghệ, quản lý của toàn ngành nói chung và của nhiều doanh nghiệp nói riêng còn yếu kém, bất cập, không đồng bộ. Đặc biệt là các doanh nghiệp sản xuất hàng dệt kim và nguyên phụ liệu phục vụ cho ngành may. Dẫn đến hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp, chất lượng hàng may mặc không cao, kém khả năng cạnh tranh trên thị trường Mỹ. Thêm vào đó hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam chưa có chiến lược xuất khẩu dài hạn, ngược lại các doanh nghiệp kinh doanh theo kiểu “chộp giựt”, “manh mún”.Trình độ chuyên môn nghiệp vụ, ngoại ngữ, sự hiểu biết về pháp luật của các cán bộ còn hạn chế...Điều này đã tạo ra những trở ngại không nhỏ cho việc đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường Mỹ. - Hệ thống pháp luật và chính sách xuất nhập khẩu của Mỹ quá phức tạp và mới mẻ cũng gây không ít khó khăn cho việc đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường này. Ngoài các bộ luật của chính quyền trung ương, tất cả các bang của Mỹ đều có những quy định riêng của họ mà các nhà kinh doanh nước ngoài không thể không quan tâm. Tổng cộng tại 50 bang của Mỹ có tới trên 2700 chính quyền địa phương các cấp, các cơ quan này đều có những quy định riêng của họ, đặc biệt là yêu cầu phải có giấy chứng nhận an toàn đối với tất cả các loại sản phẩm được bán hoặc được lắp đặt tại địa phương của họ. Các yêu cầu này thường không thống nhất với nhau và trong nhiều trường hợp còn không được công bố công khai. Các tiêu chuẩn và thủ tục trên đặc biệt gây cản trở cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, hơn nữa cho tới nay chưa có một cơ quan nào, một nguồn thông tin chính thức nào liệt kê tất cả những đòi hỏi đó, nhất là các tiêu chuẩn và thủ tục chứng nhận hợp chuẩn. Mặc dù Cơ quan tham tán Thương mại của Việt Nam tại Mỹ đã hoạt động nhưng do nhiều điều kiện khách quan nên sự hỗ trợ của Cơ quan này đối với các doanh nghiệp xuất khẩu trong nước còn hạn chế. - Thêm vào đó, các doanh nghiệp Mỹ là những người có khả năng tài chính rất lớn, người dân Mỹ lại có thói quen mua sắm hàng qua mạng lưới siêu thị trải rộng khắp nước nên họ thường đặt những đơn đặt hàng có khối lượng lớn (từ 50-100 đến cả triệu lố: mỗi lố 12 sản phẩm). Với số lượng hàng sản xuất lớn mà thời gian cung ứng lại ngắn nên ít có doanh nghiệp Việt Nam nào tự mình đảm đương nổi một đơn đặt hàng. Vì vậy, để cho ra những lô hàng lớn, tiêu chuẩn như nhau là thách thức lớn đòi hỏi các doanh nghiệp Việt Nam phải sớm tính chuyện tập hợp lại cùng đầu tư trang thiết bị chuyên dùng đồng bộ. - Nhân tố đầu tiên và quan trọng nhất khiến hàng dệt may Việt Nam hiện nay vẫn chưa thể thâm nhập trực tiếp tới thị trường Mỹ là quá thiếu các nhãn hiệu hàng hoá, nhãn hiệu thương mại. Mặc dù sản phẩm dệt, may Việt Nam tuy đã xuất ra nước ngoài hơn 1,8 tỷ USD năm 2000 nhưng có gần 70% là sản phẩm gia công mang nhãn hiệu của bên đặt hàng, còn lại khoảng 30% là nhãn hiệu hàng hoá của nhà sản xuất hoặc mua bản quyền nhãn hiệu hàng hoá nước ngoài. Trước thực trạng thiếu thương hiệu đã buộc các doanh nghiệp Việt Nam phải lựa chọn một trong hai con đường: (1) xuất hàng cấp thấp không nhãn hiệu và (2) trả phí thuê nhãn hiệu. Nhưng thực tế xuất khẩu trong mấy năm gần đây cho thấy hàng dệt may Việt Nam không thể cạnh tranh nổi với những nhóm hàng cấp thấp không nhãn hiệu từ các nước như: Trung Quốc, Bangladesh, Pakistan, Srilanka, ấn Độ, Philippine và Indonêxia. Chính vì vậy, phần lớn các doanh nghiệp dệt may chấp nhận để sản phẩm của mình gắn với những thương hiệu đã có uy tín trên thị trường và trả phí thuê thương hiệu trên giá bán tổng sản phẩm. Hiện nay, các doanh nghiệp Việt Nam đang tích cực giao dịch với công ty bán lẻ, công ty xuất nhập khẩu và các nhà sản xuất lớn của Mỹ thông qua các bộ phận mua hàng ở Thái Lan, Hồng Công, Singapore, Đài Loan, Hàn Quốc. Đặc biệt là trong thời gian qua, đã có nhiều công ty của Mỹ cử người vào Việt Nam để thăm dò thị trường và tìm nguồn hàng. Nhiều đơn hàng đã được ký kết nhưng có nhiều đơn hàng không được ký kết do các nhà sản xuất của ta không đáp ứng được nhu cầu của khách hàng. -Việc thiếu thông tin về khách hàng đang trở thành một vấn đề bức xúc đối với nhiều doanh nghiệp sản xuất tiêu dùng chứ không riêng gì ngành dệt may. Nhưng với dệt may một ngành có nhiều tiềm năng và được đánh giá là một mũi nhọn xuất khẩu thì việc thiếu thông tin cũng đồng nghĩa với việc bó mình lại trong một tấm áo hẹp mang thương hiệu “Gia công”. Hiện nay, có rất nhiều doanh nghiệp dệt may Việt Nam có ý đồ ngấp nghé sang thị trường Mỹ nhưng vẫn không hiểu biết cặn kẽ biểu thuế suất của Mỹ đối với từng loại sản phẩm dệt may, cũng như chưa nắm được Luật Hải quan, các thủ tục nhập hàng vào Mỹ hay thị hiếu tiêu dùng của người Mỹ với những mặt hàng này như thế nào. Để khắc phục tình trạng này, Tổng công ty Dệt May Việt Nam đã liên doanh với một trung tâm thương mại tại Hồng Công nhằm đưa hàng của Vinatex vào thị trường Mỹ . Thêm vào đó Tổng công ty cũng thành lập một văn phòng đại diện tại New York để giúp các doanh nghiệp dệt may nắm bắt kịp thời các thay đổi về giá cả thị trường, xu hướng mẫu mốt, quy định hải quan, các chính sách thương mại đầu tư của Mỹ, giới thiệu nguồn nguyên liệu, vải chất lượng cao do Việt Nam sản xuất thông qua các showroom và từng bước tiếp cận với các nhà nhập khẩu trực tiếp của Mỹ. Đa số các doanh nghiệp dệt , may đều cho rằng việc lập văn phòng đại diện là hết sức cần thiết và quan trọng.Họ hy vọng rằng văn phòng đại diện sẽ là cầu nối để các doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận với thị trường Mỹ. Hơn nữa việc Trung Quốc trở thành thành viên chính thức của WTO đã tạo điều kiện cho Trung Quốc thu hút mạnh mẽ nguồn vốn đầu tư nước ngoài (trong đó có ngành dệt may), các sản phẩm may mặc cuả Trung Quốc được hưởng ưu đãi về thuế quan và hạn ngạch tại thị trường Mỹ, bên cạnh đó Trung Quốc là nước sản xuất bông lớn nhất thế giới, chính phủ Trung Quốc lại có những chính sách hỗ trợ cho sản xuất và xuất khẩu cho ngành dệt may... Chính nhờ những lợi thế nêu trên nên các sản phẩm may mặc của Trung Quốc có giá thành thấp. Đây là một thách thức cạnh tranh to lớn đối với hàng may mặc xuất khẩu của Việt Nam trên thị trường Mỹ. CHƯƠNG III. THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG MỸ. I. Tình hình chung về hoạt động kinh tế đối ngoại giữa Việt Nam và Mỹ. 1. Điểm qua vài nét về việc tái thiết lập mối quan hệ giữa Mỹ và Việt Nam Sau hơn 20 năm Mỹ tiến hành cuộc chiến tranh chia cắt đất nước Việt Nam và bị thất bại hoàn toàn vào ngày 30/4/1975 và để lại cho đất nước Mỹ nhiều thệt hại nặng nề mà cho đến nay cái gọi là " Hội chứng sau chiến tranh Việt Nam" vẫn còn âm ỉ. Cuộc cấm vận kinh tế của Mỹ đối với Việt Nam kéo dài trên 15 năm và những sự kiện đáng chú ý sau đây- đánh dấu sự phát triển kinh tế giữa Việt Nam và Mỹ: 3/2/1994: chính phủ Mỹ tuyên bố bỏ cấm vận buôn bán với Việt Nam. 11/7/1995- Tổng thống Mỹ tuyên bố công nhận ngoại giao và bình thường hoá quan hệ với Việt Nam. 5/8/1995- Bộ trưởng ngoại giao Mỹ sang thăm Việt Nam. Tháng 10/1995 - Chủ tịch nước CHXHCNVN dự lễ kỷ niệm 50 năm thành lập liên hợp quốc và lần đầu tiên thăm Mỹ, tiếp xúc với nhiều quan chức cao cấp của chính quyền Mỹ. Hội đồng Thương Mại Mỹ tổ chức" Hội nghị về bình thường hoá quan hệ, bước tiếp theo trong quan hệ Mỹ- Việt". Tháng 11/1995: Đoàn liên bộ Mỹ thăm Việt Nam tìm hiểu hệ thống luật lệ Thương Mại đầu tư của Việt Nam. Tháng 4/1996 Mỹ trao cho Việt Nam văn bản " Những yếu tố bình thường hoá quan hệ kinh tế Thương Mại với Việt Nam". Tháng 7/1996 Việt Nam trao cho Mỹ văn bản" Năm nguyên tắc bình thường hoá quan hệ kinh tế Thương Mại và đàm phán hiệp định Thương Mại Việt-Mỹ". Tháng 9/1996: Bắt đầu quá trình đàm phán hiệp định Thương Mại song phương. Cuộc đàm phán này kéo dài 4 năm, thực hiện qua 11 vòng: Vòng 1 từ ngày 21/9/1996 đến ngày 26/9/1996 tại Hà Nội. Trong vòng này chủ yếu đôi bên trao đổi các thông tin, tìm hiểu cơ chế Thương Mại của nhau. Vòng 2 từ 9/12/1996 đến 11/12/1996 tại Hà Nội. Vòng 3 từ 12/4/1997 đến ngày 17/4/197 tai Hà Nội. Tại vòng đàm phán thứ 2 và thứ 3, phía mỹ đã soạn thảo và trao cho phía Việt Nam bản dự thảo tổng thể hiệp định thương mại Việt-Mỹ gồm 4 chương: thương mại, sở hữu trí tuệ, đầu tư và dịch vụ theo quan điểm mở cửa tự do hoàn toàn. Bản dự thảo này áp dụng các quy định của tổ chức thương mại thế giới (WTO) giành cho các nước đã phát triển, phía Mỹ cho rằng: "Bản dự thảo chính là nội dung hiệp định thương mại mà Mỹ đã ký với các nước cộng hoà thuộc Liên Xô(cũ), với các nước Đông âu, Mông Cổ, Lào và Campuchia- các nước có cùng hoàn cảnh với Việt Nam, nên Việt Nam không cần phải thảo luận và xem xét nhiều trước khi ký và thông qua nó", nhưng sau khi nghiên cứu rất kỹ các khái niệm, đọc lại tất cả các hiệp định thương mại mà Mỹ đã ký với các nước có hoàn cảnh tương tự như Việt Nam và xin ý kiến lãnh đạo chúng ta đi đến quyế định" Việt Nam chỉ ký kết hiệp định thương mại với Mỹ trên cơ sở các quy định của tổ chức thương mại thế giới (WTO) áp dụng với nước đang phát triển ở trình độ thấp". Với quan điểm đó chúng ta xây dựng bản thảo của mình. Vòng 4 từ 6/10/1997 đến 11/10/1997 tại Washington. Tại vòng đàm phán này, phía Việt Nam đưa ra bản dự thảo với cam kết sẽ mở thị trường, theo đó thời hạn bảo hộ dài nhất cho một số chủng loại hàng hóa, và dịch vụ là năm 2020. Vòng 5: Từ 16/5/1998 đến 22/5/1998 tại Washington. Trước vòng đàm phán này, các nhà đàm phán Việt Nam đã thiết kế lại bản dự thảo hiệp định mới theo nguyên tắc Tổ chức Thương mại Thế giới ( WTO) áp dụng cho các nước có trình độ phát triển thấp. Vòng 6: Từ 15/9/1998 đến 22/9/1998 tại Hà Nội. Vòng 7: Từ 15/3/1999 đến 19/5/1999 tại Hà Nội. Tại hai vòng đàm phán 6 và 7, các bên tiếp tục trao đổi về các vấn đề quan trọng chưa đi đến nhất trí trong các vòng đàm phán trước như: phát triển quan hệ đầu tư, thương mại dịch vụ, thương mại hàng hoá và sở hữu trí tuệ. Vòng 8: Từ 14/6/1999 đến 18/6/1999 tại Washington. Vòng 9: Từ 23/7/1999 đên 25/7/1999 tại Hà Nội, trong cuộc họp cấp bộ trưởng, hai nước đã thông báo thoả thuận trên nguyên tắc những nội dung mà hiệp định thương mại đã đạt được. Vòng 10: Từ 28/8/1999 đến 2/9/1999 tại Washington. Vòng 11:3/7/2000 tại Washington. Sau khi đàm phán nốt những vấn đề cuối cùng trong lĩnh vực viễn thông và rà soát lại một lần nữa toàn văn bản hiệp định, ngày 13/7/2000, hiệp định Thương mại Việt- Mỹ đã được ký kết tại Washington. Đại diện cho phía Việt Nam là bộ trưởng Vũ Khoan, đại diện cho phía Mỹ là bà Charlene Barsefsky. Tham dự lễ ký kết có đại sứ hai nước ( đại sứ Lê Văn Bàng và đại sứ Peterson), trưởng hai đoàn đàm phán ( ông Trần Đình Lương và ông Joseph Diamond) và nhiều quan chức khác. *Trong quá trình đàm phán, quan hệ kinh tế giữa Việt Nam và Mỹ được củng cố bằng những sự kiện: 10/3/1998: Tổng thống Mỹ tuyên bố bãi bỏ việc áp dụng điều luật bổ sung Jackso

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLuận văn- Thực trạng và giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường Mỹ.doc
Tài liệu liên quan