Báo cáo Đặc điểm đất ngập nước

Tài liệu Báo cáo Đặc điểm đất ngập nước: ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN KHOA MÔI TRƯỜNG ---oOo--- Bài báo cáo: ĐẤT NGẬP NƯỚC Nhóm thực hiện: Natural Lớp: 07MT GVHD: thầy 2009 ĐẶT VẤN ĐỀ Đất ngập nước được xếp là một trong những hệ sinh thái có năng suất cao nhất trên thế giới. Chúng gồm các vùng ngập nước quanh năm hoặc theo mùa trải rộng từ những cánh rừng ngập mặn ven biển vào tới những đồng cỏ ngập nước theo mùa, ao, hồ nước nông và những khu rừng trên đất than bùn trong đất liền. Đất ngập nước cung cấp môi trường sống, thức ăn và nơi sinh sản cho rất nhiều loài động vật hoang dã, trong đó có các loài chim di cư quý hiếm và cả thú lớn như tê giác Java. Đất ngập nước cũng đóng vai trò rất quan trọng đối với cuộc sống của con người. Chúng cung cấp một lượng khổng lồ nguồn lợi thủy sản nước ngọt và nước mặn bao gồm cả các loài trai hến và giáp xác. Bên cạnh đó, đất ngập nước còn giúp bảo vệ đất liền, nhà cửa và đất canh tác trước gió bão, hạn chế ảnh hưởng của lũ lụt, ...

doc18 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 2469 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Báo cáo Đặc điểm đất ngập nước, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN KHOA MÔI TRƯỜNG ---oOo--- Bài báo cáo: ĐẤT NGẬP NƯỚC Nhóm thực hiện: Natural Lớp: 07MT GVHD: thầy 2009 ĐẶT VẤN ĐỀ Đất ngập nước được xếp là một trong những hệ sinh thái có năng suất cao nhất trên thế giới. Chúng gồm các vùng ngập nước quanh năm hoặc theo mùa trải rộng từ những cánh rừng ngập mặn ven biển vào tới những đồng cỏ ngập nước theo mùa, ao, hồ nước nông và những khu rừng trên đất than bùn trong đất liền. Đất ngập nước cung cấp môi trường sống, thức ăn và nơi sinh sản cho rất nhiều loài động vật hoang dã, trong đó có các loài chim di cư quý hiếm và cả thú lớn như tê giác Java. Đất ngập nước cũng đóng vai trò rất quan trọng đối với cuộc sống của con người. Chúng cung cấp một lượng khổng lồ nguồn lợi thủy sản nước ngọt và nước mặn bao gồm cả các loài trai hến và giáp xác. Bên cạnh đó, đất ngập nước còn giúp bảo vệ đất liền, nhà cửa và đất canh tác trước gió bão, hạn chế ảnh hưởng của lũ lụt, nạp, tiết nước ngầm và cung cấp nguồn nước cho sinh hoạt. Tuy nhiên, các vùng đất ngập nước ở Việt Nam đang dần biến mất. Việc chuyển đổi đất ngập nước thành đất canh tác, chặt phá rừng ngập mặn ven biển để nuôi tôm, sự ô nhiễm và phát triển chỉ là một số trong rất nhiều tác động có nguy cơ gây suy thoái vĩnh viễn các hệ sinh thái đất ngập nước và cuối cùng là ảnh hưởng tới chính lợi ích mà đất ngập nước mang lại cho con người. Vấn đề bảo vệ các hệ sinh thái đất ngập nước tự nhiên ảnh hưởng rất lớn đến cuộc sống tương lai của con người. Một trong những yêu cầu quan trọng để loài người chúng ta có thể đạt được điều này chính là phải nhận thức được mối liên hệ giữa đất ngập nước với cuộc sống đồng thời có những hành động tích cực để sử dụng bền vững và bảo vệ chúng cho tương lai. NÉT KHÁI QUÁT: Việt Nam có khoảng 10 triệu ha đất ngập nước, trong đó bao gồm 4,2 triệu ha trồng lúa, 2 triệu ha nước mặt nuôi trồng thủy sản, 1 triệu ha đất ngập nước ngọt; hơn 3.260 km bờ biển, 15.000 km đới ven bờ, hơn 2.000 con sông suối và 4.000 hồ. Đất ngập nước của Việt Nam rất đa dạng về kiểu loại, loại hình cảnh quan và sinh thái, phong phú về tài nguyên đa dạng sinh học, có nhiều chức năng, giá trị kinh tế, xã hội, văn hóa...quan trọng. Các vùng đất ngập nước này đã có những đóng góp quan trọng vào phát triển kinh tế-xã hội cho đất nước, mang lại nhiều sản phẩm phục vụ cho nhu cầu thiết yếu của người dân. Hiện 1/5 dân số nước ta đang sống ở vùng đất ngập nước và phụ thuộc trực tiếp vào việc khai thác, sử dụng các sản phẩm của đất ngập nước. Song các vùng đất ngập nước này đã và đang bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi các hoạt động của phát triển kinh tế gây ra như: Ao, hồ bị lấp đi để lấy đất trồng trọt hoặc xây dựng; tài nguyên nước ngầm, hệ động vật, thực vật bị khai thác quá mức không thể tự hồi phục; tôm, cá bị đánh bắt bằng những phương thức mang tính hủy diệt bằng thuốc nổ, chất độc, xung điện làm chết toàn bộ các loài động vật trên diện tích rộng lớn; việc xây đê đắp đập, nắn dòng các con sông làm thay đổi đặc tính thủy văn của chúng. Nhất là một lượng lớn chất thải sinh hoạt, chất thải công nghiệp và thuốc trừ sâu, phân bón hóa học đổ ra các thủy vực đã và đang gây ô nhiễm nghiêm trọng một số vùng đất ngập nước. Đất ngập nước có thể là nước ngọt, nước mặn hay nước lợ, do đó bao gồm cả vùng cửa sông, đầm phá ven biển và rừng ngập mặn. Đất ngập nước là vùng đất có nước ngập quanh năm hay tạm thời, và vùng đất đó phải có các động, thực vật sinh sống dưới nước. Chưa tính đến vùng đất ngập nước ở châu thổ sông Hồng, sông Mê Kông và vùng nội địa, tài nguyên đất ngập nước của Việt Nam chỉ tính riêng vùng ven biển cũng rất phong phú: 29 tỉnh ven biển với dân số 45 triệu người có tổng diện tích 139.640 km2. Riêng 125 huyện ven biển với dân số 20 triệu người có diện tích 56.000 km2. Các địa phương này có 1 triệu ha đất ngập mặn ven bờ trong đó 110.000 ha là rừng ngập mặn. NỘI DUNG Định nghĩa ĐNN “Đất ngập nước” (wetlands) được hiểu theo nhiều cách khác nhau, hiện có khoảng trên 50 định nghĩa về đất ngập nước đang được sử dụng. các định nghĩa về ĐNN được chia làm hai nhóm chính. Một nhóm định nghĩa theo nghĩa rộng và một nhóm định nghĩa theo nghĩa hẹp. Các định nghĩa theo nghĩa rộng điển hình như: Định nghĩa theo điều 1 của Công ước Ramsar(1971): “Đất ngập nước là những vùng đầm lầy, sình lầy, vùng than bùn hoặc vùng nước dù là tự nhiên hay nhân tạo, thường xuyên hay tạm thời, với nước đọng hay nước chảy, nước ngọt, nước lợ hay nước mặn, bao gồm những vùng nước biển có độ sâu không quá 6m khi thủy triều thấp”.(Cục Môi Trường, Bộ Tài nguyên và Môi trường,11/2000). Liên đoàn bảo vệ thiên nhiên thế giới (IUCN,1971): “Đất ngập nước là những vùng đất bão hòa nước hoặc thường xuyên bị ngập nước, dù là tự nhiên hay nhân tạo, ngập nước hường xuyên hoặc định kỳ, dù là nước tĩnh hoặc nước chảy, nước ngọt, nước lợ hoặc nước mặn. Những vùng ngập nước như những đầm lầy, vũng lầy, đầm rừng, than bùn, cửa song, vịnh biển, eo biển, ao hồ, đầm phá, song, hồ chứa”. Bên cạnh đó còn có một số định nghĩ theo nghĩa rộng khác của: + Cowadin và các cộng sự (1979) + Các nhà khoa học Canada (1988) + Các nhà khao học New Zealand (1985)… Những định nghĩa theo nghĩa hẹp, nhìn chung đều xem ĐNN như đới chuyển tiếp sinh thái, những diện tích chuyển tiếp giữa những môi trường trên cạn và thủy sinh, những nơi mà sự ngập nước của đất gây ra sư phát triển của một hệ thực vật đặc trưng (Cowardin et al; Enny, 1985). Phân loại Phân loại đất ngập nước trên thế giới: Từ rất sớm đã có khá nhiều cách xác định ĐNN cho các vùng đất than bùn phía bắc của Châu Âu và Bắc Mỹ. Davis (1907 - trong Mitsch và Gosselink, 1986 )  đã mô tả các bãi lầy Michigan theo ba tiêu chí riêng biệt: (1) dạng đất trên đó có bãi lầy, ví dụ như  các lưu vực sông nông hay châu thổ của các suối; (2) cách thức mà theo đó bãi lầy được hình thành, chẳng hạn như từ dưới lên hay từ bờ trở ra; và (3) thảm thực vật bề mặt, ví dụ như cây thông rụng lá hay rêu. Nhưng phải đến những năm sau 1950 mới có sự phân loại một cách hệ thống đầu tiên của Mỹ (Mai Đình Yên, 2002). Các tác giả như Moore và Bellamy (1974) thì lại mô tả bảy loại hình đất than bùn dựa trên các điều kiện dòng chảy. Phân loại ĐNN có thể dựa vào các khu cư trú của các loài chim nước (Hancock, 1984) , hoặc theo hướng địa mạo. Ở một số nước, phân loại ĐNN được tiến hành theo hệ thống thứ bậc (Hoa Kỳ). Việc phân loại ĐNN theo sinh thái học sẽ giúp cho việc quản lý và bảo tồn được tốt hơn. Theo đó, các yếu tố địa mạo, thuỷ văn và chất lượng nước sẽ là cơ sở cho việc phân biệt các lớp ĐNN về mặt sinh thái v.v... Cơ quan Bảo vệ Động vật hoang dã và Cá Hoa Kỳ bắt đầu kiểm kê ĐNN trong các loại ĐNN quốc gia một cách nghiêm ngặt vào năm 1974 (Mitsch and Gosselink, 1986, 1993). Theo cơ quan này, lớp đất ngập nước cụ thể hay nơi cư trú nước sâu mô tả sự xuất hiện nói chung của hệ sinh thái cả dưới dạng thực vật ưu thế và cả kiểu dạng chất nền. * Phân loại ĐNN của công ước Ramsar Vào những năm đầu của thập kỷ 70, Công ước Ramsar (1971) đã phân ĐNN thành 22 kiểu mà không chia thành các hệ và lớp. Trong quá trình thực hiện Công ước và thực tiễn áp dụng vào các vùng và các quốc gia khác nhau, sự phân hạng này đã thay đổi. Vào năm 1994, phụ lục 2B của Công ước Ramsar đã chia ĐNN thành 3 nhóm chính đó là: 1) ĐNN ven biển và biển (11 loại hình) 2) ĐNN nội địa (16 loại hình) 3) ĐNN nhân tạo (8 loại hình) (Davis, 1994 - Ramsar Convention Bureau) Với tổng cộng 35 loại hình. Cũng theo Ramsar Convention Bureau (1997a,b - 2nd edition), thì các loại hình ĐNN đã được xem xét lại và chia thành 40 kiểu khác nhau. Trong những năm gần đây, hệ thống phân loại ĐNN đã được xem xét, chỉnh sửa, bổ sung thành 42 kiểu. HỆ THỐNG PHÂN LOẠI RAMSAR  Đất ngập nước ven biển và biển (Marine and Coastal Wetlands) A 1 Các vùng biển nông ngập nước thường xuyên ở độ sâu dưới 6 mét khi triều thấp; bao gồm cả các vịnh và eo biển. B 2 Các thảm thực vật biển dưới triều; bao gồm các bãi tảo bẹ, các bãi cỏ biển, các bãi cỏ biển nhiệt đới. C 3 Các rạn san hô. D 4 Các bờ đá biển; kể cả các đảo đá ngoài khơi, vách đá biển. E 5 Các bờ cát, bãi cuội hay sỏi; bao gồm các roi cát, mũi đất nhô ra biển và các đảo cát; kể cả các hệ cồn cát và các lòng chảo ẩm ướt. F 6 Các vùng nước cửa sông; nước thường trực của các vùng cửa sông và các hệ thống cửa sông của châu thổ. G 7 Các bãi bùn gian triều, các bãi cát hay các bãi muối. H 8 Các đầm lầy gian triều; bao gồm các đầm lầy nước mặn, các đồng cỏ nước mặn, các bãi kết muối, các đầm nước mặn nổi lên; kể cả các đầm nước ngọt và lợ thủy triều. I 9 Các vùng đất ngập nước có rừng gian triều; bao gồm rừng ngập mặn, các đầm dừa nước và các đầm có cây nước ngọt. J 10 Các đầm/ phá nước lợ/mặn ven biển; các đầm/ phá nước lợ đến nước mặn ít nhất có một lạch nhỏ nối với biển. K 11 Các đầm/ phá nước ngọt ven biển; bao gồm các đầm/ phá châu thổ nước ngọt. Zk (a) 12 Các hệ thống thủy văn castơ ngầm và hang động ven biển và biển Đất ngập nước nội địa L 13 Các đồng bằng châu thổ thường xuyên có nước. M 14 Các sông/suối/lạch thường xuyên có nước; bao gồm cả các thác nước. N 15 Các sông/suối/lạch có nước theo mùa/không liên tục/bất thường. O 16 Các hồ nước ngọt có nước thường xuyên (trên 8ha); bao gồm các hồ lớn uốn chữ U/hình móng ngựa. P 17 Các hồ nước ngọt có nước theo mùa/không liên tục (trên 8ha); bao gồm cả các hồ ở đồng bằng ngập lũ. Q 18 Các hồ nước mặn/lợ/kiềm có nước thường xuyên. R 19 Các hồ và bãi nước mặn/lợ/kiềm có nước thường xuyên. Sp 20 Các đầm/ vũng nước mặn/lợ/kiềm có nước thường xuyên. Ss 21 Các đầm/ vũng nước mặn/lợ/kiềm có nước theo mùa/không liên tục. Tp 22 Các đầm/ vũng nước ngọt có nước thường xuyên; các ao hồ (dưới 8ha); các đầm nước và đầm lầy trên đất vô cơ; có thảm thực vật nổi mọng nước ít nhất trong phần lớn mùa sinh trưởng. Ts 23 Các đầm/ vũng nước ngọt có nước theo mùa/không liên tục trên đất vô cơ; kể cả bãi lầy, hố/ hốc đá, đồng cỏ ngập theo mùa, đầm cỏ lác/ lách. U 24 Các vùng đất than bùn không có rừng; bao gồm đầm lầy than bùn có cây bụi hoặc trống, các đầm lầy/ bàu, các đầm lầy thấp. Va 25 Các vùng đất ngập nước núi cao; kể cả các đồng cỏ núi cao, các vùng nước tạm thời do tuyết tan. Vt 26 Các vùng đất ngập nước lãnh nguyên; bao gồm các vũng nước lãnh nguyên, các vùng nước tạm thời do tuyết tan. W 27 Các vùng đất ngập nước cây bụi chiếm ưu thế; các đầm lầy cây bụi, các đầm nước có cây bụi chiếm ưu thế, các rừng cây bụi, cây dương đỏ; trên đất vô cơ. Xf 28 Các vùng đất ngập nước nước ngọt có cây lớn chiếm ưu thế; kể cả rừng đầm lầy nước ngọt, rừng ngập theo mùa, đầm lầy cây gỗ; trên đất vô cơ. Xp 29 Các vùng đất than bùn có rừng; rừng đầm lầy đất than bùn. Y 30 Suối, ốc đảo nước ngọt. Zg 31 Các vùng đất ngập nước địa nhiệt. Zk (b) 32 Các hệ thống thủy văn castơ ngầm và hang động nội địa. Đất ngập nước nhân tạo 1 33 Các đầm/ ao nuôi trồng thủy sản (như các đầm nuôi tôm/cá). 2 34 Các ao; bao gồm các ao nông nghiệp, các ao nuôi, các bể chứa nhỏ (nhìn chung nhỏ hơn 8ha). 3 35 Đất được tưới tiêu; bao gồm các kênh mương tưới tiêu và các ruộng lúa. 4 36 Đất nông nghiệp ngập theo mùa (bao gồm các đồng cỏ ngập nước hoặc đồng cỏ dùng để chăn thả gia súc hoặc được quản lý một cách tích cực). 5 37 Các điểm khai thác muối; các ruộng/ hồ muối, nước mặn… 6 38 Các khu vực trữ nước; hồ chứa/đập nước/đập chắn/ đập tràn (nhìn chung trên 8 ha). 7 39 Các nơi đào; các mỏ cuội/gạch/sét; các mỏ đất mượn, các moong mỏ. 8 40 Các vùng xử lý nước thải; các bãi chứa nước thải sinh hoạt, các ao lắng, các bể ôxy hóa… 9 41 Các con kênh, rạch thoát nước, các mương nhỏ. Zk(c) 42 Các hệ thống thủy văn castơ ngầm và hang động nhân tạo. Các khái niệm để mô tả đất ngập nước là rất khác nhau giữa các nhà khoa học và những người khác nhau trong xã hội. Vì thế bên cạnh việc phân loại theo công ước Ramsar, thì còn có một số cách phân loại khác của một số quốc gia khác: - Hệ thống phân loại đất ngập nước của tổ chức bảo tồn thiên nhiên quốc tế (IUCN wetland classification, Dugan, 1999) Hệ thống phân loại này thể hiện quan điểm sinh thái phát sinh, đã hình thành các đơn vị sơ cấp và các đơn vị thứ cấp. Có bốn cấp phân vị, cấp một dựa vào đặc trưng của nước để chia thành nhóm các dạng đất ngập nước mặn (1) và nhóm các dạng nước ngọt (2), nhưng nhóm ba (3) lại dựa vào hiện trạng sử dụng đất để hình thành các loại đất ngập nước nhân tạo. Đơn vị phân loại ở cấp hai trong nhóm (1) và nhóm (2) dựa vào yếu tố độ sâu ngập nước và địa mạo để phân chia đơn vị cấp 3; ở đơn vị cấp 3 thì dựa vào hiện trạng đất đai và sử dụng đất để chia thành các loại đất ngập nước. Sau đó dựa vào hiện trạng sử dụng đất để chia thành các dạng đất ngập nước cấp bốn. So với hệ thống phân loại Ramsar, hệ thống phân cấp, phân bậc khá phức tạp và các chỉ tiêu phân loại không thống nhất nên khó khăn cho việc thiết lập cơ sở dữ liệu để theo dõi sự thay đổi của đất ngập nước. Theo Nguyễn Chí Thành, khi áp dụng hệ thống này để phân loại đất ngập nước ở đồng bằng Sông Cửu Long thì tương đối phức tạp, nhiều loại không xuất hiện ở đồng bằng Sông Cửu Long. - HỆ THỐNG PHÂN LOẠI ĐNN 1. Đất ngập nước mặn 1.1. Thuộc về biển 1.1.1. Ngập triều 1. Vùng ven biển cạn dưới 6 m khi nước triều thấp, bao gồm cả vịnh biển và eo biển thấp. 2. Thực vật thủy sinh ngập nước, bao gồm cả những bãi tảo, cỏ biển và đồng cỏ vùng ven biển nhiệt đới. 3. Bãi san hô ngầm 1.1.2. Bãi gian triều 4. Bờ biển núi đá, bao gồm cả các vách đá và bờ đá. 5. Bờ biển có đá và cuội di động 6. Đất bùn lầy, không có thực vật, dễ thay đổi ở vùng gian triều, bãi lầy muối hay cát. 7. Bãi phù sa có thực vật ở vùng gian triều bao gồm cả những bãi lầy và rừng ngập mặn, bờ biển kín 1.2. Thuộc về cửa sông 1.2.1. Vùng ngập triều 8. Những vùng ngập nước cửa sông, vùng ngập nước thường xuyên ở cửa sông và các hệ thống châu thổ ở cửa sông. 1.2.2. Vùng gian triều 9. Bãi gian triều bùn, những bãi muối hoặc cát có ít thực vật. 10. Đầm lầy gian triều, bao gồm cả bãi muối, đồng cỏ mặn, vùng nhiễm mặn, vùng sinh lầy, bãi sinh lầy mặn, vùng sình lầy nước ngọt và vùng nước lợ ngập triều. 11. Những vùng đất ngập nước có rừng ở bãi gian triều, gồm cả đầm rừng ngập mặn, đầm rừng dừa nước, rừng đầm lầy nước ngọt ảnh hưởng của thủy triều. 1.3. Đầm phá 12. Các phá mặn đến lợ có những rạch nhỏ nối ra biển. 1.4. Hồ nước mặn 13. Các hồ sình lầy kiềm hoặc mặn, lợ, ngập theo mùa hay ngập thường xuyên. 2. Đất ngập nước ngọt 2.1. Thuộc về sông 2.1.1. Thường xuyên 14. Những dòng suối và sông chảy quanh năm kể cả các thác nước. 15. Châu thổ ở nội địa. 2.1.2. Tạm thời 16. Suối và sông chảy tạm thời, hoặc chảy theo mùa. 17. Những đồng bằng ngập lũ ven sông, gồm cả những bãi lầy sông, những vùng châu thổ ven sông ngập lũ, những vùng bãi cỏ ngập nước theo mùa. 2.2. Thuộc về hồ 2.2.1. Thường xuyên 18. Hồ nước ngọt thường xuyên (trên 8 ha), gồm cả bãi biển bị ngập nước không thường xuyên hoặc ngập nước theo mùa. 19. Ao nước ngọt thường xuyên (dưới 8 ha). 2.2.2. Theo mùa 20. Những hồ nước ngọt theo mùa (>8 ha), bao gồm cả những hồ vùng đồng bằng ngập lũ. 2.3. Thuộc về đầm 2.3.1. Có cây nhô 21. Những vùng sình lầy nước ngọt thường xuyên và những vùng đầm lầy trên đất vô cơ với thảm thực vật vượt trên mặt nước nhưng rễ của chúng nằm dưới mực nước phần lớn trong mùa sinh trưởng. 22. Những vùng đầm lầy nước ngọt trên nền đất than bùn quanh năm gồm cả nhứng thung lũng ở trên cao của vùng nhiệt đới do Papyrus hoặc Typha chiếm ưu thế. 23. Đầm lầy nước ngọt theo mùa, đất không có cấu trúc, bao gồm cả bãi lầy, đồng cỏ ngập nước theo mùa.... 24. Đất than bùn. 25. Đất ngập nước trên núi và những vùng cực bao gồm cả những vùng đầm lầy ngập nước theo mùa được tuyết tan cung cấp nước tạm thời. 26. Miệng núi lửa được làm ẩm liên tục do hơi nước bốc lên. 2.3.2. Có rừng 27. Đầm lầy cây bụi, kể cả những vùng đầm lầy nước ngọt có cây bụi rải rác hoặc dày. 28. Rừng đầm lầy nước ngọt kể cả rừng ngập nước theo mùa, đầm lầy có cây trên đất vô cơ 29. Rừng trên đất than bùn kể cả rừng đầm lầy. 3. Đất ngập nước nhân tạo 3.1. Canh tác hải sản/thủy sản 30. Ao nuôi trồng thủy sản, kể cả các ao cá và ao tôm. 3.2. Nông nghiệp 31. Các ao đang canh tác, ao giống và ao nhốt cá. 32. Đất được tưới nước và các kênh dẫn nước, bao gồm cả các đồng lúa, kênh và rạch. 33. Đất trồng trọt, ngập nước theo mùa. 3.3. Khai thác muối 34. Những ruộng muối. 3.4. Đô thị/Công nghiệp 35. Các hồ chứa nước dùng để tưới tiêu sinh hoạt và thải nước, và những vùng ngập nước theo mùa. 36. Đập nước với mực nước thay đổi thường xuyên hàng tuần hoặc hàng tháng. Bên cạnh đó còn có một số cách phân loại của các quốc gia khác: -Phân loại ĐNN của Keddy (2000) Một trong những hệ thống phân loại đất ngập nước đơn giản nhất là cho rằng đất ngập nước chỉ có 4 kiểu: 1) Đầm lầy cây thân gỗ và cây bụi. 2) Đầm lầy cây bụi và cỏ. 3) Đầm lầy thấp có sậy và cỏ trên đất than bùn nông . 4) Đầm lầy có cây thân gỗ, cây bụi, sậy trên đất than bùn sâu. Ngoài ra, có hai loại hình đất ngập nước khác cũng rất quan trọng là: 1) Đồng cỏ ngập nước theo mùa. 2) Các thuỷ vực nước nông. -Phân loại đất ngập nước của bang New South Wales – Australia Hệ thống phân loại đất ngập nước của Australia chia đất ngập nước thành 3 vùng địa lý: 1) Đất ngập nước ven biển (Coastal wetland) với 5 kiểu 2) Đất ngập nước vùng bình nguyên (Tableland wetland) với 2 kiểu 3) Đất ngập nước nội địa (Inland wetland) với 7 kiểu. Nhận xét chung về các kiểu phân loại đất ngập nước trên thế giới Trên thế giới có nhiều định nghĩa khác nhau về đất ngập nước, có định nghĩa theo quan niệm rộng, có định nghĩa theo quan niệm hẹp. Sự khác nhau giữa các định nghĩa về đất ngập nước là tùy theo những đặc trưng về đất ngập nước và quan điểm của mỗi quốc gia đối với việc quản lý đất ngập nước. Tuy nhiên, dù quan điểm hay cách thể hiện khác nhau về đất ngập nước nhưng hầu hết các định nghĩa về đất ngập nước trên thế giới đều đề cập đến các yếu tố địa mạo, thủy văn, đất, thực vật và coi đất ngập nước là hệ sinh thái, trong đó các yếu tố này có mối quan hệ tác động lẫn nhau, tạo ra các đặc trưng riêng biệt của mỗi vùng đất ngập nước, đó là cơ sở cho việc phân loại đất ngập nước. Ngoài ra, trong diễn giải quan niệm về đất ngập nước có tác giả đã đề cập đất ngập nước như một hệ sinh thái chuyển tiếp giữa vùng đất cao với vùng ngập nước sâu. Các quốc gia phát triển ở Bắc Âu và Bắc Mỹ đã nghiên cứu về đất ngập nước từ những năm đầu của thế kỷ 20, họ đã thu thập thường xuyên các số liệu để theo dõi và giám sát các yếu tố môi trường trong vùng đất ngập nước giúp cho việc quản lý đất ngập nước chính xác và hiệu quả. Mỗi quốc gia có một cách phân loại đất ngập nước riêng, thậm chí trong một quốc gia như Australia hay Hoa Kỳ có nhiều kiểu phân loại đất ngập nước khác nhau tùy thuộc vào mục đích quản lý đất ngập nước của mỗi bang hay mỗi vùng, thí dụ nước Úc có 12 hệ thống phân loại đất ngập nước khác nhau. Có hai kiểu phân loại đất ngập nước chính, đó là phân loại đất ngập nước theo các cảnh quan (landscape) và phân loại theo hệ thống thứ bậc (hierachy). Thông thường kiểu phân loại đất ngập nước theo cảnh quan được áp dụng cho quy mô toàn cầu hay một châu lục để phục vụ cho các mục đích và hành động quản lý đất ngập nước của thế giới hoặc một phạm vi rộng lớn gồm nhiều quốc gia. Còn kiểu phân loại theo thứ bậc thường được áp dụng cho quy mô một quốc gia hay một vùng và làm cơ sở để lập bản đồ phân loại đất ngập nước như một công cụ quan trọng của việc quản lý đất ngập nước. Một hệ thống phân loại theo thứ bậc (trong đó các thuộc tính được sử dụng để phân biệt giữa các cấp có sự dị biệt lớn hơn) là ưu việt, vì nó cho phép có thể phân loại theo từng mức độ chi tiết khác nhau. Trong một hệ thống phân loại theo thứ bậc được thiết kế tốt, mỗi thuộc tính chỉ được xem xét ở một cấp độ, và ngược lại, mỗi cấp thứ bậc phân biệt các nhóm chỉ dựa vào một thuộc tính mà thôi. Cần phải có độ xê dịch nhất định khi áp dụng các thuộc tính khác nhau cho từng loại đất ngập nước khác nhau (ví dụ trong đất liền và ven biển), như việc sắp xếp các thuộc tính một cách có quy tắc sẽ đảm bảo cho hệ thống phân loại đơn giản và dễ hiểu. Tóm lại, những vấn đề về khái niệm đất ngập nước, quan điểm phân loại, phương pháp phân loại là tùy thuộc vào đặc điểm đất ngập nước của mỗi quốc gia và mục đích của việc quản lý đất ngập nước, không thể có một khuôn mẫu phân loại chung cho tất cả mọi vùng đất ngập nước trên toàn cầu. Do đó, mỗi quốc gia sẽ chọn lựa một phương pháp phân loại đất ngập nước làm sao cho phù hợp với đặc điểm cụ thể về đất ngập nước của mình và thuận tiện cho việc quản lý bền vững đất ngập nước. Phân loại đất ngập nước ở Việt Nam Ở Việt Nam, việc phân loại ĐNN được khởi xướng và áp dụng vào năm 1989 gồm D. Scott và Lê Diên Dực (Mai Đình Yên, 2002). Đến nay, đã có một số công trình nghiên cứu và áp dụng về phân loại ĐNN của Việt Nam (Phan Nguyên Hồng và cs., 1997; Lê Diên Dực, 1998a; Nguyễn Chu Hồi và cs, 1999; Nguyễn Ngọc Anh và cs, 1999; Bộ KHCN&MT, 2001; Nguyễn Chí Thành và cs, 1999, 2002; 2002; Vũ Trung Tạng, 2004ab, Hoàng Văn Thắng, 2005). Các công trình này dựa chủ yếu vào hệ thống phân loại của Công ước Ramsar và chỉ dừng lại ở mức nêu ra những vùng ĐNN mà chưa hoặc ít đưa ra các yếu tố để “xác định ranh giới” cũng như “phân biệt” giữa các loại hình ĐNN (Nguyễn Chí Thành và cs., 2002). Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (2004) cũng đã đưa ra hệ thống phân loại tiêu chuẩn ngành với 2 hệ thống, 6 hệ thống phụ, 12 lớp, và 69 lớp phụ. Công ước Ramsar và phân loại đất ngập nước của Việt Nam/ Cục Bảo vệ Môi trường Theo dự thảo Chiến lược Đất ngập nước Việt Nam của Cục Môi trường (thuộc Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường), các kiểu đất ngập nước được liệt kê và mô tả bao gồm: 1) Các vịnh nông và các eo biển có độ sâu 6m khi triều thấp. 2) Các vùng cửa sông, châu thổ bãi triều. 3) Những vùng bờ biển có đá, vách đá,bãi cát hay bãi sỏi. 4) Vùng đầm lầy ngập mặn, rừng ngập mặn. 5) Những đầm phá ven biển dù là nước mặn hay nước lợ. 6) Ruộng muối (nhân tạo) 7) Ao nuôi trồng thủy sản 8) Sông suối và hệ thống thoát nước nội địa. 9) Đầm lầy ven sông; đầm lầy nước ngọt 10) Hồ chứa nước tự nhiên; hồ chứa nước nhân tạo 11) Rừng ngập nước theo mùa (như rừng Tràm) 12) Đất cầy cấy ngập nước, đất được tưới tiêu 13) Bãi than bùn (Nguồn: Chiến lược đất ngập nước Việt Nam, 2000). Năm 2001, Cục Môi trường (Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường) đã công bố tài liệu “Các vùng đất ngập nước có giá trị đa dạng sinh học và môi trường của Việt Nam”. Trong tài liệu này, những người biên soạn đã đưa ra một bảng phân loại đất ngập nước tạm thời để tham khảo dựa trên cách phân loại đất ngập nước của Ramsar (Classification System for “Wetland Types”). Kèm theo là danh sách 68 khu đất ngập nước đã được kiểm kê theo tiêu chí có giá trị cao về đa dạng sinh học và bảo vệ môi trường của Việt Nam. Bảng phân loại đất ngập nước của Cục Môi trường gồm có 39 loại hình đất ngập nước (wetland type). Hệ thống phân loại này dựa vào Hệ thống phân loại các vùng ĐNN của Ramsar đã được chấp nhận trong Bản khuyến nghị 4.7 (Recommendation 4.7) và đã được sửa đổi trong Nghị quyết VI.5 của Hội nghị Cam kết giữa Các bên Tham gia. Nhưng hệ thống phân loại này đã được lược bỏ một số kiểu ĐNN không có ở Việt Nam. Bên cạnh đó còn có phân loại đất ngập nước của các tác giả khác: -Phân loại/ Kiểm kê đất ngập nước của Lê Diên Dực (1989)(dựa trên hẹ thống phân loại của Ramsar(1971) -Phân loại đất ngập nước theo tiêu chuẩn ngành của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Tính chất Chúng ta có thể dễ dàng xác định đầm lầy mặn ven biển với tính đồng nhất lớn của các loài cỏ thân bò và sự hỗn độn của lạch triều như là những ĐNN và cũng như nhiều loại khác. Chúng đều có nước nông hoặc đất bão hòa nước, tất cả chúng đều tích lũy những vật liệu hữu cơ và phân hủy chậm, đều thuận lợi cho việc phát triển những động thực vật thích nghi với điều kiện bão hòa nước. Do đó, những định nghĩa thường bao gồm ba thành tố chính: * ĐNN được phân biệt bởi sự hiện diện của nước. * ĐNN thường có những loại đất đồng nhất khác hẳn với những vùng đất cao ở xung quanh. * ĐNN thích hợp cho sự hiện diện của của những thảm thực vật thích nghi với những điều kiện ẩm ướt. Ngoài ra, ĐNN còn có nhiều đặc trưng khác giúp phân biệt chúng, đó là : + Mặc dù, nước tồn tại trong thời gian ngắn,nhưng độ sâu và thời gian ngập nước thay đổi nhiều giữa các ĐNN. + ĐNN thường phân bố ở vùng trung gian giữa nước sâu và đất cao ở phần đất liền và chịu ảnh hưởng của cả hai hệ thống. + ĐNN khác nhau về độ lớn, biến đổi từ những vùng nhỏ ở đồng cỏ khoảng một ha đến những ĐNN rộng hàng trăm km2. + Sự phân bố ĐNN cũng biến động rất lớn, từ ĐNN nội địa đến ĐNN ven biển, từ những vùng nông thôn đến thành thị. + Điều kiện của ĐNN hoặc mức độ tác động nhân sinh cũng thay đổi lớn từ vùng này đến vùng khác và từ ĐNN này đến ĐNN khác. Định nghĩa của công ước Ramsar đã bao quát hết tất cả các loại hình ĐNN của Việt Nam, chúng chiếm một phần không nhỏ của lãnh thổ : Các vùng biển nông,ven biển, cửa sông, đầm phá, đồng bằng châu thổ, các sông suối, ao hồ, đầm lầy tự nhiên hay nhân tạo có diện tích hơn 2ha, các vùng nuôi trồng thủy sản, canh tác lúa nước … đều thuộc loại ĐNN. 3-HIỆN TRẠNG VÀ CÁC VẤN ĐỀ PHÁT SINH: 1-GIÁ TRỊ KINH TẾ VÀ MÔI TRƯỜNG 1. ĐNN có nguồn tài nguyên sinh học đa dạng, năng suất sinh học cao. 2. Việt Nam có 3260km bờ biển gắn với hoạt động của 2500 sông lớn nhỏ, hằng năm vận chuyển khoảng 200 triệu tấn phù sa màu mỡ ra các cửa sông. 3. Cung cấp các sản phẩm nông - lâm,thủy sản, chăn nuôi. 4. Vùng cư trú của nhiều loài động vật hoang dã, đặc biệt là các loài chim nước, trong đó có nhiều quý hiếm, có ý nghĩa quốc tế. 5. Tác dụng điều hòa khí hậu,chống xói mòn,ổn định bờ biển,chắn gió bão, tích nước ngầm và lọc nước. 6. Giao thông thủy. 7. Du lịch giải trí. Có thể nói Việt Nam là một đất nước có cảnh quan tự nhiên đẹp, trong đó hầu hết 8. Có khả năng ổn định và mở rộng đất đai, bồi tụ và tạo vùng đất mới. Ví dụ, trong vòng 60 năm gần đây, vùng bán đảo Cà Mau bồi thêm được 8300ha với tốc độ lấn biển khá mạnh: - 1930-1965 diện tích tăng 3442ha. - 1965-1985 diện tích tăng 1466ha. - 1985-1991 diện tích tăng 1466ha. 9. Rừng tràm (trên đất phèn, RNM trên đất mặn) có vai trò giữ nước và sinh hoạt (Diện tích mặt đệm rừng tràm 226km2 có khả năng thu được trên 56,5 triệu m3 nước/năm). 10. Rừng tràm có khoảng 305 triệu tấn than bùn. 11. Cung cấp năng lượng. 12. Cung cấp tài nguyên động thực vật hoang dã. 13. Giao thông thủy, giải trí, du lịch. 2-ĐA DẠNG SINH HỌC BIỂN VIỆT NAM: Với khoảng 3260km bờ biển (không kể bờ biển của các đảo),nguồn tài nguyên biển và bờ biển là một tài sản quan trọng cho nền kinh tế của Việt Nam thông qua việc cung cấp thủy hải sản (cá, các loài động vật không xương sống, rong biển, san hô...), năng lượng (dầu và khí đốt), các vật liệu thô (các nguồn khoáng). Ngoài ra, HST biển còn có chức năng ngăn ngừa bão và phục vụ vui chới giải trí (Chính phủ CHXHCN Việt Nam/GEF,1994; ADB,1999). Các thông tin về đa dạng sinh học biển hiện chưa được biết đầy đủ, cho tới nay đã ghi nhận 11000 loài sinh vật ở biển và ven biển (theo Nguyễn Chu Hồi và cộng sự, năm 2000).Tính đa dạng của các loài đã biết tăng lên từ Bắc vào Nam, sự phong phú của các loài cá ở vùng biển gần bờ cao hơn các rạn san hô xa bờ (theo Chou, năm 2000). Tính đa dạng của san hô cứng của Việt Nam đã biết với 350 loài, so với các loài san hô cứng của Indonexia là 450 loài và Philipin là 400 loài (theo Chou, năm 2000). Ngoài ra, nhiều loài rùa biển đang sử dụng vùng bờ biển của Việt Nam làm nơi đẻ trúng truyền thống (theo ADB, năm 1999). Các vùng đất nước ngập mặn của Việt Nam có tính đa dạng sinh học rất cao: ĐNN ven bờ biển là nơi phân bố của rất nhiều sân chim với các loài chim di cư. Rừng ngập măn , các thảm cỏ biển và và các rạn san hô của Việt Nam gần những khu có giá trị sinh học cao nhất là ở vùng biển Ấn độ_Tây Thái Bình Dương và giao lưu với nhiều vùng biển xung quanh biển Đông. Các hệ sinh thái rừng ngập mặn, cỏ biển,, và rạn san hô là nơi cư trú cảu nhiều loài sinh vật. Về thuộc tính ĐNN có hai thuộc tính quan trọng: - Tính đa dạng sinh học. - Tính độc đáo về văn hóa và di sản. Phá hủy đất ngập nước ở Việt nam - Chiến dịch quai đê lấn biển để phát triển vùng kinh tế mới. - Nuôi trồng thủy sản không có quy hoạch. - khai thác san hô và rong biển. - đanh bắt mang tính hủy diệt (điện, chất nổ, chất độc). - Cải tạo đất phèn không đúng kỹ thuật để trồng lúa, gây xì phèn. - Thiếu nước ngọt cho sản xuất và sinh hoạt diễn ra phổ biến. - San lấp ao hồ để xây dựng, nhất là vùng đô thị, dọc các trục đường giao thông. - Ô nhiễm môi trường do nước thải và các chất thải. 3-ẢNH HƯỞNG CỦA SỰ THAY ĐỔI ĐNN ĐỐI VỚI MÔI TRƯỜNG TỰ NHIÊN Sự thay đổi các loại ĐNN ở Đồng bằng sông Cửu Long trong thời gian qua nhằm đáp ứng cho mục tiêu phát triển nông nghiệp, nhưng nếu xét về góc độ “phát triển bền vững” và bảo vệ môi trường thì những biến động đó có thể gây ra tình trạng suy thoái nguồn tài nguyên thiên nhiên trong vùng. Ảnh hưởng hiện tại và dự báo cho tương lai nếu thiếu các biện pháp cải thiện hữu hiệu Sự thay đổi các loại ĐNN Loại tài nguyên tự nhiên Tình trạng của tài nguyên Hiện tại Tương lai Các hệ thống ven biển/Cửa sông. Gia tăng diện tích thâm canh nông nghiệp. Gia tăng diện tích nuôi tôm. Giảm diện tích RNM. Đất đai. -Xói lở nghiêm trọng vùng ven biển. -Tăng diện tích đất hoang hóa, bị mặn hóa. -Tiếp tục bị xói lở. -Tăng diện tích đất hoang hóa, bị mặn hóa. -Biến mất hoàn toàn RNM. Chất lượng nước mặt. Mặn hóa. Bị ô nhiễm chất thải hóa học. Tiềm năng đa dạng sinh học của HST RNM. Đang bị suy thoái ở ven bờ. Gần như biến mất hoàn toàn. Tiềm năng đa dạng sinh học của sinh thái trên cạn, dưới nước. Bị suy thoái. -Tiếp tục bị suy thoái. -Biến mất nhiều loài thủy sinh, động vật trên cạn. - Tại các hệ thống sông/Đầm/Hồ Gia tăng diện tích trồng lúa (thâm canh tăng vụ) Giảm diện tích lúa 1 vụ Giảm diện tích rừng tràm -Thu hẹp và biến mất các loại ĐNN tự nhiên Đất đai. -Bị phèn hóa trên quy mô lớn, nguồn phát sinh nước chua. -Thâm canh nông nghiệp. -Mất rừng tràm dễ dẫn đến hoang hóa. -Gia tăng đất chua phèn và phát triển nước chua. -Đất đai bị thoái hóa -Tiếp tục mất rừng tràm. Chất lượng nước mặt -Độ mặn cao. -pH thấp trong mùa mưa. -Ô nhiễm chất thải hóa học. -Độ mặn tiếp tục cao. -pH giảm mạnh. -Tập trung chất hoa học ở hàm lượng cao. Tiềm năng đa dạng sinh học của HST trên cạn, dưới nước. -Bị suy thoái. -Tiếp tục bị suy thoái, cạn kiệt. -Biến mất nhiều loài thủy sinh, động vật trên cạn. (Nguồn: Lê Văn Khoa và cộng sự, 2005) Vùng châu thổ sông Hồng có phạm vi trải dài từ thành phố Việt Trì đến vịnh Bắc Bộ, bao gồm 11 tỉnh. Tuy nhiên, hầu hết diện tích đất đai ở đây đã chuyển thành đất nông nghiệp (khoảng 80 000 ha, chiếm 47%) và ao hồ (47 900 ha, chiếm 6%) cùng với đất rừng và các khu dân cư. Châu thổ sông Cửu Long trải trên phần cực nam của đất nước, gồm 11 tỉnh,tổng diện tích xấp xỉ 3 800 000 ha, hầu hết diện tích đã chuyển đổi sang trồng lúa. Tại đây có 3 loại hình đất : Đất phù sa cổ ở phía Bắc, đất phù sa mới ở vùng giiuwac cso độ phì nhiêu cao và đất phèn ở Đông Bắc và Tây Bắc. Các vùng ĐNN nội địa :Việt Nam có 2 500 con sông lớn nhỏ, dọc bờ biển cứ khoảng 20km lại có một cửa sông, hầu hết là sông nhỏ, với 92% lưu vực dưới 500km2. Bên cạnh việc vận chuyển phù sa, các sông còn là phương tiện giao thông đường thủy quan trọng, là nguồn nước phục vụ đời sống sinh hoạt của các cộng đồng dân cư và chứa đựng tiềm năng thủy điện lớn. Trong vòng 38 năm (năm 1954-1992), vùng ven bờ biển Hải Phòng, Quảng Yên đã dùng 6039ha bãi triều ven biển,chủ yếu là các vùng có cây ngập mặn để trồng lúa, do thiếu nước nên phân lớn đất bị bỏ hoang,số ít vẫn trông lúa nhưng năng suất rất thấp. Vào đầu năm 1960, tỉnh Quảng Ninh chủ trương phá hơn 2000ha RNM tự nhiên (xã Hải Lạng, Tiên Yên) đắp đê sản xuất nông nghiệp nhưng không có nước nên phải bỏ hoang, sau chuyển sang nuôi thủy sản nhưng cũng không thành công (theo Phan Nguyên Hồng và cộng sự, năm 1999). Tỉnh Minh Hải trước đây (nay là Cà Mau và Bạc Liêu) là nơi có diện tích RNM lớn nhất, cũng là một trong những nơi rừng bị phá để nuôi tôm nhiều nhất Việt Nam. Hai năm 1980, 1981 diện tích nuôi tôm tại đây chỉ cso 4000ha đến năm 1992 đã tăng lên 20 lần :80 000ha (theo Nguyễn Đức Minh, năm 1993). Cho đến năm 1992 thì tỉnh Minh Hải chỉ còn lại 51 492 ha RNM ( theo Tấn, 1996). Chỉ trong vòng 8 năm từ 1983-1995 Minh Hải đã mất đi 66 253ha rừng do làm đầm tôm, bình quân mỗi năm mất 8 280ha. Tại các tỉnh vùng cửa sông Cửu Long như Bến Tre, Trà Vinh và Sóc Trăng đã phá hầu hết diện tích rừng ngập mặn ven biển để làm đầm tôm nên diện tích RNM và tỉ lệ che phủ là rất thấp. Rất nhiều RNM ở bán đảo Cam Ranh, các huyện Ninh Hòa, Vạn Ninh (Khánh Hòa) nay hầu như không còn do làm đầm ươm và nuôi tôm. Ở đầm Nại (Ninh Thuận) hơn 200ha RNM tạo vành đai rộng hàng trăm mét bảo vệ cho đầm khỏi bị xói lở, nay đã thay thế bằng đầm tôm bán thâm canh, chỉ còn lại 2ha. Cồn chim nằm giữa đầm Thị Nại (Bình Định) trước đây có gần 200 ha RNM là nơi cư truscuar nhiều loài hải sản và của nhiều loài chim, nên được gọi là Cồn Chim thì nay đã bị triệt phá để làm đầm nuôi tôm (theo Võ Quý, 2004). Hội Bảo Vệ Tài Nguyên Và Môi Trường Việt Nam (nqwm 2004) cho biết vào thời gian trước cách mạng tháng Tám năm 1945, cả nước có 408 500ha RNM, trong đó có 329 000ha ở Nam Bộ; Bến Tre có 48 00ha với độ che phủ rừng là 21,75%, nay chỉ còn 1,64%;Trà Vinh có 65 00ha,độ che phủ rừng 29,20%, nay còn 2,60%;Sóc Trăng có 41 000ha, độ che phủ 12,72%, nay chỉ còn 2,81%; Cà Mau có 14 000haddooj che phủ 27%, nay chỉ còn 11,21%. So sánh giữa suy giảm diện tích RNM và mở rộng diện ích nuôi tôm nước lợ năm 2002 Tỉnh Diện tích tự nhiên (ha) Diện tích RNM (ha) Độ che phủ (%) Diện tích nuôi tôm (ha) Tỷ lệ phần trăm đất nông nghiệp (%) Bến Tre 231 500 3 797 1,64 34 392 14,85 Trà Vinh 222 600 6 002 2,60 30 996 13,92 Sóc Trăng 322 300 9 106 2,81 53 000 12,54 Bạc Liêu 252 100 3 990 - 108 000 39,04 Cà Mau 519 500 58 285 11,21 244 000 47,00 (Nguồn : Hội Bảo Vệ Tài Nguyên Môi Trường Việt Nam, năm 2004) HST cỏ biển tuy có số lượng loài không nhiều, nhưng chúng đóng vai trò quan trọng trong biển cả và đại dương. Với các chức năng quan trọng như điều chỉnh thủy vực, bảo tồn nguồn gen, cung cấp nơi ở cho các loài, cung cấp nguyên nhiên vật liệu, năng lượng và thông tin nghiên cứu khoa học, du lịch. Thảm cỏ biển có thể làm ổn định và bảo vệ nền đáy bằng hệ rễ, thân bò và lá rụng xuống đất. Chúng có tác dụng ngăn ngừa hoặc giảm thiểu sự xói mòn hay phá hỏng bờ biển. Ở Mỹ Giang (Khánh Hòa) việc hình thành các gò, các đụn cát ở phía Tây và Đông Namđảo Mỹ Giang là bằng chứng về vai trò bẫy và nén kết trầm tích của cỏ biển. Rễ của cỏ biển trong trầm tích, dài 40-50cm, mọc chằn chịt đã góp phần làm ổn định xung quanh đảo này. Vai trò của cỏ biển tham gia vào các chu trình dinh dưỡng của biển và đại dương trên thế giới ước tính đạt khoảng 3,8 nghìn tỉ đô la Mỹ, giá trị kinh tế của một hacor biển lên tới khoảng 212 00 đô la Mỹ/năm (theo Costansa, năm 2000). Ở Việt Nam, kết quả nghiên cứu bước đầu cho thấy, giá trị kinh tế gồm giá trị khai thác (cỏ biển và các loài sinh vật kèm theo) và giá trị khoogn khai thác (sinh thái môi trường) của cỏ biển tương đối cao (Vịnh Cam Ranh :7 920 000 đô la Mỹ, đầm Tam Giang – Cầu Hai :1 628 000 đô la Mỹ, Bãi Bồn ở đảo Phú Quốc :481 202 đô la Mỹ,…). Ngoài ra, cỏ biển còn được sử dụng trực tiếp trong nhiều nghành kinh tế quốc dân (làm giấy viết, háo chất, thuốc nổ, chất cách âm, cách nhiệt, làm thuốc chữa bệnh, thực phẩm, thủ công mỹ nghệ, phân bón , thức ăn gia súc,…). Ở nước ta,cỏ biển thường phát triển ở vùng triều ven biển, ven đảo vùng cửa sông, RNM, đầm phá, vũng, vịnh. Số liệu thống kê mặc dù chưa đầy đủ, diện tích phân bố cỏ biển cho đến nay đã biết khoảng 10 000ha. Các loài cỏ biển phát triển hầu như quanh năm, nhưng tốt nhất là vào mùa xuân và đầu hè, phát triển kém vào mùa mưa bão. Chúng phân bố từ vùng triều đến độ sâu 3 – 15m, thậm chí 28m (đảo Bạch Long Vĩ). Chúng thích nghi với độ muối 0,5 - 3,4%, chất đáy là bùn bột nhỏ, bùn cát, cát san hô, cát thô và sỏi. 4-GIẢI PHÁP KIẾN NGHỊ: V-KẾT LUẬN: Đất ngập nước của Việt Nam đa dạng về kiểu loại, loại hình cảnh quan và sinh thái, phong phú về tài nguyên đa dạng sinh học, có nhiều chức năng, giá trị kinh tế, xã hội, văn hóa...quan trọng. Các vùng đất ngập nước này, ở những thời điểm lịch sử khác nhau, nó đã có những đóng góp quan trọng vào sự phát triển kinh tế -xã hội cho địa phương cụ thể, cho đất nước, mang lại nhiều sản phẩm phục vụ cho nhu cầu thiết yếu của người dân. Theo thống kê của IUCN, hiện cả nước có khoảng hơn 1/5 dân số đang sống ở vùng đất ngập nước và phụ thuộc trực tiếp vào việc khai thác, sử dụng các sản phẩm của đất ngập nước. Song các vùng đất ngập nước này đã và đang bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi các hoạt động của phát triển kinh tế gây ra như: Ao, hồ bị lấp đi để lấy đất trồng trọt hoặc xây dựng; tài nguyên nước ngầm, hệ động vật, thực vật bị khai thác quá mức không thể tự hồi phục; tôm, cá bị đánh bắt bằng những phương thức mang tính hủy diệt như thuốc nổ, chất độc, xung điện làm chết toàn bộ các loài động vật trên diện tích rộng lớn... Đặc biệt, một lượng lớn chất thải sinh hoạt, chất thải công nghiệp; thuốc trừ sâu, phân bón hóa học đổ ra các thủy vực đã và đang gây ô nhiễm nghiêm trọng một số vùng đất ngập nước. Trong 68 vùng đất ngập nước mang tầm quan trọng quốc gia được khảo sát, cơ quan chuyên môn phát hiện có khoảng 10% các loài cá có nguy cơ tuyệt chủng, trong đó nguy cấp nhất là các loài cá nước ngọt; sản lượng đánh bắt thủy sản tự nhiên tại những vùng này giảm tới mức báo động. Dự báo của các nhà khoa học thì, năm 2009-2010, diện tích đất ngập nước, nhất là ngập nước mặn sẽ tăng cao do tác động nhiệt độ của trái đất tăng. Như vậy là ô nhiễm môi trường ở những vùng đất ngập nước là báo động. Để bảo vệ, cải thiện môi trường phục vụ phát triển bền vững các vùng đất ngập nước, chúng ta cần nhân rộng các mô hình bảo tồn gắn với xóa đói giảm nghèo cho đồng bào địa phương vùng ngập nước. Muốn thực hiện việc cải thiện môi trường thì cơ quan chức năng, cơ quan chuyên môn và chính quyền địa phương cần tiến hành điều tra, thống kê, đánh giá tài nguyên vùng đất ngập nước để khoanh vùng và lên kế hoạch quy hoạch một cách khoa học; gắn trách nhiệm và liên kết các bên có liên quan và người dân với nhau để cùng nhau chịu trách nhiệm vì sự phát triển bền vững của môi trường và vùng đất.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docđất ngập nước.doc
Tài liệu liên quan