Bài giảng kinh tế học vi mô - Lê Thị Lệ Huyền

Tài liệu Bài giảng kinh tế học vi mô - Lê Thị Lệ Huyền: TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐÔNG Á KHOA KẾ TOÁN – TÀI CHÍNH GIÁO TRÌNH KINH TẾ HỌC VI MÔ Biên soạn: Ths.Lê Thị Lệ Huyền Đà Nẵng, năm 2010 CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ KINH TẾ HỌC VI MÔ - Xác định được 3 vấn đề cơ bản của nền kinh tế. - Định nghĩa được kinh tế vi mô - Phân biệt được kinh tế vi mô và kinh tế vĩ mô, kinh tế học thực chứng và kinh tế học chuẩn tắc. - Trình bày được khái niệm chi phí cơ hội và nắm rõ quy luật khan hiếm, lợi suất giảm dần để lựa chọn kinh tế tối ưu Các nhà kinh tế cho rằng vấn đề trọng tâm của kinh tế học là sự khan hiếm. Sự khan hiếm nguồn lực đòi hỏi các cá nhân và xã hội đưa ra quyết định lựa chọn. Kinh tế học nghiên cứu sự lựa chọn trong điều kiện nguồn lực khan hiếm. Chương này đề cập đến những vấn đề kinh tế cơ bản và cách thức giải quyết các vấn đề trong nền kinh tế, các mối quan hệ trong nền kinh tế và sự tương tác với thị trường, những khái niệm và nguyên lý cơ bản của kinh tế học, phạm vi phân tích của kinh tế học vi mô và vĩ mô và cách thức tiếp cận tron...

docx88 trang | Chia sẻ: ntt139 | Lượt xem: 838 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Bài giảng kinh tế học vi mô - Lê Thị Lệ Huyền, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐÔNG Á KHOA KẾ TOÁN – TÀI CHÍNH GIÁO TRÌNH KINH TẾ HỌC VI MÔ Biên soạn: Ths.Lê Thị Lệ Huyền Đà Nẵng, năm 2010 CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ KINH TẾ HỌC VI MÔ - Xác định được 3 vấn đề cơ bản của nền kinh tế. - Định nghĩa được kinh tế vi mô - Phân biệt được kinh tế vi mô và kinh tế vĩ mô, kinh tế học thực chứng và kinh tế học chuẩn tắc. - Trình bày được khái niệm chi phí cơ hội và nắm rõ quy luật khan hiếm, lợi suất giảm dần để lựa chọn kinh tế tối ưu Các nhà kinh tế cho rằng vấn đề trọng tâm của kinh tế học là sự khan hiếm. Sự khan hiếm nguồn lực đòi hỏi các cá nhân và xã hội đưa ra quyết định lựa chọn. Kinh tế học nghiên cứu sự lựa chọn trong điều kiện nguồn lực khan hiếm. Chương này đề cập đến những vấn đề kinh tế cơ bản và cách thức giải quyết các vấn đề trong nền kinh tế, các mối quan hệ trong nền kinh tế và sự tương tác với thị trường, những khái niệm và nguyên lý cơ bản của kinh tế học, phạm vi phân tích của kinh tế học vi mô và vĩ mô và cách thức tiếp cận trong nghiên cứu các vấn đề kinh tế. 1.1 Những vấn đề kinh tế cơ bản của nền kinh tế: 1.1.1 Các vấn đề kinh tế cơ bản: Các nhu cầu của con người được thỏa mãn từ nguồn lực sẵn có trong thiên nhiên hay được sản xuất ra bằng cách kết hợp các nguồn lực về con người, công cụ, máy móc, tài nguyên để tạo ra các sản phẩm dịch vụ thỏa mãn mong muốn của con người. Tuy nhiên nhu cầu con người là vô hạn trong khi đó nguồn lực thì hữu hạn cho nên cần có giải pháp để giải quyết vấn đề nguồn lực có thể đáp ứng nhu cầu. Điều này chỉ có thể thực hiện thông qua một cơ chế tổ chức đó là nền kinh tế. Để hiểu được sự vận hành của nền kinh tế chúng ta phải nhận thức được những vấn đề cơ bản mà bất kỳ nền kinh tế nào cũng phải giải quyết. Đó là: Sản xuất cái gì? Sản xuất như thế nào? Sản xuất cho ai? 1.1.1.1 Sản xuất cái gì? Vấn đề này có thể được hiểu là: Sản phẩm, hàng hóa dịch vụ nào được sản xuất. Trong nền kinh tế thị trường sự tương tác giữa người mua và người bán vì lợi ích cá nhân sẽ xác định sản phẩm dịch vụ nào sẽ được sản xuất. Sự cạnh tranh làm cho các nhà sản xuất cung cấp các sản phẩm thỏa mãn nhu cầu của người tiêu dùng vì mục tiêu của nhà sản xuất là tìm kiếm lợi nhuận cho nên họ cố gắng cung cấp các sản phẩm có chất lượng cao hơn để phục vụ tốt hơn cho người tiêu dùng nhằm thu hút sức mua. Và để giải quyết vấn đề trên, các nhà sản xuất phải căn cứ vào nhu cầu rất đa dạng và phong phú về hàng hoá dịch vụ của người tiêu dùng. Nhu cầu này có xu hướng ngày càng tăng cả về số lượng và chất lượng.Cho nên đây chính là căn cứ để cho các nhà sản xuất lựa chọn và quyết định sản xuất cái gì để cung ứng trên thị trường. Bên cạnh việc lựa chọn sản xuất cái gì, nhà sản xuất phải quyết định sản xuất bao nhiêu, cơ cấu thế nào, khi nào thì sản xuất và cung ứng là có ý nghĩa rất quan trọng. Bởi vì nhu cầu của xã hội đối với bất cứ mặt hàng nào cũng có giới hạn riêng và thời điểm nảy sinh nhu cầu theo từng loại hàng cũng khác nhau tuỳ vào loại hàng hoá cũng như các yếu tố về mặt tâm lý, thói quên thị hiếu,của người tiêu dùng. Vì vậy, lựa chọn và quyết định sản xuất bao nhiêu, bao giờ thì sản xuất đúng đắn, phù hợp với nguồn lực, năng lực sản xuất của đơn vị sẽ đảm bảo cho quá trình kinh doanh có hiệu quả. 1.1.1.2. Sản xuất như thế nào? Vấn đề thứ hai có thể phát biểu một cách hoàn chỉnh như là: Sản phẩm và dịch vụ được sản xuất bằng cách nào? Vấn đề này liên quan đến việc xác định những nguồn lực nào được sử dụng và phương pháp để sản xuất ra những sản phẩm, dịch vụ. Tuy nhiên việc lựa chọn phương pháp sản xuất nào còn phải xem xét trên khía cạnh hiệu quả kinh tế- xã hội, nguồn lực và trình độ khoa học công nghệ của mỗi đơn vị sản xuất. Trong nền kinh tế thị trường, các nhà sản xuất với mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận sẽ phải tìm kiếm và lựa chọn những nguồn tài nguyên, trình độ công nghệ, phương pháp tổ chức và quản lý sản xuất để đạt năng suất và chất lượng cao nhất với chi phí thấp nhất. Trong điều kiện thu nhập của xã hội có xu hướng ngày càng tăng thì chất lượng hàng hoá dịch vụ có ý nghĩa quyết định trong cạnh tranh, chiếm lĩnh thị trường và thực hiện mục tiêu cơ bản của các nhà sản xuất, các doanh nghiệp. Trong điều kiện cạnh tranh mạnh mẽ buộc các nhà sản xuất phải luôn đổi mới kỹ thuật và công nghệ, không ngừng nâng cao trình độ quản lý kinh doanh và trình độ lành nghề cho người lao động để đổi mới sản phẩm và nâng cao chất lượng sản phẩm. 1.1.1.3 Sản xuất cho ai? Vấn đề thứ ba cần giải quyết đó là “ Ai sẽ nhận sản phẩm và dịch vụ”. Trong nền kinh tế thị trường, thu nhập và giá cả xác định ai sẽ nhận hàng hóa và dịch vụ cung cấp. Điều này được xác định thông qua tương tác giữa người mua và bán trên thị trường sản phẩm và thị trường nguồn lực. Thu nhập chính là nguồn tạo ra năng lực mua sắm của các cá nhân và phân phối thu nhập được xác định thông qua: tiền lương, tiền lãi, tiền cho thuê và lợi nhuận trên thị trường nguồn lực sản xuất. Trong nền kinh tế thi trường, những ai có nguồn tài nguyên, lao động, vốn, kỹ năng quản lý cao sẽ nhận được thu nhập cao hơn. Với thu nhập này các cá nhân sẽ đưa ra quyết định loại và số lượng sản phẩm sẽ mua trên thị trường sản phẩm và giá cả định hướng cách thức phân bổ nguồn lực cho những ai mong muốn trả với mức giá thị trường. Cách giải quyết các vấn đề kinh tế cơ bản: Các vấn đề kinh tế cơ bản của nền kinh tế, cụ thể là mối quan hệ giữa sản xuất và tiêu dùng được giải quyết thông qua các mô hình của nền kinh tế: nền kinh tế hàng hóa tập trung, nền kinh tế thị trường, nền kinh tế hỗn hợp. Các mô hình này được hình thành dựa trên hai tiêu chí: Quan hệ sở hữu về nguồn lực sản xuất. Cơ chế phối hợp và định hướng các hoạt động của nền kinh tế. 1.1.2.1 Nền kinh tế hàng hóa tập trung: Nền kinh tế được đặc trưng bởi quyền sở hữu công cộng đối với mọi nguồn lực và quyền đưa ra các quyết định bởi nhà nước thông qua cơ chế kế hoạch hóa tập trung. Nhà nước quyết định cơ cấu các ngành, đơn vị sản xuất và phân bố sản lượng và các nguồn lực sử dụng để tổ chức quá trình sản xuất. Các doanh nghiệp sở hữu bởi chính phủ và sản xuất theo định hướng của nhà nước. Nhà nước giao kế hoạch sản xuất và định mức chi tiêu cho các doanh nghiệp và hoạch định phân bổ nguồn lực cụ thể cho doanh nghiệp để thực hiện các mục tiêu sản xuất này. 1.1.2.2 Nền kinh tế thị trường: Nền kinh tế đặc trưng bởi quan hệ sở hữu tư nhân về nguồn lực sản xuất và sử dụng hệ thống thị trường và giá cả để phối hợp, định hướng các hoạt động kinh tế. Thị trường là một cơ chế mà ở đó các quyết định và sở thích cá nhân được truyền thông và phối hợp với nhau. Dựa vào nhu cầu người tiêu dùng để các nhà sản xuất quyết định sản xuất cái gì. Bên cạnh đó các sản phẩm và dịch vụ được tạo ra và các nguồn lực được cung cấp trong điều kiện cạnh tranh của thị trường cho nên các nhà sản xuất phải lựa chọn các phương pháp sản xuất với chi phí thấp nhất, cân nhắc giá cả của các hệ thống đầu vào nhằm thúc đẩy sử dụng nguồn lực hiệu quả, gia tăng sản lượng, ổn định việc làm và tăng trưởng kinh tế. Vì vậy đây là nền kinh tế có tính hiệu quả nhất và giá cả là phạm trù trung tâm của nền kinh tế này. Bởi thị trường là một cơ chế trong đó người mua và người bán một thứ hàng hóa hoặc dịch vụ tương tác với nhau để xác định giá cả và thị trường. Cơ chế thị trường là một hình thức tổ chức kinh tế trong đó người tiêu dùng và người sản xuất tác động lẫn nhau qua thị trường để đồng thời giải quyết ba vấn đề cái gì, như thế nào và cho ai. 1.1.2.3 Nền kinh tế hỗn hợp: Nền kinh tế này nằm giữa hai thái cực của kinh tế thị trường và kinh tế hàng hóa tập trung. Hầu hết, các quốc gia hiện nay đều vận dụng mô hình kinh tế hỗn hợp. Nền kinh tế hỗn hợp phát huy ưu điểm của nền kinh tế thị trường, đồng thời tăng cường vai trò của chính phủ trong việc điều chỉnh các khiếm khuyết của nền kinh tế thị trường. Trong nền kinh tế hỗn hợp các thể chế công cộng và tư nhân đều kiểm soát nền kinh tế. Thể chế tư nhân kiểm soát thông qua bàn tay vô hình của cơ chế thị trường, còn thể chế công cộng kiểm soát bằng những mệnh lệnh và những chính sách nhằm kích thích về tài chính và tiền tệ của chính phủ. Xu hướng chung trên thế giới hiện nay và kể cả Việt Nam là kiểu tổ chức kinh tế theo mô hình kinh tế hỗn hợp. Với kiểu tổ chức này các yếu tố thị trường, chỉ huy và truyền thống cùng tham gia quyết định các vấn đề kinh tế. 1.2. Đối tượng, nội dung, phương pháp nghiên cứu của kinh tế học vi mô: 1.2.1. Kinh tế học vi mô và mối quan hệ với kinh tế học vĩ mô: Kinh tế học là môn khoa học nghiên cứu sự lựa chọn khi con người đương đầu với nguồn lực khan hiếm. Kinh tế học tập trung nghiên cứu việc sử dụng và quản lý các nguồn lực khan hiếm để thỏa mãn tối đa nhu cầu vật chất của con người. Đặc biệt, kinh tế học nghiên cứu hành vi trong sản xuất, phân phối và tiêu dùng hàng hóa và dịch vụ trong thế giới nguồn lực han chế. Tính cấp thiết của kinh tế học là nhận thức được thực tế của sự khan hiếm và dự kiến tổ chức xã hội như thế nào để sử dụng các nguồn lực một cách có hiệu quả nhất. Căn cứ vào phạm vi nghiên cứu, kinh tế học được chia thành: Kinh tế học vi mô và kinh tế học vĩ mô Kinh tế học vi mô: Là môn học nghiên cứu hành vi, cách ứng xử của các chủ thể trong nền kinh tế, sự tương tác của các chủ thể này trên các thị trường khác nhau. Kinh tế vi mô đi nghiên cứu các hành vi cụ thể của từng cá nhân, từng doanh nghiệp trong việc lựa chọn và quyết định ba vấn đề kinh tế cơ bản cho mình là sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào và phân phối ra sao để có thể đứng vững và phát triển cạnh tranh trên thị trường. Nói một cách cụ thể là kinh tế học vi mô nghiên cứu xem họ đạt được mục đích với nguồn tài nguyên hạn chế bằng cách nào và sự tác động của họ đến toàn bộ nền kinh tế quốc dân ra sao. Mục tiêu của kinh tế học vi mô nhằm giải thích giá và lượng của một hàng hóa cụ thể. Kinh tế học vi mô còn nghiên cứu các quy định,chính sách thuế của chính phủ tác động đến giá và lượng hàng hóa và dịch vụ cụ thể. Chẳng hạn, kinh tế học vi mô nghiên cứu các yếu tố nhằm xác định giá và lượng xe ô tô, đồng thời nghiên cứu các quy định và thuế của chính phủ tác động đến giá cả và lượng sản xuất xe ô tô trên thị trường. Kinh tế học vĩ mô: Là môn học nghiên cứu tổng thể nền kinh tế, cách thức vận hành của toàn bộ nền kinh tế quốc dân và các chính sách của nhà nước có thể tác động vào tổng thể nền kinh tế, cải thiện hiệu quả hoạt động của nền kinh tế như nghiên cứu ảnh hưởng vay nợ của Chính phủ đến tăng trưởng kinh tế của một đất nước, thay đổi của tỉ lệ thất nghiệp trong nền kinh tế, quan hệ giữa thất nghiệp và lạm phát, nghiên cứu tác động của các chính sách nhằm ổn định nền kinh tế... Mối liên hệ giữa kinh tế vi mô và kinh tế vĩ mô: Kinh tế vi mô & kinh tế vĩ mô tuy khác nhau nhưng đều là nội dung quan trọng của kinh tế học, không thể chia cắt mà bổ sung cho nhau, tạo thành hệ thống kiến thức kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước Kinh tế vĩ mô tạo hành lang, tạo môi trường, tạo điều kiện cho kinh tế vi mô phát triển. Thực tế đã chứng minh, kết quả của kinh tế vĩ mô phụ thuộc vào các hành vi của kinh tế vi mô, kinh tế quốc dân phụ thuộc vào sự phát triển của các doanh nghiệp, của các tế bào kinh tế trong sự tác động ảnh hưởng của nền kinh tế. Căn cứ vào cách thức sử dụng thì kinh tế học được chia thành 2 dạng: kinh tế học thực chứng và kinh tế học chuẩn tắc: Kinh tế học thực chứng là một nhánh kinh tế học quan tâm tới việc miêu tả và giải thích các hiện tượng kinh tế ,đưa ra các phát biểu có tính khoa học về hành vi kinh tế . Kinh tế học thực chứng, với tư cách là một môn khoa học quan tâm tới việc phân tích hành vi kinh tế. Nó không quan tâm tới việc phán xét giá trị kinh tế. Ví dụ, lý thuyết kinh tế học thực chứng có thể miêu tả việc tăng cung tiền ảnh hưởng tới lạm phát thế nào, nhưng nó không đưa ra một đề nghị nào về cần có chính sách gì khi đó. Hay Kinh tế học thực chứng đề cập đến "điều gì là?". Chẳng hạn, một phát biểu thực chứng là "thất nghiệp là 7% trong lực lượng lao động". Dĩ nhiên, con số 7% này dựa trên các dữ liệu thống kê và đã được kiểm chứng. Vì vậy, không có gì phải tranh cãi với các phát biểu thực chứng. Kinh tế học Chuẩn tắc liên quan đến các đánh giá của cá nhân về nền kinh tế phải là như thế này, hay chính sách kinh tế phải hành động ra sao dựa trên các mối quan hệ kinh tế. Kinh tế học Chuẩn tắc đề cập đến "điều gì phải là?". Chẳng hạn, một phát biểu chuẩn tắc là "thất nghiệp phải được giảm xuống". 1.2.2. Vị trí và ý nghĩa, đối tượng của việc nghiên cứu kinh tế học vi mô: 1.2.2.1 Vị trí, ý nghĩa của việc nghiên cứu KTH vi mô: - Kinh tế hoc vi mô là một môn khoa học kinh tế cơ bản, cung cấp kiến thức về kinh tế thị trường để ra quyết định tối ưu. - Kinh tế học vi mô có quan hệ với các môn học khác, nó là cơ sở lý thuyết để nghiên cứu các môn kinh tế ngành và quản trị kinh doanh. 1.2.2.2 Đối tượng nghiên cứu: Kinh tế học vi mô chỉ đề cập đến hoạt động của từng tế bào kinh tế: người sản xuất, người tiêu dùng, chính phủ đến các mục tiêu của họ và cách thức để đạt được mục tiêu đó. Cụ thể: Kinh tế học vi mô là môn khoa học nghiên cứu và giải quyết ba vấn đề kinh tế cơ bản của một doanh nghiệp trong nền kinh tế: sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào và sản xuất cho ai?. Ba vấn đề kinh tế cơ bản trên được thể hiện ở những vấn đề về tiêu dùng cá nhân, cung, cầu hàng hoá, sản xuất và chi phí, giá cả thị trường, canh tranh, lợi nhuận của từng doanh nghiệp Kinh tế vi mô nghiên cứu hành vi của người tiêu dùng, hành vi của doanh nghiệp và sự tác động của chúng đến nền kinh tế trên cơ sở của những qui luật, những xu thế vận động tất yếu của nền kinh tế thị trường. Kinh tế học vi mô cũng phân tích những mặt trái (trục trặc, khuyết tật, thất bại,...) của nền kinh tế thị trường và vai trò can thiệp, điều tiết của nhà nước để hướng dẫn“bàn tay vô hình hoạt động có hiệu qủa. 1.2.3 Nội dung nghiên cứu của kinh tế học vi mô: Những vấn đề kinh tế cơ bản của nền kinh tế, lý thuyết lựa chọn kinh tế tối ưu. Cung cầu hàng hoá, các yếu tố ảnh hưởng đến cung cầu hàng hoá, sự thay đổi của cung cầu hàng hoá và giá cả trên thị trường. Lý thuyết về người tiêu dùng bao gồm: lý thuyết về lợi ích, lý thuyết về đường ngân sách, đường cong đẳng ích, về sự co dãn của cung và cầu hàng hoá nhằm làm rõ những vấn đề liên quan đến hành vi lựa chọn của của người tiêu dùng. Lý thuyết về sản xuất và chi phí, nghiên cứu các vấn đề liên quan đến sản xuất của doanh nghiệp như: hàm sản xuất, các yếu tố đầu vào, năng suất lao động và vốn. Hành vi ứng xử của doanh nghiệp để đạt lợi nhuận tối đa trong thị trường cạnh tranh và độc quyền. Những hạn chế của kinh tế thị trường và vai trò của Chính phủ trong việc điều tiết các hoạt động kinh tế ở các doanh nghiệp để nền kinh tế phát triển ổn định và đảm bảo công bằng xã hội. 1.2.4 Phương pháp nghiên cứu kinh tế học vi mô Kinh tế học vi mô là môn khoa học xã hội sử dụng phương pháp nghiên cứu giống như những môn khoa học xã hội khác và có sử dụng phương pháp nghiên cứu cụ thể, phù hợp với đặc thù của môn học. Những phương pháp chung + Nghiên cứu những vấn đề lý luận, phương pháp luận và phương pháp lựa chọn kinh tế tối ưu trong các hoạt động kinh tế vi mô. Muốn vậy phải nắm vững các khái niệm, định nghĩa, nội dung và công thức toán học, cơ sở hình thành các hoạt động kinh tế vi mô và quan trọng là rút ra được tính tất yếu và xu thế phát triển của chúng. + Gắn chặt việc nghiên cứu lý luận, phương pháp luận với thực hành để có thể giải quyết những vấn đề kinh tế cơ bản của doanh nghiệp. Việc phân tích và giải quyết tình huống về mặt lý thuyết của các hoạt động kinh tế vi mô để nắm vững lý thuyết là rất cần thiết. + Nghiên cứu lý luận phải gắn liền với giải thích các vấn đề thực tiễn của các hoạt động kinh tế học vi mô của các doanh nghiệp ở Việt Nam và các nước. Những kết quả thu được sẽ là minh chứng và cơ sở để hoàn thiện những vấn đề về lý luận, phương pháp luận của kinh tế học vi mô. Phương pháp cụ thể + Sử dụng toán học làm công cụ nghiên cứu kinh tế học vi mô để mô hình hoá, lượng hoá các đối tượng của kinh tế vi mô và mối quan hệ giữa chúng. + Vận dụng phương pháp cân bằng nội bộ giữa các bộ phận trong tổng thể, đơn giản hoá các mối quan hệ phức tạp của các nội dung nghiên cứu trong kinh tế vi mô. Việc sử dụng kết hợp, đồng thời hai phương pháp nghiên cứu trên là cần thiết để phân tích, đánh giá và kết luận một cách đúng đắn những nội dung nghiên cứu của kinh tế vi mô. 1.3. Lý thuyết lựa chọn: 1.3.1. Những vấn đề cơ bản của lý thuyết lựa chọn: 1.3.1.1 Lý thuyết lựa chọn: Như đã trình bày kinh tế học là việc nghiên cứu xem các cá nhân và các nền kinh tế giải quyết vấn đề cơ bản của sự khan hiếm như thế nào. Do không có đủ nguồn tài nguyên để thoả mãn nhu cầu của các cá nhân và toàn xã hội, các cá nhân và xã hội phải đưa ra sự lựa chọn trong số các lựa chọn thay thế cạnh tranh. Cơ sở lý luận cho sự lựa chọn này chính là lý thuyết lựa chọn: Lý thuyết lựa chọn là tìm cách lý giải cách thức mà mỗi cá nhân, tổ chức đưa ra quyết định của mình để giải quyết ba vấn đề kinh tế cơ bản nói trên và nó cố gắng giải thích tại sao họ lựa chọn như vậy hay Lựa chọn là cách thức mà các đơn vị kinh tế sử dụng để ra quyết định có lợi nhất. Ví dụ: Một cá nhân có một khoản tiền là 100 triệu đồng. Người này sẽ phân tích các phương án sử dụng số tiền này sao cho có lợi nhất. Một số phương án: PA1: Cất đi =>không rủi ro, không sinh lời. PA2: Gửi ngân hàng => An toàn nhưng sinh lời ít PA3: Bỏ vào kinh doanh => Rủi ro cao nhưng lợi nhuận hấp dẫn. Với các phương án đó thì người này sẽ cân nhắc cái được và cái mất trong mỗi phương án để đưa ra quyết định tối ưu nhất cho bản thân. Như vậy bản chất của sự lựa chọn là sự đánh đổi được cái này mất cái kia tức là để nhận được một lợi ích nào đó buộc chúng ta phải đánh đổi hoặc bỏ qua một chi phí nhất định cho nó. Quyết định của sự lựa chọn được cân nhắc trên cơ sở xem xét chi phí cơ hội. Bởi lẽ mỗi cá nhân trong xã hội sở hữu những nguồn lực nhất định để có thể sản xuất hay tiêu dùng một số hàng hóa nhất định cho dù cá nhân có nguồn lực có dồi dào đi chăng nữa thì sự giới hạn về thời gian và nhân lực chỉ cho phép họ sản xuất hay tiêu dùng một số hàng hóa nhất định. Chi phí cơ hội của một phương án được lựa chọn là giá trị của phương án tốt nhất bị bỏ qua khi thực hiện sự lựa chọn đó (và là những lợi ích mất đi khi chọn phương án này mà không chọn phương án khác; Phương án được chọn khác có thể tốt hơn phương án đã chọn). Do quy luật về sự khan hiếm nên luôn tồn tại những sự đánh đổi khi thực hiện các sự lựa chọn. Hay nói cách khác, chi phí cơ hội luôn tồn tại. Một ví dụ đơn giản của chi phí cơ hội là khi lựa chọn việc đến lớp nghe giáo sư giảng bài, một học viên sẽ mất cơ hội gặp gỡ ký kết hợp đồng với một đối tác làm ăn, hoặc mất cơ hội tham dự một hội thảo khác cũng đang được tổ chức trong thời gian đó. Thời gian là nguồn lực khan hiếm nên không thể cùng một lúc thực hiện được cả ba phương án. Nếu lựa chọn đến lớp nghe giáo sư giảng bài, thì phương án tốt nhất bị bỏ qua đối với người học viên là gặp mặt đối tác để ký kết hợp đồng. Cụ thể hơn, nếu hợp đồng đó mang lại cho anh ta 10 triệu đồng, thì có thể nói là chi phí cơ hội của việc đến lớp nghe giáo sư giảng bài là giá trị của phương án tốt nhất đã bị bỏ qua đó, tức là 10 triệu đồng. Một ví dụ khác: Ông H đang sở hữu một ngôi nhà mà ông ta đang sử dụng để mở cửa hàng tạp hóa. Nếu ông ta bán căn nhà đó ( căn nhà trị giá 500 triệu đồng ) rồi gửi tiền vào ngân hàng với lãi suất tiền gửi tai thời điểm đó là 10%/năm. Hoặc nếu ông ta cho thuê ngôi nhà thì mỗi tháng sẽ nhận được 1.500.000 đồng. Như vậy chi phí cơ hội trong trường hợp ông ta không lựa chọn phương án bán nhà gửi tiền vào ngân hàng mà sử dụng nó để bán tạp hóa là khoản tiền lãi từ việc gửi tiền hàng năm là: 500.000.000 x 10% = 50.000.000 ( đồng) đã bị từ bỏ ( giả sử giá cả ngôi nhà không thay đổi theo thời gian). Còn chi phí cơ hội trong trường hợp ông ta không lựa chọn phương án cho thuê chính là số tiền cho thuê hàng tháng 1.500.000 đồng mà lẽ ra ông ta sẽ nhận được nếu không sử dụng nhà đó để mở tạp hóa. Trong sản xuất, chi phí cơ hội cho một mặt hàng là số lượng của các mặt hàng khác phải bỏ qua, không sản xuất để sản xuất thêm mặt hàng đó 1 đơn vị. Ví dụ: một công ty may hiện tại có khả năng sản xuất hai loại hàng hoá là áo sơ mi cung cấp cho thị trường nội địa và áo jacket xuất khẩu trong điều kiện các nguồn lực hiện có không thể tăng thêm được (nhân công,vốn,), nếu muốn tăng sản lượng của áo sơ mi lên buộc doanh nghiệp phải giảm sản lượng của áo jacket. Như vậy, chi phí cơ hội của áo sơ mi chính là số lượng áo jacket bị bỏ qua không sản xuất để sản xuất thêm một đơn vị áo sơ mi. Chi phí cơ hội không chỉ là chi phí thể hiện bằng tiền mà còn là chi phi cơ hội về thời gian. Ví dụ như: nếu bạn đi xem phim thì chi phí cơ hội không chỉ là tiền vé, tiền đi lại, mà còn là thời gian mà bạn dành cho việc xem phim. Khi nghiên cứu chi phí cơ hội, người ta đã phát hiện ra qui luật chi phí cơ hội ngày càng tăng. Qui luật này được phát biểu như sau: Để ngày càng có thêm một đơn vị của loại hàng hoá nào đó, chúng ta phải bỏ qua một lượng ngày càng lớn các loại hàng hoá khác ( trong điều kiện các yếu tố sản xuất khác không đổi). Theo qui luật chi phí cơ hội ngày càng tăng doanh nghiệp sẽ lựa chọn và so sánh những lợi ích do sự lựa chọn đó đem lại và có tính đến chi phí của những cơ hội đã bỏ qua. Qui luật chi phí cơ hội ngày càng tăng chính là căn cứ giúp doanh nghiệp tính toán và lựa chọn sản xuất cái gì, như thế nào là có lợi nhất, tuy nhiên nó không phải là căn cứ duy nhất. 1.3.2.2 Mục tiêu của sự lựa chọn Theo lý thuyết lựa chọn, sự lựa chọn là cần thiết bởi vì các nguồn lực đều có giới hạn. Một doanh nghiệp chỉ có một số vốn nhất định, người tiêu dùng chỉ có một lượng thu nhập nhất định, mỗi quốc gia cũng chỉ có một số nguồn lực nhất định, nếu chúng ta sử dụng vào mục đích này thì không thể sử dụng vào mục đích khác. Sự lựa chọn là có thể thực hiện được vì với một nguồn lực khan hiếm có thể được sử dụng vào mục địch này hay mục đích khác. Một doanh nghiệp có thể sản xuất nhiều loại hàng hoá khác nhau, một loại hàng hoá có thể được sản xuất bằng nhiều cách khác nhau. Do đó, vấn đề quan trọng là ở chỗ chúng ta phải tiến hành lựa chọn sử dụng các nguồn lực với mục tiêu cơ bản nhất là đạt được lợi nhuận tối đa. Đối với người tiêu dùng, mục tiêu của sự lựa chọn tiêu dùng hàng hoá này hay hàng hoá khác là nhằm đạt được lợi ích tối đa. Bởi vì sự tiêu dùng của họ bị giới hạn bởi ngân sách gia đình và giá cả hàng hoá, dịch vụ trên thị trường. 1.3.3. Phương pháp tiến hành lựa chọn kinh tế Doanh nghiệp phải lựa chọn những vấn đề kinh tế cơ bản của mình trong giới hạn cho phép của khả năng sản xuất hiện có mà xã hội đã phân bổ cho nó. Nói cách khác, doanh nghiệp phải sử dụng tối ưu các nguồn lực khan hiếm. Phương pháp lựa chọn kinh tế tối ưu có tính ràng buộc quan trọng nhất là đường giới hạn khả năng sản xuất (PPF). Đường giới hạn khả năng sản xuất cho biết khối lượng tối đa của một loại hàng hoá mà một doanh nghiệp hay một nền kinh tế có thể sản xuất được tương ứng với mỗi mức sản lượng của mặt hàng kia trong giới hạn của nguồn lực hiện có. Ví dụ: Giới hạn khả năng sản xuất hàng tiêu dùng và thiết bị cơ bản của một doanh nghiệp như sau: Khả năng Hàng tiêu dùng Thiết bị cơ bản A B C D E 4 3,5 2 1 0 0 3 5 5,6 6 Thiết lập một hệ trục toạ độ vuông góc trong đó trục tung biểu thị cho hàng tiêu dùng , trục hoành biểu thị cho thiết bị cơ bản. Từ số liệu của ví dụ trên ta có thể vẽ đường giới hạn khả năng sản xuất như sau: TD 4 2 1 0 3 5 6 TBCB A B C D E 3,5 xG xH Đường giới hạn khả năng sản xuất. Hiệu quả kinh tế là tiêu chuẩn cao nhất của mọi sự lựa chọn kinh tế của các doanh nghiệp. Những điểm nằm trên đường giới hạn khả năng sản xuất là những điểm hiệu quả. Tại đó, doanh nghiệp đã sử dụng triệt để các nguồn lực sẵn có của mình. Số lượng hàng hóa đạt trên đường PPF càng ở xa gốc tọa độ thì càng có hiệu quả.Sự thỏa mãn tối đa về mặt hàng, chất lượng, số lượng hàng hóa theo nhu cầu thị trường trong giới hạn của đường PPF cho ta đạt được hiệu quả kinh tế cao nhất. Điểm H nằm bên ngoài đường giới khả năng sản xuất là điểm không thể đạt được. Nó đòi hỏi phải đầu tư nhiều nguồn lực lớn hơn so với nguồn lực sẵn có của doanh nghiệp, của nền kinh tế. Điểm G nằm bên trong đường giới hạn khả năng sản xuất là điểm không có hiệu quả vì chưa sử dụng hết nguồn lực sẵn có. Như vậy, điểm hiệu quả nhất phải nằm trên đường giới hạn khả năng sản xuất và thoã mãn tối đa các nhu cầu của xã hội và con người. Và hiệu quả kinh tế là tiêu chuẩn cao nhất của mọi sự lựa chọn kinh tế của các doanh nghiệp.Mọi sự tăng lên về số lượng chất lượng sẽ làm cho đường giới hạn khả năng sản xuất dịch chuyển ra bên ngoài. Sự dịch chuyển này có thể là do thay đổi công nghệ làm tăng khả năng sản xuất của hai hàng hóa. CHƯƠNG 2: CUNG - CẦU HÀNG HÓA VÀ GIÁ HÀNG HÓA TIÊU DÙNG. * MỤC TIÊU CỦA CHƯƠNG - Hiểu được các khái niệm cơ bản về cung cầu hàng hóa - Xem xét các nhân tố ảnh hưởng đến cung cầu hàng hóa - Xác định được co giãn cung cầu. Ý nghĩa của các hệ số cung cầu. - Giải thích cơ chế hình thành giá cả thị trường sản phẩm. - Thực hiện được các bài tập liên quan đến cung cầu hàng hóa, xác định cân bằng cung cầu hàng hóa Cung cầu là hai từ mà các nhà kinh tế sử dụng thường xuyên nhất, là những lực lượng cấu thành sự vận hành của thị trường cạnh tranh. Phân tích cung cầu là một trong những công cụ quan trọng nhất của kinh tế học vi mô, nhằm giải thích cơ chế hình thành giá cả thông qua mối quan hệ cung cầu. 2.1 Cầu hàng hóa: 2.1.1. Khái niệm cầu: Trong nền kinh tế thị trường, người ta quyết định mua một hàng hóa nào đó tùy thuộc vào giá cả và các yếu tố sở thích cá nhân. Giá hàng hóa càng cao thì khách hàng càng mua ít hàng hóa này và số khách hàng chấp nhận mua hàng hóa càng ít. Ngược lại, giá hàng hóa càng rẻ thì lượng người mua càng nhiều và người tiêu dùng càng mua nhiều hàng hóa này hơn. Như vậy, ứng với mỗi điều kiện nhất định về giá cả và các yếu tố khác, người tiêu dùng sẵn sàng chấp nhận mua một số lượng hàng hóa nhất định. Số lượng đó chính là cầu về hàng hóa đã cho. Như vậy: Cầu là số lượng hàng hóa hay dịch vụ mà người mua sẵn sàng hoặc có khả năng mua trên thị trường ở những mức giá khác nhau trong một thời gian nhất định ( giả định các yếu tố khác không đổi) Cần phân biệt cầu với nhu cầu. Nhu cầu là mong muốn và nguyện vọng luôn tăng cao và hầu như không có giới hạn của con người. Nhu cầu chỉ trở thành cầu khi gắn nó với một hàng hóa cụ thể, với một mức giá và hàng loạt yếu tố cụ thể của thị trường về không gian, thời gian, thu nhậpNói cách khác, cầu chính là nhu cầu có khả năng thanh toán gắn liền với sự chấp nhận mua hàng trong những điều kiện cụ thể 2.1.2 Các công cụ xác định cầu: 2.1.2.1 Biểu cầu: Để biểu thị cầu của hàng hóa thông qua biểu cầu. Biểu cầu là bảng số liệu chỉ mối quan hệ giữa lượng cầu và mức giá. Ví dụ biểu cầu dưới đây phản ánh cầu về gạo trên thị trường một thành phố, biểu cầu minh họa quan hệ giữa giá gạo và lượng cầu về gạo được tạo bởi hai yếu tố: giá hàng hóa(P) và lượng cầu (QD). Giá gạo (P) (Ngàn đồng/kg) Lượng cầu về gạo (Q)(Tấn/ngày) 20 5 15 10 10 15 5 20 Lượng cầu chính là khối lượng hàng hóa, dịch vụ mà người tiêu dùng sẵn sàng mua với một mức giá nhất định trong thời gian nhất định. (Ký hiệu là QD) 2.1.2.2. Đường cầu: Đường cầu phản ánh quan hệ giữa lượng cầu và giá cả trên một đồ thị hai chiều minh họa dưới đây. P Q D P1 P2 Q1 Q2 A B Đồ thị đường cầu: Trên đồ thị đường cầu, trục tung biểu thị giá, trục hoành biểu thị lượng cầu. Trong ví dụ của chúng ta, mối quan hệ là tuyến tính nên đường cầu là đường thẳng. Trong nhiều trường hợp, quan hệ cầu là phi tuyến tính và đường cầu thường có dạng hình cong hyperbol. 2.1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến cầu: Chúng ta hãy xem xét các nhân tố làm thay đổi cầu của hầu hết các hàng hóa dịch vụ và để thấy rõ sự tác động của các yếu tố đến cầu hàng hóa dịch vụ khi nghiên cứu một yếu tố nào đó tác động đến cầu, ta giả định các yếu tố còn lại không đổi. Những nhân tố bao gồm: 2.1.3.1.Thu nhập của người tiêu dùng:(Income) Dễ dàng nhận thấy thu nhập là yếu tố có ảnh hưởng rất mạnh đến cầu. Khi thu nhập của một cá nhân tăng lên thường làm cho cầu của cá nhân đó về một mặt hàng nào đó cũng tăng theo (ví dụ, khi bạn có nhiều tiền hơn, bạn mua sắm quần áo và đi du lịch nhiều hơn). Những hàng hóa có cầu chịu ảnh hưởng tác động cùng chiều bởi thu nhập như vậy được gọi là hàng hóa thông thường. Trong cuộc sống, không phải tất cả các hàng hóa đều là hàng hóa thông thường. Có một số hàng hóa lại có tính chất ngược lại: Khi thu nhập tăng lên sẽ làm cho cầu giảm đi. Ví dụ cầu xe đạp: khi thu nhập tăng lên, nhiều người sẽ mua xe máy và ít mua xe đạp, cầu về xe đạp sẽ giảm xuống. Những hàng hóa như vậy như vậy gọi là hàng hóa thứ cấp. Gạo, ngô, đi xe buýt, Tivi trắng đen, xem phim ngoài trờihiện nay là những hàng hóa thứ cấp ở Việt Nam. Rõ ràng là hàng hóa thứ cấp mang tính lịch sử cụ thể rõ rệt. Một hàng hóa ở thời điểm này là hàng hóa thông thường nhưng vào thời điểm khác lại trở thành hàng hóa thứ cấp. 2.1.3.2.Thị hiếu sở thích của người tiêu dùng: (L) Thị hiếu là yếu tố mang tính tâm lý và văn hóa nhưng có vai trò rất quan trọng quyết định đến cầu. Dĩ nhiên, một hàng hóa đang đuợc ưa chuộng (sở thích thị hiếu) sẽ làm tăng cầu của hàng hóa đó. Chẳng hạn, điện thoại Iphone hiện đang được ưa chuộng trên thị trường chính vì vậy mà có sự tăng cầu trên thị trường đối với mặt hàng này. Cầu sẽ giảm khi sự ưa chuộng của hàng hóa không còn nữa, do đó nguời tiêu dùng không còn mong muốn tiêu dùng hàng hóa nữa. Chẳng hạn, máy nghe nhạc VCD rất được ưa chuộng trước đây nhưng ngày nay người tiêu dùng đang ưa chuộng máy nghe nhạc DVD, do đó cầu máy nghe nhac VCD giảm xuống. Yếu tố thị hiếu là yếu tố rất tinh tế, nhiều khi chi tiết hóa đến màu sắc, kiểu dáng, mùi vịcủa hàng hóa, đặc biệt là đối với các sản phẩm thời trang (áo quần,mỹ phẩm, điện thoại di động,) chịu tác động rất lớn bởi sở thích và thị hiếu người tiêu dùng. 2.1.3.3. Giá cả hàng hóa có liên quan: ( Price) Các hàng hóa liên quan là các hàng hóa có tác động ảnh hưởng đến việc mua bán hàng hóa đang khảo sát. Hãy hình dung, cầu về thịt gà sẽ thay đổi ra sao khi đến mùa thu hoạch vịt, giá thịt vịt giảm đi một nữa? Rõ ràng là khi giá thịt vịt giảm sẽ làm cho cầu về thịt vịt tăng, nhưng thịt vịt và thịt gà là hai mặt hàng có thể thay thế cho nhau, nên hệ quả tiếp theo là cầu về thịt gà sẽ giảm xuống do nhiều người ăn thịt vịt sẽ không có nhu cầu nhiều về thịt gà nữa. Những hàng hóa liên quan mà trong tiêu dùng có thể thay thế cho nhau được gọi là hàng hóa thay thế. Trong thực tế, có thể lấy rất nhiều ví dụ xe máy và ôtô, bánh và kẹo, áo thun và áo sơ mi, xem phim và nghe nhạc Bây giờ hãy thử hình dung cầu về xăng sẽ thay đổi như thế nào khi giá xe máy giảm mạnh. Rõ ràng là khi giá xe máy giảm làm cầu xe máy tăng và đương nhiên khi người ta sử dụng nhiều xe máy sẽ dẫn đến hệ quả là tăng cầu về xăng. Các hàng hóa liên quan có quan hệ với nhau theo kiểu xe máy và xăng – tức là khi tiêu dùng hàng hóa này buộc phải kèm theo tiêu dùng hàng hóa kia – được gọi là hàng hóa bổ sung. Như vậy, nhóm hàng hóa liên quan có hai loại: hàng hóa thay thế và hàng hóa bổ sung. Đối với hàng hóa thay thế, giá của nó có tác dụng cùng chiều đối với cầu hàng hóa khảo sát (khi Py giảm làm cho Qx giảm và ngược lại). Đối với hàng hóa bổ sung, giá của nó có tác động ngược chiều đối với cầu về hàng hóa khảo sát (khi Py giảm làm cho Qx tăng và ngược lại). Hàng hóa bổ sung là hàng hóa tiêu dùng cùng nhau ví dụ như: xe máy và mũ bảo hiểm, máy ảnh và phim, đĩa CD và máy CD, mực in và máy in ......... 2.1.3.4 Dân số: (N) Dân số là yếu tố quy định quy mô thị trường. Dân số của một thị trường càng lớn đương nhiên sẽ kéo theo cầu về hàng hóa càng lớn. Vai trò của dân số nhiều khi có ý nghĩa quyết định lượng cầu trong tính toán chiến lược kinh doanh của các công ty. Nhưng lưu ý rằng sự thay đổi số lượng người tiêu dùng, người có mong muốn và có khả năng thanh tóan mới chính là nhân tố ảnh hưởng đến cầu của một hàng hóa cụ thể. 2.1.3.5 Kỳ vọng của người tiêu dùng: Dự tính giá cả và thu nhập trong tương lai cũng là những yếu tố quyết định quan trọng với cầu hiện tại về một hàng hoá. Trước tiên, hãy nói về những tác động xảy ra khi mức giá dự tính sẽ cao hơn trong tương lai. Giả sử bạn đang xem xét mua một chiếc ô tô mới hoặc một chiếc máy vi tính mới. Nếu bạn có những thông tin mới khiến bạn tin là giá của hàng hoá này trong tương lai tăng, bạn có thể sẽ mua nó hôm nay. Vì vậy, một mức giá dự tính tương lai cao hơn sẽ tăng cầu hiện tại. Theo cách tương tự, một mức giá dự tính giảm trong tương lai sẽ làm giảm cầu hiện tại (do bạn muốn hoãn việc mua hàng với dự tính chờ đợi một mức giá thấp hơn trong tương lai). Nếu thu nhập dự tính trong tương lai tăng, cầu của nhiều hàng hoá hiện tại có vẻ sẽ tăng. Nói cách khác, nếu thu nhập dự tính trong tương lai giảm (có thể do những tin đồn ngừng sản xuất hoặc bắt đầu suy thoái) các cá nhân có thể giảm cầu hiện tại của họ với nhiều hàng hoá để họ có thể tiết kiệm nhiều hơn hiện nay do dự tính thu nhập trong tương lai giảm. 2.1.4 Hàm cầu: Như đã tìm hiểu cầu đối với một hàng hóa phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố. Ta coi các yếu tố có ảnh hưởng đến cầu là các đối số. Các yếu tố đó là giá cả hang hóa khảo sát (Px), giá cả hàng hóa liên quan (Py), thu nhập (I), dân số (N), sở thích (L), kỳ vọng (E) Cầu là một đại lượng hàm số ký hiệu là Qx. Hàm cầu là một hàm chịu sự tác động của nhiều đối số được viết dưới dạng toán học như sau: Qx = f (Px, Py, I, N, L, E) (1) Đó chính là hàm cầu viết dưới dạng tổng quát hàm nhiều biến. Xem xét các đối số của hàm cầu Qx, ta thấy đối số Px là quan trọng nhất. Để làm nổi bật quan hệ giữa lượng cầu và giá Px, chúng ta có thể giả định tất cả các yếu tố khác ngoài giá Px không đổi, khi đó hàm cầu rút gọn chỉ còn là hàm một biến: Qx = f (Px) (2) Hàm cầu một biến nêu trên có thể được viết đổi vế giữa hàm số và đối số, khi đó hàm cầu có dạng sau: Px = f (Qx) (3) Hàm cầu (3) mang tính phổ biến trong nghiên cứu kinh tế học vi mô bởi vì các nhà kinh tế khi sử dụng đồ thị để minh họa thường thống nhất quy ước trục tung là giá (P) còn trục hoành là trục lượng (Q). Hàm cầu viết dưới dạng trên sẽ dễ cho sinh viên nhận dạng và phán đoán các tính chất và sự phụ thuộc lẫn nhau của hai yếu tố có quan hệ với nhau là giá và lượng hàng hóa. Trong trường hợp đặc biệt, quan hệ giữa giá và lượng là quan hệ tuyến tính ta sẽ có hàm cầu dạng đặc biệt như sau: Px = aQx + b Trong đó: - Px là giá cả hang hóa - Qx là lượng cầu hang hóa - a,b là các hệ số đặc trưng cho hàm cầu Hàm cầu có quan hệ chặt chẽ với biểu cầu. Từ biểu cầu, ta có thể dễ dàng tính toán để viết hàm cầu và ngược lại. Trong ví dụ đã nêu ở mục biểu cầu và đường cầu đã trình bày ở phần trên, ta thấy quan hệ giữa lượng cầu và mức giá là tuyến tính. Để xác định hàm cầu trong ví dụ này cần xác định hai hệ số a và b. Ta có thể lấy 2 cặp số liệu bất kỳ (ví dụ ta lấy 2 cặp số liệu đầu tiên ở ví dụ biểu cầu) để tính toán, xác định hàm cầu. Cách 1: Ta cần lập một hệ phương trình với 2 ẩn số là a và b giúp tìm giá trị của 2 hệ số này. Như vậy ta có hệ phương trình với 2 ẩn số là a và b 20 = 5a + b 15 = 10a + b Giải hệ phương trình trên ta có: a = -1 ; b = 25 Như vậy hàm cầu trong ví dụ có dạng: P = -Q + 25 Cách 2: Có thể tìm hệ số a, b theo cách sau: a = ; b = P0 – a x Q0 Áp dụng giải ví dụ trên: a = = -1, b = 20 – (-1)x5 = 25 Như vậy hàm cầu có dạng: P = -Q + 25 2.1.5 Luật cầu: Qua biểu cầu và đường cầu đều chỉ ra rằng, đối với một hàng hóa quan hệ nghịch biến tồn tại giữa giá và lượng cầu khi các yếu tố khác không đổi. Điều này có nghĩa là: “ Lượng cầu hàng hoá, dịch vụ trong một khoảng thời gian nhất định sẽ tăng lên khi giá của hàng hoá, dịch vụ đó giảm xuống và ngược lại trong điều kiện các yếu tố khác ảnh hưởng đến cầu là không đổi”. Lý do lượng cầu và giá hàng hóa có quan hệ ngược chiều như vậy là do hai hiệu ứng sau: - Hiệu ứng thay thế: Khi giá của một hàng hóa nào đó tăng lên, người tiêu dùng tìm các hàng hóa thay thế để mua, do vậy làm cho lượng cầu hàng hóa khảo sát giảm xuống. - Hiệu ứng thu nhập:Khi giá hàng hóa tăng lên, người tiêu dùng thấy rằng, với thu nhập của mình sẽ mua được ít hàng hóa hơn. Mọi người đều tự động cắt giảm mức tiêu dùng để tiết kiệm chi tiêu, cuối cùng làm cho lượng cầu giảm xuống. 2.1.6 Di chuyển dọc theo đường cầu và dịch chuyển đường cầu: 2.1.6.1 Di chuyển dọc theo đường cầu: Như đã đề cập, cầu là mối quan hệ toàn bộ giữa giá và lượng thể hiện ở biểu cầu và đường cầu. Một sự thay đổi giá của hàng hóa sẽ làm thay đổi lượng cầu nhưng không làm thay đổi cầu của hàng hóa lúc đó sẽ xảy ra sự vận động dọc hay sự trượt dọc trên đường cầu. P Q D P1 P2 Q1 Q2 A B Sự dịch chuyển dọc theo đường cầu 2.6.1.2. Sự dịch chuyển đường cầu: Sự dịch chuyển của đường cầu xảy ra khi cầu hàng hoá dịch vụ thay đổi do các yếu tố ảnh hưởng đến cầu thay đổi (trừ giá cả của bản thân hàng hóa). Khi yếu tố ảnh hưởng làm cầu giảm thì đường cầu dịch chuyển sang trái; khi yếu tố cầu gia tăng, đường cầu sẽ dịch chuyển sang phải Q3 Q Q1 Q2 D’ P D P1 A C D’’ B Ví dụ, đối với thị trường thịt gà, một công bố của Bộ Y tế về dịch bệnh của gà với virút H5N1 đang lan truyền chắc chắn sẽ làm cầu về thịt gà giảm xuống (đây là yếu tố thị hiếu tiêu dung). Nếu vẽ đường cầu mới lên đồ thị, ta sẽ thấy đường cầu mới vẫn giữ nguyên độ dốc và hình dáng như cũ nhưng bị dịch chuyển mạnh sang trái. Ngược lại, khi Bộ Y tế công bố hết dịch bệnh sẽ dịch chuyển theo hướng ngược lại. Bảng sau đây nêu ví dụ cho biết sự di chuyển dọc (trượt dọc) và dịch chuyển đường cầu đối với thị trường gạo. Bảng 1: Khảo sát sự trượt dọc và dịch chuyển đường cầu về gạo Yếu tố tác động Tác động đến cầu Sự thay đổi đường cầu Giá gạo (Px) tăng lên Giảm Trượt dọc điểm khảo sát theo đường cầu, bản thân đường cầu không thay đổi. Giá bột mỳ (Py) tăng lên Tăng Đường cầu dịch chuyển sang phải Thu nhập (I) tăng lên (Gạo là hàng hóa thứ cấp) Giảm Đường cầu dịch chuyển sang trái Sở thích (S) tăng lên do Bộ Y tế công bố lợi ích của ăn gạo Tăng Đường cầu dịch chuyển sang phải Dân số (N) tăng lên Tăng Đường cầu dịch chuyển sang phải Tóm lại, đường cầu phản ánh sự thay đổi của lượng cầu hàng hóa khi giá cả của nó thay đổi (với điều kiện các yếu tố khác không đổi). Khi các yếu tố khác thay đổi, đường cầu sẽ dịch chuyển sang phải (khi cầu gia tăng) và sang trái (khi cầu suy giảm). 2.1.7. Cầu cá nhân, cầu thị trường: - Cầu cá nhân là cầu của một thành viên kinh tế nào đó ( cá nhân, hộ gia đình, doanh nghiệp) - Cầu thị trường gồm tổng lượng cầu của mỗi cá nhân trong thị trường.Theo khái niệm này, đường cầu thị trường được hình thành bởi việc tính tổng toàn bộ các đường cầu ngang của mỗi cá nhân người tiêu dùng.Giả sử trên thị trường chỉ có hai người tiêu dùng là A và B và A muốn mua 10 đơn vị hàng hoá này và B muốn mua 15 đơn vị khi giá là 3 đôla. Vì vậy, tại mức giá là 3 đôla, tổng lượng cầu trên thị trường là 25 (= 10 + 15) đơn vị hàng hóa. Như vậy tổng lượng cầu trên thị trường chỉ là tổng lượng cầu của mỗi các nhân. 2.2 Cung hàng hóa: 2.2.1 Khái niệm cung: Cung hàng hoá là số lượng háng hoá, dịch vụ mà người bán có khả năng bán và sẵn sàng bán ở các mức giá khác nhau trong một khoảng thời gian nhất định trong khi các yếu tố khác ảnh hưởng đến cung là không đổi. Lượng cung là số lượng hàng hoá, dịch vụ mà người bán sẵn sàng bán và có khả năng bán ở mức giá đã cho trong một khoảng thời gian nhất định. Như vậy, cung hàng hoá là toàn bộ những lượng cung ở các mức giá khác nhau. Ký hiệu là QS. 2.2.2 Các yếu tố xác định cung: 2.2.2.1 Biểu cung: Biểu cung là bảng biểu thị cung hàng hoá ở các mức giá khác nhau trong một khoảng thời gian nhất định. Dễ dàng nhận thấy, cũng giống như biểu cầu, biểu cung chính là hàm cung viết dưới dạng biểu bảng. Ví dụ: Trên thị trường gạo của thành phố đã nêu ở mục cầu, khi quan sát về cung, thấy được các số liệu thể hiện ở biểu cung như sau: Giá gạo (P) (Ngàn đồng/kg) Lượng cầu về gạo (Q)(Tấn/ngày) 20 35 15 25 10 15 5 5 2.2.2.2 Đường cung: Đường cung biểu thị mối quan hệ giữa giá cả của hàng hoá, dịch vụ với một lượng cung trên hệ trục toạ độ vuông góc gọi là đường cung. Đường cung là công cụ để mô tả cung hàng hoá trên đồ thị. (Ký hiệu là S) Trên hệ trục toạ độ vuông góc qui ước trục tung biểu thị giá cả và trục hoành biểu thị lượng cung Qs. Từ biểu cung trên ta có thể vẽ đường cung về gạo như sau: 15 35 0 P Q 5 25 S 5 10 15 20 Đường cung trên đồ thị là đường thẳng. Tuỳ theo mối quan hệ giữa giá cả và lượng cung của hàng hoá khác nhau mà đường cung có thể là đường thẳng, đường cong hay đường gấp khúc nhưng chúng đều có xu hướng chung là hướng lên trên, về phía bên phải. 2.2.3 Các yếu tố ảnh hưởng đến cung: 2.2.3.1 Công nghệ: (Technology) Công nghệ là yếu tố quan trọng làm tăng năng suất lao động, giảm chi phí sản xuất và tăng lợi nhuận. Trình độ công nghệ là yếu tố quan trọng quyết định khả năng cung ứng hàng hoá của doanh nghiệp. Khi công nghệ thay đổi (thường theo xu hướng hiện đại hơn, tiên tiến hơn) chắc chắn sẽ làm cho năng suất tăng lên và lượng cung tăng lên. Một sự cải tiến về công nghệ sẽ làm tăng sản lượng nên khả năng cung ứng hàng hoá của doanh nghiệp tăng lên dẫn đến cung hàng hoá tăng lên. 2.2.3.2 Giá ( Price) Giá của hàng hoá đó (Px) Khi giá của hàng hoá tăng lên lượng cung của hàng hoá đó tăng lên và ngược lại. Vì giá tăng lên nhà sản xuất sẽ thu được nhiều lợi nhuận hơn, họ sẽ sẵn sàng cung ứng nhiều hàng hoá hơn và ngược lại. Giá của các yếu tố sản xuất đầu vào (Py) Khi giá cả nguồn lực sản xuất tăng lên sẽ làm giảm khả năng sinh lời của hàng hóa dịch vụ. Điều này làm giảm sản lượng mà nhà sản xuất muốn cung cấp tại mỗi mức giá hay làm cho cung hàng hóa giảm đi và ngược lại. 2.2.3.3 Chính sách về thuế: (Tax) Thuế là cộng cụ của Chính phủ dùng để điều tiết cung hàng hoá. Thuế của Nhà nước thường đánh trực tiếp vào thu nhập của người sản xuất. Mức thuế cao làm cho thu nhập của nhà sản xuất ít đi và họ không muốn cung cấp thêm hàng hoá nữa sẽ làm cung hàng hoá giảm. Ngược lại, mức thuế thấp sẽ khuyến khích nhà sản xuất mở rộng sản xuất, tăng sản lượng và cung hàng hoá tăng lên. Vì thế, đối với những ngành cần khuyến khích phát triển thì Chính phủ đưa ra những mức thuế suất thấp hơn, đối với những ngành không khuyến khích sản xuất và tiêu dùng thì Chính phủ áp đặt mức thuế suất cao hơn. 2.2.3.4 Số người sản xuất trên thị trường: Đối với một loại hàng hoá dịch vụ nhất định, số lượng người sản xuất càng nhiều thì cung của hàng hoá đó trên thị trường càng lớn và ngược lại. 2.2.3.5 Kỳ vọng của người bán: Như trong trường hợp của cầu, những kỳ vọng của nhà sản xuất đóng vai trò rất quan trọng trong các quyết định sản xuất. Chẳng hạn nếu giá kỳ vọng của xăng dầu tăng lên trong tương lai, các nhà cung cấp có thể giảm lượng cung hôm nay để cung cấp trong tương lai nhằm kiếm được lợi nhuận cao hơn và ngược lại nếu giá cả hàng hóa sẽ giảm trong tương lai, có lẽ các nhà sản xuất sẽ cung cấp nhiều hơn trong hiện tại trước khi giá giảm xuống. 2.2.4. Hàm cung: Hàm cung là hàm số biểu thị quan hệ giữa lượng cung (hàm số) với các yếu tố tác động đến cung (đối số). Hàm cung có dạng tổng quát: Qs = f (T, Px, Py, Tx, Nx...) Trong đó: Qs: Lượng cung hàng hóa Px: Giá của bản thân hàng hóa Py: Giá của các yếu tố đầu vào T : Công nghệ Tx: Thuế đánh vào bản thân hàng hóa Nx: Số lượng người tham gia vào sản xuất cùng hàng hóa Trong các đối số của hàm cung, ta thấy Px có vai trò quan trọng nhất. Để đơn giản hóa trong khảo sát hàm cung, có thể giả định các yếu tố ngoài giá Px không đổi – khi đó hàm cung được viết dưới dạng rút gọn như sau: Qs = f (Px) Hàm cung thường được viết dưới dạng đổi vế, coi giá là hàm số, lượng cung có đối số như sau: Px = f (Qs) Trong trường hợp đặc biệt, quan hệ của hàm cung là quan hệ bậc nhất (tuyến tính), khi đó hàm cung được viết dưới dạng: Px = a. Qs + b, Trong đó: a, b là các hệ số đặc trưng cho quan hệ của hàm cung. Với biểu cung về gạo ở trên,để xác định hàm cung dạng Px = a. Qs + b, ta có thể chọn hai cặp số liệu nào đó (chẳng hạn chúng ta chọn hai cặp đầu tiên). Từ số liệu này ta lập được hệ phương trình có hai ẩn là a và b. 20 = 35a + b 15 = 25a + b Giải hệ phương trình chúng ta có: a = 1/2 ; b = 5/2. Vậy hàm cung được viết như sau: P = 1/2Qs + 5/2. 2.2.5 Luật cung: Luật cung này được phát biểu như sau: “ Nếu các yếu tố khác không đổi khi giá của một mặt hàng nào đó tăng lên thì lượng cung của mặt hàng đó tăng lên và ngược lại ”. Nói cách khác, cung của các hàng hóa hoặc dịch vụ có mối quan hệ cùng chiều với giá cả của chúng. 2.2.6. Sự di chuyển trên đường cung và dịch chuyển cung. 2.2.6.1. Sự di chuyển trên đường cung: Tại một điểm cụ thể trên đường cung, ta luôn xác định được mức giá bán tương ứng với một lượng cung nhất định. Sự vận động dọc theo đường cung là sự trượt dọc trên đường cung khi giá của hàng hoá thay đổi làm cho lượng cung hàng hoá thay đổi (các yếu tố khác giữ nguyên không đổi). Thể hiện ở biểu đồ sau: Q Q1 Q0 P S P1 P0 A B 0 2.2.6.2. Sự dịch chuyển của đường cung: Sự dịch chuyển của đường cung xảy ra khi cung hàng hoá dịch vụ thay đổi do các yếu tố ảnh hưởng đến cung thay đổi (trừ giá cả của bản thân hàng hóa). Toàn bộ đường cung sẽ dịch chuyển sang trái nếu cung giảm hoặc dịch chuyển sang phải nếu cung tăng. Thể hiện ở biểu đồ dưới đây: P Q S0 S1 C A Q0 Q1 Bảng 2: Cho biết các yếu tố tác động như thế nào đến đường cung (ví dụ đường cung về gạo) Khảo sát sự trượt dọc và dịch chuyển của đường cung Yếu tố tác động Tác động đến cung Sự thay đổi đường cung Giá của gạo tăng (Px) Tăng Đường cung không thay đổi, điểm khảo sát trượt dọc theo đường cung Giá phân bón giảm (Py) Tăng Dịch chuyển đường cung sang phải Áp dụng giống mới (T) Tăng Dịch chuyển đường cung sang phải Số lượng nông trại trồng lúa giảm (Nx) Giảm Dịch chuyển đường cung sang trái Chính phủ miễn thuế nông nghiệp 2 năm (Tx) Tăng Dịch chuyển đường cung sang phải Lũ lụt làm mất mùa Giảm Dịch chuyển đường cung sang trái 2.2.7. Cung cá nhân, cung thị trường: - Cung cá nhân là lượng cung của mỗi cá nhân đối với một loại hàng hóa dịch vụ. - Cung thị trường gồm tổng cung của các cá nhân trên thị trường 2.3. Cân bằng cung cầu: 2.3.1. Trạng thái cân bằng cung cầu: Trên thị trường, trạng thái cân bằng cung cầu đối với một hàng hóa nào đó chính là trạng thái ứng với một mức giá nào đó, lượng cung ngang bằng với lượng cầu. Mức giá tương ứng tại trạng thái cân bằng được gọi là giá cân bằng. Lượng hàng hóa tương ứng tại trạng thái cân bằng được gọi là lượng cân bằng. P Q E0 S D QD Q0 QS P2 P0 P1 Trạng thái cân bằng cung cầu đối với một loại hàng hoá nào đó là lúc cung của hàng hoá đó vừa đủ thoả mãn cầu đối với hàng hoá đó trong một khoảng thời gian nhất định. Lúc này người mua và người bán thỏa mãn họ không có lí do gì để phải thay đổi quyết định, cho nên giá sẽ không đổi. Trên đồ thị, giá cân bằng và sản lượng cân bằng là toạ độ của giao điểm giữa đường cung và đường cầu.( điểm E0 ) Giá cân bằng (P0) và sản lượng cân bằng (Q0)cũng có thể xác định bằng cách giải hệ phương trình đường cung và đường cầu. Ở ví dụ trên chúng ta đã xác định được: Hàm cung: P = 1/2Qs + 5/2. QS = 2P - 5 Hàm cầu: P = -QD + 25 QD = - P + 25 Điểm cân bằng: E (P0, Q0 ): Qs = QD e 25- P0 = 2 P0 -5 e P0 = 10, Q0 = 15. Vậy điểm cân bằng được xác định: E ( 10,15) Điểm cân bằng được hình thành từ hoạt động của nhiều người mua và nhiều người bán trên thị trường, nó không tồn tại vĩnh cữu, nó sẽ thay đổi khi cung, cầu hàng hoá thay đổi. 2.3.2. Trạng thái dư thừa và thiếu hụt của thị trường: Khi giá mua bán thực tế của một loại hàng hoá, dịch vụ nào đó trên thị trường khác so với giá cân bằng, lúc này sẽ xảy ra tình trạng dư thừa hay thiếu hụt hàng hoá. Trong trường hợp giá mua bán thực tế trên thị trường lớn hơn giá cân bằng: P1 > P0, người bán sẽ bán nhiều hàng hoá (theo luật cung), người mua giảm việc tiêu dùng (theo luật cầu), lượng cung sẽ lơn hơn lượng cầu ( QS > QD ), lượng chênh lệch này là dư thừa thị trường hay còn gọi là dư cung. Trong trường hợp giá mua bán thực tế trên thị trường nhỏ hơn giá cân bằng P2 < P0, người mua sẽ mua nhiều hàng hoá, người bán giảm sản lượng, lượng cung sẽ nhỏ hơn lượng cầu ( QS < QD ), kết qủa xảy ra tình trạng thiếu hụt hàng hoá trên thị trường hay còn gọi là dư cầu. P Q D E S P0 Q0 Thiếu hụt Dư thừa QS QD PF PC Trạng thái không cân bằng của thị trường Do vậy, điều mà chúng ta quan sát thấy là bất cứ lúc nào giá cả thị trường cao hoặc thấp hơn giá cân bằng thì xuất hiện sự dư thừa hoặc thiếu hụt trên thị trường. Và để khắc phục hiện tượng thiếu hụt hoặc dư thừa này, người bán và người mua phải thay đổi hành vi của họ để đạt tới mức giá cân bằng. Nếu thị trường ở trạng thái dư thừa (dư cung) thì người bán phải có quyết định giảm giá để làm tăng lượng cầu. Nếu thị trường ở trạng thái thiếu hụt hàng hóa (dư cầu) thì người bán sẽ tăng giá nhằm làm giảm lượng cầu. Khi phân tích cách thức tác động của một sự kiện nào đó tới thị trường chúng ta tiến hành theo ba bước: Bước 1: Xác định xem sự kiện xảy ra tác động tới đường cầu hay tới đường cung hoặc cả hai đường. Bước 2: Xác định hướng dịch chuyển của các đường (sang trái hay sang phải). Bước 3: Sử dụng đồ thị cung cầu để xác định xem sự dịch chuyển tác động tới trạng thái cân bằng như thế nào? (giá và sản lượng cân bằng thay đổi như thế nào). Thặng dự tiêu dùng, thặng dư sản xuất: 2.3.3.1 Thặng dư tiêu dùng: Thặng dư tiêu dùng là chênh lệch giữa số tiền mà người tiêu dùng sẵn sàng trả với số tiền mà họ thực trả cho một hàng hóa hoặc dịch vụ. Tức là sự chênh lệch giữa lợi ích cận biên (MU) với chi phí thực tế để thu được lợi ích đó. Chi phí thực tế chính là chi phí cận biên (MC - Marginal Cost). Thặng dư tiêu dùng kí hiệu là CS. P E P0 CS PTT P1 Q0 D 0 Q Khi vẽ đường cầu dốc xuống điển hình của một thị trường, thặng dư của của người tiêu dùng tại một mức giá là phần diện tích nằm dưới đường cầu và trên đường giá – diện tích của hình tam giác Po,P1E trên hình. Từ đồ thị ta thấy: CS = Trong đó: P1 là giá khi Q = 0 P0 là giá thị trường hay giá tại mức sản lượng Q0 Ví dụ: Giả sử trên thị trường có cân bằng cung cầu về kem tại lượng là 1.000 chiếc với giá cân bằng trên thị trường là 3.000 đ/chiếc. Vì thời tiết nóng và vì sở thích ăn kem nên người tiêu dùng sẵn sàng chi trả 5.000 đ/chiếc. Như vậy thặng dư của người tiêu dùng sẽ là: CS = (5.000 – 3.000).1.000 /2 = 1.000.000 đồng 2.3.3.2 Thặng dư sản xuất: Thặng dư sản xuất là phần chênh lệch giữa mức giá thực tế mà họ bán được sản phẩm và mức giá mà họ sẵn sàng bán trên thị trường. Hay thặng dư sản xuất là số tiền người bán nhận được trừ đi chi phí sản xuất. Kí hiệu thặng dư tiêu dùng: PS 0 Q P E P0 CS PTT P1 D S P2 PS Q0 Khi đường cấu dốc lên thì thặng dư của người sản xuất là phần diện tích nằm trên đường cung và dưới đường giá của thị trường. Trên đồ thị là phần diện tích tam giác P2P0E. Từ đồ thị ta thấy: PS = Trong đó: P2 là giá khi Q = 0 P0 là giá thị trường hay giá tại mức sản lượng Q0 (giá cân bằng) Ví dụ: Một nhà sản xuất bánh ngọt sau khi tính toán chi phí sản xuất cho một chiếc bánh ngọt đã quyết định là giá mà họ sẵn sàng bán trên thị trường là 7.000đ/chiếc. Vào thời điểm này do cầu trên thị trường tăng vọt nên họ đã bán với giá 10.000 đ/chiếc và đã bán được 700 chiếc tại mức giá này. Như vậy thặng dư của nhà sản xuất sẽ là: PS = 1/2 . (10.000 -7.000) . 700 = 1.050.000 đồng. * Tổng thặng dư của xã hội = Thặng dư sản xuất + Thặng dư tiêu dùng TS = PS + CS Trên đồ thị cung cầu của một thị trường, tổng thặng dư chính là phần diện tích nằm giữa đường cầu và đường cung đạt tới lượng cân bằng. Trạng thái cân bằng cung cầu tối đa hóa tổng thặng dư, nói cách khác, kết cục cân bằng là sự phân bổ nguồn lực một cách hiệu quả nhất. Tổng thặng dư là phần diện tích tam giác P1EP2. Nó là phần diện tích nằm giữa đường cung và đường cầu cho tới lượng cân bằng. 2.3.4. Chính sách kiểm soát giá của chính phủ: Khi có sự thay đổi đột biến của cung cầu, giá cả hàng hóa thay đổi một cách bất thường thì lúc này chính phủ sẽ có các chính sách kiểm soát giá cả nhằm tác động vào thị trường để điều chỉnh giá thị trường . Kiểm soát giá được thực hiện gián tiếp thông qua việc tác động đến cung và cầu, tác động trực tiếp thông qua giá trần và giá sàn. 2.3.4.1 Tác động thuế: Chính phủ đánh thuế có thể vào người mua và cũng có thể vào người bán. Tuy nhiên cả hai người mua và người bán đều chịu tác động của thuế. Tác động đến cung cầu bằng cách tăng giảm thuế hoặc trợ cấp. Nếu dư cung thì chính phủ đánh thuế vào người sản xuất làm giá hàng hóa tăng lên làm đường cung dịch chuyển sang trái đưa cung cầu về trạng thái cân bằng. Nếu trên thị trường dư cầu thì chính phủ sẽ đánh thuế vào người tiêu dùng làm giảm cầu, hoặc chính phủ sẽ hỗ trợ giá cho nhà sản xuất để tăng cung. *Khi đánh thuế vào người mua hàng, ta có một số nhận xét sau: Tác động này làm thay đổi nhu cầu. Do người mua phải nộp một khoản thuế cho chính phủ mỗi khi họ mua hàng, do vậy khoản thuế này làm dịch chuyển đường cầu. Do đánh thuế vào người mua làm cho việc mua hàng hóa này không còn hấp dẫn như trước nữa nên người mua có lượng cầu về hàng hóa đó thấp hơn tại mọi mức giá. Kết quả là đường cầu dịch chuyển sang trái. Trạng thái cân bằng mới có mức giá thấp hơn và mức sản lượng cân bằng thấp hơn. Ảnh hưởng của thuế: Do giá giảm và sản lượng giảm, nên khoản thuế này làm giảm quy mô thị trường. *Tác động của thuế đánh vào người bán đến kết cục của thị trường: Thuế đánh vào người mua và thuế đánh vào người bán tương đương nhau. Thuế cản trở hoạt động của thị trường. Tại điểm cân bằng mới, người mua phải thanh toán nhiều hơn cho số hàng hóa mà họ mua và người bán thì nhận được số tiền ít hơn đối với số lượng hàng hóa mà họ bán. Người mua và người bán cùng chia sẻ gánh nặng của thuế. Điểm khác biệt duy nhất giữa đánh thuế vào người bán và thuế đánh vào người mua là ở chỗ người nộp thuế cho chính phủ. Sự khác biệt về gánh nặng của thuế giữa hai trường hợp này chính là hệ số co giãn tương đối của cung và cầu theo giá. 2.3.4.2. Quy định giá sàn: ( Pmin ) Q0 Q Giá sàn QS QD P D E S P0 Dư thừa 0 Giá sàn là mức giá tối thiểu bắt buộc, là mức giá quy định thường cao hơn mức giá cân bằng.Mục đích của giá sàn là nhằm điều chỉnh giá cao hơn mức giá cân bằng thị trường hiện tại nhằm bảo vệ lợi ích người sản xuất, người lao động, giá sàn quy định phải lớn hơn hoặc bằng giá cân bằng. Hỗ trợ giá nông nghiệp và quy định lương tối thiểu là trường hợp cụ thể về giá sàn. Như biểu đồ dưới minh hoạ, một mức giá sàn có tác dụng mang lại một sự thặng dư về hàng hoá đó do lượng cung vượt quá lượng cầu khi mức giá của hàng hoá thấp hơn mức giá cân bằng. Pmin 2.3.4.3 Quy định giá trần: Giá trần là mức giá tối đa bắt buộc. Mục đích của giá trần là điều chỉnh mức giá thấp hơn mức giá cân bằng hiện tại nhằm bình ổn giá cả trên thị trường . Chẳng hạn, quy định giá trần đối với giá thuê nhà ở các thành phố, trung tâm, và giá xăng dầu trong thời kì khủng hoảng năng lượng. Như biểu đồ dưới đây minh họa, quy định giá trần sẽ dẫn đến thiếu hụt hàng hóa do lượng cầu vượt quá lượng cung khi mức giá quy định này thấp hơn giá cân bằng thị trường. Điều này sẽ lí giải tại sao quy định giá cho thuê nhà và giá xăng lại dẫn đến thiếu hụt hàng hóa. Pmax P QDDD QS D E S P0 Thiếu hụt Giá trần Q Q0 0 2.4. Co giãn cung cầu: 2.4.1 Sự co giãn của cầu: 2.4.1.1. Khái niệm về co dãn của cầu Qua nghiên cứu về lý thuyết cầu ở chương trước cho chúng ta thấy được một số mặt bản chất của hành vi người tiêu dùng. Và trên thực tế các doanh nghiệp rất quan tâm đến sức mua của người tiêu dùng khi giá cả hàng hoá cũng như thu nhập của người dân thay đổi. Do đó để xem xét tầm quan trọng của việc đo lường độ nhạy của lượng cầu theo sự thay đổi của giá, thu nhập thì trong phần này chúng ta sẽ đi nghiên cứu phương pháp đo về mặt lượng ảnh hưởng của giá cả hàng hoá, thu nhập và giá cả hàng hoá khác đến lượng cầu bằng công cụ hệ số co dãn của cầu. Vậy sự co giãn của cầu là gì ? – Đó là một công cụ dùng để đo lường sự phản ứng của người tiêu dùng trước những thay đổi của thị trường. Sự co dãn của cầu là tỷ số giữa sự thay đổi tính theo phần trăm của lượng cầu với sự thay đổi tính theo phần trăm của một trong các nhân tố ảnh hưởng đến lượng cầu với điều kiện các yếu tố khác không đổi. Kí hiệu : E D (Elasticity Demand) % Sự thay đổi lượng cầu % Sự thay đổi của các yếu tố ảnh hưởng đến cầu = EDP 2.4.1.2. Phân loại co dãn của cầu Tùy theo yếu tố ảnh hưởng, có thể chia co dãn của cầu thành : - Co dãn của cầu theo giá hàng hóa . - Co dãn của cầu theo thu nhập - Co dãn của cầu theo giá hàng hóa liên quan (Độ co giãn chéo). 2.4.1.2.1 Co dãn của cầu theo giá hàng hóa Ta thấy, đường cầu là đường có độ dốc đi xuống, nó cho biết quan hệ định tính giữa cầu với giá tức là sản lượng tăng khi giá giảm và ngược lại. Nhưng chúng ta phải biết quan hệ về mặt định lượng, nghĩa là lượng cầu tăng hay giảm bao nhiêu phần trăm khi giá giảm hay tăng 1% và trên thực tế cho chúng ta thấy: - Đối với một số mặt hàng số lượng cầu có thể tăng hay giảm rất chậm khi giảm hoặc tăng giá của nó: gạo, xăng dầu... - Đối với một số mặt hàng lượng cầu có thể tăng hay giảm rất nhanh khi giảm hoặc tăng giá của nó: hàng xa xỉ... Vì vậy, chúng ta phải triển khai một thước đo mức độ đáp ứng của người tiêu dùng đối với sự biến động của chính nó. Thước đo này gọi là độ co dãn của cầu theo giá EDP. Do đó, độ co dãn của cầu theo giá là tỷ số giữa mức thay đổi tính theo phần trăm lượng cầu của một mặt hàng nào đó với mức thay đổi tính theo phần trăm tương ứng của giá cả chính mặt hàng đó, với điều kiện các nhân tố khác không đổi. % Sự thay đổi lượng cầu % % Sự thay đổi của giá % = = EDP Từ công thức trên ta thấy: - Do P và Q nghịch biến nên EDP luôn nhỏ hơn 0, vì vậy để đơn giản người ta thường chỉ xét |EDP|. Tức là EDP = || = || - Độ co dãn của cầu khác với độ dốc của đường cầu, độ dốc của đường cầu là DP/DQD. - Độ co dãn của cầu được tính độc lập hoàn toàn cho từng loại hàng hoá cụ thể nên chúng ta có thể so sánh độ co dãn của cầu đối với nhiều hàng hoá khác nhau, tức là có thể EDPx khác EDPy. * Cách tính hệ số co dãn của cầu theo giá ** Đo lường độ co giãn của cầu theo điểm : ( PP điểm đường cầu) EDP = || =| | Trường hợp cầu là một hàm biểu thị dưới dạng QD = f(P). Khi đó, độ co giãn của cầu theo giá được đo lường như sau : EDP =| | Lưu ý : Độ co giãn của cầu theo giá luôn biểu thị là một số dương. Từ khi luật cầu cho biết quan hệ ngược chiều giữa giá và lượng cầu vì vậy trong công thức đo lường độ co giãn của cầu theo giá luôn có giá trị tuyệt đối. Cầu được xem là : Co giãn khi EDP > 1 Co giãn đơn vi khi : EDP = 1 Kém co giãn khi : EDP < 1 Ý nghĩa độ co giãn của cầu theo giá : Khi cầu co giãn, giá tăng lên 1% sẽ làm cho lượng cầu giảm hơn 1%. Nếu cầu là co giãn đơn vi thì 1% thay đổi về giá làm thay đổi 1% về lượng cầu. Trong khi đó nếu cầu kém co giãn thì 1% thay đổi về giá làm cho lượng cầu thay đổi nhỏ hơn 1%. Ví dụ1 : Giả sử cúng ta có một biểu cầu về một loại hàng như sau : Điểm đo lường Giá (P) Lượng cầu (QD ) a 5 20 b 10 15 c 15 10 d 20 5 Tính độ co giãn của cầu tại các điểm đo lường : Giải : Tại điểm a : (P0,Q0) = (5,20) : EDP =| | = 1/4 Tại điểm b : (P0,Q0) = (10,15 ) :  EDP =| | = 2/3 Tại điểm c : (P0,Q0) = (15,10 ) :  EDP =| | = 3/2 Tại điểm d : (P0,Q0) = (20,5 ) : EDP =| | = 4 Một số trường hợp đặc biệt của độ co giãn theo giá : Đường cầu co giãn hoàn toàn : Độ co giãn của cầu theo giá không xác định, đường cầu có dạng nằm ngang song song với trục hoành. EDP = vô cùng D P Q P0 Đường cầu không co giãn : Độ co giãn của cầu theo giá là bằng không lượng cầu không thay đổi theo sự thay đổi của giá. Đường cầu có dạng đứng song song với trục tung. P D Q Q0 ** Đo lường độ co giãn của cầu theo đoạn : (phương pháp đoạn đường cầu): Phương pháp này sử dụng khi các trị số P và Q nằm trong một khoảng hữu hạn nào đó của đường cầu với P0, P1 ứng với Q0, Q1. Công thức đo lường độ co giãn đoạn : EDP = || =| | Trường hợp cầu là một hàm số biểu thị dưới dạng : QD = f(P) ; EDP =| | Trong đó : Pm =  ; Qm =   Ví dụ 2 : Sử dụng ví dụ 1, chúng ta đo lường độ co giãn đoạn như sau ; + Đoạn (ab) : (Pm, Qm) = (15/2, 35/2)  EDP = || =| | = 3/7 + Đoạn (bc) : (Pm, Qm) = (25/2, 25/2)  EDP = || =| | = 1 + Đoạn (cd) : (Pm, Qm) = (35/2, 15/2)  EDP = || =| | = 7/3 2.4.1.2.2. Co dãn của cầu theo thu nhập : Giữ nguyên chính giá của hàng hoá đó và giá cả của các hàng hoá khác có liên quan, chúng ta xem xét mức độ phản ứng của người tiêu dùng với mức thu nhập của họ (bỏ qua tiết kiệm.). Để đo lường mức độ nhạy cảm của cầu theo sự thay đổi của thu nhập thông qua độ co giãn của cầu theo thu nhập và được đo lường bởi: % Sự thay đổi lượng cầu % = % Sự thay đổi thu nhập % c\ = = EDI EDP = = . Trong đó : I =  ; Q =  . Đo lường độ co giãn theo thu nhập không có dấu giá trị tuyệt đối, nó có thể nhận giá trị âm hoặc dương: + Nếu co giãn của cầu theo thu nhập cho giá trị dương có nghĩa là thu nhập tăng làm cầu hàng hóa tăng (trong trường hợp này thì hàng hóa được gọi là hàng hóa thông thường). + Nếu co giãn của cầu theo thu nhập cho giá trị âm thì có nghĩa là thu nhập tăng lên thì cầu hàng hóa giảm xuống (trong trường hợp này hàng hóa được gọi là hàng hóa thứ cấp). Ngoài ra, chúng ta cũng cần phân biệt sự khác nhau giữa hàng hóa cao cấp và hàng hóa thiết yếu, đó là phần thu nhập chi tiêu vào hàng hóa khi thu nhập tăng lên. + Hàng hóa được cho là hàng hóa cao cấp nếu tốc độ tăng thu nhập nhỏ hơn tốc độ tăng tiêu dùng. Điều này có nghĩa nếu thu nhập tăng lên 10% thì phần chi tiêu vào hàng hóa cao cấp tăng hơn 10%. Do vậy độ co giãn của cầu theo thu nhập đối với hàng hóa cao cấp luôn lớn hơn 1. + Hàng hóa thiết yếu là hàng hóa có tốc độ tăng thu nhập lớn hơn tốc độ chi tiêu vào hàng hóa đó. Điều này có nghĩa là hàng hóa thiết yếu có độ co giãn của cầu theo thu nhập nhỏ hơn 1. Tóm lại: - Nếu EDI ³ 0 thì hàng hóa đó là hàng hóa thông thường. - Nếu EDI £ 0 thì mặt hàng x là hàng hoá thứ cấp. - Nếu 0 < EDI < 1 thì hàng hóa là hàng thiết yếu. - Nếu EDI ³ 1 thì hàng hoá là hàng hóa cao cấp 2.4.1.2.3 Co dãn của cầu theo giá hàng hóa liên quan(Co giãn chéo) : Độ co giãn chéo của cầu theo giá đo lường độ nhạy cảm của sự thay đổi lượng cầu của hàng hóa này theo sự thay đổi giá của hàng hóa khác. Độ co giãn chéo của cầu theo giá giữa hai hàng hóa X và Y có thể biểu thị như sau : % Sự thay đổi lượng cầu HH X %𝜟QDX % Sự thay đổi giá HH Y 𝜟 PY 𝜟𝜟𝜟𝜟%%% c\ EDX,Y = = % EDX,Y = x Với PY = và Qx = Độ co giãn của cầu theo giá không có dấu giá trị tuyệt đối trong công thức đo lường, dấu của độ co giãn cho chúng ta biết đặc tính về mối quan hệ giữa hàng hóa X và Y cho biết hai hàng hóa là bổ sung hay thay thế. -Nếu EDX,Y > 0 khi hai hàng hóa X và Y là hai hàng hóa thay thế. -Nếu EDX,Y < 0 khi hai hàng hóa X và Y là hàng hóa bổ sung. -Nếu EDX,Y = 0 là hai hàng hóa X,Y là hai hàng hóa không liên quan. 2.4.1.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến độ giãn của cầu: Một hàng hóa sẽ có độ co giãn của cầu theo giá sẽ cao hơn nếu: Hàng hóa đó có nhiều hàng hóa thay thế. Khi hàng hóa thay thế nhiều, người tiêu dùng sẽ rất nhạy cảm khi giá hàng hóa tăng lên. Khi đó, người tiêu dùng có khuynh hướng và dễ dàng thay thế bằng các hàng hóa rẻ hơn. Do đó, hàng hóa có độ co giãn của cầu theo giá là co giãn khi có nhiều hàng hóa thay thế hơn. Ngược lại, một số hàng hóa sẽ kém co giãn nếu như có ít hàng hóa thay thế chẳng hạn như thuốc điều trị ung thư. Hàng hóa chiếm tỷ trọng lớn trong ngân sách của người tiêu dùng. Nếu hàng hóa chiếm tỷ trọng nhỏ trong ngân sách tiêu dùng, thì sự thay đổi giá hàng hóa sẽ tác động lên năng lực mua sắm của cá nhân. Trong trường hợp này, sự thay đổi giá của hàng hóa sẽ tác động rất ít đến lượng tiêu dùng. Chẳng hạn, nếu giá muối tăng lên gấp đôi sẽ ảnh hưởng không đáng kể đến ngân sách tiêu dùng. Trong khi đó, nếu như một hàng hóa chiếm khoảng 50% ngân sách chi tiêu và giá cả tăng lên gấp đôi, khi đó người tiêu dùng sẽ phải cân nhắc quyết định lượng tiêu dùng đối với hàng hóa này. Hàng hóa được xem xét trong khoảng thời gian dài. Người tiêu dùng có khả năng thay đổi hàng hóa thay thế nếu như hàng hóa đó được xem xét trong khoảng thời gian dài hơn. Chẳng hạn, chúng ta nhận thấy sự tăng giá xăng dầu trong thời gian vừa qua, người đi xe máy liệu có dễ dàng giảm lượng xăng dầu hay không hay thay thế bởi xe máy chạy bằng điện hay nhiên liệu nào đó hay không. Nếu như giá xăng dầu vẫn tăng trong dài hạn, khi đó người tiêu dùng có khả năng thay thế hàng hóa xét trên phương diện cả nhà sản xuất và người tiêu dùng. Vì vậy, cầu của xăng dầu và khí đốt sẽ co giãn trong dài hạn hơn là trong ngắn hạn. 2.4.2 Độ co giãn của cung: 2.4.2.1 Khái niệm về sự co giãn của cung: Co giãn của cung theo giá là tỷ lệ phần trăm thay đổi về lượng cung trên phần trăm thay đổi của giá. ESP = = 2.4.2.2. Đo lường độ co giãn cung * Trường hợp co giãn điểm Co giãn điểm: Là độ co giãn trên một điểm nào đó của đường cung. Có thể xác định theo phương pháp phương trình đường cung theo giá. ESP = = Trường hợp cầu là một hàm biểu thị dưới dạng QD = f(P). Khi đó, độ co giãn của cầu theo giá được đo lường như sau : ESP =| | Ví dụ3 : Giả sử cúng ta có một biểu cầu về một loại hàng như sau : Điểm đo lường Giá (P) Lượng cung (QS ) a 5 5 b 10 15 c 15 25 d 20 35 Tính độ co giãn của cung tại các điểm đo lường : Giải : Tại điểm a : (P0,Q0)=(5,5): ESP = | = 2 Tại điểm b : (P0,Q0) = (10,15 ) :  ESP = = 4/3 Tại điểm c : (P0,Q0) = (15,25 ) :  ESP = = 3/2 Tại điểm d : (P0,Q0) = (20,35 ) : ESP = = 8/7 *Trường hợp co giãn khoảng: Co giãn khoảng: Là độ co giãn trên một khoảng hữu hạn nào đó của đường cung. Khi di chuyển dọc theo đường cung thì giá trị độ co giãn thay đổi. Nó phụ thuộc vào giá trị của P và Q. Trong trường hợp này, tính hệ số co giãn ta sử dụng phương pháp trung điểm. ESP = = Trường hợp cung là một hàm số biểu thị dưới dạng : QS = f(P) ; ESP = Trong đó : Pm =  ; Qm =   Sử dụng dữ liệu biểu cung ở trên, chúng ta đo lường độ co giãn đoạn như sau: + Đoạn (ab) : (Pm, Qm) = (15/2, 20/2)  ESP = = 3/2 + Đoạn (bc) : (Pm, Qm) = (25/2, 40/2)  ESP = | = 5/4 + Đoạn (cd) : (Pm, Qm) = (35/2, 60/2)  ESP = = 7/6 Theo kết quả tính toán co giãn của cung theo giá phân thành 5 trường hợp sau đây: Trường hợp 1: Cung tương đối co giãn ESP >1 Trường hợp 2: Cung co giãn đơn vị ESP = 1 Trường hợp 3: Cung ít co giãn ESP < 1 Trường hợp 4: Cung co hoàn toàn ESP = ∞. Trường hợp 5: Cung hoàn toàn không co giãn ESP = 0 2.4.2.3 Các yếu tố ảnh hưởng đến co giãn của cung Khả năng linh hoạt của người bán trong việc thay đổi lượng hàng hóa mà họ sản xuất ra hay khả năng mở rộng sản xuất. Khoảng thời gian nghiên cứu. Giá cả của hàng hóa. Khả năng thay thế của các yếu tố đầu vào của sản xuất. CHƯƠNG 3. LÝ THUYẾT HÀNH VI NGƯỜI TIÊU DÙNG * MỤC TIÊU CỦA CHƯƠNG: - Nắm được các khái niệm, quy luật liên quan đến lý thuyết về lợi ích: Lợi ích, tổng lợi ích, lợi ích cận biên, quy luật lợi ích cận biên. -Tiếp cận mô hình toán để xác định lựa chọn tiêu dùng cá nhân nhằm đạt mục tiêu tối đa. - Xác định được các nhân tố ảnh hưởng đến hành vi lựa chọn của người tiêu dùng. 3.1 Lý thuyết về lợi ích Các nhà kinh tế vận dụng quy mô lựa chọn để giải thích hành vi của người tiêu dùng. Thu nhập của cá nhân và giá cả hàng hóa là những nhân tố giới hạn lợi ích mà người tiêu dùng có thể đạt được. Vì vậy các cá nhân sẽ quyết định số lượng hàng hóa dịch vụ tiêu dùng để tối đa hóa lợi ích trong giới hạn ngân sách tiêu dùng. Nhìn chung, các mong muốn của người tiêu dùng về một sản phẩm cụ thể có thể được đáp ứng đầy đủ trong một khoảng thời gian nhất định với giả định sở thích không thay đổi. Tuy nhiên càng có nhiều sản phẩm thì mong muốn trên mỗi đơn vị sản phẩm giảm dần. Để giải thích điều này chúng ta sẽ đi tìm hiểu các khái niệm về lợi ích và lợi ích biên. Khái niệm về lợi ích và lợi ích cận biên: - Lợi ích (Utility) đuợc định nghĩa như là sự thoả mãn hay sự hài lòng đạt được từ việc tiêu dùng các hàng hoá, dịch vụ. Kí hiệu: U. Lợi ích có hai đặc tính cần lưu ý: Lợi ích và hữu dụng là không đồng nhất. Lợi ích thường không giống nhau đối với mỗi người khi tiêu dùng cùng sản phẩm - Tổng lợi ích (Total Utility) Là tổng thể sự thỏa mãn hoặc hài lòng thu được khi tiêu dùng toàn bộ hàng hóa hoặc dịch vụ mang lại. Tổng lợi ích sẽ tăng lên khi số lượng sản phẩm được tiêu dùng tăng lên. Kí hiệu TU. - Lợi ích biên (Marginal Utility) là lợi ích tăng thêm khi người tiêu dùng tiêu dùng thêm một đơn vị hàng hoá hay dịch vụ. Kí hiệu: MU Xem bảng minh họa về mối quan hệ giữa tổng lợi ích và lợi ích biên liên quan đến tiêu dùng của cá nhân đối với bánh pizza (trong một khoảng thời gian nhất định) Số chiếc bánh Tổng lợi ích (TU) Lợi ích biên (MU) 0 0 - 1 4 4 2 7 3 3 9 2 4 10 1 5 10 0 6 8 -2 Qua bảng cho thấy lợi ích biên liên quan đến mỗi chiếc bánh pizza tăng thêm chỉ là mức thay đổi tổng lợi ích khi có thêm một chiếc bánh pizza được tiêu dùng. Chẳng hạn,lợi ích tiêu dùng chiếc bánh pizza thứ 3 là 2 do tổng lợi ích tăng thêm là 2(từ 7 lên 9) . Một cách tổng quát,lợi ích biên có thể xác định như sau: + Nếu tổng lợi ích (TU) là một hàm không xác định (không liên tục) thì MU = Trong đó: D TU là sự thay đổi về tổng lợi ích DQ là sự thay đổi về số lượng sản phẩm tiêu dùng + Nếu tổng lợi ích là hàm xác định (liên tục) và có dạng TU = f (Q) thì MU = = TU¢(Q) 3.1.2 Quy luật lợi ích biên giảm dần Quy luật này được phát biểu như sau: Khi số lượng hàng hoá hoặc dịch vụ nào đó được tiêu dùng tăng lên thì lợi ích cận biên của hàng hoá dịch vụ đó có xu hướng giảm dần xuống và ngược lại, trong một thời điểm nhất định. Quy luật này đúng với hầu hết các sản phẩm, nhưng nó chỉ đúng khi xem xét mặt hàng đó trong thời gian ngắn Sở dĩ lợi ích cận biên giảm dần là do giảm sự hài lòng hay sự thích thú của mỗi chúng ta đối với một mặt hàng khi tiêu dùng thêm mặt hàng đó. Ý nghĩa của quy luật lợi ích biên giảm dần: Khi ta tiêu dùng nhiều hơn một mặt hàng nào đó thì tổng lợi ích sẽ tăng, tuy nhiên với tốc độ ngày càng chậm, việc tăng chậm này là do lợi ích cận biên giảm khi ta tiêu dùng thêm hàng hoá dịch vụ đó. Quy luật này được hầu hết các nhà kinh tế học thừa nhận, tuy nhiên nó chỉ là quy luật trừu tượng và thực tế ta không thể đo được lợi ích cận biên. Cần lưu ý rằng mặc dầu lợi ích biên giảm dần nhưng tổng lợi ích vẫn tăng miễn là lợi ích biên còn dương. Tổng lợi ích sẽ giảm khi lợi ích biên âm. Qui luật lợi ích cận biên giảm dần chi phối rất lớn đến hành vi ứng xử của người tiêu dùng trong việc ưu tiên lựa chọn mua sắm hàng hoá trong một ngân sách tiêu dùng có hạn. Điều kiện vận dụng: Chỉ xét đối với một loại hàng hóa. Số lượng sản phẩm hay hàng hóa khác được giữ nguyên. Thời gian ngắn. 3.1.3 Lợi ích biên và cầu của người tiêu dùng: Lợi ích cận biên của việc tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ càng lớn thì người tiêu dùng càng sẵn sàng trả giá cao hơn lúc đó sẽ làm xuất hiện thặng dư tiêu dùng (CS). Như vậy, giá sẵn sàng mua biểu thị lợi ích cận biên của hàng hóa hoặc dịch vụ ở một mức tiêu dùng nhất định. Khi lượng tiêu dùng tăng dần lên, theo đó lợi ích cận biên sẽ giảm dần thì sự sẵn sàng chi trả cũng giảm đi. Do vậy, đường cầu có hình dạng dốc xuống từ trái sang phải. Vì thế căn cứ vào cầu để xác định lợi ích biên của người tiêu dùng. P Q PE P0 D = å MU E QE MU = DD ( Đường lợi ích biên chính là đường cầu ) 3.2 Lựa chọn sản phẩm và tiêu dùng tối ưu: 3.2.1. Tối đa hóa lợi ích người tiêu dùng * Mục đích của người tiêu dùng Các phân tích trên về cầu vẫn dựa trên giả định mua một sản phẩm riêng lẻ với mức giá khác nhau. Nhưng trên thực tế, quyết định tiêu dùng phải giải quyết vấn đề lựa chọn và sẽ mua hàng hoá nào trong số nhiều hàng hoá với mức giá chấp nhận được. Mục đích của người tiêu dùng là đạt được sự thoả mãn tối đa bằng nguồn thu nhập hạn chế, việc chi mua của họ đều phải chấp nhận một chi phí cơ hội vì việc chi mua hàng hoá này đồng thời giảm cơ hội chi mua hàng hoá khác. Vì vậy, cần phải giải quyết như thế nào để đạt được sự thoả mãn tối đa. Sự lựa chọn của người tiêu dùng sẽ bị ràng buộc bởi: - Nhân tố chủ quan là sở thích của họ. - Nhân tố khách quan là thu nhập hay ngân sách tiêu dùng và giá cả của hàng hoá đó. * Phương pháp lựa chọn sản phẩm tiêu dùng tối ưu tiếp cận từ lý thuyết. Cơ sở để giải thích sự lựa chọn là lý thuyết về lợi ích và quy luật cầu. + Theo lý thuyết lợi về ích người tiêu dùng sẽ ưu tiên sự lựa chọn cho sản phẩm có lợi ích hơn. + Theo quy luật cầu việc lựa chọn còn phải xét tới giá cả hàng hoá mà ta cần, do đó phải so sánh lợi ích thấy trước của mỗi sự tiêu dùng với chi phí của nó tức là tỷ lệ lợi ích của một đồng khi trả cho thị trường loại hàng hoá đó (MU/P) và việc lựa chọn sản phẩm phải phù hợp nhất với lượng thu nhập có thể có. Việc tiêu dùng tối ưu có nghĩa là chúng ta lựa chọn một cơ cấu tiêu dùng hàng hoá tối đa tổng lợi ích. Điều kiện để tối đa hoá lợi ích là: lợi ích cận biên tính trên một đồng của hàng hoá này phải bằng lợi ích cận biên tính trên một đồng của bất kỳ hàng hoá nào khác và chi tiêu cho tất cả các mặt hàng bằng thu nhập. MUx MUY = = ... (1) Px PY PX.QX + PY.QY + ...+ Pn.Qn = I (2) Khi kết hợp tiêu dùng thỏa mãn hai điều kiện trên, cá nhân đạt trạng thái cân bằng tiêu dùng. Một trạng thái cân bằng mà ở đó cá nhân xác định số lượng và ngân sách tiêu dùng cho mỗi hàng hóa tiêu dùng để đạt được tối đa hóa lợi ích. Với công thức trên, chúng ta nhận thấy rằng nếu lợi ích biên trên một đồng chi tiêu dùng của X sẽ giảm xuống khi giá của X tăng lên. Để xác định điểm cân bằng tiêu dùng mới, cá nhân sẽ tiêu dùng vào hàng hóa Yvà giảm chi tiêu hàng hóa X. Sự thay đổi tổ hợp tiêu dùng này gọi là tác động thay thế. Khi hàng hóa trở nên đắt hơn thì lượng tiêu dùng vào hàng hóa X là do tác động thay thế. Ngoài tác động thay thế, một tác động khác xảy ra khi có sự thay đổi giá của hàng hóa, đó là tác động thu nhập. Tác động thu nhập này làm giảm lượng cầu tiêu dùng đối với tất cả hàng hóa thông thường. Nếu như X là hàng hóa thông thường, khi giá X tăng lên thì X chịu tác động thay thế và tác động thu nhập. Cả hai tác động này làm giảm lượng cầu đối với hàng hóa X. Mặt khác, sự tăng giá của X không chỉ ảnh hưởng đến lượng cầu của hàng hóa X mà còn tác động đến lượng cầu hàng hóa Y. Tăng giá hàng hóa X làm tăng lượng cầu của hàng hóa Y do tác động thay thế, trong khi đó năng lực mua sắm thực tế cảu người tiêu dùng giảm do giá X tăng lên. Điều này không chỉ làm giảm lượng cầu tiêu dùng hàng hóa X mà còn làm giảm lượng cầu cầu tiêu dùng đối với hàng hóa Y, đó la do tác động thu nhập. Vì vậy đối với hàng hóa Y, nếu tác động thay thế lớn hơn tác động thu nhập thì lượng tiêu dùng hàng hóa Y tăng lên. Ngược lại, nếu tác động thay thế nhỏ hơn tác động thu nhập thì lượng cầu của hàng hóa Y sẽ giảm. Tác động tổng hợp là tổng của tác động thay thế và tác đông thu nhập. 3.2.2 Lựa chọn tiêu dùng tối ưu bằng phương pháp hình học: Một số giả thiết: Giả thiết 1: Sở thích là hoàn chỉnh. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng sở thích hoàn toàn không tính đến chi phí. Giả thiết 2: Sở thích có tính bắc cầu. Giả thiết 3: Mọi hàng hóa đều tốt. Cá nhân tối đa hóa lợi ích trong giới hạn ngân sách, họ sẽ lựa chọn điểm tiêu dùng mà ở đó đường ngân sách tiếp xúc với đường bàng quan nào đó. * Đường ngân sách (BL- Budget Line): Mô tả các kết hợp hàng tiêu dùng khác nhau mà người tiêu dùng có thể mua được với cùng một ngân sách. Nó chia không gian lựa chọn thành hai miền: + Kết hợp có thể đạt được. + Kết hợp không thể đạt được và đồng thời thể hiện tất cả các sự kết hợp có thể để lựa chọn hai hàng hoá Xvà Y, do vậy đường ngân sách còn gọi là đường giới hạn khả năng tiêu dùng. Ràng buộc thu nhập cá nhân có thể biểu hiện như sau (nếu chỉ xét hai hàng hóa X và Y): PX.X + PY.Y = I - Phương trình đường ngân sách có dạng: Y = I/PY – (PX / PY) .X Trong đó: X và Y là lượng tiêu dùng của hàng hoá X và Y Px, Py là giá cả hàng hoá X và Y I: là ngân sách tiêu dùng. (-PX / PY) là độ dốc của đường ngân sách. Y BLL Vùng quá GH NS Vùng GH NS chi tiêu A BL X - Khi thu nhập người tiêu dùng và giá cả của hàng hóa là cố định thì đường ngân sách sẽ được xác định như trên. Hệ số gốc của đường ngân sách chính là giá tương đối của hai hàng hóa (PX/PY) đồng thời tỷ lệ mà tại đó thị trường sẵn sàng đổi hàng hóa này lấy hàng hóa khác, nếu giá hàng hóa là cố định thì hệ số gốc của đường ngân sách không thay đổi. Đường ngân sách có thể dịch chuyển dưới tác động của thu nhập và giá cả. - Khi thu nhập thay đổi, giá cả không thay đổi thì đường ngân sách sẽ dịch chuyển song song với đường ngân sách ban đầu. Thu nhập tăng đường ngân sách dịch chuyển ra bên ngoài, và ngược lại. - Khi giá cả của một hàng hóa thay đổi trong khi thu nhập giữ nguyên thì đường ngân sách xoay quanh một điểm. * Đường bàng quan (IC: Indefference Curve): Thể hiện những kết hợp trong việc lựa cho hai loại hàng hoá X, Y và tất cả những kết hợp đó đều mang lại một tổng lợi ích như nhau đối với người tiêu dùng, vì vậy còn gọi là đường đồng mức thoả dụng (đường đẳng ích). Vậy một mức lợi ích hay sở thích của người tiêu dùng được đại diện bằng một đường bàng quan và các mức lợi ích của người tiêu dùng được đại diện bằng vô số các đường bàng quan khác. Đường bàng quan có 4 tính chất: Tính chất 1: Các đường bàng quan cao hơn được ưa thích hơn. Tính chất 2: Các đường bàng quan dốc xuống. Tính chất 3: Các đường bàng quan không cắt nhau. Tính chất 4: Các đường bàng quan là đường cong lồi về phía gốc tọa độ Các đường bàng quan lồi so với gốc tọa độ, độ dốc của đường bàng quan giảm dần từ trái qua phải, độ dốc biểu thị tỷ lệ thay thế cận biên (MRS: Marginal Rate of Subtitution): là tỷ lệ cho biết cần phải đánh đổi bao nhiêu đơn vị hàng hóa này để có thêm một đơn vị hàng hóa kia mà không làm thay đổi mức lợi ích đạt được (MRSX,Y = MUX / MUY) Y X U * Sự kết hợp giữa đường bàng quan và đường ngân sách Đưa hai đường ngân sách và đường bàng quan trên cùng một đồ thị. Giả sử đường ngân sách của hai hàng hoá X và Y tiếp xúc với đường bàng quan tại điểm A. A X Y U BL Tại A thể hiện trạng thái tiêu dùng tối ưu hay người tiêu dùng đạt lợi ích tối đa với mức ngân sách cho trước. Điểm A là tối ưu vì nó thể hiện sự kết hợp mà đường ngân sách chạm với đường bàng quan cao nhất có thể đạt được tức là với ràng buộc về ngân sách và giá cả nó đạt được lợi ích lớn nhất. Tại điểm này tỷ lệ thay thế biên bằng giá tương đối của hai hàng hóa. Do đó điều kiện tối ưu hoá của người tiêu dùng là độ dốc của đường ngân sách (PX/PY) bằng độ dốc của đường bàng quan (MUX/MUY) (hay hai đường tiếp xúc với nhau khi độ dốc của hai đường bằng nhau) tức là: Kết luận này hoàn toàn phù hợp với kết luận đã thu được ở mục trước, tương tự ta có thể mở rộng điều kiện tối ưu của người tiêu dùng cho trường hợp tổng quát: .... VD: Giả sử, một cá nhân có thu nhập cố định là I = 60 nghìn đồng, chi tiêu cho hoạt động giải trí trong tuần, đó là xem phim (X) và ăn kem (Y). Biết rằng giá xem phim là PX = 20 nghìn đồng, PY = 5 nghìn đồng. Lợi ích tiêu dùng của cá nhân vào sản phẩm X, Y như sau: QX UX QY UY 1 80 1 40 2 120 2 70 3 140 3 90 4 150 4 100 5 150 5 100 6 140 6 90 Hãy xác định kết hợp chi tiêu (QX, QY) để cá nhân tối đa hóa lợi ích. Nếu PX = 10 ngìn đồng và PY = 10 ngìn đồng, xác định điểm cân bằng tiêu dùng? Giải: 1. Điểm cân bằng tiêu dùng PX = 20, PY = 5 Lợi ích biên trên một đồng tiêu dùng vào X và Y: Sản phẩm X, PX = 20nghìn đồng QX UX MUX MUX/ PX 1 8 0 80 4(1) 2 120 40 2(2) 3 140 20 1 4 150 10 -1/2 5 150 0 0 (3) 6 140 -10 -1/2 Sản phẩm Y,PY = 5nghìn đồng QX UY MUY MUY/ PY 1 40 40 8 2 70 30 6 3 90 20 4(1) 4 100 10 2(2) 5 100 0 0(3) 6 90 -10 -2 + Xét các kết hợp (QX, QY) thỏa mãn MUX/ PX = MUY/ PY Kết hợp (1) với (1X, 3Y): Tổng lợi ích: U1= 80 + 90 = 170. Tổng chi tiêu: 1x20 + 3x5 = 35 < I = 60. Vậy, kết hợp (1) có chi tiêu < thu nhập, cho nên xem xét kết hợp khác. Kết hợp (2) với (2X, 4Y): Tổng lợi ích : U2 = 120 + 100 = 220 Tổng chi tiêu: 2x20 + 4x5 = 60 = I Vậy kết hợp (2) cân bằng tiêu dùng và tối đa hóa được lợi ích. Kết hợp (3) với (5X,5Y): Tổng lợi ích: U3 = 150 + 100 = 250 Tổng chi tiêu: 5x20 + 5x5 = 125 > I Vậy kết hợp (3) có chi tiêu lớn hơn thu nhập, cho nên bị loại. Kết luận: Cá nhân đạt cân bằng tiêu dùng tại điểm: A (PXA = 20, QXA = 2); (PYA = 5, QYA = 4) Điểm cân bằng tiêu dùng PX = 10, PY = 10. Làm tương tự trường hợp trên ta có: ĐS: Cá nhân đạt cân bằng tiêu dùng tại điểm: B(PXB = 10, QXB = 3); (PYB = 10, QYB = 3). 3.2.3. Các nhân tố tác động đến lựa chọn tiêu dùng tối ưu của người tiêu dùng: Thu nhập: Khi thu nhập của người tiêu dùng tăng lên, đường giới hạn ngân sách dịch chuyển ra phía ngoài. Nếu cả hai hàng hóa là hàng hóa thông thường, người tiêu dùng sẽ phản ứng lại sự gia tăng thu nhập bằng cách mua cả hai loại hàng hóa nhiều hơn. Hàng hóa được coi là cấp thấp nếu người tiêu dùng mua nó ít hơn khi thu nhập của họ tăng. Giá cả hàng hóa: Giá cả của một hàng hóa thay đổi, trong khi thu nhập được giữ nguyên,chúng ta có một số nhận xét sau; Khi giá một hàng hóa nào đó giảm xuống, thì đường ngân sách quay ra phía ngoài. Dịch chuyển ra phía ngoài của đường ngân sách làm thay đổi độ dốc của nó. Sự thay đổi của đường giới hạn ngân sách làm thay đổi tiêu dùng của cả hai hàng hóa như thế nào phụ thuộc vào sở thích của người tiêu dùng. Tác động của sự thay đổi giá cả một hàng hóa nào đó đối với tiêu dùng có thể được phân tích thành hai hiệu ứng: Hiệu ừng thu nhập và hiệu ứng thay thế. Hiệu ứng thu nhập: là sự thay đổi của tiêu dùng phát sinh do mức giá thấp hơn làm cho người tiêu dùng được lợi, được phản ánh qua sự dịch chuyển từ đường bàng quan thấp tới đường bàng quan cao hơn. Hiệu ứng thay thế: là sự thay đổi của tiêu dùng phát sinh từ chỗ giá thay đổi khuyến khích mức tiêu dùng lớn hơn đối với hàng hóa đã trở nên rẻ hơn một cách tương đối, được biểu thị bằng sự di chuyển dọc theo đường bang quan tới điểm có tỷ lệ thay thế biên khác. Khi giá của một hàng hóa nào đó giảm, điểm lựa chọn tiêu dùng tối ưu sẽ thay đổi, lượng cầu về hàng hóa đó sẽ tăng. * MỤC TIÊU CỦA CHƯƠNG: - Hiểu và ứng dụng được lý thuyết về sản xuất, chi phí,doanh thu, lợi nhuận - Làm được những bài tập liên quan về sản xuất, chi phí,doanh thu, lợi nhuận - Tiếp cận phương pháp phân tích biên cho các quyết định sản xuất tối ưu.z CHƯƠNG 4: LÝ THUYẾT HÀNH VI CỦA DOANH NGHIỆP 4.1 Lý thuyết sản xuất. 4.1.1 Khái niệm tổ chức sản xuất, hàm số sản xuất: * Khái niệm tổ chức sản xuất: Tổ chức sản xuất là quá trình chuyển đổi các yếu tố đầu vào (Lao động, vốn, tài nguyên...) thành các đầu ra (sản phẩm và dịch vụ). Yếu tố lao động ở đây được hiểu là sức lao động của con người với những kỹ năng nhất định. Yếu tố vốn được hiểu là vốn đã vật hóa bao gồm thiết bị, máy móc, nhà xưởng và vật tư tồn kho cần thiết. Yếu tố tài nguyên được hiểu là quyền sử dụng mặt bằng đất đai, tài nguyên, vùng trời, vùng biển, mặt nước... Trong thực tế, sản xuất bao gồm toàn bộ các hoạt động để sản xuất hàng hóa và dịch vụ. Các hoạt động này bao gồm: huy động nguồn vốn để đầu tư mở rộng nhà xưởng, thuê lao động, mua sắm nguyên liệu, kiểm soát chất lượng, ...hơn là đề cập đến sự chuyển đổi các yếu tố vật lí đầu vào thành sản phẩm và dịch vụ đầu ra. *Hàm số sản xuất: Nếu như khái niệm về hàm cầu là trọng tâm của lý thuyết cầu thì lý thuyết sản xuất đề cập các khái niệm xoay quanh hàm sản xuất. Hàm sản xuất là một phương trình, biểu số liệu, hay biểu đồ biểu thị mối quan hệ đầu ra (sản phẩm hay dịch vụ) theo sự kết hợp của các yếu tố đầu vào (lao động, vốn) trong một khoảng thời gian nhất định. Hàm sản xuất tổng quát đối với doanh nghiệp chỉ giới hạn các yếu tố đầu vào là vốn và lao động: ( hàm sản xuất Cobb Douglas.) Q = f(L,K) hay Q = A. Lα. Kβ Trong đó: - Q là sản lượng chung của nền kinh tế - K là vốn, L là lao động - A là một thông số phụ thuộc vào những đơn vị đo lường các đầu vào và đầu ra - α,β là những hằng số cho biết tầm quan trọng tương đối của K và L Cả đầu vào và đầu ra đều được biểu thị dưới hình thái vật chất hơn là hình thái tiền tệ. Chẳng hạn, đầu vào là các biến số độc lập như số lượng lao động sử dụng, vốnchỉ giá trị sử dụng vốn trong sản xuất. Đầu ra là hàm số phụ thuộc như số lượng hàng hóa. Hàm sản xuất chỉ ra số lượng đầu ra tương ứng với các kết hợp đầu vào giữa lao động và vốn, còn công nghệ được giả định là không đổi trong quá trình phân tích. Đầu vào là những nguồn lực sử dụng trong việc sản xuất hàng hóa và dịch vụ. Đầu vào được phân loại thành đầu vào cố định và đầu vào biến đổi: - Đầu vào cố đinh là đầu vào không thay đổi trong kỳ xem xét. Ví dụ như nhà máy và thiết bị chuyên dùng.. - Đầu vào biến đổi là đầu vào biến đổi dễ dàng trong khoảng thời gian xem xét.Chẳng hạn như nguyên vật liệu, lao động. Hàm sản xuất cũng thể hiện được hiệu suất theo quy mô: Đối với hàm sản xuất Cobb-Douglas tổng các hệ số (α + β) cho biết hiệu suất tăng, giảm, không đổi của quy mô ( nếu α + β >1, α + β <1, α + β =1). 4.1.2 Hàm số sản xuất với một biến số đầu vào Tổng sản phẩm sản xuất (TP) của một doanh nghiệp là một hàm số theo các mức sử dụng các yếu tố đầu vào. Trong ngắn hạn, chúng ta giả định chỉ có một yếu tố đầu vào biến đổi ảnh hưởng đến tổng sản phẩm sản xuất (hay sản lượng) của một doanh nghiệp. Hàm sản xuất ngắn hạn là hàm một biến (theo L) có dạng : Q = f(K,L) → Q = f (L) Giả sử một doanh nghiệp có các đầu vào K và T cố định, khi đầu vào L thay đổi ta có thể quan sát thấy đầu ra là sản phẩm Q có quan hệ với đầu vào L. Quan hệ này được phản ánh trong hàm sản xuất dưới dạng bảng sau đây: Lượng lao động (L) 0 5 10 15 20 25 30 Tổng sản phẩm (TP) 0 50 120 165 200 200 180 Bảng trên cho thấy, tổng sản phẩm sản xuất ban đầu tăng rất nhanh khi tăng mức sử dụng lao động, nhưng sau đó mức tăng tổng sản phẩm nhỏ dần theo các mức sử dụng lao động. Sự gia tăng các mức lao động như nhau sẽ đem lại tổng sản phẩm sản xuất nhỏ hơn đối với hầu hết các quá trình sản xuất. Đây là hệ quả của quy luật lợi ích biên giảm dần. Để mô tả sự đóng góp của các yếu tố đầu vào biến đổi là lao động vào quá trình sản xuất, người ta sử dụng khái niệm năng suất bình quân và năng suất cận biên của lao động. 4.1.2.1. Năng suất bình quân và năng suất cận biên *Năng suất bình quân (AP - Average Product) Năng suất bình quân (AP) của một yếu tố sản xuất là tổng sản phẩm đầu ra tính bình quân cho một đơn vị yếu tố sản xuất trong điều kiện là các yếu tố sản xuất còn lại không đổi. -Năng suất bình quân của lao động: APL = Số đầu ra/ Số lao động đầu vào = TP / L (K không đổi) - Năng suất bình quân của vốn: APK = TP / K(L không đổi). Năng suất bình quân luôn luôn là một số dương. * Năng suất cận biên (MP - Marginal Product) Năng suất cận biên (MP) của một yếu tố sản xuất là sản phẩm tăng thêm từ việc sử dụng thêm một đơn vị yếu tố sản xuất trong điều kiện các yếu tố sản xuất còn lại không đổi. Năng suất cận biên được đo lường bằng tỷ số giữa thay đổi tổng sản phẩm và thay đổi lượng lao động sử dụng: - Trường hợp yếu tố lao động biến đổi, yếu tố vốn không đổi. MPL = -Trường hợp yếu tố vốn biến đổi, yếu tố lao động không đổi MPK = 4.1.2.2. Quy luật năng suất cận biên giảm dần Năng suất cận biên của bất cứ yếu tố đầu vào nào cũng có xu hướng giảm dần khi yếu tố đầu vào đó được sử dụng càng nhiều hơn trong quá trình sản xuất, với điều kiện các yếu tố đầu vào khác không đổi. Nói cách khác nếu cứ tăng dần một yếu tố sản xuất đầu vào ( trong khi các yếu tố đầu vào khác không đổi) thì tổng sản phẩm đầu ra sẽ tăng lên đến một mức nhất định rồi sẽ giảm dần. Khi vốn là không đổi, nếu ta tăng dần lao động thì tổng sản phẩm sẽ tăng lên, MPL sẽ tăng đến một mức độ nào đó sẽ giảm dần. Trường hợp lao động không đổi, nếu ta tăng dần vốn thì cũng xảy ra tương tự. Khi ta tăng mỗi đơn vị lao động hoặc một yếu tố sản xuất nào đó trong khi các yếu tố khác không đổi thì năng suất trung bình (AP) lúc đầu tăng sau đó giảm dần, đây là quy luật lợi tức giảm dần. Điều kiện tồn tại quy luật: Có ít nhất một đầu vào là cố định. Tất cả các đầu vào đều có chất lượng ngang nhau. Thường áp dụng trong ngắn hạn. Về mặt hình học sản phẩm cận biên biểu hiện độ dốc của đường tiếp tuyến với hàm sản xuất tại từng điểm cụ thể. AP MP AP,MP L Ví dụ minh họa: Một xí nghiệp sản xuất có tình hình sản xuất sản phẩm của công nhân trong một ngày như sau: Số lao động(L) Tổng sản phẩm (TP) Năng suất bình quân(AP) Năng suất cận biên(MP) 0 0 - - 5 50 10 10 10 120 12 14 15 165 11 9 20 200 10 7 25 200 8 0 30 180 6 -4 Từ bảng trên cho thấy, khi MP dương nếu tăng lao động sẽ làm tăng tổng sản phẩm sản xuất. Khi MP âm, tăng lao động sẽ làm giảm tổng sản phẩm sản xuất Ý nghĩa của quy luật: Nghiên cứu quy luật này cho thấy rằng nếu không có sự hạn chế của quy luật lợi tức giảm dần thì với một đầu vào biến đổi (lao động) còn các yếu tố khác cố định sẽ làm tăng mãi sản phẩm đầu ra. 4.1.3. Hàm số sản xuất với hai biến số đầu vào biến đổi: Bây giờ, chúng ta hãy xem xét hàm số sản xuất với hai biến số đầu vào: lao động (L), vốn(K); với giả định công nghệ không thay đổi. Q = f(L,K) Mối quan hệ giữa các kết hợp đầu vào (L,K) và mức sản lượng (Q) có thể biểu diễn bằng đồ thị bởi các đường đẳng lượng (đường đồng sản lượng). 4.1.3.1 Đường đẳng lượng( Đường đồng lượng –Đường đồng mức sản xuất): Đường đẳng lượng cho biết các kết hợp khác nhau của hai yếu tố đầu vào (lao động, vốn) mà doanh nghiệp có thể sử dụng để tạo ra cùng một mức sản lượng đầu ra (sản lượng). Vốn(K) 6 6 12 28 36 40 39 5 9 20 36 40 42 40 4 12 28 36 40 40 36 3 10 23 33 36 36 32 2 7 18 28 30 28 26 1 3 8 12 14 12 10 1 2 3 4 5 6 Lao động (L) Mức đẳng lượng cao hơn (xa gốc tọa độ) chỉ sản lượng lớn hơn và mức đẳng lượng thấp hơn (gần với gốc tọa độ) chỉ sản lượng thấp hơn. Qua bảng số liệu trên cho biết mối quan hệ giữa sản lượng sản xuất (Q) theo các kết hợp giữa lao động (L) và vốn (K) cho thấy 12 đơn vị sản lượng Q (12Q) có thể được tạo ra bằng cách kết hợp 1 đơn vị vốn (1K) và 3 đơn vị lao động (3L), hay 1K và 5L, nó cũng có thể được tạo ra bằng cách kết hợp 1L và 4K hay 2L và 6K. Đường biểu thị khả năng tạo ra 12 đơn vị sản lượng (12Q) là đường đẳng lượng thấp nhất. Tương tự như vậy, trong biểu trên cũng cho biết các kết hợp khác nhau của K và L để tạo ra 28Q, 36Q, 40Q. Chú ý rằng, để tạo ra mức sản lượng lớn hơn thì doanh nghiệp cần nhiều lao động hoặc vốn hơn, hay cần nhiều hơn cả lao động và vốn hơn. Một vấn đề đặt ra là làm thế nào xác định được kết hợp nào là hiệu quả. Từ phân tích ở trên chúng ta thấy rằng kết hợp (3L và 1K) hay (5L và 1K) đều cùng tạo ra mức sản lượng 12Q. Tuy nhiên kết hợp (5L và 1K ) là kết hợp không hiệu quả vì sử dụng nhiều lao động hơn so với kết hợp (3L và 1K). L1 L2 L 0 B A Q1 K K3 K2 K1 Q2 Q3 Như vậy, đường đồng lượng cho ta thấy sự linh hoạt mà các doanh nghiệp có được khi ra quyết định sản xuất. Biểu đồ dưới đây minh họa các đường đồng lượng. L3 Đường đồng sản lượng tương tự như đường bàng quan mà chúng ta đã dùng để nghiên cứu lý thuyết hành vi người tiêu dùng. Nếu như sự thỏa mãn là không đổi dọc theo các đường bàng quan thì sản lượng cũng không đổi dọc theo các đường đồng sản lượng. Cả 2 đường này đều dốc xuống về phía phải có dạng lồi so với gốc tọa độ (độ dốc giảm dần). Khác với các đường bàng quan là khái niệm định tính do đó chỉ được sử dụng để biểu hiện ích lợi, còn các đường đồng sản lượng là khái niệm định lượng do đó được dùng để tính sản lượng thực tế (mỗi đường đồng sản lượng tương ứng với một mức sản lượng cụ thể). 4.1.3.2. Sự thay thế các đầu vào – Tỷ suất thay thế kỹ thuật cận biên (Tỷ lệ thay thế kỹ thuật cận biên).(MRTS) Tỷ lệ thay thế kỹ thuật cận biên (MRTS) của các yếu tố đầu vào được định nghĩa là tỷ lệ mà một đầu vào này có thể thay thế cho đầu vào kia để giữ nguyên mức sản lượng như cũ. Công thức tính tỷ lệ thay thế biên kỹ thuật cận biên của lao động cho tư bản (vốn) như sau: MRTSL/K = - = Đường đẳng phí biểu thị các kết hợp khác nhau giữa các yếu tố mà doanh nghiệp có khả năng thực hiện với cùng một mức chi phí và giá các yếu tố sản xuất cho trước. Giả sử, một doanh nghiệp chỉ sử dụng lao động và vốn trong sản xuất. Tổng chi phí của doanh nghiệp trong một thời kì nhất định: TC =K.PK + L.PL hay K = - Trong đó: T C : tổng chi phí trong thời kỳ sản xuất. PL : định mức lương trên mỗi đơn vị lao động PK : chi phí sử dụng trên mỗi đơn vị vốn. Tổng chi phí TC bị ràng buộc về ngân sách chi tiêu của doanh nghiệp trong thời kì sản xuất. Ràng buộc này giới hạn khả năng lựa chọn mức sản xuất trong vùng sản xuất có hiệu quả. Nếu doanh nghiệp lựa chọn các điểm sản lượng sản xuất nằm trên đường đẳng phí thì ngân sách chi tiêu của doanh nghiệp sử dụng hết vào lao động và vốn. Các điểm nằm bên trong đường đẳng phí tổng chi phí sử dụng vào vốn và lao động nhỏ hơn ngân sách chi tiêu của doanh nghiệp. Còn các điểm nằm bên ngoài đường đẳng phí là không thể đạt được khi doanh nghiệp bổ sung thêm ngân sách chi phí hay có sự thay đổi về giá của yếu tố đầu vào. Các kết hợp đầu vào tối ưu tại các điểm mà ở đó đường đẳng phí tiếp xúc với đường đẳng lượng. Khi đó : MRTS = Do đó: MRTS = , chúng ta có thể viết lại điều kiện cho kết hợp đầu vào tối ưu khi: = hay = Phương trình này chỉ ra rằng để tối thiểu hóa chi phí ( hay tối đa hóa sản lượng với chi phí đã cho) thì sản lượng tăng thêm hay sản phẩm biên trên một đồng chi tiêu vào lao động bằng với sản phẩm biên trên môt đồng chi tiêu chi tiêu vào vốn. 4.2. LÝ THUYẾT VỀ CHI PHÍ SẢN XUẤT 4.2.1 Khái niệm, bản chất, phân loại chi phí: Khái niệm: Chi phí của doanh nghiệp là những phí tổn mà doanh nghiệp phải chịu khi sản xuất ra hàng hoá hoặc dịch vụ trong thời kỳ đó. Bản chất của chi phí: Các doanh nghiệp lựa chọn giá và sản lượng sản xuất để tối đa hóa lợi nhuận. Lợi nhuận mà các nhà kinh tế đề cập trong kinh tế học, đó chính là lợi nhuận kinh tế. Lợi nhuận kinh tế = Tổng doanh thu – Chi phí kinh tế. Chi phí kinh tế bao gồm cả chi phí cơ hội, bất kể là chi phí minh nhiên( là chi phí được thanh toán dựa trên các chứng từ cụ thể) hay là chi phí ẩn (chi phí không bằng tiền). Trong hầu hết các trường hợp chi phí minh nhiên là chi phí kế toán ( chỉ ngoại trừ trường hợp khấu hao là chi phí không bằng tiền vẫn được xem là chi phí kế toán. Do chi phí kinh tế bao gồm cả chi phí minh nhiên và chi phí tiềm ẩn, trong khi chi phí kế toán chỉ bao gồm chi phi minh nhiên. Vì vậy chi phí kinh tế luôn lớn hơn chi phí kế toán. Sự khác biệt giữa hai chi phí này thực chất là chi phí cơ hội của việc sử dụng nguồn lực sẵn có của doanh nghiệp. Và cũng chính vì vậy mà lợi nhuận kinh tế bao giờ cũng nhỏ hơn lợi nhuận kế toán. Trong kinh tế học, khi nói đến lợi nhuận của doanh nghiệp thì chúng ta đang đề cấp đến lợi nhuận kinh tế. Trong trường hợp một ngành có lợi nhuận kinh tế dương điều này có nghĩa là ngành này hấp dẫn hơn những ngành khác. Trong trường hợp lợi nhuận kinh tế âm trong dài hạn, chúng ta thấy một số các doanh nghiệp rút lui khỏi ngành. *Phân loại chi phí Căn cứ vào nội dung tính chất của các khoản chi, các loại chi phí được phân thành các loại sau: Chi phí cơ hội – Chi phí kinh tế. Chi phí kế toán. Chi phí chìm Chi phí tài nguyên. Căn cứ vào thay đổi đầu vào, các chi phí của doanh nghiệp được phân làm hai loại: Chi phí trong ngắn hạn. Chi phí trong dài hạn 4.2.2. Chi phí ngắn hạn Việc phân biệt chi phí ngắn hạn và chi phí dài hạn có ý nghĩa phương pháp luận quan trọng trong môn kinh tế học vi mô. Chi phí ngắn hạn là chi phí trong điều kiện doanh nghiệp giữ nguyên công nghệ sản xuất. Công nghệ sản xuất được giữ nguyên có nghĩa là, trong quá trình sản xuất, một số đầu vào (thường là thiết bị, nhà xưởng, mặt bằng...) được cố định, còn một số đầu vào khác có thể thay đổi, chúng ta có thể tìm hiểu các loại chi phí ngắn hạn: 4.2.2.1. Tổng chi phí, chi phí cố định và chi phí biển đổi Trong ngắn hạn, tổng chi phí (TC: Total Cost) bao gồm hai loại chi phí: chi phí cố định và chi phí biến đổi. Chi phí cố định (FC: Fixed Cost) là những chi phí không biến đổi theo sản lượng, chi phí cố định là như nhau đối với mọi mức sản lượng thậm chí khi sản lượng bằng không. Các chi phí cố định như: tiền thuê văn phòng, chi phí đăng ký, khoản trả lãi vay, khấu hao máy móc nhà xưởng thiết bị . Chi phí biến đổi (VC: Variable Cost) là những chi phí biến đổi theo sản lượng.Chi phí biến đổi bằng không khi sản lượng bằng không và tăng lên theo sản lượng. Chẳng hạn như: chi phí lao động, chi phí nguyên vật liệu, chi phí điện nước là những chi phí biến đổi. C C11 Q FC VC TC Lúc đó: TC = VC + FC Bảng dưới đây minh họa giả định về chi phí cố định và chi phí biến đổi theo sản lượng sản xuất,từ đó xác định tổng chi phí tại mỗi mức sản lượng như sau: Q(1) FC(2) VC(3) TC(2+3) 0 10 0 10 10 10 30 40 20 10 50 60 30 10 80 90 40 10 120 130 50 10 190 200 60 10 290 300 4.2.2.2. Chi phí trung bình và chi phí cận biên * Chi phí cố định trung bình (AFC: Average Fixed Cost ) được xác định bằng: AFC = *Chi phí biến đổi trung bình: (AVC: Average Variable Cost) được xác định: AVC = *Chi phí trung bình: (AC hay ATC: Average Total Cost) được xác định bằng cách: ATC = = = + = AFC + AVC * Chi phí cận biên (MC - Marginal Cost) là mức chi phí mà doanh nghiệp phải chi thêm khi sản xuất thêm một đơn vị sản phẩm. Chi phí biên được đo lường : MC = + Nếu tổng chi phí là một hàm gián đoạn thì: TCi - TCi-1 Qi - Qi-1 MCi = + Nếu tổng chi phí là một hàm liên tục TC = f(Q) thì: MC = = TC¢(Q) Q (1) FC (2) VC (3) TC (4= 2+3) AFC (5= 2/1) AVC (6= 3/1) ATC (7=5 +6) MC 0 10 0 10 - - - - 10 10 30 40 1 3 4 3 20 10 50 60 0.5 2.5 3 2 30 10 80 90 0.33 2.67 3 3 40 10 120 130 0.25 3 3.25 4 50 10 190 200 0.2 3.8 4 7 60 10 290 300 0.167 4.83 5 10 min MC ATC =AC AVC min AFC Q C Biểu đồ dưới đây biểu thị các đường ATC,AFC,AVC,MC của một doanh nghiệp. Từ những khái niệm trên và mối quan hệ giữa chúng, ta thấy: - Chi phí cố định trung bình có xu hướng giảm dần khi sản lượng Q tăng, do đó đường AFC là đường cong đi xuống. - Chi phí biến đổi trung bình (AVC) tăng khi sản lượng (Q) tăng nên AVC là đường có hình lòng chảo. - Chi phí trung bình (ATC hay AC) phụ thuộc cả vào AVC và AFC nó cho biết chi phí sản xuất tính trên một đơn vị sản phẩm và đường ATC còn gọi là đường chi phí sản xuất hay đường giá thành đơn vị sản phẩm. Đường này có hình lòng chảo và đáy chính là chi phí bình quân tối thiểu (ATC min), đường ATC có hình lòng chảo là do sự giảm xuống đều đặn của AFC và sự tăng lên của AVC khi sản lượng tăng. - Đường cong biểu thị MC cũng có dạng chữ U đó là do mối quan hệ giữa đường tổng chi phí (TC) với chi phí cận biên (MC). Nếu TC giảm dần thì MC giảm và ngược lại. - Mối quan hệ hình học giữa đường ATC với MC cho thấy: + Khi MC nằm dưới ATC là khi chi phí để sản xuất thêm một đơn vị sản phẩm vẫn còn nhỏ hơn chi phí bình quân ATC để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm trước đó thì ATC sẽ giảm xuống. + Khi MC nằm trên ATC tức là khi chi phí để sản xuất thêm một đơn vị sản phẩm lớn hơn chi phí bình quân ATC để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm trước đó (MC > ATC) thì đường ATC sẽ dốc lên. + Khi chi phí để sản xuất thêm một đơn vị sản phẩm bằng chi phí bình quân ATC để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm trước đó (MC = ATC hay MC cắt AT

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxtailieu.docx
Tài liệu liên quan