Bài giảng thị trường chứng khoán

Tài liệu Bài giảng thị trường chứng khoán: BÀI GIẢNG THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN GV: Nguyễn Văn Huân Hồ Thanh Hương BM: Hệ thống thông tin kinh tế MỤC LỤC CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN 1.1. ĐẠI CƯƠNG VỀ THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH 1.1.1. Khái niệm thị trường tài chính Nhu cầu về vốn để tiến hành đầu tư và các nguồn tiết kiệm có thể phát sinh từ các chủ thể khác nhau trong nền kinh tế. Trong đó, thường xảy ra tình huống: những người có vốn nhàn rỗi lại không có cơ hội đầu tư hoặc không biết đầu tư vào đâu. Từ đó hình thành nên một cơ chế chuyển đổi từ tiết kiệm sang đầu tư. Cơ chế đó được thực hiện và điều chỉnh trong khuôn khổ một thị trườn đó là thị trường tài chính. Trên thị trường tài chính, những người thiếu vốn huy động vốn bằng cách phát hành ra các công cụ tài chính như cổ phiếu, trái phiếu… Những người có vốn dư thừa, thay vì trực tiếp đầu tư vào máy móc thiết bị, nhà xưởng để sản xuất hàng hóa hay cung cấp dịch vụ, sẽ đầu tư (mua) các công cụ tài chính được phát hành bởi những người cần huy động vốn....

doc93 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1179 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Bài giảng thị trường chứng khoán, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BÀI GIẢNG THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN GV: Nguyễn Văn Huân Hồ Thanh Hương BM: Hệ thống thông tin kinh tế MỤC LỤC CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN 1.1. ĐẠI CƯƠNG VỀ THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH 1.1.1. Khái niệm thị trường tài chính Nhu cầu về vốn để tiến hành đầu tư và các nguồn tiết kiệm có thể phát sinh từ các chủ thể khác nhau trong nền kinh tế. Trong đó, thường xảy ra tình huống: những người có vốn nhàn rỗi lại không có cơ hội đầu tư hoặc không biết đầu tư vào đâu. Từ đó hình thành nên một cơ chế chuyển đổi từ tiết kiệm sang đầu tư. Cơ chế đó được thực hiện và điều chỉnh trong khuôn khổ một thị trườn đó là thị trường tài chính. Trên thị trường tài chính, những người thiếu vốn huy động vốn bằng cách phát hành ra các công cụ tài chính như cổ phiếu, trái phiếu… Những người có vốn dư thừa, thay vì trực tiếp đầu tư vào máy móc thiết bị, nhà xưởng để sản xuất hàng hóa hay cung cấp dịch vụ, sẽ đầu tư (mua) các công cụ tài chính được phát hành bởi những người cần huy động vốn. Vậy, thị trường tài chính là nơi diễn ra sự chuyển vốn từ những người dư thừa vốn tới những người thiếu vốn. Thị trường tài chính cũng có thể được định nghĩa là nơi phát hành, mua bán, trao đổi và chuyển nhượng các công cụ tài chính theo các quy tắc, luật lệ đã được ấn định. Trong nền kinh tế thị trường, sự tồn tại và phát triển của thị trường tài chính là tất yếu khách quan. Hoạt động trên thị trường tài chính có những tác động, hiệu ứng trực tiếp tới hiệu quả đầu tư của các cá nhân của cac doanh nghiệp và hành vi của người tiêu dùng, và tới động thái chung của toàn bộ nền kinh tế. 1.1.2. Chức năng của thị trường tài chính - Huy động và dẫn vốn từ nơi thừa vốn sang nơi thiếu vốn Thị trường tài chính có chức năng cơ bản là dẫn vốn từ những người dư thừa vốn sang những người cần vốn. Với những người dư thừa vốn, thu nhập lớn hơn chi tiêu, những người này có thể là Chính phủ, các tổ chức hoặc cá nhân. Trong khi đó, do chi tiêu lớn hơn thu nhập, chính phủ, các tổ chức và cá nhân khacs lại cần vốn. Sự chuyển dịch vốn này được thực hiện theo sơ đồ sau: CÁC TRUNG GIAN TÀI CHÍNH VỐN THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH Người đi vay vốn 1. Hộ gia đình 2. Doanh nghiệp 3. Chính phủ 4. Nước ngoài VỐN VỐN Người cho vay vốn 1.Hộ gia đình 2. Doanh nghiệp 3. Chính phủ 4. Nước ngoài VỐN VỐN TÀI TRỢ GIÁN TIẾP TÀI TRỢ TRỰC TIẾP Sơ đồ: Chức năng dẫn chuyển vốn của thị trường tài chính Qua sơ đồ trên ta thấy, sự chuyển dịch vốn được thực hiện qua hai con đường, tài trợ trực tiếp và tài trợ gián tiếp. Trong tài trợ trực tiếp, những người cần vốn huy động trực tiếp từ những người có vốn bằng cách bán các chứng khoán cho họ. Các chứng khoán này là các công cụ tài chính, nó cung cấp quyền yêu cầu về thu nhập và tài sản và các quyền khác cho chủ sở hữu đối với người phát hành. Các chứng khoán được mua bán rộng rãi trên thị trường cấp một và thị trường cấp hai. Cách thức thứ hai để dẫn vốn là tài trợ gián tiếp thông qua các trung gian tài chính. Các trung gian tài chính như các ngân hang, các tổ chức tín dụng, các tổ chức bảo hiểm và các trung gian khác có vai trò trò cực kì quan trọng trong việc tích tụ, tập trung và phân phối vốn trong nền kinh tê, đồng thời các tổ chức này cũng có vai trò quan trọng trong việc cấp vốn và hỗ trợ cho dòng tài chính trực tiếp như thong qua các hoạt động: đại lý, bảo lãnh, thanh toán v.v.. Như vậy, thong qua việc dẫn chuyển vốn, thị trường tài chính có vai trò quan trọng trong việc tích tụ, tập trung và phân phối vốn trong nền kinh tế, trên cơ sở đó làm tăng năng suất và hiệu quả của toàn bộ nền kinh tế. Thị trường tài chính trực tiếp cải thiện mức sống cho cả những người có vốn và những người cần vốn. - Xác định giá cả của các tài sản tài chính Thông qua quan hệ giữa người mua và người bán (quan hệ cung cầu trên thị trường) giá cả của các tài sản tài chính được xác định. Vì vậy, thị trường tài chính là nơi hình thành nên giá cả của các tài sản tài chính- các “hàng hóa” trên thị trường. - Tạo tính thanh khoản cho thị trường tài chính Thị trường tài chính cung cấp một cơ chế để các nhà đầu tư có thể trao đổi, mua bán các tài sản tài chính của mình trên thị trường thứ cấp, như vậy thị trường tài chính tạo ra tính thanh khoản, người đầu tư sẽ buộc phải nắm giứ các công cụ nợ cho tới khi đáo hạn, hoặc nắm giữ các công cụ vốn cho tới khi công ty phá sản hoặc giải thể phải thanh lý tài sản. Mức độ thanh khoản của các thị trường tài chính là khác nhau, nó phụ thuộc vào sự phát triển của thị trường. - Giảm thiểu chi phí choc ac chủ thể tham gia trên thị trường Để cho các giao dịch có thể diễn ra, những người mua và những người bán cần phải bỏ ra các chi phí như chi phí tìm kiếm đối tác và tìm kiếm thông tin trong quá trình trước, trong và sau khi ra các quyết định đầu tư. Nhờ tính tập trung, các thông tin phục vụ quá trình đầu tư được cung cấp đầy đủ, chính xác và nhanh chóng trên thị trường tài chính, từ đó cho phép giảm thiểu những chi phí đối với các chủ thể trên thị trường cũng như đối với toàn bộ nền kinh tế. - Khuyến khích cạnh tranh và tăng hiệu quả kinh doanh Thị trường tài chính là thị trường định giá các công cụ tài chính, vì vậy, sẽ khuyến khích quá trình phân phối vốn một cách có hiệu quả, góp phần tăng tính cạnh tranh giữa các doanh nghiệp và từ đó đặt ra cho các doanh nghiệp phải tăng hiệu quả kinh doanh để có thể tồn tại và phát triển. - Ổn định và điều hòa lưu thông tiền tệ Thị trường tài chính có một chức năng quan trọng là ổn định và điều hòa lưu thông tiền tệ, đảm bảo sự phát triển lành mạnh của nền kinh tế. Chức năng này được thể hiện thông qua việc mua bán các trái phiếu, tín phiếu và các giấy tờ có giá khác của Ngân hang Trung ương trên thị trường tài chính và thị trường tiền tệ. Thông qua đó, Chính phủ có thể huy động được nguồn vốn lớn để bù đắp thâm hụt ngân sách và kiểm soát lạm phát. Ngoài ra, Ngân hang Trung ương cũng có thể mua bán ngoại tệ trên thị trường ngoại hối để điều chỉnh lượng cung và cầu ngoại tệ nhằm giúp Chính phủ ổn định tỷ giá hối đoái. Như vậy, thị trường tài chính có chức năng hết sức quan trọng không những đối với nền kinh tế mà cả đối với từng cá nhân, tổ chức kinh tế. Thị trường tài chính tạo điều kiện cho phép vốn được chuyển từ người có tiền nhàn rỗi và không có cơ hội đầu tư hiệu quả sang cho người có cơ hội đầu tư, có khả năng sản xuất, giúp nâng cao khả năng suất và hiệu quả toàn bộ nền kinh tế. Ngoài ra, thị trường tài chính cũng trực tiếp cải thiện mức sống của người tiêu dung bằng cách giúp hị chọn thời điểm cho việc mua sắm tốt hơn. Thị trường tài chính hoạt động hiệu quả sẽ trực tiếp cải thiện đời sống kinh tế xã hội. 1.1.3. Cấu trúc của thị trường tài chính Căn cứ vào các tiêu thức khác nhau, người ta phân loại thị trường tài chính thành các thị trường bộ phận. * Thị trường tiền tệ và thị trường vốn Căn cứ vào thời hạn luân chuyển của vốn, thị trường tài chính được chia thành thị trường tiền tệ và thị trường vốn. Thị trường tiền tệ: Thị trường tiền tệ là thị trường mua bán các chứng khoán nợ ngắn hạn có thời gian luân chuyển vốn không quá 1 năm. Thông thường các chủ thể đi vay trên thị trường này là những chủ thể tạm thời thiếu hụt tiền tệ phục vụ cho các nhu cầu thanh toán. Do vậy, khi thông qua các giao dịch mua bán quyền sử dụng vốn ngắn hạn mà thị trường tiền tệ đã cung ứng một lượng tiền tệ cho các bên cần vốn nhằm thoả mãn nhu cầu thanh toán (cũng chính vì lý do này mà nó được gọi là thị trường tiền tệ). Những chủ thể cung vốn (cho vay) thì lại là những chủ thể tạm thời có vốn nhàn rỗi (có thể là do chưa dùng tới hoặc đang tìm kiếm cơ hội đầu tư), do vậy họ tranh thủ chuyển nhượng quyền sử dụng các khoản vốn nhàn rỗi của họ trong thời gian ngắn để hưởng lãi. Tuy nhiên vì là đầu tư thời gian ngắn, đầu tư mang tính nhất thời những nhà đầu tư này quan tâm không nhiều tới mức lãi mà quan tâm hơn tới độ an toàn, tính thanh khoản để có thể rút vốn ngay khi cần. Các hình thức đầu tư như thế trên thị trường tiền tệ thường có độ an toàn tương đối cao, nhưng lại thường có mức lợi tức thấp. Khối lượng và giá trị giao dịch trên thị trường tiền tệ thường có quy mô lớn nên bên cho vay thường là các ngân hàng, công ty tài chính hoặc phi tài chính; còn bên vay vốn thường là Chính phủ, các công ty và ngân hàng. Chứng khoán mua bán trên thị trường tiền tệ thường được mua bán rộng rãi hơn chứng khoán dài hạn và như vậy có xu hướng lỏng hơn. Chứng khoán ngắn hạn cũng có biên độ dao động giá nhỏ hơn các chứng khoán dài hạn và do vậy chúng là khoản đầu tư an toàn hơn. Cấu trúc thị trường tiền tệ Bao gồm: • Thị trường cho vay ngắn hạn trực tiếp; • Thị trường liên ngân hàng; • Thị trường mở; • Thị trường hối đoái. Trong đó: Thị trường cho vay ngắn hạn trực tiếp: Gồm có thị trường chính thức và không chính thức. Thị trường này hoạt động dựa vào hoạt động của các tổ chức tài chính trung gian. Các tổ chức này sẽ huy động các nguồn vốn nhàn rỗi của các tổ chức kinh tế, cá nhân bằng hình thức huy động tiền gửi tiết kiệm và đem cho các tổ chức kinh tế, cá nhân khác vay lại nếu cần. Thị trường liên ngân hàng: Là thị trường hoạt động phục vụ cho các giao dịch về vốn chỉ diễn ra giữa các ngân hàng (kể cả NHTW). Không phải lúc nào ngân hàng luôn có đủ tiền để cho vay, không phải lúc nào ngân hàng cũng tìm được khách hàng để cho vay hết khoản tiền mà mình có. Vì thế sẽ phát sinh nhu cầu vay và cho vay giữa các ngân hàng nhằm phục vụ tốt cho hoạt động chính của mình là huy động vốn và cho vay vốn. Thị trường mở: Là thị trường tiền tệ mà ngoài các ngân hàng ra còn có sự tham gia của các tổ chức phi ngân hàng mua bán các công cụ thị trường mở. Thị trường hối đoái: Thị trường này là nơi diễn ra các hoạt động mua bán và trao đổi ngoại tệ tiền mặt và các phương tiện thanh toán ghi bằng ngoại tệ. Khác với các loại thị trường khác, người ta dùng tiền để đổi lấy hàng hoá, thì trên thị trường này người ta dùng tiền để đổi lấy tiền. Một đặc tính riêng biệt nữa của thị trường ngoại hối đó là tất yếu nó sẽ là thị trường quốc tế. Khi nào người dân ở các khu vực khác nhau còn dùng những đồng tiền khác nhau thì thị trường ngoại hối tồn tại là cần thiết. Thị trường vốn: Thị trường vốn là thị trường mua bán các chứng khoán nợ dài hạn (có thời gian luân chuyển vốn trên 1 năm) và các chứng khoán vốn. Thị trường này cung cấp vốn cho các khoản đầu tư dài hạn các doanh nghiệp, của chính phủ, và các hộ gia đình. Do thời gian luân chuyển vốn trên thị trường này dài hạn hơn so với thị trường tiền tệ nên các công cụ trên thị trường vốn có độ rủi ro cao hơn và đi theo nó là mức lợi tức kỳ vọng cũng cao hơn. Thị trường tiền tệ là thị trường được hình thành trước vì ban đầu do kinh tế chưa phát triển nên nhu cầu vốn và nhu cầu tiết kiệm vốn chưa nhiều chủ yếu là ngắn hạn. Sau khi nền kinh tế phát triển, nhu cầu về các nguồn vốn dài hạn cho đầu tư xuất hiện thì thị trường vốn ra đời. Bên cạnh việc huy động vốn dài hạn thông qua các định chế tài chính trung gian thì chính phủ và các doanh nghiệp còn tự huy động vốn bằng cách phát hành chứng khoán. Một khi chứng khoán ra đời thì tất yếu sẽ xuất hiện nhu cầu mua bán chứng khoán. Chính vì thế mà thị trường chứng khoán ra đời với tư cách là một bộ phận của thị trường vốn nhằm đáp ứng nhu cầu mua bán, trao đổi chứng khoán. Cấu trúc thị trường vốn Bao gồm: • Thị trường tín dụng dài hạn • Thị trường chứng khoán. Trong đó: Thị trường tín dụng dài hạn gồm thị trường cho vay thế chấp và thị trường cho thuê tài chính. Thị trường cho vay thế chấp là thị trường chuyên cho vay các món nợ dài hạn dùng để tài trợ mua bán địa ốc, nhà xưởng. Do thời hạn dài và thường giá trị của các món nợ vay thường rất lớn để hình thành bất động sản (nhà, đất, nhà xưởng,...) nên cần có sự thế chấp tài sản cho món nợ vay này. Tài sản thế chấp có thể là những tài sản sẵn có của những người đi vay và kể cả những tài sản được hình thành từ khoản nợ vay đó.Thị trường cho thuê tài chính (tín dụng thuê mua) là hình thức tín dụng trung và dài hạn, trong đó người cho thuê cam kết mua tài sản, thiết bị theo yêu cầu của người thuê và là người nắm giữ quyền sở hữu tài sản đó. Người thuê là người sử dụng tài sản và phải thanh toán tiền thuê cho người cho thuê tài sản trong một khoảng thời gian đã được thảo thuận trước. Trong suốt thời gian thuê, người thuê không được quyền huỷ bỏ hợp đồng thuê trườc kỳ hạn. Khi kết thúc hợp đồng, người thuê có thể chuyển quyền sở hữu, mua lại hoặc tiếp tục thuê như đã thoả thuận trong hợp đồng. Thị trường chứng khoán: Đây là thị trường được hình thành dùng để giao dịch mua bán chứng khoán. Gồm bộ phận thị trường cổ phiếu, thị trường trái phiếu dài hạn của các công ty. Đối với hoạt động của thị trường này khá là phức tạp nhưng cũng rất hấp dẫn. Thị trường tiền tệ và thị trường vốn là hai bộ phận cấu thành nên thị trường tài chính cùng thực hiện một chức năng là cung cấp vốn cho nền kinh tế. Do đó các nghiệp vụ hoạt động ở trên hai thị trường có mối liên quan bổ sung và tác động qua lại. Lãi suất trên thị trường tiền tệ có ảnh hưởng lớn đến việc phát hành và mua bán chứng khoán trên thị trường vốn. Nếu lãi suất của các ngân hàng trả cho người tiết kiệm cao, điều này sẽ khiến cho người tiết kiệm thích gửi tiền vào ngân hàng để hưởng lãi suất và rủi ro thấp hơn so với việc đầu tư vào chứng khoán. Bên cạnh đó, các biến đổi về giá cả và lãi suất trên thị trường tiền tệ thường kéo theo các biến đổi trực tiếp trên thị trường vốn như quan hệ cung cầu và giá của cổ phiếu và trái phiếu. Chẳng hạn như, một số chứng khoán dài hạn có lãi suất thả nổi, căn cứ để điều chỉnh lãi suất là lãi suất tiền gửi ngắn hạn của ngân hàng. Hay khi định giá của cổ phiếu hay trái phiếu tại một thời điểm bất kỳ nào đó trên thị trường, người ta phải tham khảo lãi suất của ngân hàng được hình thành trên thị trường tiền tệ. Giữa lãi suất thị trường và giá của trái phiếu có mối quan hệ tỷ lệ nghịch: khi lãi suất của ngân hàng tăng cao hơn lãi suất trái phiếu, trái phiếu sẽ sụt giá và tình hình ngược lại khi lãi suất ngân hàng hạ xuống hơn lãi trái phiếu. Ngược lại, các thay đổi về chỉ số giá cổ phiếu của thị trường vốn cũng phản ảnh các hiện tượng tốt hay xấu, đã đang hoặc sẽ xảy ra trên thị trường tiền tệ. Đối với thị trường vốn, việc duy trì một lãi suất ổn định không thăng trầm quá đáng là cần thiết cho sự ổn định của thị trường. Trên thực tế, các hoạt động của thị trường tiền tệ và thị trường vốn được thực hiện đồng bộ xen lẫn nhau, tác động và chịu sự ảnh hưởng của nhau, tạo thành cơ cấu hoàn chỉnh của một thị trường tài chính. * Thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp Căn cứ vào tính chất của việc phát hành các công cụ tài chính, thị trường tài chính được chia thành thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp. Thị trường sơ cấp là thị trường phát hành chứng khoán lần đầu tiên.Thị trường sơ cấp là nơi duy nhất mà chứng khoán đem lại vốn cho nhà phát hành. Sau đó, việc mua bán các chứng khoán này trên thị trường chứng khoán thứ cấp sẽ không làm ảnh hưởng đến số vốn của nhà phát hành. Cũng từ thị trường này mà lượng vốn đầu tư cho nền kinh tế. Giá của chứng khoán trên thị trường sơ cấp (giá phát hành) do tổ chức phát hành quy định. Việc phát hành lần đầu tiên chứng khoán ra công chúng là giai đoạn quan trọng nhất, vì nếu không đạt được kết quả tốt thì chứng khoán phát hành sẽ không tiêu thụ được và làm mất uy tín của đơn vị phát hành. Không phải nhà phát hành nào cũng có đủ điều kiện để thực hiện tốt việc phát hành nên trên thị trường sơ cấp xuất hiện một tổ chức trung gian giữa nhà phát hành và người đầu tư, đó là nhà bảo lãnh phát hành. Tuỳ thuộc vào cung cầu, giá chứng khoán ở thị trường sơ cấp có thể cao hơn hoặc thấp hơn giá trị danh nghĩa của chứng khoán. Người bán và người mua trên thị trường sơ cấp: Hoạt động giao dịch ở thị trường này thương được thực hiện theo hình thức bán buôn giữa nhà phát hành là bên cần huy động vốn (công ty, các tổ chức tài chính, Chính phủ,..) và các nhà đầu tư lớn (các công ty chứng khoán, ngân hàng đầu tư, công ty bảo hiểm,…). Các nhà đầu tư đóng vai trò như nhà bảo lãnh đợt phát hành chứng khoán. Họ sẽ mua lại toàn bộ số chứng khoán phát hành ra theo mức giá thoả thuận (thường là thấp hơn mức giá công bố) rồi sau đó tiến hành bán lẻ ra thị trường cho các nhà đầu tư khác. Các thoả thuận về bảo lãnh chứng khoán thường được tổ chức riêng, kín nên hoạt động giao dịch cụ thể tại thị trường sơ cấp thương không công khai. Là thị trường bán buôn chứng khoán, hoạt động không liên tục. Thị trường thứ cấp: Thị trường thứ cấp là thị trường mua đi bán lại các chứng khoán đã được phát hành trên thị trường sơ cấp, làm thay đổi quyền sở hữu chứng khoán.Việc mua đi bán lại chứng khoán trên thị trường thứ cấp chỉ làm thay đổi quyền sở hữu các chứng khoán chứ không gia tăng vốn đầu tư cho nền kinh tế (không trực tiếp mang lại vốn cho nhà phát hành). Giá cả của chứng khoán giao dịch do quan hệ cung cầu quyết định.Trên thị trường thứ cấp người mua và người bán là các nhà đầu tư. Là thị trường bán lẻ chứng khoán, hoạt động liên tục. Thị trường sơ cấp là thị trường cơ sở, là tiền đề để cho thị trường thứ cấp hoạt động, nó tạo hàng hoá để mua bán trên thị trường thứ cấp. Ngược lại, nếu không có thị trường thứ cấp thì thị trường sơ cấp khó có thể hoạt động một cách trôi chảy được : thị trường thứ cấp sẽ tạo tính lỏng cho các hàng hoá được cung cấp từ thị trường sơ cấp (qua đó làm tăng tính hấp dẫn và tạo sự thuận lợi cho các chứng khoán được phát hành trên thị trường sơ cấp). ; thị trường thứ cấp cũng góp phần xác định giá các chứng khoán phát hành trên thị trường sơ cấp. Việc phân biệt thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp chỉ có ý nghĩa về mặt lý thuyết. Trong thực tế, hoạt động của thị trường chứng khoán chúng ta không thể chỉ rõ ra được đâu là thị trường sơ cấp và đâu là thị trường thứ cấp, bởi vì trong hoạt động của thị trường chứng khoán vừa diễn ra việc phát hành chứng khoán vừa diễn ra việc mua đi bán lại chứng khoán. * Thị trường tập trung và thị trường phi tập trung Căn cứ theo phương thức tổ chức và giao dịch của thị trường, thị trường tài chính được phân thành thị trường tập trung và thị trường phi tập trung. Thị trường tập trung là thị trường mà việc giao dịch mua bán chứng khoán được thực hiện có tổ chức và tập trung tại một địa điểm nhất định. Ví dụ về thị trường tập trung là các Sở giao dịch (thường được tổ chức dưới hình thức một công ty cổ phần). Nơi đây sẽ cung cấp các phương tiện và dịch vụ cần thiết để tiến hành giao dịch như: lưu ký chứng khoán, bảng báo giá điện tử,…Hoạt động mua bán chứng khoán tại Sở giao dịch buộc phải thông qua các trung gian môi giới gọi là các nhà môi giới chứng khoán. Ghép lệnh tập trung để hình thành giá giao dịch. Các chứng khoán giao dịch tại thị trường này là những chứng khoán đã được đăng ký yết giá (niêm yết). Thị trường phi tập trung (OTC): Thị trường phi tập trung là thị trường mà việc mua bán các chứng khoán chưa hoặc không được niêm yết trên thị trường tập trung, được thực hiện phân tán ở những địa điểm khác nhau. Các giao dịch này thường được thực hiện thông qua mạng máy vi tính. Thị trường OTC không phải là thị trường hiện hữu và không có địa điểm tập trung nhất định. Giao dịch diễn ra tại các quầy thông qua mạng máy vi tính. Những ai bán hay mua loại chứng khoán nào với mức giá nào đều được hiển thị hết qua mạng vi tính, do vậy tính cạnh tranh của thị trường này rất cao. Ngoài ra có thể bán trao tay các chứng khoán (thị trường chợ đen, thị trường tự do). Giá cả trên thị trường này do đó được hình thành theo nguyên tắc thoả thuận. Lượng giao dịch và giá trị giao dịch là lớn hơn nhiều so với mua bán tại Sở giao dịch (theo thống kê của các nước phát triển). * Thị trường nợ và thị trường vốn cổ phần Căn cứ vào phương thức huy động vốn của tổ chức phát hành, thị trường tài chính được phân thành thị trường nợ và thị trường vốn cổ phần. Thị trường nợ là thị trường mà hàng hóa được mua bán tại đó là các công cụ nợ. Thực chất của việc phát hành các công cụ nợ này là nhà phát hành đứng ra đi vay theo phương thức có hoàn trả cả gốc và lãi. Người cho vay không chịu bất cứ trách nhiệm nào về kết quả hoạt động sử dụng vốn của người vay và trong mọi trường hợp, nhà phát hành phải có trách nhiệm hoàn trả theo các cam kết đã được xác định trong hợp đồng vay. Các công cụ nợ có thời hạn xác định, có thể là ngắn hạn, trung hạn hay dài hạn. Tín phiếu và trái phiếu là 2 ví dụ điển hình của các công cụ nợ. Khác với thị trường nợ, thị trường vốn cổ phần là nơi mua bán các cổ phiếu, giấy xác nhận cổ phần đóng góp của cổ đông. Cổ đông là chủ sở hữ của công ty và phải chịu trách nhiệm trong phần đóng góp của mình. Cổ phiếu sẽ cho phép họ có quyền yêu cầu đối với lợi nhuận sau thuế của công ty cũng như đối vowistaif sản của công ty. Cổ phiếu là vô thời hạn vò chúng không xác định cụ thể ngày mãn hạn. Người sở hữu cổ phiếu chỉ có thể lấy lại tiền bằng cách bán lại cổ phiếu đó trên thị trường thứ cấp hoặc khi công ty tuyên bố phá sản. 1.1.4. Các công cụ của thị trường tài chính 1.1.4.1. Các công cụ của thị trường tiền tệ Do có kỳ hạn thanh toán ngắn nên những công cụ được mua bán trên thị trường tiền tệ chỉ chịu mức dao động giá tối thiểu và vì thế nó là loại đầu tư ít rủi ro nhất. - Tín phiếu kho bạc Nhà nước (treasury bill) Tín phiếu kho bạc Nhà nước là công cụ vay nợ ngắn hạn của chính phủ do kho bạc phát hành để bù đắp những thiếu hụt tạm thời của NSNN. Tín phiếu Kho bạc Nhà nước có các kỳ hạn 3; 6; và 12 tháng.Tín phiếu KBNN thuộc loại chứng khoán chiết khấu. Nghĩa là nó không được nhà phát hành trả lãi mà được bán ra ngoài với giá chiết khấu (thấp hơn mệnh giá), như vậy khi tín phiếu đáo hạn nhà đầu tư nhận được đủ mệnh giá và phần chênh lệch giữa giá chiết khấu và mệnh giá chính là lãi của nhà đầu tư. Độ rủi ro thấp nhất trong các loại chứng khoán. Có độ rủi ro thấp nhất trên thị trường tiền tệ là do khả năng vỡ nợ của nhà phát hành là rất khó xảy ra. Bởi đến kỳ thanh toán của tín phiếu, nếu chưa có tiền trả nợ, Chính phủ hoàn toàn có thể tăng thuế hoặc vay thêm tiền để trả nợ.Vì lí do này nên nó được xem như là công cụ có tính lỏng cao nhất và mức lãi suất áp dụng cho loại công cụ này thường thấp hơn so với các công cụ khác trên thị trường tiền tệ. Tín phiếu kho bac được phát hành theo từng lô và bằng phương pháp đấu giá. Chủ thể tham gia đấu giá chủ yếu là các ngân hàng, ngoài ra còn có các công ty và các trung gian tài chính khác. Các cuộc đấu giá trái phiếu ngắn hạn 91 ngày và 182 ngày được thực hiện hàng tuần và người ta theo dõi chặt chẽ hoa lợi của nó trong thị trường tiền tệ để biết các dấu hiệu của chiều hướng lãi suất. KBNN cũng mở đấu thầu loại trái phiếu kho bạc ngắn hạn 52 tuần, 4 tuần một lần. Thỉnh thoảng KBNN cũng phát hành trái phiếu kho bạc quản lý tiền mặt ngắn hạn, trái phiếu kho bạc ngắn hạn trả thuế trước (tax anticipation bills - trái phiếu kho bạc ngắn hạn dự phòng thuế) và chứng chỉ nợ ngân khố (treasury certificates of indebtedness). Cá nhân nhà đầu tư không đệ trình giá đặt mua có cạnh tranh (Competitive bid) sẽ được bán trái phiếu kho bạc ngắn hạn theo giá trung bình của giá đặt mua có cạnh tranh đã trúng thầu. Thực tế ở Việt nam công cụ này khá phát triển. Thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc qua NHNN được đưa vào hoạt động từ năm 1994 đã trở thành một kênh huy động vốn rất quan trọng đáp ứng kịp thời vốn cho NSNN và nền kinh tế. Sau hơn 14 năm hoạt động, thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc đã có gần 50 thành viên . Tuy vậy trong thời gian qua hầu như chỉ có các NHTM Nhà nước tham gia đấu thầu và trúng thầu. Nguyên nhân là khối ngân hàng còn lại có nguồn vốn nhỏ, vốn khả dụng hạn chế và vẫn còn đó một số hạn chế trong cách thức tổ chức đấu thầu nên các ngân hàng quy mô nhỏ hơn không có điều kiện tham gia và trúng thầu. Một điểm cần lưu ý là các tín phiếu do kho bạc phát hành là nhằm bù đắp cho bội chi ngân sách nhà nước trong ngắn hạn, bù đắp bội chi tạm thời. Còn đối với tín phiếu được phát hành bởi Ngân hàng Nhà nước thì lại có mục đích chống lạm pháp thông qua hấp thụ lượng tiền đã phải bỏ ra để hấp thụ lượng ngoại tệ quá dư thừa trong nền kinh tế. - Các chứng chỉ tiền gửi có thể chuyển nhượng được (CD) Chứng chỉ tiền gửi là một công cụ nợ do các ngân hàng phát hành, cam kết trả lãi định kỳ cho khoản tiền gửi và sẽ hoàn trả cả vốn gốc cho người gửi tiền khi đáo hạn. Trước đây CD không được phép bán lại và nếu người gửi tiền rút vốn trước hạn thì sẽ bị chịu lãi phạt. Tuy nhiên về sau, nhằm tăng tính hấp dẫn và linh hoạt cho CD nên các ngân hàng bắt đầu đã cho phép các CD mệnh giá lớn được phép bán lại trước hạn và thậm chí là bán cho chính ngân hàng phát hành. Năm 1966, Citibank đã lần đầu phát hành CD bán lại được với những loại có mệnh giá cao trên $100.000, và từ đó CD được gọi là chứng chỉ tiền gửi có thể chuyển nhượng được (NCDs). CD có thể được bán lại ở thị trường cấp 2. Đối với các khoản tiền dân cư gửi tiết kiệm vào ngân hàng cũng được coi là chứng chỉ tiền gửi, cùng bản chất là khoản tiền gửi vào ngân hàng và được ngân hàng cam kết trả lãi định kỳ cho khoản tiền gửi, trả gốc khi đáo hạn nhưng chứng chỉ cho khoản tiết kiệm lại không chuyển nhượng được. - Thương phiếu (commercial paper) Thương phiếu là giấy nhận nợ mà các công ty uy tín hoặc ngân hàng phát hành để vay vốn ngắn hạn từ thị trường tài chính. Được phát hành theo hình thức chiết khấu. Thương phiếu là loại trái phiếu doanh nghiệp ngắn hạn nhất với thời gian từ 30 đến 270 ngày. Nó thường được chào bán bởi các công ty phát hành hoặc các hãng môi giới, và thường được bán theo lô. Thương phiếu có độ rủi ro cao hơn tín phiếu kho bạc nên mức chiết khấu của nó cũng vì thế mà cao hơn. Thương phiếu nguyên thuỷ xuất hiện trong các hoạt động mua bán chịu hàng hoá giữa các công ty. Ngày nay thương phiếu còn được dùng để vay vốn trên thị trường tiền tệ. - Chấp phiếu ngân hàng (banker’s acceptance) Chấp phiếu ngân hàng là các hối phiếu kỳ hạn do các công ty ký phát và được ngân hàng đảm bảo thanh toán bằng cách đóng dấu “chấp nhận” lên tờ hối phiếu. Ngân hàng đứng ra bảo lãnh thanh toán trong quan hệ buôn bán với nhau, việc không chắc chắn về năng lực tài chính và khả năng thanh toán của đối tác là một điều dễ hiểu. Do vậy nhu cầu cần có người bão lãnh, đảm bảo cho đối tác về mặt thanh toán là một xu hướng tất yếu. Người bán cần một ngân hàng uy tín chấp nhận thay mặt doanh nghiệp đối tác trả nợ cho mình trong trường hợp đối tác mất khả năng thanh toán nợ nần cho mình. Như vậy khi ngân hàng đóng dấu chấp nhận bảo lãnh thanh toán thì người trả tiền hối phiếu bây giờ không phải là người mua hàng nữa mà là ngân hàng bảo lãnh. Ngân hàng sẽ yêu cầu người mua chịu phải ký quỹ vào gửi ngân hàng một phần hoặc toàn bộ số tiền của tờ hối phiếu hoặc séc hoặc ngân hàng sẽ đồng ý cho vay để thanh toán hối phiếu, bên cạnh đó ngân hàng sẽ thu một khoản phí đảm bảo thanh toán. Người sở hữu chấp phiếu có thể bán lại trên thị trường tiền tệ với giá chiết khấu. Do được ngân hàng chấp nhận thanh toán nên chấp phiếu ngân hàng là một công cụ nợ có độ an toàn khá cao đặc biệt là ngân hàng đứng ra chấp nhận bảo lãnh càng có uy tín lớn thì tờ chấp phiếu càng có độ an toàn cao. Khi cần tiền mặt gấp thì người sở hữu chấp phiếu sẽ có thể đem bán chúng trên thị trường tiền tệ. Trong các giao dịch xuất khẩu hàng hoá từ Việt Nam đi các nước, phương thức thanh toán phổ biến nhất và được các doanh nghiệp Việt Nam (nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa) ưa chuộng nhất hiện nay là thanh toán theo tín dụng chứng từ (gọi tắt là thanh toán L/C -Letter of Credit). Các thông lệ và tập quán liên quan đến L/C được quy định chi tiết trong các bộ quy tắc UCP 600 của Phòng Thương mại quốc tế ICC. Về bản chất L/C là một cam kết thanh toán có điều kiện của ngân hàng phát hành, do vậy, nhà xuất khẩu Việt Nam có thể an tâm về khả năng thanh toán của người mua hàng. Nhưng không phải cứ có L/C là có tiền. Nguyên nhân là do các rủi ro có thể xảy đến từ bản chất cam kết thanh toán có điều kiện của L/C rất dễ bị các doanh nghiệp Việt Nam không chú ý khiến cho bộ hồ sơ gặp lỗi và ngân hàng từ chối chi trả. Hình thức chấp phiếu ngân hàng còn chưa thực sự phát triển ở Việt Nam. - Hợp đồng mua lại (REPO) Hợp đồng mua lại là hợp đồng trong đó ngân hàng bán một lượng tín phiếu kho bạc mà nó đang nắm giữ kèm theo điều khoản cam kết rằng sẽ mua lại số tín phiếu đó sau một khoảng thời gian nhất định với mức giá cao hơn. Repo là một công cụ vay nợ ngắn hạn của các ngân hàng (thường không quá 2 tuần). Tín phiếu kho bạc là vật thế chấp. Chỉ từ tháng 7/2000, các hợp đồng mua lại và mua lại đảo ngược mới bắt đầu được NHNN Việt Nam sử dụng như là một trong các công cụ của nghiệp vụ thị trường mở. Đến nay công cụ này đã ngày càng phát huy vai trò là một công cụ chủ yếu nhằm điều tiết tiền tệ của các tổ chức tín dụng. - Dự trữ vượt mức Mỗi ngân hàng khi nhận được một khoản tiền gửi sẽ phải trích một tỷ lệ phần trăm nhất định gửi lên NHTW làm khoản dự trữ bắt buộc. Phần dự trũ bắt buộc này sẽ một phần giúp cho các ngân hàng đảm bảo khả năng thanh toán. Lượng tiền vượt quá số tiền dự trữ bắt buộc thì được gọi là dự trữ vượt mức. Có số tiền này là do số lượng tiền được gửi và ngân hàng mỗi ngày không như nhau và do đó lượng dự trữ bắt buộc của ngày trước đó tính cho ngày hôm nay là thừa hoặc đôi khi một số ngân hàng cần tăng mức dự trữ để gia tăng hệ số an toàn cho khả năng thanh toán, hoặc do thị trường tài chính biến động ở mức khó dự báo,… Khi một ngân hàng nào đó chưa đủ lượng dự trữ bắt buộc tại NHTW, trường hợp để đảm bảo yêu cầu đủ lượng dự trữ vượt mức theo luật định thì ngân hàng này sẽ vay ngắn hạn lượng dự trữ vượt mức của ngân hàng khác bù vào số thiếu hụt đó. Tại Mỹ, các ngân hàng có thể vay các khoản vay nợ ngắn hạn (thường chỉ qua 1 đêm) giữa các ngân hàng. Đối tưọng vay ở đây là các khoản tiền gửi của các ngân hàng tại cục dự trữ liên bang Mỹ FED. Ngoài các công cụ phổ biến trên, ở các nước có thị trường tiền tệ phát triển còn có thêm công cụ khác: - Euro dollars Euro dollars là những đồng dollar Mỹ do các ngân hàng ngoại quốc ở bên ngoài nước Mỹ hoặc do những chi nhánh ngân hàng Mỹ ở ngoại quốc nắm giữ. Thời hạn giao dịch: Khi cần vốn, các ngân hàng của Mỹ có thể huy động dollar từ nguồn cung như trên. Các giao dịch của đồng euro dolllar rất phổ biến và linh hoạt, đặc biệt thời hạn có thể từ một ngày đến 6 tháng (hiếm các giao dịch kéo dài hơn 5 năm). Lãi suất: Mặc dù được nắm giữ ở nhiều nơi trên thế giới nhưng lãi suất của euro dolllar lại chủ yếu bị ảnh hưởng bởi tình hình nền kinh tế Mỹ. Nhìn chung khi FED có dấu hiệu sẽ tiến hành quản lý hoặc thực hiện quản lý chặt chẽ các tài khoản tiền gửi thì lãi suất euro dolllar sẽ tăng và ngược lại. Mức lãi suất này cũng thay đổi tuỳ theo từng thời điểm trong ngày và tuân theo quan hệ cung cầu, do đó nếu sử dụng lãi suất này làm điểm tham chiếu sẽ là không phù hợp, thay vào đấy có thể sử dụng lãi suất LIBOR và các lãi suất khác. 1.1.4.2. Các công cụ trên thị trường vốn Công cụ thị trường vốn là các công cụ nợ và các công cụ vốn với kỳ hạn giao dịch trên 1 năm. Kỳ luân chuyển vốn trên thị trường này dài hơn so với thị trường tiền tệ, độ lệch chuẩn lớn hơn nhiều độ lệch của các công cụ trên thị trường tiền tệ nên rủi ro khi đầu tư vào các công cụ này cũng cao hơn và lợi suất đem lại từ việc đầu tư thường cao hơn. - Cổ phiếu Cổ phiếu là một loại chứng khoán được phát hành dưới dạng chứng chỉ hoặc bút toán ghi sổ xác định rõ quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp của người sở hữu cổ phiếu đối với tài sản hoặc vốn của công ty cổ phần. Dựa vào quyền của cổ đông có cổ phiếu thưởng và cổ phiếu ưu đãi. Đây là cách phân loại phổ biến nhất. Cổ phiếu thường (common stock): còn có tên gọi là cổ phiếu cổ thông. Cổ phiếu loại này không quy định trước cổ tức cổ đông sẽ nhận được vì cổ tức loại cổ phiếu này phụ thuộc vào tình hình lợi nhuận của công ty và kế hoạch phân chia lợi nhuận của hội đồng quản trị. Cổ đông sẽ chỉ được nhận cổ tức sau khi công ty trả lãi vay và cổ tức cho cổ đông ưu đãi. Cổ đông nắm giữ loại cổ phiếu này tuỳ vào lượng cổ phần nắm giữ có quyền tham gia quản lý công ty: bầu cử, ứng cử,…Trên thị trường giá của loại cổ phiếu này thường biến động nhiều hơn so với cổ phiếu ưu đãi, thị giá của nó rất nhạy cảm với những thay đổi của thị trường, của nền kinh tế. Cổ phiếu ưu đãi (preferred stock) : có mức lợi tức cố định không phụ thuộc vào kết quả và chính sách chia lãi hàng năm của công ty và cổ đông. Cổ đông giữ cổ phiếu ưu đãi sẽ không được tham gia bầu cử hay ứng cử vào hội đồng quản trị. Họ được ưu tiên phân chia tài sản còn lại của công ty trong trường hợp công ty bị thanh lý, giải thể chỉ sau việc thanh toán các khoản nợ của công ty. Cổ phiếu ưu đãi là loại chứng khoán trung gian giữa cổ phiếu thường và trái phiếu. Nó được xếp vào nhóm cổ phiếu mà không xếp vào nhóm trái phiếu là do đặc điểm rất quan trọng, mang tính bản chất: cổ phiếu ưu đãi là vốn góp và không có thời hạn. - Trái phiếu (bond) Trái phiếu là loại chứng khoán quy định nghĩa vụ của tổ chức phát hành phải trả định kỳ cho người nắm giữ trái phiếu một khoản tiền xác định và hoàn trả vốn gốc khi trái phiếu đáo hạn… Căn cứ vào chủ thể phát hành: trên thị trường vốn có các loại trái phiếu Chính phủ, trái phiếu chính quyền địa phương, trái phiếu công ty Trái phiếu chính phủ (Government bond) : Thường được phát hàng dưới dạng trái phiếu kho bạc nhằm bù đắp thâm hụt NSNN hàng năm. Trái phiếu kho bạc trung hạn (treasury note) có thời hạn dưới 10 năm, trái phiếu kho bạc dài hạn (treasury bond) có thời hạn trên 10 năm. Chú ý là trái phiếu kho bạc ở dạng ngắn hạn có tên gọi là tín phiếu kho bạc Nhà nước và được giao dịch trên thị trường tiền tệ. Trái phiếu Chính phủ là loại trái phiếu được mua bán mạnh nhất trên thị trường vốn các nước nên được xem là công cụ lỏng nhất trên thị trường vốn. Các nhà đầu tư vào loại công cụ này gồm có các ngân hàng (kể cả NHTW), các tổ chức tài chính và các cá nhân. Trái phiếu chính quyền địa phương: Do các cơ quan trực thuộc chính phủ phát hành (government agency bonds); trái phiếu của chính quyền địa phương (local government bonds or municipal bonds)_dùng để tài trợ cho ngân sách địa phương hoặc để đầu tư cho từng công trình cụ thể theo kế hoạch. Các trái phiếu loại này thường có ưu đãi là không phải chịu thuế. Trái phiếu công ty (corporate bond): Loại trái phiếu này thường do các công ty lớn và có uy tín phát hành. Các giao dịch về trái phiếu công ty nhìn chung nhỏ hơn so với các giao dịch về trái phiếu chính phủ. Tại các nước phát triển, quy mô thị trường trái phiếu công ty cũng nhỏ hơn quy mô thị trường cổ phiếu công ty nhưng tốc độ phát triển bù lại là nhanh hơn. Các trái chủ luôn là người được thanh toán lãi từ việc đầu tư trái phiếu trước các cổ đông mà không cần phụ thuộc vào tình hình tài chính của công ty. Trái phiếu công ty gồm có: trái phiếu có đảm bảo bằng tài sản của công ty hoặc được bảo lãnh bởi uy tín của một doanh nghiệp khác (thường là ngân hàng đầu tư hoặc công ty chứng khoán; trái phiếu không cần đảm bảo; trái phiếu có thể chuyển đổi thành cổ phiếu; trái phiếu phát hành dưới mệnh giá. Tại Việt Nam chưa phổ biến phát hành trái phiếu công ty. Hiện chủ yếu mới chỉ có các ngân hàng phát hành trái phiếu để huy động vốn từ dân chúng. Căn cứ vào việc ghi danh gồm trái phiếu ghi danh và trái phiếu vô danh. Trái phiếu ghi danh: Là loại trái phiếu có ghi tên và địa chỉ của chủ sở hữu trên chứng chỉ, trên sổ của người phát hành. Trái phiếu vô danh: Là trái phiếu không ghi tên trái chủ trên chứng chỉ cũng như trên sổ sách của người phát hành. - Các khoản vay thế chấp (Mortgages) Vay thế chấp là khoản tiền cho các cá nhân hoặc công ty vay đầu tư (mua hoặc xây dựng) vào nhà, đất, hoặc những bất động sản khác, các bất động sản và đất đó sau đó lại trở thành vật thế chấp để đảm bảo cho chính các khoản vay. Ở các nước phát triển, thị trường các khoản vay thế chấp có qui mô rất lớn, đặc biệt là thị trường các khoản vay thế chấp để mua nhà ở. Tại Mỹ, thị trường các khoản vay thế chấp là thị trường nợ lớn nhất, trong đó các khoản vay thế chấp để mua nhà ở gấp bốn lần các khoản vay thế chấp thương mại và nông trại. Các ngân hàng thương mại và các công ty bảo hiểm nhân thọ là những tổ chức cung cấp các khoản vay thế chấp thương mại và nông trại chủ yếu. Còn các khoản vay thế chấp nhà ở thì thường do các hiệp hội cho vay và tiết kiệm (Savings and Loan Associations _ S&Ls) và các ngân hàng tiết kiệm tương trợ (Mutual savings banks) cung cấp. Ngoài ra, chính phủ các quốc gia cũng hình thành nhiều tổ chức chuyên hỗ trợ cho thị trường các khoản vay thế chấp này. - Các khoản vay thương mại và tiêu dùng (Consumer and bank commercial loans) Đây là các món vay dành cho những công ty kinh doanh và người tiêu dùng, chủ yếu là do các ngân hàng cung cấp. Riêng các khoản cho vay tiêu dùng cũng có thể do các công ty tài chính cung cấp. Các khoản vay này thường không chuyển nhượng được nên chúng kém lỏng nhất trong các công cụ của thị trường vốn. 1.2. TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN 1.2.1. Lịch sử hình thành và phát triển của thị trường chứng khoán Thị trường chứng khoán được xem là đặc trưng cơ bản, là biểu tượng của nền kinh tế hiện đại. Người ta có thể đo lường và dự tính sự phát triển kinh tế qua diễn biến trên thị trường chứng khoán. Là một bộ phận cấu thành của thị trường tài chính, thị trường chứng khoán được hiểu một cách chung nhất, là nơi diễn ra các giao dịch mua bán, trao đổi các chứng khoán, các hàng hóa và dịch vụ tài chính giữa các chủ thể tham gia. Việc trao đổi mua bán này được thực hiện theo những quy tắc ấn định trước. Thị trường chứng khoán ban đầu phát triển một cách tự phát và rất sơ khai, xuất phát từ một sự cần thiết đơn lẻ của buổi ban đầu. Vào giữa thế kỷ 15 ở tại những thành phố trung tâm buôn bán ở phương Tây, các thương gia thường tụ tập tại các quán cà phê để trao đổi việc mua bán trao đổi các vật phẩm hàng hoá. Lúc đầu chỉ một nhóm nhỏ, dần dần sau đó tăng dần và hình thành một khu chợ riêng. Cuối thế kỷ 15, để thuận tiện hơn cho việc làm ăn, khu chợ trở thành “thị trường” với việc họ thống nhất các quy ước và dần dần các quy ước được sửa đổi hoàn chỉnh thành những quy tắc có giá trị bắt buộc chung cho mọi thành viên tham gia ” thị trường”. Phiên chợ riêng đầu tiên được diễn ra vào năm 1453 tại một lữ điếm của gia đình Vanber ở Bruges Bỉ, tại đó có một bảng hiệu hình ba túi da với một tiếng Pháp là “Bourse” tức là “mậu dịch thị trường” hay còn gọi là “Sở giao dịch”. Vào năm 1547, thành phố ở Bruges Bỉ mất đi sự phồn thịnh do eo biển Even bị cát lấp nên mậu dịch thị trường ở đây bị sụp đổ và được chuyển qua thị trấn Auvers Bỉ, ở đây thị trường phát triển rất nhanh và giữa thế kỷ 16 một quan chức đại thần của Anh quốc đã đến quan sát và về thiết lập một mậu dịch thị trường tại London Anh, nơi mà sau này được gọi là Sở giao dịch chứng khoán London. Các mậu dịch thị trường khác cũng lần lượt được thành lập tại Pháp, Đức và Bắc Âu. Sự phát triển của thị trường ngày càng phát triển cả về lượng và chất với số thành viên tham gia đông đảo và nhiều nội dung khác nhau. Vì vậy theo tính chất tự nhiên nó lại được phân ra thành nhiều thị trường khác nhau như: Thị trường giao dịch hàng hoá, thị trường hối đoái, thị trường giao dịch các hợp đồng tương lai và thị trường chứng khoán… với đặc tính riêng của từng thị trường thuận lợi cho giao dịch của người tham gia trong đó. Quá trình các giao dịch chứng khoán diễn ra và hình thành như vậy một cách tự phát cũng tương tự ở Pháp, Hà Lan, các nước Bắc Âu, các nước Tây Âu và Bắc Mỹ. Các phương thức giao dịch ban đầu được diễn ra sơ khai ngay cả khi ở ngoài trời với những ký hiệu giao dịch bằng tay và có thư ký nhận lệnh của khách hàng. Ở Mỹ cho đến năm 1921, khu chợ này được chuyển từ ngoài trời vào trong nhà, Sở giao dịch chứng khoán chính thức được thành lập. Ngày nay, theo sự phát triển của công nghệ khoa học kỹ thuật, cácphương thức giao dịch ở các Sở giao dịch chứng khoán cũng được cải tiến dần theo tốc độ và khối lượng yêu cầu nhằm đem lại hiệu quả và chất lượng cho giao dịch, các Sở giao dịch đã dần dần sử dụng máy vi tính để truyền các lệnh đặt hàng và chuyền dần từ giao dịch thủ công kết hợp Với máy vi tính sang sử dụng hoàn toàn hệ thống giao dịch điện tử thay cho thủ công trước kia. Lịch sử phát triển các thị trường chứng khoán Thế giới trải qua một sự phát triển thăng trầm lúc lên, lúc xuống, vào những năm 1875-1913, thị trường chứng khoán Thế giới phát triển huy hoàng cùng với sự tăng trưởng của nền kinh tế Thế giới lúc đó, nhưng rồi đến “ngày thứ năm đen tối ” tức ngày 29/10/1929 đã làm cho thị trường chứng khoán Tây, Bắc Âu và Nhật bản khủng hoảng mất lòng tin. Cho mãi tới chiến tranh thế giới thứ 2 kết thúc, các thị trường chứng khoán cũng hồi phục dần và phát triển mạnh và rồi cho đến năm 1987 một lần nữa đã làm cho các thị trường chứng khoán. Thế giới điên đảo với “ngày thứ hai đen tối” do hệ thống thanh toán kém cỏi không đảm đương được yêu cầu của giao dịch, sụt giá chứng khoán ghê gớm, mất lòng tin và phản ứng dây chuyền mà hậu quả của nó còn nặng hơn cuộc khủng hoảng năm 1929. Theo quy luật tự nhiên, sau gần hai năm mất lòng tin, thị trường chứng khoán Thế giới lại đi vào giai đoạn ổn định và phát triển đến ngày nay. Cứ mỗi lần khủng hoảng như vậy, giá chứng khoán của tất cả các thị trường chứng khoán trên Thế giới sụt kinh khủng tuy ở mỗi khu vực và mỗi nước ở những mức độ khác nhau gây ra sự ngừng trệ cho thị trường chứng khoán toàn cầu và cũng ảnh hưởng trực tiếp tới nền kinh tế mỗi nước. Cho đến nay, phần lớn các nước trên Thế giới đã có khoảng trên 160 Sở giao dịch chứng khoán phân tán khắp các châu lục bao gồm cả các nước trong khu vực xg nam Á phát triển vào những năm 1960 -1970 vào ở các nước ở xg Âu như Balan, Hunggari, Séc, Nga, và Châu Á như Trung quốc vào những năm 1980 - đầu năm 1990. Lịch sử hình thành và phát triển của thị trường chứng khoán trên Thế giới cho thấy thời gian đầu, thị trường hình thành một cách tự phát, đối tượng tham gia chủ yếu là các nhà đầu cơ, dần dần về sau mới có sự tham gia ngày càng đông đảo của công chúng. Khi thị trường bắt đầu xuất hiện sự trục trặc và bất ổn, chính phủ buộc phải can thiệp bằng cách thành lập các cơ quan quản lý nhằm bảo vệ quyền lợi của công chúng đầu tư và sau đó dần dần hệ thống pháp lý cũng bắt đầu được ban hành. 1.2.2. Khái niệm và bản chất của thị trường chứng khoán Hiện nay, tồn tại nhiều quan niệm khác nhau về thị trường chứng khoán Quan điểm thứ nhất cho rằng thị trường chứng khoán (TTCK) và thị trường vốn là một, chỉ là tên gọi khác nhau cuat cùng một khái niệm: Thị trường tư bản (Capital Mảket). Nếu xét về mặt nội dung, thì thị trường vốn biểu hiện các quan hệ bản chất bên trong của quá trình mua bán các chứng khoán. TTCK là biểu hiện bên ngoài, là hình thức giao dịch vốn cụ thể. Do đó, các thị trường này không thể phân biệt, tách rời nhau mà thống nhất và cùng phản ánh các quan hệ bên trong và bên ngoài của thị trường tư bản. Quan điểm thứ hai của đa số các nhà kinh tế cho rằng: “Thị trường chứng khoán được đặc trưng bởi thị trường vốn chứ không phải đồng nhất là một”. Như vậy, theo quan điểm này, TTCK và thị trường vốn là khác nhau, trong đó TTCK chỉ giao dịch, mua bán các công cụ tài chính trung và dài hạn như trái phiếu chính phủ, cổ phiếu và trái phiếu công ty. Các công cụ tài chính ngắn hạn được giao dịch trên thị trường tiền tệ, không thuộc phạm vi hoạt động của TTCK. Quan điểm thứ ba,dựa trên những gì quan sát được tại đa số các Sở giao dịch chứng khoanslaij cho rằng “Thị trường chứng khoán là thị trường cổ phiếu”, hay là nơi mua bán các phiếu cổ phần được các công ty phát hành ra để huy động vốn. Theo quan điểm này, thị trường chứng khoán được đặc trưng bởi thị trường mua bán các công cụ tài chính mang lại quyền tham gia sở hữu. Các quan điểm trên đều được khái quát dựa trên những cơ sở thực tiễn và trong từng điều kiện lịch sử nhất định. Tuy nhiên, quan diểm đầy đủ và rõ rang, phù hợp với sự phát triển chung của TTCK hiện nay là: Thị trường chứng khoán là nơi diễn ra các giao dịch mua bán, trao đổi các loại chứng khoán. Chứng khoán được hiểu là các loại giấy tờ có giá hay bút toán ghi sổ, nó cho phép chủ sở hữu có quyền yêu cầu về thu nhập và tài sản của tổ chức phát hành hoặc quyền sở hữu. Các quyền yêu cầu này có sự khác nhau giữa các loại chứng khoán, tùy theo tính chất sở hữu của chúng. Các giao dịch mua bán, trao đổi chứng khoán có thể diễn ra ở thị trường sơ cấp (Primary Market) hay thị trường thứ cấp (Secondary Market), tại Sở giao dịch (Stock Exchange) hay thị trường chứng khoán phi tập trung (Over the Counter Market), ở thị trường giao ngay (Spot Market) hay thị trường có kỳ hạn (Future Market). Các quan hệ mua bán trao đổi này làm thay đổi chủ sở hữu của chứng khoán, và như vậy, thực chất đây chính là quá trình vận động của tư bản, chuyển từ tư bản sở hữu sang tư bản kinh doanh. Thị trường chứng khoán không giống với thị trường các hàng hóa thông thường khác vì hàng hóa của thị trường chứng khoán là một loại hàng hóa đặc biệt, là quyền sở hữu về tư bản. Loại hàng hóa này cũng có giá trị và giá trị sử dụng. Như vậy, có thể nói, bản chất của thị trường chứng khoán là thị trường thể hiện mối quan hệ giữa cung và cầu của vốn đầu tư mà ở đó, giá cả của chứng khoán chứa đựng thông tin về chi phí vốn hay giá cả của vốn đầu tư. Thị trường chứng khoán là hình thức phát triển bậc cao của nền sản xuất và lưu thông hàng hóa. 1.2.3. Vai trò của TTCK TTCK là một định chế tài chính tất yếu của nền kinh tế thị trường phát triển, là chiếc cầu nối vô hình giữa cung và cầu vốn trong nền kinh tế. Với một TTCK lành mạnh, hoạt động có hiệu quả sẽ tạo điều kiện khai thác tốt các tiềm năng của nền kinh tế, giúp cho việc thu hút và phân phối vốn trong nền kinh tế có hiệu quả nhất. 1.2.3.1. Huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế TTCK hoạt động như một trung tâm thu gom mọi nguồn vốn tiết kiệm lớn nhỏ của từng hộ dân cư, thu hút nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi từ các DN, các tổ chức tài chính tạo thành nguồn vốn khổng lồ tài trợ cho nền kinh tế mà các phương thức khác không thể làm được. Bên cạnh đó, TTCK là công cụ cho phép vừa thu hút vừa kiểm soát vốn đầu tư nước ngoài một cách tốt nhất vì nó hoạt động theo nguyên tắc công khai. Thông qua TTCK, Chính phủ sẽ kiểm soát được việc tham gia đầu tư của các định chế, cá nhân nước ngoài vào các ngành, các công ty hay các loại CK ở từng thời điểm cụ thể nhất định. TTCK tạo ra cơ hội cho các DN có vốn để mở rộng SXKD và thu lợi nhuận nhiều hơn, đồng thời góp phần quan trọng trong việc kích thích các DN làm ăn ngày càng hiệu quả hơn bằng cách vừa SXKD hàng hóa vừa mua bán thêm CK tạo thêm lợi nhuận. Bằng cách hỗ trợ các hoạt động đầu tư của DN, TTCK đã có những tác động quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Thông qua TTCK, Chính phủ và chính quyền các địa phương huy động được các nguồn vốn cho mục đích sử dụng và đầu tư phát triển hạ tầng kinh tế, phục vụ các nhu cầu chung của XH. 1.2.3.2. Cung cấp môi trường đầu tư và tạo tính thanh khoản cho CK Từ khi TTCK ra đời, công chúng có thêm một công cụ đầu tư mới, đa dạng và phong phú hơn. Những người tiết kiệm có thể tự mình hoặc thông qua những nhà tài chính chuyên môn lựa chọn những loại CP, TP của các công ty khác nhau từ nhiều ngành nghề, lĩnh vực khác nhau. TTCK cung cấp cho công chúng một môi trường đầu tư lành mạnh với cơ hội lựa chọn phong phú. Các loại CK trên thị trường rất khác nhau về tính chất, thời hạn và độ rủi ro, vì thế cho phép các NĐT có thể lựa chọn loại hàng hóa phù hợp với khả năng, mục tiêu và sở thích của mình. Chính vì vậy, TTCK góp phần đáng kể làm tăng mức tiết kiệm quốc gia. Bên cạnh đó, nhờ có TTCK mà các NĐT có thể chuyển đổi các CK họ sở hữu thành tiền mặt hoặc các loại CK khác khi họ muốn. Khả năng thanh khoản là một trong những đặc tính hấp dẫn của CK đối với NĐT. Đây là yếu tố cho thấy tính linh hoạt, an toàn của vốn đầu tư. TTCK hoạt động càng năng động và hiệu quả thì càng có khả năng nâng cao tính thanh khoản của các CK giao dịch trên thị trường. 1.2.3.3. Kích thích các DN hoạt động hiệu quả hơn Khi tham gia niêm yết trên TTCK tập trung, các DN niêm yết cần phải đáp ứng được một số điều kiện cụ thể, nhất định theo qui định như: vốn điều lệ, tình hình tài chính,… và các DN phải công khai tình hình tài chính, kết quả hoạt động SXKD theo chế độ báo cáo định kỳ và NĐT chỉ mua CP của các công ty tăng trưởng. Với sức ép thường xuyên của thị trường, với quyền tự do lựa chọn mua CK của NĐT đòi hỏi các nhà quản lý DN phải biết tính toán, nâng cao hoạt động kinh doanh một cách có hiệu quả. Từ đó, tạo ra một môi trường cạnh tranh lành mạnh nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, kích thích áp dụng công nghệ mới và nâng cao chất lượng sản phẩm. 1.2.3.4. Tạo tiền đề cho quá trình CPH TTCK là nơi tập trung được toàn bộ cung cầu về vốn và cũng là nơi hội tụ nhiều nhất các NĐT, do đó nó có tác động rất lớn trong việc nhanh chóng chuyển các DNNN thành các CTCP một cách có hiệu quả nhất. Với nguyên tắc hoạt động trung gian, đấu giá, công khai và là nơi mà hoạt động mua bán CK diễn ra hàng ngày, hàng giờ. TTCK chính là cơ sở làm cho quá trình CPH theo đúng pháp luật và phù hợp với tâm lý của NĐT. Chỉ có thông qua TTCK, Nhà nước mới có thể thực hiện được CPH đối với bất kỳ loại hình DN nào. Mặt khác, nếu không có TTCK thì vốn đầu tư qua CK sẽ bị bất động và như vậy sẽ rất khó khăn trong việc phát hành. Mục tiêu chủ yếu của CPH các DNNN và các loại hình DN khác là thu hút mọi nguồn vốn nhỏ lẻ trong dân chúng vào đầu tư. Vì vậy, TTCK còn là tiền đề vật chất cho quá trình CPH. 1.2.3.5. Tạo môi trường giúp Chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô và phát triển kinh tế - xã hội Các chỉ số của TTCK phản ánh động thái của nền kinh tế một cách nhạy bén và chính xác. Giá các CK tăng lên cho thấy đầu tư đang mở rộng, nền kinh tế tăng trưởng và ngược lại giá CK giảm sẽ cho thấy các dấu hiệu tiêu cực của nền kinh tế. Vì thế, TTCK còn được gọi là phong vũ biểu của nền kinh tế và là một công cụ quan trọng giúp Chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô. Thông qua TTCK, Chính phủ có thể mua hoặc bán TP Chính phủ để tạo ra nguồn thu bù đắp thiếu hụt ngân sách và quản lý lạm phát. Ngoài ra, Chính phủ cũng có thể sử dụng một số chính sách, biện pháp tác động vào TTCK nhằm định hướng đầu tư, đảm bảo cho sự phát triển cân đối của nền kinh tế. Việc Chính phủ thực hiện phát hành TP để giải quyết nguồn thu cho ngân sách Nhà nước được xem là một biện pháp thường xuyên và có kỹ thuật tiên tiến. Nếu là TP kho bạc, đó là nguồn thu thường xuyên của ngân sách, vốn huy động được hòa vào nguồn thu thuế, phục vụ cho các chi tiêu thường xuyên của Nhà nước. Nếu là công trái hay TP chính quyền địa phương, nguồn thu đó được sử dụng vào những mục đích đã định như xây dựng cơ sở hạ tầng (cầu, đường, sân bay, bến cảng), các công trình văn hóa và phúc lợi xã hội. 1.2.4. Nguyên tắc hoạt động của TTCK TTCK là một định chế tài chính phát triển cao trong nền kinh tế thị trường, hoạt động theo cơ chế riêng biệt được tiêu chuẩn hóa và mang tính quốc tế. 1.2.4.1. Nguyên tắc công khai CK là các hàng hóa trừu tượng, NĐT không thể kiểm tra trực tiếp các CK như các hàng hóa thông thường mà phải dựa trên cơ sở các thông tin liên quan. Vì vậy, TTCK phải được xây dựng trên cơ sở hệ thống công bố thông tin tốt. Theo luật định, các bên phát hành CK có nghĩa vụ cung cấp đầy đủ, trung thực và kịp thời những thông tin có liên quan tới tổ chức phát hành, tới đợt phát hành. Công bố thông tin phải tiến hành khi phát hành lần đầu cũng như theo các chế độ thường xuyên và đột xuất thông qua phương tiện thông tin đại chúng, Sở giao dịch, các CTCK và các tổ chức có liên quan khác. Việc công khai thông tin về TTCK phải thỏa mãn các yêu cầu về tính chính xác, kịp thời và dễ tiếp cận. Nguyên tắc công khai nhằm bảo vệ NĐT, song đồng thời nó cũng hàm nghĩa rằng, một khi đã được cung cấp thông tin đầy đủ, kịp thời, chính xác thì NĐT phải chịu trách nhiệm về các quyết định đầu tư của mình. 1.2.4.2. Nguyên tắc trung gian Theo nguyên tắc này, các giao dịch trên TTCK được thực hiện thông qua tổ chức trung gian là các CTCK. Trên thị trường sơ cấp, các NĐT thường không mua trực tiếp từ nhà phát hành mà mua từ các nhà bảo lãnh phát hành. Trên thị trường thứ cấp, thông qua các nghiệp vụ môi giới, kinh doanh, các CTCK mua bán CK giúp cho khách hàng. Nguyên tắc này nhằm bảo vệ quyền lợi của các NĐT, đảm bảo các CK lưu thông trên thị trường đều là CK hợp pháp, tránh cho NĐT bị lừa gạt do thiếu kinh nghiệm hoặc thiếu thông tin chính xác. 1.2.4.3. Nguyên tắc đấu giá Mọi việc mua bán CK trên TTCK đều hoạt động theo nguyên tắc đấu giá. Nguyên tắc đấu giá dựa trên quan hệ cung cầu do thị trường quyết định. Căn cứ vào hình thức và phương thức đấu giá có các loại đấu giá: đấu giá trực tiếp, đấu giá gián tiếp, đấu giá tự động, đấu giá định kỳ và đấu giá liên tục. Khi thực hiện nguyên tắc đấu giá bao giờ cũng tuân thủ theo các thứ tự ưu tiên về giá (giá đặt mua cao nhất và giá đặt bán thấp nhất), thời gian (cùng mức giá, lệnh nào đặt trước sẽ được ưu tiên trước), khách hàng (ưu tiên các nhà đầu tư cá nhân trước) và qui mô lệnh (cùng một mức giá, ưu tiên các lệnh có khối lượng lớn hơn). 1.2.5. Các chủ thể tham gia trên TTCK Các tổ chức và cá nhân tham gia trên TTCK có thể được chia thành 3 nhóm sau: tổ chức phát hành, NĐT và các tổ chức có liên quan đến TTCK. 1.2.5.1. Tổ chức phát hành Các tổ chức phát hành tham gia thị trường với tư cách là người tạo ra hàng hóa cho thị trường sơ cấp và mua bán lại các CK ở thị trường thứ cấp. Chính phủ và chính quyền địa phương là nhà phát hành các TP Chính phủ và TP địa phương. Công ty là nhà phát hành các CP và TP công ty. Các tổ chức tài chính là nhà phát hành các công cụ tài chính như TP, chứng chỉ thụ hưởng,… phục vụ cho hoạt động của họ. 1.2.5.2. Nhà đầu tư Các NĐT tham gia trên TTCK chia làm 2 loại: NĐT cá nhân và NĐT tổ chức. NĐT cá nhân: là những người có vốn nhàn rỗi tạm thời, tham gia mua bán trên TTCK với mục đích tìm kiếm lợi nhuận. Tuy nhiên, trong đầu tư thì lợi nhuận luôn gắn liền với rủi ro, lợi nhuận càng lớn thì rủi ro càng cao và ngược lại. NĐT tổ chức: là các định chế đầu tư thường xuyên mua bán CK với số lượng lớn trên thị trường. Một số NĐT chuyên nghiệp chính trên TTCK là các NHTM, CTCK, công ty đầu tư, công ty bảo hiểm, quỹ hỗ tương, quỹ lương hưu và các quỹ bảo hiểm xã hội khác. 1.2.5.3. Các tổ chức có liên quan đến TTCK Cơ quan quản lý nhà nước: Cơ quan quản lý, giám sát TTCK được hình thành dưới nhiều mô hình hoạt động khác nhau, có nước do các tổ chức tự quản thành lập, có nước cơ quan này trực thuộc Chính phủ, nhưng có nước lại có sự kết hợp quản lý giữa tổ chức tự quản và nhà nước. Nhưng nhìn chung, cơ quan quản lý này do Chính phủ các nước thành lập nhằm mục đích bảo vệ lợi ích của các NĐT và đảm bảo cho TTCK hoạt động lành mạnh, suôn sẻ và phát triển vững chắc. Từ kinh nghiệm của các nước, Việt Nam đã thành lập UBCKNN – Cơ quan quản lý nhà nước về CK và TTCK trước khi TTCK Việt Nam ra đời. Sở giao dịch CK: thực hiện vận hành thị trường thông qua bộ máy tổ chức bao gồm nhiều bộ phận khác nhau phục vụ các hoạt động trên Sở giao dịch. Ngoài ra, Sở giao dịch cũng ban hành những qui định điều chỉnh các hoạt động giao dịch CK phù hợp với các qui định của luật pháp và UBCKNN. Hiệp hội các nhà kinh doanh CK: là các tổ chức của các CTCK và một số thành viên khác hoạt động trong lĩnh vực CK, được thành lập với mục đích bảo vệ lợi ích cho các công ty thành viên nói riêng và cho toàn ngành CK nói chung. Tổ chức lưu ký và thanh toán bù trừ CK: là tổ chức nhận lưu giữ các CK và tiến hành các nghiệp vụ thanh toán bù trừ cho các giao dịch CK. Các NHTM, các CTCK đáp ứng đủ các điều kiện của UBCKNN sẽ thực hiện dịch vụ lưu ký và thanh toán bù trừ CK. Công ty chứng khoán: là những công ty hoạt động trong lĩnh vực CK, có thể đảm nhận một hoặc nhiều trong số các nghiệp vụ chính là bảo lãnh phát hành, môi giới, tự doanh, tư vấn tài chính và đầu tư CK. Để có thể được thực hiện mỗi nghiệp vụ, các CTCK phải đảm bảo được một số vốn nhất định và phải được cấp phép của cơ quan có thẩm quyền. Các tổ chức tài trợ CK: là các tổ chức được thành lập với mục đích khuyến khích mở rộng và tăng trưởng của TTCK thông qua các hoạt động cho vay tiền để mua CP và cho vay CK để bán trong các giao dịch bảo chứng. Các tổ chức tài trợ CK ở các nước khác nhau có đặc điểm khác nhau và ở một số nước không có loại hình tổ chức này. Công ty đánh giá hệ số tín nhiệm: là công ty chuyên cung cấp dịch vụ đánh giá năng lực thanh toán và tiềm lực tài chính của các tổ chức phát hành. 1.2.6. Giới thiệu một số TTCK trên thế giới 1.2.6.1. Thị trường chứng khoán Mỹ Thị trường chứng khoán Mỹ có lịch sử phát triển lâu dài và đã đạt đến trình độ cao về mọi mặt. Mô hình TTCK Mỹ đã được nhiều nước học tập, áp dụng và sửa đổi cho phù hợp với điều kiện thực tế của từng nước. Thời điểm đánh dấu sự ra đời TTCK Mỹ là 17 tháng 05 năm 1792 khi một số nhà môi giới công bố thỏa thuận của họ sau khi nhóm họp dưới gốc cây ngô đồng ở số 68 phố Wall (gọi là Hiệp ước cây ngô đồng) và đến năm 1800 đánh dấu sự ra đời Sở giao dịch chứng khoán (SGDCK) đầu tiên, tiếp theo đó là hàng loạt các SGDCK được hình thành trên khắp nước Mỹ. Thị trường chứng khoán Mỹ hiện nay là một thị trường quan trọng bậc nhất trên thế giới nếu xét trên tổng thể khối lượng tư bản giao dịch và sự ảnh hưởng to lớn của nó đối với các thị trường chứng khoán khác. Điều đáng chú ý là 2/3 nghiệp vụ giao dịch chứng khoán ở Mỹ được thực hiện trên thị trường phi tập trung, đặc biệt là đối với các hàng hóa là trái phiếu chính phủ. Năm 1793, Ủy ban Chứng khoán và Giao dịch New York mở cửa tại Phố Wall. Dù không phải là sở giao dịch đầu tiên tại Mỹ, NYSE nhanh chóng trở thành trung tâm tài chính của đất nước non trẻ. Cũng như tại London, NYSE ban đầu không rộng và nhiều hoạt động phải được tiến hành ở bên ngoài. Địa điểm này bị lửa thiêu rụi nên phải chuyển tới phố Broad và đổi tiên thành Sở giao dịch chứng khoán New York. NYSE không mất nhiều thời gian để trở thành một trung tâm trong giới tài chính. Khối lượng giao dịch chứng khoán tăng 6 lần trong giai đoạn 1896-1901. Sự thành công này phần lớn là nhờ địa điểm của sở giao dịch tại thành phố New York, trung tâm của gần như mọi giao dịch và buôn bán của nước Mỹ tại thời điểm đó. NYSE cũng là sở giao dịch đầu tiên có điều kiện niêm yết và phí, giúp đem lại khoản thu nhập lớn cho sở giao dịch. Trong hơn 200 năm, Sở giao dịch chứng khoán New York luôn giữ vị trí số một. 1.2.6.2. TTCK Trung Quốc TTCK Trung Quốc được thành lập cuối những năm 1980. Vào đầu thập niên sau đó, CP lên giá rất nhanh nhưng rồi chững lại và đi xuống từ năm 2001. Cơn sốt lạnh này khiến nhiều nhà đầu tư – trong đó có những người vét sạch tài khoản tiết kiệm đổ vào cổ phiếu và sau đó trắng tay. Khi không còn xu nào, họ quay ra đổ lỗi cho Chính phủ. Vì thế, trong những năm gần đây, giới chức Trung Quốc đã có nhiều biện pháp mạnh để lấy lại niềm tin vào thị trường. Nhiều nàh đầu tư nước ngoài giờ đã được phép đầu tư nhiều hơn nữa vào TTCK Trung Quốc. Điều này khiến thị trường trở nên hấp dẫn hơn và lôi kéo lại một số nhà đầu tư nội địa. Tháng 4/2007, TTCK Trung Quốc ghi nhận con số nhà đầu tư mở tài khoản ở mức kỷ lục 4,79 triệu người. Người dân đổ xô vào chứng khoán đã khiến TTCK Trung Quốc nóng lên và trong tình trạng bong bóng. Trong năm 2006, chỉ số SSE 180 Index tại Thượng Hải đã tăng 110% lên 4.847 điểm và từ đầu năm 2007 đến nay tiếp tục tăng thêm 17% lên 5.673 điểm. Cùng với đó là hàng dài người đứng xếp hàng ở các ngân hàng để chờ được rút tiền đầu tư vào chứng khoán, một cảnh tượng chưa từng diễn ra từ trước tới nay. Việc giá nhiều loại cổ phiếu tăng mạnh là nguyên nhân chính khiến nhiều người dân Trung Quốc tham gia và đổ tiền vào thị trường. Tuy nhiên, tại thời điểm này TTCK đã bắt đầu có những biểu hiện của tình trạng đầu cơ và đang tiềm ẩn nhiều rủi ro đối với các nhà đầu tư thiếu kinh nghiệm, nhất là những nhà đầu tư đã vay tiền hoặc bán nhà cửa để đầu tư vào chứng khoán. Một khi bong bóng vỡ tung thì hậu quả sẽ khốc liệt vì TTCK Trung Quốc thu hút một lượng lớn người về hưu, sinh viên, công chức, người buôn bán nhỏ,… Đầu tư, đầu cơ và các hoạt động mạo hiểm trên TTCK đã trở nên phổ biến ở Trung Quốc. Các chuyên gia đầu tư luôn cảnh báo về những rắc rối, khó khăn có thể xảy ra tại TTCK Trung Quốc. Họ cho rằng dù TTCK Trung Quốc hiện có giá trị gấp 4 lần so với thời điểm tháng 6/2005 nhưng có khá nhiều công ty vẫn đang gặp rắc rối về các vấn đề tham nhũng và sự công khai, thực tế có nhiều công ty báo cáo sai về lợi nhuận để lôi kéo các nhà đầu tư mua cổ phiếu của họ. Vì vậy giới kiểm toán phải công khai những thông tin trên nhằm cố gắng điều chỉnh trật tự của TTCK. Mặc dù có nhiều cảnh báo về sự tăng trưởng quá nóng của TTCK Trung Quốc nhưng nhà đầu tư vẫn quyết tâm bỏ tiền thêm vào thị trường bởi họ tin rằng xu thế thị trường mới là quyết định quan trọng nhất chứ không phải những lời nhận định từ bên ngoài và cả cảnh báo từ bên trong. Nhiều người Trung Quốc cho rằng đầu tư vào chứng khoán là con đường ngắn nhất dẫn đến sự giàu sang. Bất chấp sự lạc quan và kỳ vọng lợi nhuận của một bộ phận lớn các nhà đầu tư trên thị trường, các cơ quan quản lý Nhà nước về TTCK ở Trung Quốc đã tỏ ra thận trọng với sự mở rộng nhanh chóng của thị trường. Chính phủ Trung Quốc thông báo thành lập một lực lượng đặc nhiệm nhằm kiểm soát và ngăn chặn các hoạt động bất hợp pháp trên TTCK. Hơn nữa, các chỉ số chứng khoán cao ngất ngưỡng trong thời gian qua không nói lên được những vấn đề cốt lõi của TTCK Trung Quốc hiện nay. 1.2.6.3. TTCK Hàn Quốc TTCK Hàn Quốc ra đời và chính thức đi vào hoạt động vào năm 1956 cùng với sự ra đời của Sở giao dịch chứng khoán Daehan – tiền thân của Sở giao dịch chứng khoán Hàn Quốc. Từ đó đến nay, TTCK Hàn Quốc đã phát triển một cách nhanh chóng và trở thành một trong 10 TTCK lớn nhất thế giới. Nhờ sự tác động của các yếu tố khách quan và chủ quan, TTCK Hàn Quốc đã liên tục tăng trưởng trong những tháng đầu năm 2007 khi chỉ số TTCK tổng hợp Hàn Quốc (KOSPI) vượt ngưỡng 1.700 điểm, tổng vốn hóa của TTCK tổng hợp Hàn Quốc và Sàn CK công nghệ Hàn Quốc (KOSDAQ) đã lên đến 1.000 tỷ USD. Như vậy, Hàn Quốc trở thành nước thứ 4 ở Châu Á (sau Nhật Bản, Trung Quốc và Ấn Độ) có tổng giá trị TTCK vượt ngưỡng 1.000 tỷ USD. Cổ phiếu các ngành đóng tàu, sản xuất thép và cơ khí liên tục tăng giá kể từ tháng 4/2007, trong khi đó cổ phiếu của các ngành khác cũng tăng đáng kể. Các nguồn vốn trong nước đang dần chảy từ nguồn tiết kiệm ngân hàng vào đầu tư và chứng khoán. Mô hình tăng trưởng của Hàn Quốc chủ yếu dựa vào nhu cầu trong nước và xuất khẩu là chính nên việc đồng Won tăng giá so với USD có thể sẽ là mối đe dọa lớn đối với sự tăng trưởng ổn định của nền kinh tế nói chung và TTCK nói riêng. Nếu tốc độ tăng trưởng kinh tế của thị trường xuất khẩu lớn nhất của Hàn Quốc bị chậm lại, các nhà xuất khẩu sẽ không tránh khỏi bị ảnh hưởng và lúc đó những rủi ro mà ai tham gia TTCK Hàn Quốc đều không thể bỏ qua. Ngoài ra, Hàn Quốc là quốc gia hầu như không có tài nguyên thiên nhiên nên khi chi phí nguyên liệu thô tăng, giá dầu leo thang sẽ ảnh hưởng đến chi phí và lợi nhuận hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Trên thực tế, giá cổ phiếu ở Hàn Quốc đã tăng với tốc độ chóng mặt mỗi ngày. Chỉ số KOSPI đã tăng hơn 400 điểm trong vòng 3 tháng kể từ khi vượt ngưỡng 1.500 điểm vào tháng 4/2007. Các nhà đầu tư cá nhân cần nhận thức rõ là họ đang chấp nhận rủi ro khi đầu tư vào cổ phiếu. Những bài học phá sản TTCK trước đây đã cho thấy đây là hình thức đầu tư đầy rủi ro. Tuy nhiên, những nhà đầu tư vẫn lạc quan cho rằng có đủ lý do để họ tin tưởng vào thị trường, xu hướng phục hồi của nền kinh tế đã có ảnh hưởng tích cực đến tâm lý của các nhà đầu tư và lãi suất tiết kiệm thấp cũng khiến họ đổ xô vào mua cổ phiếu. Các nhà đầu tư lập luận rằng giá cổ phiếu có khả năng sẽ tiếp tục tăng do sự tăng trưởng của TTCK toàn cầu và công việc kinh doanh đang phát đạt của các công ty. Họ cũng đưa ra những yếu tố tích cực khác để khẳng định quan điểm của mình như hiệp định thương mại Hàn – Mỹ và những thay đổi trong việc quản lý tài sản hộ gia đình. Trong bối cảnh đó, lãnh đạo các công ty chứng khoán đã lên tiếng kêu gọi áp dụng những biện pháp kiềm chế mức tăng trưởng quá nóng của TTCK như hiện nay thông qua các phương thức quản lý hợp lý. 1.2.6.4. TTCK Đài Loan Ra đời cách đây 43 năm, TTCK Đài Loan đã từng có thời kỳ phát triển rất nóng. Năm 1988, TTCK Đài Loan sụp đổ bởi thời điểm này nền kinh tế Đài Loan đã đạt được một mức thặng dư thương mại lớn. Người dân có nhiều khoản tiền nhàn rỗi và đã sử dụng để đầu tư vào TTCK. Trước những diễn biến này, các nhà quan chức của chính quyền, cụ thể là Bộ trưởng Bộ Tài chính đã quyết định đánh một loại thuế thu nhập đặc biệt vào các khoản lợi nhuận thu được từ hoạt động đầu tư chứng khoán. Chỉ một ngày sau khi quyết định này được thực thi, toàn TTCK Đài Loan đã sụp đổ hoàn toàn. Và trong suốt 19 ngày sau đó, không có bất cứ một giao dịch nào diễn ra. Sau đó, Chính phủ Đài Loan đã phải bãi bỏ chính sách thuế nói trên và chỉ nhờ có vậy TTCK Đài Loan mới được khôi phục và hoạt động trở lại bình thường. Những nhà đầu tư chứng khoán của Đài Loan khi đó chủ yếu sử dụng tiền tiết kiệm của họ để đầu tư vào TTCK chứ không phải dùng tiền vay nên ảnh hưởng đến họ là không mấy đáng kể. Và đây chính là điều làm cho TTCK Đài Loan sở dĩ phục hồi nhanh ngay sau khi sụp đổ vào năm 1988. Do đó, ngoài việc hạn chế sử dụng tiền vay của các tổ chức tín dụng để đầu tư vào TTCK thì khi đầu tư cũng không nên bỏ tiền vào một doanh nghiệp mà mình chưa mấy hiểu biết theo kiểu hú họa. Đây là điều rất nguy hiểm và rủi ro không chỉ cho các nhà đầu tư mà còn cho cả TTCK nói chung. 1.2.6.4. TTCK Việt Nam Xây dựng và phát triển TTCK là một mục tiêu quan trọng được Đảng và Nhà nước rất quan tâm nhằm xác lập một kênh huy động vốn dài hạn cho mục tiêu đầu tư và phát triển đất nước. Ngày 29/06/1995, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 361/QĐ-TTg về việc thành lập Ban chuẩn bị tổ chức TTCK giúp Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo và chuẩn bị điều kiện cần thiết cho việc xây dựng TTCK Việt Nam. Ngày 28/11/1996, UBCKNN được thành lập theo Nghị định số 75/CP của Chính phủ, UBCKNN thực hiện chức năng tổ chức và quản lý Nhà nước về chứng khoán và TTCK. Ngay sau đó, UBCKNN đã xây dựng bộ máy tổ chức tương đối hoàn chỉnh và bắt tay vào xây dựng khung pháp lý cho tổ chức và hoạt động của TTCK. Kết quả các nỗ lực ban đầu được ghi nhận bằng việc ngày 10/07/1998 Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Nghị định 48/1998/NĐ-CP về CK và TTCK. Ngày 12/08/2003 Chính phủ ban hành Nghị định số 90/2003-CP thay thế Nghị định số 75/CP đã trao cho UBCKNN đầy đủ chức năng, nhiệm vụ và thẩm quyền của một cơ quan quản lý Nhà nước về chứng khoán và TTCK. Sau khi được thành lập, UBCKNN đã thực thi các chức năng, nhiệm vụ và đạt được nhiều kết quả, thể hiện tốt vai trò là cơ quan tổ chức và vận hành TTCK Việt Nam. Tuy nhiên, nhằm tăng cường hiệu quả nhiệm vụ điều phối hoạt động của các Bộ ngành chức năng trong việc thúc đẩy sự phát triển của TTCK, ngày 19/02/2004 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 66/2004/NĐ-CP chuyển UBCKNN trực thuộc Bộ Tài chính. Việc chuyển UBCKNN trực thuộc Bộ Tài chính là một bước đi hợp lý trong quá trình phát triển TTCK ở Việt Nam, sẽ tạo thêm sự đồng bộ và gắn kết đảm bảo yếu tố an toàn cho hoạt động của TTCK và các thị trường tài chính khác. Ngày 11/07/2000 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 127/1998/QĐ-TTg về việc thành lập TTGDCK TP.HCM và TTGDCK Hà Nội. Có thể nói, việc thành lập các TTGDCK là một giải pháp cấp bách trước mắt, không những tạo điều kiện thuận lợi cho việc huy động vốn, thúc đẩy tiến trình đổi mới doanh nghiệp mà còn hướng các hoạt động giao dịch chứng khoán đi vào quỹ đạo có tổ chức ngay từ đầu và đây cũng là bước chuẩn bị cho việc thành lập SGDCK sau này. TTGDCK TP.HCM chính thức đi vào hoạt động ngày 20/07/2000 và thực hiện phiên giao dịch CK đầu tiên vào ngày 28/07/2000 đã đánh dấu một cột mốc quan trọng trong đời sống kinh tế - xã hội của đất nước trong thời kỳ đổi mới. Sự ra đời của TTGDCK TP.HCM có ý nghĩa rất lớn trong việc tạo thêm một kênh huy động vốn dài hạn phục vụ nhu cầu CNH – HĐH đất nước, là một sản phẩm của nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường. TTGDCK TP.HCM được Chính phủ giao một số chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn quản lý điều hành hệ thống giao dịch CK niêm yết tập trung tại Việt Nam. Đó là tổ chức, quản lý và điều hành việc mua - bán CK, quản lý điều hành hệ thống giao dịch, thực hiện hoạt động quản lý niêm yết, công bố thông tin, giám sát giao dịch, hoạt động đăng ký, lưu ký và thanh toán bù trừ CK và một số hoạt động khác. Ngày 05/08/2003, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt chiến lược phát triển TTCK Việt Nam đến năm 2010. Theo đó, TTGDCK Hà Nội được xác định là thị trường giao dịch CP đăng ký giao dịch, chuẩn bị điều kiện để sau năm 2010 chuyển thành thị trường giao dịch CK phi tập trung (OTC) của Việt Nam. Ngày 08/03/2005, TTGDCK Hà Nội đã chính thức khai trương hoạt động tại TP.Hà Nội, đánh dấu thêm một bước tiến mới của TTCK Việt Nam. CHƯƠNG 2 GIÁ TRỊ THỜI GIAN CỦA TIỀN TỆ Đầu tư dài hạn cũng có ý nghĩa là bỏ tiền ra ở thời điểm hiện tại, để hy vọng trong tương lai đạt được thu nhập lớn hơn. Do vậy, để đi đến quyết định đầu tư dài hạn cần phải hiểu thấu đáo vấn đề lãi suất trong mối quan hệ giữa tiền, thời gian và sự rủi ro. Vì thế, việc nắm vững những vấn đề về phép toán tài chính là điều rất cần thiết để phân tích, đánh giá và quyết định đầu tư. 2.1. LÃI ĐƠN, LÃI KÉP VÀ GIÁ TRỊ TƯƠNG LAI - Lãi đơn: Là số tiền lãi được xác định dựa trên số vốn ban đầu hay gọi là vốn gốc với một lãi suất nhất định. việc tính lãi như vậy  gọi là phương pháp tính lãi đơn. - Lãi kép: Là số tiền lãi được xác định dựa trên cơ sở số tiền lãi của các thời kỳ trước đó được gộp vào vốn gốc để làm căn tính tiền lãi như vậy được gọi là phương pháp tính lãi kép. - Giá trị tương lai: Là giá trị có thể nhận được tại một thời điểm trong tương lai bao gồm số vốn gốc và toàn bộ số tiền lãi đến thời điểm đó. Một yếu tố quan tọng ảnh hưởng đến giá trị tương lai là phương pháp tính lãi + Trường hợp tính lãi đơn: Giá trị tương lai tính theo lãi đơn hay còn gọi là giá trị đơn được xác định theo công thức sau:                       Fn = Vo (1 + i.n) Trong đó:           Fn:  Giá trị đơn tại thời điểm cuối năm thứ n.           Vo:  Số vốn ban đầu (số vốn gốc).           i   : Lãi suất tính theo năm           n  : Số năm + Trường hợp tính theo lãi kép: Giá trị tương lai tính theo lãi kép hay còn gọi là giá trị kép được xác định theo công thức tổng quát sau:          FVn = Vo ( 1 + i )n Trong đó:          FVn  :       Giá trị kép nhận được ở cuối năm thứ n.          Vo, i, n:   Như đã nêu trên. Trong biểu thức trên (1 + i)n được gọi là thừa số lãi, nó biểu thị giá trị tương lai của 1 đồng sau n năm với lãi suất hàng năm là i tính theo phương pháp lãi kép (hay nói ngắn gọn là giá trị kép của 1 đồng sau n năm với lãi suất i ). Giá trị kép của 1 đồng phụ thuộc vào số năm (N) và với lãi suất năm  (i). Có thể sử dụng ký hiệu f (i,n) để biểu thị thừa số lãi: (1 + i) n = f(i,n). Từ đó, có thể viết công thức tính giá trị kép dưới dạng sau:         FVn = Vo. F (i,n) Để thuận tiện cho việc tính toán khi sử dụng một số phép toán tài chính người ta đã lập bảng tính sẵn, gọi là bảng tài chính. Căn cứ vào bảng này có thể dễ dàng tìm được giá trị  (1 + i)n với các giá trị tương ứng của i và n. Ví dụ: Một người gửi tiết kiệm 100.000 đ trong thời hạn 5 năm với lãi suất 4% một năm theo phương pháp lãi kép.  Vậy số tiền ở cuối năm thứ 5 người đó có thể nhận:          FV5 = 100.000 (1 + 4%)5                 = 121.670 đ Hoặc có thể tra bảng tài chính để tính:         FV5 = 100.000 x F (4%,5)                = 100.000 x 1,2167 = 127.670 đ.  Nếu số tiền đó tính theo lãi đơn thì cuối năm thứ 5 người đó chỉ nhận được là        F5 = 100.000(1 + 4% . 5) = 120.000 đ So sánh giữa giá trị kép và giá trị đơn có sự chênh lệch là:       121.670 - 120.000  = 1.670 đ Qua những vấn đề trên cho thấy việc nghiên cứu lãi kép và giá trị kép có ý nghĩa kinh tế rất lớn, nó giúp cho việc xem xét, đánh giá hiệu quả đầu tư vào sản xuất kinh doanh nói chung và hiệu quả sử dụng vốn một cách xác đáng hơn theo cách nhìn mới. Trên quan điểm kinh doanh, yêu cầu đặt ra cho các doanh nghiệp là phải sử dụng tốt nhất tiền vốn của mình. Từ việc xem xét lãi kép và giá trị kép cần phải xem xét hiệu quả kinh doanh trên góc độ  mới và mỗi đồng vốn bỏ vào kinh doanh phải không ngừng vận động và không ngừng sinh lời. Từ đó, việc xem xét những thiệt hại do ứ đọng tổn thất vốn cũng cần được nhìn nhận trên góc độ này mới thấy rõ hơn hậu quả thiệt hại của nó trong kinh doanh. 2.2. KỲ HẠN TÍNH LÃI VÀ GIÁ TRỊ KÉP      Trong nhiều trường hợp lãi suất được tính theo năm, nhưng trong năm người ta lại thực hiện trả lãi làm nhiều kỳ. Trong trường hợp ấy giá trị kép được xác định theo công thức sau:          FVn = Vo (1 + i/m) n x m Trong đó:          FVn: Giá trị kép ở cuối năm thứ n          Vo: Giá trị gốc          i: Lãi suất tính theo năm          n: Số năm          m: Số kỳ hay số lần tính lãi trong năm 2.3. GIÁ TRỊ HIỆN TẠI 2.3.1. Giá trị hiện tại của một khoản tiền trong tương lai Xem xét trên quan điểm kinh doanh mỗi đồng vốn bỏ ra phải không ngừng vận động và không ngừng sinh lời có thể thấy, một đồng tiền thu được tại một thời điểm trong tương lai không thể bằng một đồng tiền có ở thời điểm hiện tại. Sự khác nhau đó chính là ở chỗ, giữa chúng có yếu tố thời gian và sự rủi ro. Để đánh giá một cách xác đáng các khoản thu trong tương lai, người ta có thể sử dụng phương pháp tính đổi giá trị của một đồng tiền thu được ở thời điểm trong tương lai về giá trị tại một thời điểm hiện tại. Giá trị tính đổi về thời điểm hiện tại của một đồng tiền thu được trong tương lai được gọi là giá trị hiện tại của đồng tiền đó. Như trên đã nêu, lãi suất được coi là giá trị của thời gian và sự rủi ro. Vì thế, để tính đổi giá trị của một đồng tiền trong tương lai về giá trị hiện tại cần phải sử dụng một lãi suất như một công cụ để chiết khấu giá trị theo thời gian. Có thể xem xét một thí dụ đơn giản sau: Một người hiện tại có 1 đồng và cho vay sẽ được trả với lãi suất i một năm và như vậy, sau 1 năm người đó sẽ có số tiền là (1 + i) đồng. Điều đó cũng có nghĩa là giá trị hiện tại của khoản tiền 1 + i đồng là 1 đồng. Vậy nếu sau 1 năm sẽ thu được 1 đồng thì giá trị hiện tại của nó là: 1 1 + i  Từ đó, có thể rút ra, giá trị hiện tại của một khoản tiền thu được tại một thời điểm trong tương lai bằng công thức tổng quát: PV = FVn 1 (1 + i) n Trong đó:           PV(Present value): Giá trị hiện tại của khoản thu trong tương lai.           FVn ( Future value): Giá trị khoản thu tại thời điểm cuối năm thứ n trong tương lai.           i: Lãi suất tính theo năm.           n: Số năm 1/(1 + i) n  được gọi là hệ số chiết khấu hay hệ số hiện tại hóa, nó biểu thị giá trị hiện tại của 1 đồng thu được trong tương lai và được ký hiệu là P (i,n). Như vậy, công thức xác định giá trị hiện tại ở trên có thể viết dưới dạng:           PV = FVn. P (i,n) Có thể sử dụng bảng tài chính để xác định giá trị hiện tại của 1 đồng với các giá trị tương ứng i và n. Như vậy, giá trị hiện tại của một khoản tiền thu được tại một thời điểm trong tương lai là giá trị của khoản tiền đó được tính về thời điểm hiện tại bằng cách dựa vào một lãi suất nhất định. Tùy theo từng trường hợp cụ thể, để lựa chọn một lãi suất thích hợp làm lãi suất tính đổi. Lãi suất được sử dụng để tính đổi về giá trị hiện tại được gọi là tỷ suất hiện tại hóa hay lãi suất chiết khấu. Phương pháp tính như vậy được gọi là phương pháp hiện tại hóa giá trị hay phương pháp chiết khấu giá trị. Xem xét công thức nêu trên có thể rút ra: Thời điểm nhận được khoản thu càng xa thời điểm hiện tại thì giá trị hiện tại của nó càng nhỏ. Tỷ suất hiện tại hóa hay lãi suất chiết khấu càng lớn thì giá trị hiện tại của khoản thu càng nhỏ. 2.3.2. Giá trị hiện tại của các khoản tiền khác nhau trong tương lai Trong thực tế hiện tượng thường gặp là phát sinh nhiều khoản tiền khác nhau trong tương lai. Giá trị  hiện tại của các khoản tiền khác nhau nhận được ở thời điểm khác nhau  trong tương lai có thể xác định bằng công thức sau: PV = FV1 + FV2 + …. + FVn 1 + i (1 + i) 2 (1 + i) n  Hoặc: PV = n ∑ FVt t =1 1 (1 + i)t Công thức trên có thể viết dưới dạng:  PV = n ∑ FVt. p(i,t) t =1 Trong đó:          PV: Giá trị hiện tại của các khoản tiền          FV1, FV2, FVn: Giá trị các khoản tiền ở cuối các thời điểm  khác nhau trong tương lai  (cuối mỗi năm)           i : Lãi suất tính theo năm          1,2 ..., n: Số năm 2.3.3. Giá trị hiện tại của các khoản tiền đồng nhất. Trong trường hợp ở cuối các thời điểm khác nhau trong tương lai đều phát sinh các khoản tiền như nhau thì giá trị hiện tại của các khoản tiền đó có thể được xác định bằng công thức tổng quát: PV = A + A + …. + A 1 + i (1 + i) 2 (1 + i) n  Hoặc qua một số bước biến đổi có thể viết công thức dưới dạng: PV = A. 1 – ( 1 + i) -n i Trong đó:         PV: giá trị hiện tại của các khoản tiền         A:  Giá trị khoản tiền đồng nhất ở cuối các thời điểm.         i: Lãi suất năm         n: Số năm Từ những vấn đề trên cho thấy, việc xem xét giá trị hiện tại có ý nghĩa rất lớn trong kinh tế. Trước hết, với phương pháp xác định giá trị hiện tại cho phép xem xét các vấn đề tài chính của doanh nghiệp dưới một góc độ mới có tính đến yếu tố thời gian và sự rủi ro, để từ đó ra các quyết định kinh doanh đúng đắn hơn. Ở đây cũng cần phải chú ý rằng, có am hiểu các vấn đề về giá trị hiện tại thì mới có thể hiểu thấu đáo được vấn đề đầu tư trong kinh doanh theo cơ chế thị trường. CHƯƠNG 3 CỔ PHIẾU Cổ phiếu là giấy chứng nhận số tiền nhà đầu tư đóng góp vào công ty phát hành. Cổ phiếu là chứng chỉ do công ty cổ phần phát hành hoặc bút toán ghi sổ xác nhận quyền sở hữu một hoặc một số cổ phần của công ty đó. Nguời nắm giữ cổ phiếu trở thành cổ đông và đồng thời là chủ sở hữu của công ty phát hành. 3.1. KHÁI NIỆM Lịch sử ra đời Cổ phiếu gắn liền với lịch sử hình thành Công ty cổ phần - Cổ phiếu chính là sản phẩm riêng có của công ty cổ phần. Vốn điều lệ của công ty cổ phần được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần. Người mua cổ phần gọi là cổ đông. Cổ đông được cấp một giấy xác nhận sở hữu cổ phần gọi là cổ phiếu. Cổ phiếu là bằng chứng và là chứng chỉ xác nhận quyền sở hữu của cổ đông đối với công ty cổ phần. Quyền sở hữu của cổ đông trong công ty cổ phần tương ứng với số lượng cổ phần mà cổ đông nắm giữ. Vì vậy, cổ phiếu còn được gọi là chứng khoán vốn. 3.2. CÁC DẠNG CỔ PHIẾU Khi xem xét Cổ phiếu của Công ty cổ phần, thường có sự phân biệt cổ phiếu được phép phát hành, cổ phiếu đã phát hành, cổ phiếu quỹ, cổ phiếu đang lưu hành. Cổ phiếu được phép phát hành: Khi công ty cổ phần được thành lập, thì được phép phát hành cổ phiếu để huy động vốn. Nhưng luật pháp các nước quy định công ty phải đăng ký tổng số cổ phiếu của công ty và phải ghi trong điều lệ công ty và được gọi là cổ phiếu được phép phát hành' hay cổ phiếu đăng ký. Cổ phiếu được phép phát hành là số lượng cổ phiếu tối đa của một công ty có thể phát hành từ lúc bắt đầu thành lập cũng như trong suốt quá trình hoạt động. Khi cần có sự thay đổi số lượng cổ phiếu được phép phát hành thì phải được đa số cổ đông bỏ phiếu tán thành và phải sửa đổi điều lệ công ty. Cổ phiếu đã phát hành: là cổ phiếu mà công ty được bán ra cho các nhà đầu tư trên thị trường và công ty đã thu về được toàn bộ tiền bán số cổ phiếu đó, nó nhỏ hơn hoặc tối đa là bằng với số cổ phiếu được phép phát hành. Cổ phiếu quỹ: là cổ phiếu đã được giao dịch trên thị trường và được chính tổ chức phát hành mua lại bằng nguồn vốn của mình. Số cổ phiếu này có thể được công ty lưu giữ một thời gian sau đó lại được bán ra; luật pháp một số nước quy định số cổ phiếu này không được bán ra mà phải hủy bỏ. Cổ phiếu quỹ không phải là cổ phiếu đang lưu hành, không có vốn đằng sau nó; do đó không được tham gia vào việc chia lợi tức cổ phần và không có quyền tham gia bỏ phiếu. Cổ phiếu đang lưu hành: là cổ phiếu đã phát hành, hiện đang lưu hành trên thị trường và do các cổ đông đang nắm giữ. Số cổ phiếu đang lưu hành được xác định như sau: Số cổ phiếu đang lưu hành = Số cổ phiếu đã phát hành - Số cổ phiếu quỹ Trong trường hợp công ty có cả hai loại cổ phiếu thường và cổ phiếu ưu đãi, người ta sẽ xác định cụ thể cho từng loại một. Số cổ phiếu thường đang lưu hành là căn cứ quan trọng để phân chia lợi tức cổ phần trong công ty. Dựa vào hình thức cổ phiếu, có thể phân biệt cổ phiếu ghi danh và cổ phiếu vô danh. Cổ phiếu ghi danh: là cổ phiếu có ghi tên người sở hữu trên tờ cổ phiếu. Cổ phiếu này có nhược điểm là việc chuyển nhượng phức tạp, phải đăng ký tại cơ quan phát hành và phải được Hội đồng Quản trị của công ty cho phép. Cổ phiếu vô danh: là cổ phiếu không ghi tên người sở hữu. Cổ phiếu này được tự do chuyển nhượng mà không cần thủ tục pháp lý. Dựa vào quyền lợi mà cổ phiếu đưa lại cho người nắm giữ, có thể phân biệt cổ phiếu phổ thông (cổ phiếu thường) và cổ phiếu ưu đãi - Đây là cách phân loại phổ biến nhất. Khi nói đến cổ phiếu của một công ty, người ta thường nói đến cổ phiếu phổ thông (cổ phiếu thường) và cổ phiếu ưu đãi 3.3. CỔ PHIẾU PHỔ THÔNG 3.3.1. Khái niệm và quyền lợi Cổ phiếu phổ thông (Cổ phiếu thường) là chứng chỉ xác nhận quyền sở hữu của cổ đông đối với công ty và xác nhận cho phép cổ đông được hưởng các quyền lợi thông thường trong công ty. Người nắm giữ cổ phiếu thường là cổ đông thường và là đồng sở hữu của công ty cổ phần. Cổ phiếu thường có những đặc điểm chủ yếu sau: Là loại cổ phiếu có thu nhập phụ thuộc vào hoạt động kinh doanh của công ty. Người sở hữu cổ phiếu phổ thông được tham gia họp Đại hội đồng cổ đông và được bỏ phiếu quyết định những vấn đề quan trọng nhất của công ty, được quyền bầu cử và ứng cử vào Hội đồng Quản trị của công ty. Cổ phiếu của công ty không có thời hạn hoàn trả, vì đây không phải là khoản nợ đối với công ty. Cổ đông được chia phần giá trị tài sản còn lại khi thanh lý công ty sau khi công ty đã thanh toán các khoản nợ và thanh toán cho các cổ đông ưu đãi. Người góp vốn vào công ty không được quyền trực tiếp rút vốn ra khỏi công ty, nhưng được quyền chuyển nhượng sở hữu cổ phần dưới hình thức bán lại cổ phiếu hay dưới hình thức quà tặng hay để lại cho người thừa kế. Chính điều này đã tạo ra tính thanh khoản cho cổ phiếu công ty, đồng thời cũng hấp dẫn nhà đầu tư. Được quyền ưu tiên mua cổ phiếu khi công ty phát hành cổ phiếu mới để tăng vốn. Được quyền triệu tập đại hội đồng cổ đông bất thường theo luật định. Cổ đông thường cũng phải gánh chịu những rủi ro mà công ty gặp phải, tương ứng với phần vốn góp và chỉ chịu trách nhiệm giới hạn trong phạm vi số lượng vốn góp vào công ty. 3.3.2. Các hình thức giá trị của cổ phiếu thường Mệnh giá của cổ phiếu thường: Mệnh giá hay còn gọi là giá trị danh nghĩa là giá trị mà công ty cổ phần ấn định cho một cổ phiếu và được ghi trên cổ phiếu. Mệnh giá cổ phiếu thường được sử dụng để ghi sổ sách kế toán của công ty. Mệnh giá cổ phiếu không có giá trị thực tế đối với nhà đầu tư khi đã đầu tư, nên nó không liên quan đến giá thị trường của cổ phiếu đó. Mệnh giá cổ phiếu chỉ có ý nghĩa quan trọng vào thời điểm công ty phát hành cổ phiếu thường lần đầu huy động vốn thành lập công ty. Mệnh giá thể hiện số tiền tối thiểu Công ty phải nhận được trên mỗi cổ phiếu mà Công ty phát hành ra. Một số nước luật pháp cho phép Công ty cổ phần có thể phát hành cổ phiếu thường không có mệnh giá. Giá trị sổ sách: của cổ phiếu thường là giá trị của cổ phiếu được xác định dựa trên cơ sở số liệu sổ sách kế toán của công ty. Trường hợp công ty chỉ phát hành cổ phiếu thường thì giá trị sổ sách của một cổ phiếu thường được xác định bằng cách lấy vốn chủ sở hữu hoặc tổng giá trị tài sản thuần (phần giá trị chênh lệch giữa giá trị tổng tài sản với tổng số nợ) của công ty chia cho tổng số cổ phiếu thường đang lưu hành. Trường hợp công ty phát hành cả cổ phiếu ưu đãi, thì phải lấy tổng giá trị tài sản thuần trừ đi phần giá trị thuộc cổ phiếu ưu đãi rồi mới chia cho số cổ phiếu thường đang lưu hành. Phần giá trị của cổ phiếu ưu đãi được tính theo mệnh giá hoặc giá mua lại tùy thuộc loại cổ phiếu ưu đãi công ty phát hành và cộng với phần cổ tức công ty còn khất lại chưa trả cho cổ đông ưu đãi trong các kỳ trước đó (nếu có). YViệc xem xét giá trị sổ sách, cho phép Cổ đông thấy được số giá trị tăng thêm của cổ phiếu thường sau một thời gian công ty hoạt động so với số vốn góp ban đầu. Giá trị thị trường: là giá trị thị trường hiện tại của cổ phiếu thường, được thể hiện trong giao dịch cuối cùng đã được ghi nhận. Giá trị thị trường hay còn được gọi là giá thị trường. Thực tế, giá thị trường của cổ phiếu không phải do công ty ấn định và cũng không do người nào khác quyết định, mà giá thị trường của cổ phiếu được xác định bởi giá thống nhất mà người bán sẵn sàng bán nó và giá cao nhất mà người mua sẵn sàng trả để mua nó. YTóm lại, Giá thị trường của cổ phiếu được xác định bởi quan hệ cung - cầu trên thị trường. Giá trị thị trường cổ phiếu của một công ty phụ thuộc rất nhiều yếu tố, do vậy nó thường xuyên biến động. 3.4. CỔ PHIẾU ƯU ĐÃI 3.4.1. Khái niệm và quyền lợi Cổ phiếu ưu đãi là chứng chỉ xác nhận quyền sở hữu trong một công ty, đồng thời cho phép người nắm giữ loại cổ phiếu này được hưởng một số quyền lợi ưu tiên hơn so với cổ đông phổ thông. Người nắm giữ cổ phiếu ưu đãi được gọi là cổ đông ưu đãi của công ty. Cổ đông nắm giữ cổ phiếu ưu đãi có các quyền lợi sau: Quyền được nhận cổ tức trước các cổ đông thường, mặc dù người có cổ phiếu ưu đãi chỉ được quyền hưởng lợi tức cổ phần giới hạn nhưng họ được trả cổ tức trước khi chia lợi tức cho cổ đông thường. Khác với cổ tức của cổ phiếu phổ thông, cổ tức của cổ phiếu ưu đãi được xác định trước và thường được xác định bằng tỷ lệ phần trăm cố định so với mệnh giá của cổ phiếu hoặc bằng số tiền nhất định in trên mỗi cổ phiếu. Quyền ưu tiên được thanh toán trước, khi giải thể hay thanh lý công ty, nhưng sau người có trái phiếu. Tương tự như cổ phiếu phổ thông, nhưng cổ đông sở hữu cổ phiếu ưu đãi không được tham gia bầu cử, ứng cử vào Hội đồng Quản trị và quyết định những vấn đề quan trọng của công ty. Cổ phiếu ưu đãi có thể có mệnh giá hoặc không có mệnh giá và mệnh giá của nó cũng không ảnh hưởng tới giá thị trường của cổ phiếu ưu đãi. Mệnh giá của cổ phiếu ưu đãi có ý nghĩa hơn đối với mệnh giá của cổ phiếu phổ thông, vì nó là căn cứ để trả cổ tức và là căn cứ để hoàn vốn khi thanh lý hay giải thể công ty. Tuy cổ tức của cổ phiếu ưu đãi là cố định, nhưng cổ đông ưu đãi cũng chỉ được nhận cổ tức khi công ty làm ăn có lợi nhuận. 3.4.2. Các loại cổ phiếu ưu đãi Cổ phiếu ưu đãi tích lũy: là loại cổ phiếu ưu đãi có tính chất đảm bảo thanh toán cổ tức. Khi công ty gặp khó khăn, không thanh toán được hoặc chỉ thanh toán một phần cổ tức, thì số chưa thanh toán đó được tích lũy hay cộng dồn và công ty phải trả số cổ tức này trước khi công bố trả cổ tức cho cổ đông thường. Hầu hết cổ phiếu ưu đãi của các công ty là loại cổ phiếu ưu đãi tích lũy và không tham dự. Cổ phiếu ưu đãi không tích lũy: là loại cổ phiếu ưu đãi mà khi công ty gặp khó khăn không trả được cổ tức trong năm tài chính, thì cổ đông ưu đãi đó cũng mất quyền nhận số cổ tức trong năm đó. Cổ phiếu ưu đãi tham dự: là loại cổ phiếu ưu đãi mà cổ đông nắm giữ chúng, ngoài việc hưởng cổ tức ưu đãi theo quy định còn được hưởng thêm phần lợi tức phụ trội theo quy định khi công ty kinh doanh có lợi nhuận cao. Cổ phiếu ưu đãi không tham dự: là loại cổ phiếu ưu đãi mà cổ đông nắm giữ chúng chỉ được hưởng cổ tức ưu đãi cố định theo quy định, ngoài ra không được hưởng thêm bất cứ phần lợi nhuận nào. Cổ phiếu ưu đãi có thể mua lại: là loại cổ phiếu ưu đãi mà công ty có quyền thu hồi lại. Công ty phát hành có quyền yêu cầu mua lại cổ phiếu này vào bất cứ lúc nào, khi công ty có khả năng tài chính. Giá mua lại được xác định từ thời điểm phát hành, giá này thường tính bằng mệnh giá của cổ phiếu ưu đãi cộng thêm phần có tính chất đền bù cho các nhà đầu tư khi công ty mua lại loại cổ phiếu ưu đãi này. Cổ phiếu ưu đãi có thể chuyển đổi: là loại cổ phiếu ưu đãi cho phép người mua có quyền chuyển đổi cổ phiếu ưu đãi này sang các loại chứng khoán khác. 3.5. CỔ PHIẾU CHƯA PHÁT HÀNH Là loại cổ phiếu mà công ty chưa bao giờ bán ra cho các nhà đầu tư trên thị trường 3.6. ĐẶC ĐIỂM CỦA CỔ PHIẾU Tính thanh khoản cao Cổ phiếu có khả năng chuyển hóa thành tiền mặt dễ dàng. Tuy nhiên tính thanh khoản của cổ phiếu phụ thuộc vào các yếu tố sau: Thứ nhất, kết quả kinh doanh của tổ chức phát hành (công ty có cổ phiếu niêm yết). Nếu tổ chức phát hành hoạt động kinh doanh có hiệu quả, trả cổ tức cao, cổ phiếu của công ty sẽ thu hút nhà đầu tư và cổ phiếu thực sự dễ mua bán trên thị trường. Ngược lại nếu công ty làm ăn kém hiệu quả không trả cổ tức hoặc cổ tức thấp, cổ phiếu của công ty sẽ giảm giá và khó bán. Thứ hai, là mối quan hệ cung - cầu trên thị trường chứng khoán: Thị trường cổ phiếu cũng như các loại thị trường khác đều chịu sự chi phối của qui luật cung cầu. Giá cổ phiếu trên thị trường không chỉ phụ thuộc vào chất lượng công ty mà còn phụ thuộc rất lớn vào nhu cầu của nhà đầu tư. Tuy một loại cổ phiếu rất tốt nhưng thị trường đang bão hòa nguồn cung (nhiều hàng bán) thì cổ phiếu đó cũng khó tăng giá. Ngược lại khi thị trường khan hiếm hàng hóa thì ngay cả những cổ phiếu chất lượng kém hơn cũng có thể bán dễ dàng. Tuy nhiên cũng cần chú ý đến sự đầu cơ trong thị trưòng, một số nhà đầu tư sở hữu một phần lớn lượng cổ phiếu trong thị trường, đẩy giá lên xuống theo ý mình để trục lợi. Có tính Lưu thông Tính lưu thông khiến cổ phiếu có giá trị như một loại tài sản thực sư, nếu như tính thanh khoản giúp cho chủ sở hữu cổ phiếu chuyển cổ phiếu thành tiền mặt khi cần thiết thì tính lưu thông giúp chủ sở hữu cổ phiếu thực hiện được nhiều hoạt động như thừa kế tặng cho để thục hiện nghĩa vụ tài sản của mình. Tính Tư bản giả Cổ phiếu có tính tư bản giả tức là cổ phiếu có giá trị như tiền. Tuy nhiên cổ phiếu không phải là tiền và nó chỉ có giá trị khi được đảm bảo bằng tiền. Mệnh giá của cổ phiếu không phản ánh đúng giá trị của cổ phiếu. Tính Rủi ro cao Tính Rủi ro phụ thuộc vào thông tin và tình hình phát triển, chính trị. Giá trị cổ phiếu luôn biến động theo các yếu tố này. 3.7. ĐỊNH GIÁ CỔ PHIẾU 3.7.1. Các cặp khái niệm về giá trị 3.7.1.1. Giá trị thanh lý và giá trị hoạt động Cặp khái niệm này dùng để chỉ giá trị của doanh nghiệp dưới hai giác độ khác nhau. Giá trị thanh lý (liquidation value) là giá trị hay số tiền thu được khi bán doanh nghiệp hay tài sản không còn tiếp tục hoạt động nữa. Giá trị hoạt động (going-concern value) là giá trị hay số tiền thu được khi bán doanh nghiệp vẫn còn tiếp tục hoạt động. Hai loại giá trị này ít khi nào bằng nhau, thậm chí giá trị thanh lý đôi khi còn cao hơn cả giá trị hoạt động. 3.7.1.2. Giá trị sổ sách và giá trị thị trường Khi nói giá trị sổ sách (book value), người ta có thể đề cập đến giá trị sổ sách của một tài sản hoặc giá trị sổ sách của một doanh nghiệp. Giá trị sổ sách của tài sản tức là giá trị kế toán của tài sản đó, nó bằng chi phí mua sắm tài sản trừ đi phần khấu hao tích lũy của tài sản đó. Giá trị sổ sách của doanh nghiệp hay công ty tức là giá trị toàn bộ tài sản của doanh nghiệp trừ đi giá trị các khoản nợ phải trả và giá trị cổ phiếu ưu đãi được liệt kê trên bảng cân đối tài sản của doanh nghiệp. Giá trị thị trường (market value) là giá của tài sản hoặc doanh nghiệp được giao dịch trên thị trường. Nhìn chung, giá trị thị trường của doanh nghiệp thường cao hơn giá trị thanh lý và giá trị hoạt động của nó. 3.7.1.3. Giá trị thị trường và giá trị lý thuyết Cặp giá trị này thường dùng để chỉ giá trị của chứng khoán, tức là giá trị của các loại tài sản tài chính. Giá trị thị trường (market value) của một chứng khoán tức là giá trị của chứng khoán đó khi nó được giao dịch mua bán trên thị trường. Giá trị lý thuyết (intrinsic value) của một chứng khoán là giá trị mà chứng khoán đó nên có dựa trên những yếu có liên quan khi định giá chứng khoán đó. Nói khác đi, giá trị lý thuyết của một chứng khoán tức là giá trị kinh tế của nó và trong điều kiện thị trường hiệu quả thì giá cả thị trường của chứng khoán sẽ phản ánh gần đúng giá trị lý thuyết của nó. 3.7.2. Định giá cổ phiếu ưu đãi Cổ phiếu ưu đãi là loại cổ phiếu mà công ty phát hành cam kết trả tỷ lệ cổ tức cố định hàng năm và không có tuyên bố ngày đáo hạn. Rõ ràng loại cổ phiếu này có những tính chất giống như trái phiếu vĩnh cửu. Do đó, mô hình định giá trái phiếu vĩnh cửu có thể áp dụng để định giá cổ phiếu ưu đãi. Giá cổ phiếu ưu đãi được xác định theo công thức sau: V = Dp/kp , trong đó Dp là cổ tức hàng năm của cổ phiếu ưu đãi và kp là tỷ suất chiết khấu thích hợp. Giả sử REE phát hành cổ phiếu ưu đãi mệnh giá 100$ trả cổ tức 9% và nhà đầu tư đòi hỏi tỷ suất lợi nhuận 14% khi mua cổ phiếu này, giá cổ phiếu này sẽ là: V = $9/0,14 = 64,29$ 3.7.3. Định giá cổ phiếu thường 3.7.3.1 Ý tưởng chung Cổ phiếu thường là chứng nhận đầu tư vào công ty cổ phần. Người mua cổ phiếu thường được chia lợi nhuận hàng năm từ kết quả hoạt động của công ty và được sở hữu một phần giá trị công ty tương ứng với giá trị cổ phiếu họ đang nắm giữ. Khi định giá trái phiếu và cổ phiếu ưu đãi chúng ta thấy rằng giá trái phiếu và cổ phiếu ưu đãi chính là hiện giá của dòng tiền tệ thu nhập tạo ra cho nhà đầu tư. Tương tự, giá cổ phiếu thường cũng được xem như là hiện giá dòng tiền tệ thu nhập tạo ra cho nhà đầu tư từ cổ phiếu thường. Do đó, mô hình định giá cổ phiếu thường nói chung có dạng như sau: V = D1 + D2 +…+ D∞ = ∞ ∑ FVt t =1 Dt (1+ke)1 (1+ke)2 (1+ke)∞ (1+ke)t Trong đó Dt là cổ tức được chia ở thời kỳ t và ke là tỷ suất lợi nhuận đòi hỏi của nhà đầu tư. Tuy nhiên mô hình này chỉ phù hợp với tình huống nhà đầu tư mua cổ phiếu và giữ mãi mãi để hưởng cổ tức. Nếu nhà đầu tư mua cổ phiếu và chỉ giữ nó 2 năm sau đó bán lại với giá là P2, thì giá cổ phiếu sẽ là: V = D1 + D2 + P2 (1+ke)1 (1+ke)2 (1+ke)∞ 3.7.3.2 Phương pháp định giá cổ phiếu theo dòng cổ tức Mô hình chiết khấu cổ tức được thiết kế để tính giá trị lý thuyết (intrinsic value) của cổ phiếu thường. Mô hình này được Merrill Lynch, CS First Boston và một số ngân hàng đầu tư khác sử dụng với giả định: (1) biết được động thái tăng trưởng của cổ tức, và (2) biết trước tỷ suất chiết khấu (sẽ xem xét ở các bài sau). Liên quan đến động thái tăng trưởng cổ tức, chúng ta xem xét các trường hợp sau: Trường hợp tốc độ tăng trưởng cổ tức không đổi Trong trường hợp này mô hình định giá cổ phiếu như sau: V = D0(1+g) + D0(1+g)2 +…+ D0(1+g)∞ (1+ke)1 (1+ke)2 (1+ke)∞ (4.1) trong đó D0 là cổ tức hiện tại của cổ phiếu và g là tốc độ tăng trưởng cổ tức. Cổ tức kỳ vọng ở cuối kỳ n bằng cổ tức hiện tại nhân với thừa số (1+g)n. Giả sử rằng ke > g, chúng ta nhân 2 vế của (4.1) với (1+ke)/(1+g), sau đó trừ vế với vế cho (4.1) chúng ta được: V(1+ke) - V = D0 - D0(1+g)∞ (1+g) (1+ke)∞ (4.2) Bởi vì chúng ta giả định ke>g nên: D0(1+g)∞ (1+ke)∞ tiến đến zero. Kết quả là: V (1+ke) - 1 = D0 hay V (1+ke) – (1+g) = D0 (1+g) (1+g) V(ke – g) = D0(1+g) = D1. Từ đây suy ra: V = D1/ (ke – g) (4.3). Công thức (4.3) còn được gọi là Mô hình định giá cổ tức của Gordon bởi vì nó do Myron J. Gordon phát triển từ công trình nghiên cứu của người đi trước là John Williams. Từ (4.3) chúng ta có thể sắp xếp lại để có được công thức tính lợi suất đòi hỏi của nhà đầu tư: ke = (D1/V) + g (4.4) Để minh hoạ công thức (4.3) chúng ta lấy ví dụ cổ tức kỳ vọng của cổ phiếu công ty LKN ở thời kỳ t = 1 là 4$. Cổ tức này được kỳ vọng tăng 6% trong tương lai. Hỏi giá cổ phiếu là bao nhiêu nếu nhà đầu tư đòi hỏi tỷ suất lợi nhuận là 14%? V = D1/ (ke – g) = 4/(0,14 - 0,06) = 50$. Trường hợp tốc độ tăng trưởng cổ tức bằng không Đây chỉ là một trường hợp đặc biệt của mô hình tốc độ tăng trưởng cổ tức không đổi khi g = 0. Khi đó công thức (4.3) có thể viết thành V = D1/ke (4.5). Mặc dù ít khi có cổ phiếu nào có tốc độ tăng trưởng bằng 0 mãi nhưng với những cổ phiếu nào có cổ tức ổn định và duy trì trong một thời gian dài thì (4.5) có thể áp dụng để xác định gần đúng giá cổ phiếu. Cổ phiếu ưu đãi có thể xem như là loại cổ phiếu có tốc độ tăng trưởng cổ tức bằng không. Hạn chế của mô hình chiếu khấu cổ tức Mô hình chiết khấu cổ tức có thể áp dụng để định giá cổ phiếu trong các trường hợp tốc độ tăng trưởng cổ tức bằng 0, hoặc bằng g không đổi và ngay cả trong trường hợp tốc độ tăng trưởng cổ tức thay đổi qua từng thời kỳ (tuy có phức tạp nhưng vẫn có thể tính được) nhưng mô hình này không áp dụng được trong trường hợp công ty giữ lại toàn bộ lợi nhuận cho tái đầu tư và không trong trả cổ tức cho cổ đông. 3.7.3.3. Phương pháp định giá cổ phiếu theo tỷ số PE (Price- Earnings ratio) Phương pháp này đưa ra cách tính giá cổ phiếu rất đơn giản bằng cách lấy lợi nhuận kỳ vọng trên mỗi cổ phiếu nhân với tỷ số PE bình quân của ngành. Ví dụ một công ty kỳ vọng sẽ kiếm được lợi nhuận trên mỗi cổ phiếu là 3$ trong năm tới và tỷ số PE bình quân của ngành là 15 thì giá cổ phiếu sẽ là: V = (Lợi nhuận kỳ vọng trên cổ phiếu) x (Tỷ số PE bình quân ngành) = 3$ x 15 = 45$ Phương pháp này đơn giản, dễ áp dụng nhưng có nhiều hạn chế. Thứ nhất việc định giá cổ phiếu thường không chính xác do phải phụ thuộc vào việc ước lượng lợi nhuận kỳ vọng trên cổ phiếu. Thứ hai, làm thế nào để chọn được tỷ số PE phù hợp và liệu nhà đầu tư có tin tưởng vào tỷ số PE bình quân của ngành hay không, nếu có thì vẫn còn sai số giữa tỷ số PE của ngành và PE của công ty. 3.8. PHÁT HÀNH CHỨNG KHOÁN 3.8.1. Các chủ thể phát hành Chủ thể phát hành chứng khoán là tổ chức huy động vốn bằng cách bán chứng khoán do mình phát hành cho nhà đầu tư. Chủ thể phát hành bao gồm: Chính phủ, các doanh nghiệp và các quỹ đầu tư. 3.8.1.1. Chính phủ Mục đích phát hành của Chính phủ là bù đắp sự thiếu hụt ngân sách và huy động vốn để tài trợ cho các công trình, dự án lớn và quan trọng. Chính phủ phát hành các loại chứng khoán bao gồm: Trái phiếu Chính phủ, Trái phiếu công trình và Tín phiếu kho bạc. 3.8.1.2. Các doanh nghiệp Các doanh nghiệp phát hành ra các chứng khoán để huy động vốn và tăng vốn cho sản xuất kinh doanh bên cạnh nguồn vốn đi vay từ các Ngân hàng thương mại. Trong nền kinh tế thị trường có 3 hình thức tổ chức doanh nghiệp cơ bản, đó là: Doanh nghiệp một chủ, Công ty hợp danh và Công ty cổ phần. Ở Việt Nam, theo Luật doanh nghiệp ban hành năm 1998 và có hiệu lực năm 1999, chỉ có các công ty cổ phần và doanh nghiệp Nhà nước cổ phần hóa là tổ chức được phép phát hành cả trái phiếu và cổ phiếu. Doanh nghiệp Nhà nước và các Công ty TNHH được phép phát hành trái phiếu để huy động vốn. Các doanh nghiệp còn lại: Doanh nghiệp tư nhân, Hợp tác xã, Công ty hợp danh không được phép phát hành bất cứ loại chứng khoán nào ra thị trường. 3.8.1.3. Các quỹ đầu tư Quỹ đầu tư là những tổ chức đầu tư chuyên nghiệp, được hình thành bằng vốn góp của các nhà đầu tư để tiến hành đầu tư vào chứng khoán và các loại hình đầu tư khác. Mục đích thành lập quỹ đầu tư là tập hợp và thu hút những nhà đầu tư nhỏ, lẻ tham gia kinh doanh. Đặc trưng cơ bản nhất của Quỹ đầu tư là quỹ vừa đóng vai trò là tổ chức phát hành bằng việc phát hành ra các chứng khoán như cổ phiếu, chứng chỉ quỹ đầu tư vừa đóng vai trò là tổ chức đầu tư, kinh doanh các loại chứng khoán.Quỹ đầu tư có nhiều loại, mỗi loại sẽ có phương thức phát hành chứng khoán khác nhau. 3.8.2 Các phương thức phát hành chứng khoán Các phương thức phát hành được phân chia theo các tiêu thức khác nhau. 3.8.2.1. Phân loại theo đợt phát hành Theo tiêu thức này, người ta phân chia phương thức phát hành thành phát hành chứng khoán lần đầu và phát hành các đợt tiếp theo. Phát hành chứng khoán lần đầu là việc tổ chức phát hành chứng khoán lần đầu tiên sau khi tổ chức phát hành đã đáp ứng các tiêu chuẩn theo quy định của UBCKNN. Phát hành các đợt tiếp theo là hoạt động phát hành nhằm mục đích tăng thêm vốn của tổ chức phát hành đó là việc tổ chức phát hành đó các đợt tiếp theo đã có chứng khoán phát hành

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docbai_giang_ttck__6482.doc