Bài giảng Chủ nghĩa duy vật khoa học

Tài liệu Bài giảng Chủ nghĩa duy vật khoa học: BàI 1 CHỦ NGHĨA DUY VẬT KHOA HỌC I.KHÁI LUẬN CHUNG VỀ TRIẾT HỌC 1Khái niệm triết học - Theo nghĩa gốc Hán, triết là trí, bao gồm cả sự hiểu biết, nhận thức sâu rộng, đạo lý. - Theo nghĩa gốc Hy Lạp, triết có nghĩa là yêu mến sự thông thái. - Từ thế kỷ VI TCN cho đến thế kỷ XVIII loài người đã quan niệm triết học là khoa học của mọi khoa học, là khoa học đứng trên mọi khoa học. Bởi thế, bất cứ ai thông thạo bất cứ môn khoa học nào cũng được gọi là nhà hiền triết hoặc nhà thông thái. Người ta đã xem đối tượng nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu và đặc điểm của triết học là bao gồm mọi đối tượng, phương pháp và đặc điểm của mọi khoa học cụ thể. - Thế kỷ XIX, người đầu tiên tách triết học ra khỏi các khoa học cụ thể khá thành công nhưng trên lập trường duy tâm khách quan là G.V.F. Hêghen. Người hoàn thành sự nghiệp đó là C.Mác và Ph.Ăng ghen. - Theo quan điểm mác-xít, triết học là một trong những hình thái ý thức xã hội, là khoa học về những biện pháp chung nhất, những nguyên tắc c...

doc103 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1468 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Bài giảng Chủ nghĩa duy vật khoa học, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BàI 1 CHỦ NGHĨA DUY VẬT KHOA HỌC I.KHÁI LUẬN CHUNG VỀ TRIẾT HỌC 1Khái niệm triết học - Theo nghĩa gốc Hán, triết là trí, bao gồm cả sự hiểu biết, nhận thức sâu rộng, đạo lý. - Theo nghĩa gốc Hy Lạp, triết có nghĩa là yêu mến sự thông thái. - Từ thế kỷ VI TCN cho đến thế kỷ XVIII loài người đã quan niệm triết học là khoa học của mọi khoa học, là khoa học đứng trên mọi khoa học. Bởi thế, bất cứ ai thông thạo bất cứ môn khoa học nào cũng được gọi là nhà hiền triết hoặc nhà thông thái. Người ta đã xem đối tượng nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu và đặc điểm của triết học là bao gồm mọi đối tượng, phương pháp và đặc điểm của mọi khoa học cụ thể. - Thế kỷ XIX, người đầu tiên tách triết học ra khỏi các khoa học cụ thể khá thành công nhưng trên lập trường duy tâm khách quan là G.V.F. Hêghen. Người hoàn thành sự nghiệp đó là C.Mác và Ph.Ăng ghen. - Theo quan điểm mác-xít, triết học là một trong những hình thái ý thức xã hội, là khoa học về những biện pháp chung nhất, những nguyên tắc chung nhất, những con đường chung nhất của sự vận động và phát triển của thế giới. - Khái niệm triết học dù ở phương Đông hay phương Tây, dù có biến đổi theo lịch sử nhưng bao giờ cũng bao gồm hai yếu tố: Một là yếu tố nhận thức, tức sự hiểu biết của con người về thế giới, sự giải thích thế giới hiện thực bằng hệ thống tư duy. Hai là yếu tố nhận định, tức sự đánh giá, nhận xét về mặt đạo lý và thái độ hành động đối xử của con người đối với thế giới. - Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, triết học có những đặc điểm riêng: + Nó là một trong những hình thái ý thức cổ xưa nhất và quan trọng nhất. Vai trò của triết học ngày càng tăng lên cùng với quá trình phát triển của tri thức nhân loại. Cùng với đạo đức, nghệ thuật, triết học mãi mãi tồn tại với xã hội loài người. + Khác với các hình thái ý thức xã hội khác, triết học nghiên cứu thế giới trong một chỉnh thể, nhận thức bản chất của thế giới, vạch ra những nguyên nhân của sự phát triển. Triết học nghiên cứu những nguyên lý, những quy luật chung nhất của sự vận động và phát triển của thế giới. Tức không có lĩnh vực nào mà triết học không nghiên cứu. Nhưng ở tất cả mọi lĩnh vực, triết học chỉ nghiên cứu cái chung nhất, chỉ ra bản chất của nó chứ không nghiên cứu cụ thể như các khoa học cụ thể. + Là một trong những hình thái ý thức xã hội, nhưng triết học cố gắng đưa ra một quan niệm chỉnh thể về thế giới, về các quá trình vật chất và tinh thần, về những mối liên hệ tác động của các quá trình đó, về nhận thức và con đường cải biến thế giới. 2.Vấn đề cơ bản của triết học. Triết học nghiên cứu hàng loạt các vấn đề chung của thế giới, nhưng vấn đề cơ bản của triết học là vấn đề về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức (giữa tồn tại và tư duy, hay giữa tự nhiên và tinh thần). Nó là vấn đề cơ bản của triết học bởi lẽ, trong thế giới có vô vàn sự vật, hiện tượng, nhưng chung quy lại chúng chỉ phân thành hai loại: hiện tượng vật chất (tồn tại, tự nhiên) và hiện tượng ý thức (tư duy, tinh thần). Mặt khác, từ phương Đông sang phương Tây, từ cổ đại đến hiện đại tất cả các trường phái triết học trước khi nghiên cứu các vấn đề chung khác, bao giờ cũng nghiên cứu và giải quyết vấn đề mối liên hệ giữa vật chất và ý thức trước tiên. Việc giải quyết vấn đề này là cơ sở nền tảng cho việc giải quyết những vấn đề khác của triết học. Nói cách khác việc giải quyết nó là giải quyết về thế giới quan và phương pháp luận của triết học. Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt. Mặt thứ nhất giải quyết về thế giới quan. Tất cả các nhà triết học đều phải trả lời câu hỏi: Giữa vật chất và ý thức cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào quyết định cái nào? Tùy theo câu trả lời của các nhà triết học, mà các học thuyết triết học đã chia thành hai trào lưu chính Duy Vật và Duy Tâm. Các nhà triết học Duy Vật khẳng định vật chất có trước và quyết định đối với ý thức. Ý thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào bộ óc người. Chủ nghĩa duy vật trong tiến trình phát triển từ cổ đại đến hiện đại đã trãi qua nhiều hình thức khác nhau: cổ đại, tầm thường, cơ học, máy móc... nói chung là duy vật siêu hình, và duy vật biện chứng. Ngược lại, các nhà triết học Duy Tâm lại khẳng định ý thức có trước và quyết định đối với vật chất. Trong tiến trình phát triển của mình, chủ nghĩa duy tâm cũng đã trãi qua nhiều hình thức khác nhau: duy cảm chủ quan, duy lý, nhị nguyên, duy thức, duy ngã... nói chung là duy tâm chủ quan và duy tâm khách quan. Mặt thứ hai giải quyết về vấn đề nhận thức luận: tất cả các nhà triết học đều phải trả lời câu hỏi: Con người có khả năng nhận thức thế giới không? Tùy theo câu trả lời của các nhà triết học mà các triết thuyết đã chia thành hai phái: Khả tri luận gồm các nhà triết học trả lời con người có khả năng nhận thức thế giới. Thông thường họ là các nhà triết học duy vật và các nhà triết học duy tâm chủ quan. Bất khả tri luận gồm các nhà triết học trả lời con người không có khả năng nhận thức thế giới. Thông thường họ là các nhà triết học duy tâm khách quan. Trên cơ sở giải quyết vấn đề cơ bản của triết học, lịch sử triết học chỉ ra Triết học có hai nguồn gốc: Nguồn gốc nhận thức của chủ nghĩa duy vật là mối liên hệ của nó với các thành tựu của các khoa học cụ thể. Nguồn gốc xã hội của chủ nghĩa duy vật là các lực lượng xã hội, các giai cấp tiến bộ, cách mạng trong từng giai đoạn phát triển của lịch sử. Nguồn gốc nhận thức của chủ nghĩa duy tâm là mối liên hệ của nó với các đấng siêu nhiên, hoặc tuyệt đối hóa một hay một số yếu tố nào đó của ý thức. Nguồn gốc xã hội của chủ nghĩa duy tâm là mối liên hệ của nó với các lực lượng xã hội, các giai cấp phản tiến bộ, giai cấp thống trị đang trên đà tan rã trong từng giai đoạn phát triển của lịch sử. 3.Hai phương pháp cơ bản trong triết học. Xuất phát từ bản chất của triết học, khi giải quyết vấn đề cơ bản bản chất của thế giới có vận động và phát triển không, nếu có thì do những nguyên nhân và theo những xu hướng nào, mà trong triết học đã có hai phương pháp cơ bản biện chứng và siêu hình. Hai phương pháp này đối lập nhau về cách nhìn nhận thế giới. Phương pháp biện chứng xem xét thế giới trong mối liên hệ phổ biến quy định ràng buộc lẫn nhau, và luôn vận động, và luôn phát triển. Trong sự phát triển của mình, phương pháp biện chứng đã có những hình thức khác nhau là: Biện chứng cổ đại, biện chứng duy tâm, biện chứng duy vật. Phương pháp siêu hình xem xét thế giới trong mối liên hệ cô lập tách biệt lẫn nhau, hoặc không vận động, hoặc không phát triển, hoặc vận động và phát triển theo chu kỳ khép kín. Trong sự phát triển của mình, phương pháp siêu hình cũng có các hình thức khác nhau: siêu hình duy tâm, siêu hình duy vật. Tóm lại, trong sự phát triển của triết học, với tư cách là một khoa học, trong nó luôn diễn ra cuộc đấu tranh giữa duy vật với duy tâm, giữa vô thần với hữu thần, giữa biện chứng với siêu hình. Các cuộc đấu tranh ấy chính là đối tượng nghiên cứu của lịch sử triết học. Tuy nhiên, triết học phương Tây thường tập trung giải quyết các vấn đề thuộc về thế giới quan, trong khi đó triết học phương Đông lại nặng về vấn đề nhân sinh quan: Triết học Trung Quốc tập trung về vấn đề đạo đức, chính trị - xã hội; Triết học Ấn Độ nặng về giải quyết các vấn đề thuộc về đời sống tâm linh. Triết học phương Đông tính chiến đấu giữa duy vật với duy tâm, giữa biện chứng với siêu hình, giữa vô thần với hữu thần mờ nhạt hơn so với triết học phương Tây. II. BẢN CHẤT THẾ GIỚI 1. Quan điểm duy tâm về bản chất thế giới. Quan điểm duy tâm cho rằng bản chất thế giới là ý thức. Theo quan điểm này, trong mối quan hệ giữa vật chất và ý thức thì ý thức là cái có trước, vật chất là cái có sau; ý thức quyết định vật chất; ý thức là cơ sở, nguồn gốc cho sự ra đời, tồn tại, vận động phát triển của sự vật hiện tượng trong thế giới. Chủ nghĩa duy tâm có hại loại: chủ nghĩa duy tâm khách quan và chủ nghĩa duy tâm chủ quan. + Chủ nghĩa duy tâm khách quan là trường phái triết học cho rằng: ý thức tinh thần nói chung như “ý niệm”, “ý niệm tuyệt đối”, “tinh thần thế giới” là cái có trước, tồn tại khách quan bên ngoài con người, từ đó sinh ra thế giới. Tiêu biểu là Platon (triết học Hylạp cổ đại) và Hêghen ( triết học cổ điển Đức). + Chủ nghĩa duy tâm chủ quan là trường phái triết học cho rằng: ý thức, cảm giác của con người là cơ sở quyết định sự tồn tại của các sự vật và hiện tượng trong thế giới. Họ cho rằng “sự vật chỉ là sự tổng hợp của cảm giác”, “xoá bỏ cảm giác là xoá bỏ sự vật”. Tiêu biểu cho quan điểm này là nhà triết học người Anh thế kỷ thứ XVIII: Béccơly và Hyum. 2. Quan điểm duy vật về bản chất của thế giới. Quan đểm duy vật khẳng định bản chất thế giới là vật chất. Ngoài thế giới vật chất ra không có thể giới nào khác. Các sự vật, hiện tượng chỉ là biểu hiện những dạng cụ thể của thế giới vật chất mà thội. Trong mối quan hệ giữa vật chất và ý thức thì vật chất là cái có trước, ý thức là cái có sau; vật chất quyết định ý thức, còn ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất vào đầu óc con người mà thôi. Trong sự phát triển của lịch sử triết học chủ nghĩa duy vật biểu hiện dưới những hình thức sau: chủ nghĩa duy vật cổ đại mộc mạc chất phác; chủ nghĩa duy vật siêu hình thế kỷ XVII- XVIII, và đỉnh cao là chủ nghĩa duy vật biện chứng của Mác - Ăngghen. Quan điểm duy vật khẳng định bản chất thế giới là vật chất, là quan điểm đúng đắn, khoa học. Nó đem lại cho con người niềm tin và sức mạnh trong việc nhận thức và cải tạo thế giới. Ngoài quan điểm duy vật và duy tâm còn có quan điểm nhị nguyên. Quan điểm này cho rằng: vật chất và ý thức là hai nguyên thể đầu tiên, cùng song song tồn tại, không có cái nào có trước, không có cái nào có sau, không có cái nào quyết định cái nào.(Thực chất quan điểm này là một dạng chủ nghĩa duy tâm chủ quan, cho rằng ý thức tồn tại không phụ thuộc vào vật chất). III. PHẠM TRÙ VẬT CHẤT 1. Quan điểm của các nhà duy vật trước Mác Ngay từ khi mới ra đời triết học đã đặt ra câu hỏi: Thế giới này do đâu mà có ? Yếu tố đầu tiên tạo ra thế giới là gì? Triết học gọi đó là Bản nguyên( là gốc đầu tiên) . Lịch sử có nhiều quan điểm khác nhau về bản nguyên, song có thể quy về hai trường phái lớn là chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Trường phái duy tâm thường quy bản nguyên thế giới bởi tinh thần ( ý thức). Ngược lại, trường phái duy vật quy bản nguyên thế giới bởi vật chất. Vậy, vật chất là gì ? Quan niệm vật chất của các thờì kỳ lịch sử ra sao? - Thời kỳ cổ đại: + Trong triết học Hy Lạp và La Mã cổ đại người ta cho rằng bản nguyên thế giới là một dạng vật chất cụ thể của thế giới, chẳng hạn:Hêraclít cho rằng bản nguyên của thế giới là lửa, Talet cho đó là nước, Anaximen cho rằng đó là không khí, Đêmôcrit đạt được trình độ cao hơn khi ông cho rằng bản nguyên của thế giới là nguyên tử (hạt vật chất nhỏ bé nhất) và chân không. + Ở phương Đông cũng có quan điểm tương tự: ở Trung Quốc người ta cho rằng bản nguyên vũ trụ là ngũ hành ( 5 yếu tố) là: kim, mộc,thủy,hỏa, thổ chúng tương tác nhau tạo nên vũ trụ. Còn ở ấn độ cổ đại cho rằng thế giới được tạo thành từ những hạt tế vi; thế giới hữu tình được sinh ra từ ngũ uẩn . . . - Thời kỳ trung cổ: + Từ thế kỷ thứ V đến thế kỷ thứ XV là thời kỳ thống trị của thần quyền giáo hội và vương quyền của đế chế phong kiến, do đó không đặt ra vấn đề bản nguyên vật chất. - Đến thời kỳ Phực hưng: + Từ ( cuối thế kỷ XV- XVI) do khoa học phát triển, vật lý đi sâu nghiên cứu kết cấu của vật chất đã phát hiện ra những chất mới( dạng trường, từ trường, điện trường. ..) thì lúc này vấn đề vật chất lại được đặt ra và mở rộng sang những dạng vật chất được đặt ra thời cổ đại. Mở đầu thời kỳ này , lần đầu tiên Côpécníc chứng minh mặt trời là trung tâm đã đảo lộn truyền thuyết của kinh thánh và quan điểm thần học về thế giới. - Tất cả những quan niệm về bản nguyên đầu tiên của triết học thời trong các thời kỳ lịch sử trên đây có những hạn chế sau: + Một là, khuynh hướng đi tìm yếu tố đầu tiên của thế giới. Khuynh hướng này kết cục dẫn đến duy tâm, siêu hình. Duy tâm bởi truy tìm yếu tố đầu tiên đến một giới hạn mà nhận thức con người bất lực sẽ dẫn tới ‘đấng siêu nhiên”. + Siêu hình bởi thế giới đã có khởi đầu ắt có kết thúc, như vậy trái với nguyên lý của chủ nghĩa duy vật biện chứng là thế giới vô cùng, vô tận , bất diệt. Quy vật chất về một dạng cụ thể nào đó là sự phỏng đoán ngây thơ, mộc mạc, chất phác . .. 2. Quan niệm triết học Mác- Lênin về vật chất. - Hoàn cảnh đòi hỏi sự ra đời định nghĩa vật chất của Lênin: + Thứ nhất, thành tựu khoa học tự nhiên cuối thế kỷ XIX đầu XX cùng với sự phát triển mạnh mẻ của phân ngành các khoa học trong khoa học tự nhiên, nhất là vật lý học đã làm tiền đề quan trọng thôi thúc các nhà triết học khái quát đưa ra quan điểm đầy đủ hơn về sự vô cùng vô tận của vật chất. Ví dụ: - Năm 1895 Rơnghen phát hiện ra tia X, một loại sóng điện từ có bước sóng ngắn. - Năm 1896, Becơren phát hiện ra hiện tượng phóng xạ, đã bác bỏ quan niệm về sự bất biến của nguyên tử. - Năm 1897 Tômxơn phát hiện ra điện tử và chứng minh điện tử là một thành phần cấu tạo nên nguyên tử. . . + Thứ hai, vấn đề là ở chổ, trong nhận thức lúc đó hạt điện tích và trường điện từ được coi là cái gì đó phi vật chất đây là mãnh đất để chủ nghĩa duy tâm lợi dụng, những người duy tâm cho rằng “vật chất” biến mất, nền tảng của chủ nghĩa duy vật sụp đổ. + Sự phát triển của lôgíc biện chứng có thể cho phép định nghĩa một sự vật thông qua các mặt đối lập rộng tương đương với nó. Chính trong hoàn cảnh như vậy Lênin đã khái quát những thành tựu của khoa học tự nhiên và chỉ rõ rằng vật chất không tiêu tan, cái bị tiêu tan, bị bác bỏ chính là giới hạn hiểu biết trước đây về vật chất, là sự hiểu biết máy móc, siêu hình. .. Đồng thời Lênin đã đa ra định nghĩa về vật chất: - Định nghĩa vật chất của Lênin: “Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh,và không tồn tại lệ thuộc vào cảm giác”. Định nghĩa trên có 3 nội dung cơ bản: + Một là, “Vật chất là một phạm trù triết học”, với tính cách là vật chất là một khái niệm rộng được tư duy khái quát từ vô vàn những sự vật hiện tượng cụ thể trong thế giới mà lại không đồng nhất với bất cứ sự vật , hiện tượng đơn lẻ nào. Phân biệt vật chất và vật thể, vật chất chỉ những vật nói chung, vô hạn, vô tận, không sinh ra, không mất đi. .. còn vật thể là những dạng vật chất cụ thể có sinh ra, mất đi, có giới hạn... + Hai là, trong nhận thức luận, khi vật chất đối lập với ý thức, cái quan trọng để nhận biết vật chất là thuộc tính khách quan, đó là cái tồn tại độc lập với cảm giác không phụ thuộc vào cảm giác con người. + Ba là, Vật chất “được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác chúng ta chụp lại, chép lại, phản ánh * ý nghĩa của định nghĩa vật chất của Lênin: - Đã góp phần giải quyết một cách triệt để vấn đề cơ bản của triết học trên thế giới quan duy vật, khoa học, biện chứng. Khắc phục những quan điểm triết học đối lập với triết học Mác chủ nghĩa duy tâm, chủ nghĩa duy vật siêu hình, quan điểm bất khả tri. - Đã góp phần định hướng và thúc đẩy sự phát triển của khoa học tự nhiên. Dù khoa học có phát hiện ra những dạng vật chất mới nào khác, nếu nh nó là “thực tại khách quan” thì đó cũng là một dạng cụ thể của vật chất mà không cần phải tranh luận vô bổ, dẫn tới hoang mang, dao động. - Đã góp phần mở rộng quan niệm vật chất trong xã hội: vật chất trong xã hội là các quy luật, các mối quan hệ do con người kết hợp với nhau, hoạt động tạo ra, song nó lại tồn tại khách quan với con người. 3. Vận động là phương thức tồn tại của vật chất. 3.1. định nghĩa và phân loại vận động. Vận động hiểu theo nghĩa hẹp, đơn giản, đó là sự chuyển dịch vị trí trong không gian. Còn vận động hiểu theo nghĩa đầy đủ và khoa học, như Ăngghen chỉ ra, đó là một phơng thức tồn tại của vật chất, là thuộc tính cố hữu của vật chất, bao gồm “ tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy “. 3.2. Nguồn gốc vận động: Các nhà duy tâm cho rằng vận động là do thần linh, thợng đế, hoặc những dạng tinh thần siêu tự nhiên( ý niệm của Platon, ý niệm tuyệt đối của Hêghen). Chủ nghĩa duy vật siêu hình có tiến bộ hơn, đi tìm nguồn gốc vận động của vật chất từ bản thân thế giới vật chất, nhưng nhiều lắm thì họ chỉ tìm ra những hình thức vận động cụ thể.Theo họ vận động chỉ là sự tăng giảm về số lượng hoặc là sự chuyển dịch các vật thể trong không gian. Triết học Mác- Lênin cho rằng, vận động gắn liền với vật chất, là thuộc tính vốn có của vật chất; vận động của vật chất là vận động tự thân, do mâu thuẫn bên trong tạo ra. Vận động của vật chất còn do sự tác động qua lại giữa các yếu tố, các bộ phận khác nhau trong bản thân sự vật, hay giữa sự vật này với sự vật kia. 3.3. Những hình thức vận động cơ bản của vật chất. Trên cơ sở định nghĩa về vận động, Ăngghen đã chia ra 5 hình thức vận động: - Vận động cơ học, là sự chuyển dịch vị trí trong không gian; - Vận động vật lý, là sự tương tác hút và đẩy giữa các vật thể: - Vận động hóa học, là quá trình hóa hợp và phận giải các nguyên tố hóa học của các vật thể - Vận động sinh vật, là sự tương tác giữa dồng hóa và dị hóa trong sự sống muôn loài; - Vận động xã hội, là hoạt động của con người có ý thức làm xuất hiện các quan hệ xã hội và các quy luật xã hội Các hình thức vận động khác nhau về chất nên không được quy hình thức vận động này vào hình thức vận động khác. Các hình thức vận động có mối liên hệ phát sinh và tồn tại trong mối liên hệ biện chứng. Cách phân loại vận động chỉ mang tính khái quát, là phương pháp luận để phân chia các ngành khoa học, còn thực tế mỗi hình thức vận động lại được phân ra nhiều phân ngành với mức độ khác nhau tùy thuộc vào trình độ phát triển của nhận thức. 4.4. Vận động và đứng im. Triết học Mác - Lênin cho rằng, vận động là tuyệt đối, đứng im là tương đối. Vận động là tuyệt đối, vì đó là phương thức tồn tại của vật chất, là thuộc tính cố hữu của vật chất, nên không ở đâu, không lúc nào có vật chất mà lại không có vận động. Đứng im là tương đối, vì không có đứng im thì không thể có sự vật cụ thể, riêng lẻ,xác định, do vậy không thể nhận thức được bất cứ cái gì. Nhưng đứng im chỉ là tương đối, vì nó chỉ xẩy ra với một hình thức vận động, có tính cá biệt; nó chỉ xẩy ra trong một mối quan hệ nhất định và chỉ biểu hiện một trạng thái vận động. Đó là vận động trong thăng bằng, trong sự ổn định tương đối, bảo tồn cấu trúc, xác định là nó, nó chưa là cái khác. + Khi tách ra, cô lập một hình thức vận động cá biệt để xét. Ví dụ vận động cơ học, nó sẽ đứng im không còn chuyển dời vị trí trong không gian. Nhưng ngay khi sự vật đứng im về vận động cơ học thì các vận động khác vẫn xẩy ra. + Khi sự vật chỉ được xem xét trong một quan hệ xác định, nó đứng im trong quan hệ đó nhưng đang vận động trong mối quan hệ khác. 4.. Không gian và thời gian 4.1. Những quan niệm khác nhau. - Các nhà triết học duy tâm cho rằng: không gian, thời gian là hình thức tri giác chủ quan của con người quy định (can tơ) ; là yếu tố trong sự phát triển của “ ý niệm tuyệt đối” ( Hêghen); là hệ thống liên kết chặt chẽ của chuỗi cảm giác ( Makhơ). - Các nhà triết học duy vật siêu hình: Tuy thừa nhận không gian, thời gian tồn tại khách quan nhưng họ cho rằng đó là sự tồn tại trống rỗng, không gắn với vật chất vận động ( Đêcáctơ, Niutơn). 4.2. Quan niệm triết học Mác- Lênin. a. Khái niệm không gian và thời gian. - Không gian là hình thức tồn tại của vật chất xét về mặt quảng tính- sự cùng tồn tại, kết cấu, quy mô và tác động lẫn nhau giữa các sự vật hiện tượng. - Thời gian: là hình thức tồn tại của vật chất xét về mặt trường tính- Độ dài diễn biến của của các quá trình, sự kế tiếp nhau vận động phát triển( ngày, tuần, tháng, năm, thập kỷ, thế kỷ...). b. Quan hệ giữa không gian và thời gian với vật chất vận động. Triết học Mác- Lênin khẳng định: Không gian, thời gian là hình thức tồn tại của vật chất nên nó gắn liền với vật chất vận động, là thuộc tính của vật chất vận động. Vật chất vận động là vận động trong không gian và thời gian. Không có và không bao giờ có không gian, thời gian thuần tuý tồn tại ngoài vật chất vận động. Cũng như không có và không bao giờ có vật chất vận động ngoài không gian và thời gian. Ăngghen nói: “các hình thức tồn tại cơ bản của vật chất là không gian và thời gian. Và vật chất tồn tại ngoài thời gian cũng hoàn toàn vô lý như tồn tại ngoài không gian”. c. Tính chất của không gian, thời gian - Tính khách quan: không gian, thời gian là thuộc tính của vật chất, gắn liền với vật chất vận động. Mà vật chất tồn tại khách quan, nên không gian, thời gian cũng tồn tại khách quan. - Tính vô tận,vô hạn của không gian, thời gian: vật chất là vô tận, vô hạn hạn nên không gian và thời gian gắn với vật chất cũng vô tận vô hạn. - Tính vô tận của không gian được hính thành từ quảng tính có hạn của các vật riêng lẻ. - tính vô tận của thời gian được hình thành từ trường tính có hạn của quá trình riêng lẻ. 5. tính thống nhất của thế giới 5.1. Những quan điểm khác nhau Triết học duy tâm cho rằng bản chất của thế giới là tinh thần, nên thế giới thống nhất là thống nhất ở lĩnh vực tư tưởng tinh thần. Hêghen cho thế giới thống nhất ở “ ý niệm tuyệt đối”, Đuyrinh (nhà triết học Đức cùng thời Mác) cho thế giới thống nhất ở “tồn tại”. Mác- Ăngghen phê phán và chỉ ra: nếu thế giới thống nhất ở “tồn tại” thì chưa phân biệt được sự khác nhau giữa các sự vật và hiện tượng, chưa phân biệt được người duy vật và duy tâm, vì thượng đế, “chúa” cũng tồn tại. Triết học duy vật cổ đại cho thế giới thống nhất là thống nhất ở một dạng vật chất cụ thể nào đó như “nước” (Talét), “không khí” (Anaximen), “lửa” (Hêraclit), “ nguyên tử” (Đêmôcrit). Nhưng những vật cụ thể không thể bao quát hết sự phong phú, đa dạng của thế giới. 5.2. Quan điểm triết học Mác- Lênin Xuất phát từ quan điểm thế giới duy nhất là thế giới vật chất. Ngoài nó ra không có một thế giới nào khác tồn tại khách quan, vận động, phát triển không ngừng. Sự thống nhất đó được biểu hiện : + Chỉ có một thế giới duy nhất là thế giới vật chất, tồn tại khách quan, độc lập với ý thức. Thế giới vật chất vô tận, vô hạn, không sinh, không diệt. Trong thế giới đó không có gì khác ngoài vật chất đang vận động, chuyển hoá lẫn nhau, tất cả đều là nguyên nhân, kết quả của nhau và đều là vật chất. + Mỗi lĩnh vực của thế giới (tự nhiên, xã hội) đều là những dạng cụ thể của thế giới vật chất, nên chúng đều có nguồn gốc, quan hệ, liên hệ vật chất; đều có tổ chức, kết cấu vật chất và đều chịu sự chi phối bởi những quy luật khách quan của thế giới vật chất. Sự thống nhất vật chất của thế giới còn được chứng minh bởi khoa học, những phát minh của khoa học tự nhiên, đặc biệt là ba phát minh lớn thế kỷ XIX: học thuyết tế bào, học thuyết tiến hoá và bảo tồn năng lượng. Học thuyết tiến hoá các loài đã chứng minh thế giới là một chỉnh thể thống nhất. Hơn nữa những tri thức khoa học hiện đại của thế kỷ XX như vật lý, hoá học, sinh học; tự động hoá ngày càng chứng tỏ rằng: thế giới vật chất liên hệ mật thiết với nhau làm tiền đề tồn tại cho nhau, trong sự vận động phát triển không ngừng. Như vậy, thế giới là sự thống nhất ở tính vật chất của nó. Trên lĩnh vực triết học với sự ra đời của chủ nghĩa duy vật biện chứng đã đóng vai trò quan trọng chứng minh thế giới thống nhất ở tính vật chất của nó. Lý luận của Ăngghen về vai trò lao động trong quá trình chuyển hoá vượn thành người đã chứng tỏ rằng xã hội loài người có nguồn gốc từ tự nhiên, là một dạng tự nhiên đặc biệt. Ý nghĩa của nguyên lý: + Nguyên lý bản chất thế giới là vật chất và thế giới thống nhất ở tính vật chất của nó, đòi hỏi con người trong hoạt động nhận thức và thực tiễn phảI xuất phát từ hiện thực khách quan, lấy đó làm điều kiện cơ sở cho hoạt động của mình. Đó là một trong những nguyên tắc cơ bản của phương pháp luận duy vật. Nó đòi hỏi phảI xuất phát từ hiện thực khách quan, từ bản thân sự vật mà phân tích, xem xét rút ra kết luận cần thiết, không thể xem xét chủ quan để áp đặt cho sự vật. + Những mục đích, chủ trương, kế hoạch và cả những biện pháp tổ chức thực hiện không thể rút ra từ nguyện vọng, mong muốn chủ quan mà phảI được xây dung từ hiện thực khách quan phản ánh những nhu cầu chín muồi và tất yếu của đời sống xã hội, mới có khả năng hiện thực. Mác- Lênin cho rằng, ý thức ra đời có hai nguồn gốc: nguồn gốc tự nhiên và nguồn IV. Ý THỨC, MỐI QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC 1. Khái niệm, kết cấu và nguồn gốc của ý thức. a. Khái niệm và kết cấu của ý thức. Triết học Mác - Lênin cho rằng, ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, hay ý thức chẳng qua chỉ là hình ảnh của thế giới khách quan được di chuyển vào đầu óc con ngưòi và được cải biến đi. Vì mang tính chủ quan nên ý thức mỗi cá nhân khác nhau, do trinh độ, năng lực, tâm,sinh lý. . . quy định. Vì mang tính sáng tạo lại, nên ý thức không bao giờ tự bằng lòng với tự nhiên, mà nó tự nhào nặn chế tác, sáng tạo giới tự nhiên cho ta. b. Nguồn gốc ý thức. - Nguồn gốc tự nhiên có hai yếu tố: +Thứ nhất, phải có bộ óc người phát triển cao. +Thứ hai, phải có thế giới khách quan (tự nhiên, xã hội) tồn tại bên ngoài con người, xem đó là đối tượng, nội dung của ý thức. - Nguồn gốc xã hội của ý thức cũng có hai yếu tố: ð Lao động: do lao động kiếm ăn, sinh tồn mà loài vựơn tiến hóa biến thành người; các giác quan tinh tế hơn, bàn tay khéo léo hơn, thân thể hợp lý và bộ não phát triển hoàn hảo, tư duy phát triển ð Ngôn ngữ: Do nhu cầu giao tiếp, nảy sinh cùng với lao động mà xuất hiện ngôn ngữ. Ngôn ngữ là một phương tiện không những để diễn đạt, trình bày tư tưởng mà còn là công cụ để tư duy. Triết học Mác cho rằng ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu thứ hai của ý thức. Như vậy, cùng với lao động là ngôn ngữ, đó là hai kích thích chủ yếu tạo ra ý thức. ý thức ra đời từ hai nguồn gốc, nguồng gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội.Trong hai nguồn gốc đó, nguồn gốc xã hội có ý nghĩa quyết định cho sự ra đời ý thức, vì nguồn gốc trực tiếp cho sự ra đời ý thức là hoạt động thực tiễn. ý thức là một sản phẩm xã hội, là một hiện tượng xã hội. 2. Bản chất của ý thức. Bản chất của ý thức là sự phản ánh giữa hai bộ phận vật chất là óc người và thế giới khách quan, song đây là phản ánh đặc biệt, chủ động sáng tạo và tự giác. Cụ thể là: - ý thức phản ánh gián tiếp, nhờ sự phản ánh có tính chất gián tiếp mà nó có thể phản ánh được cả quá khứ và tương lai. - ý thức phản ánh khái quát hóa, tức là nó phản ánh có tính chất tóm tắt, đại thể mà không cần quá chi tiết nhưng vẫn đảm bảo phản ánh trung thực đối tượng. -ý thức là sự phản ánh trừu tượng hóa, tức là phản ánh có tính chất giả định của tư duy về đối tượng phản ánh. - Sự phản ánh của ý thức thường được thực hiện theo trình tự: + Một là, trao đổi thông tin giữa chủ thể và đối tượng phản ánh một cách có chọn lọc và định hướng. + Hai là, mô hình hóa đối tượng trong tư duy dưới dạng tinh thần. + Ba là, hiện thực hóa mô hình của đối tượng thông qua hoạt động thực tiễn. - Phản ánh mang tính chất chủ động, tích cực, chủ động sáng tạo. Nó không phản ánh y nguyên( sao, chép, chép) mà phản ánh có chọn lọc theo mục đích, yêu cầu lợi ích của con người, dự báo những khía cạnh mới, thuộc tính mới. Phản ánh của ý thức mang tính chất như vậy là vì phản ánh này có sự kết hợp cả cảm giác lẫn tư duy, cả trực tiếp lẫn gián tiếp; cả cảm giác lẫn tư duy, cả trực tiếp lẫn gián tiếp; phản ánh cả hiện tại lẫn quá khứ và tương lai Ý thức không chỉ phản ánh bản chất của sự vật, mà còn vạch ra quy luật vận động, phát triển của chúng, không chỉ phản ánh đúng hiện thực, mà còn vạch ra khuynh hướng của hiện thực. Những lý thuyết khoa học kháI quát cao, có thể tiên đoán, dự báo đúng tương lại của hiện thực. 3. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức. a. Những quan điểm triết học ngoài Macxít. Các quan điểm này thể hiện hai dạng: - Một là, chủ nghĩa duy tâm: Quá nhấn mạnh vai trò của ý thức, biến thành một bản nguyên độc lập, là tính thứ nhất sáng tạo ra thế giới vật chất. Trong chủ nghĩa duy tâm chia làm hai loại: + Chủ nghĩa duy tâm khách quan tuyết đối hóa loại tinh thần siêu tự nhiên nh “ý niệm” ( Platon), “ ý niệm tuyệt đói “ (Hêghen). + Chủ nghĩa duy tâm chủ quan lại tuyệt đối hóa ý thức của con người họ coi sự vật là tập hợp những cảm giác, tồn tại là bị tri giác bởi các giác quan chúng ta.( Beccơly, Hyum) - Hai là,chủ nghĩa duy vật siêu hình : Thấy được tính thứ nhất thống nhất có tính quyết định của vật chất đối với ý thức, song lại tuyệt đối hóa nó và lại không thấy được tính năng động sáng tạo và tác động trở lại của ý thức đối với vật chất. Coi ý thức luôn luôn chỉ là kết quả của sự phản ánh thụ động và phụ thuộc vào đối tượng phản ánh. b. Quan điểm triết học Mác - Lênin. Trên cơ sở giải quyết đắn vấn đề cơ bản của triết học, triết học Mác - Lênin khẳng định vật chất có trước và quyết định ý thức: vật chất là cơ sở là nguồn gốc, nội dung và sự vận động biến đổi của nội dung và sự vận động biến đổi của ý thức. - Vật chất quyết định ý thức biểu hiện ở các mặt sau: + vật chất (cơ sở vật chất, điều kiện vật chất, quy luật khách quan) là tiền đề nguồn gốc cho sự ra đời, tồn tại và phát triển của ý thức. + Điều kiện vật chất như thế nào thì ý thức như thế đó. + Vật chất phát triển đến đâu thì ý thức hình thành, phát triển đến đó. + Vật chất biến đổi thì ý thức biến đổi theo. - Tuy nhiên do bản chất của nó mà ý thức có tính độc lập tương đối, có tính năng động sáng tạo, tác động trở lại vật chất: + Nhờ phản ánh đúng đắn mà con người hiểu biết được bản chất, quy luật của thế giới vật chất. Từ đó đề ra mục tiêu phương hướng tác động làm biến đổi vật chất theo ý muốn chủ quan của con người. + Thông qua họat động thực tiển mà ý thức có thể khơi dậy và tổ chức lại những lực lượng vật chất còn tiềm ẩn, khiến cho sức mạnh của nó được nhân lên so với sức mạnh vốn có của bản thân nó. - Từ mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức có thể rút ra ý nghĩa, phương pháp luận là: +Trước hết phải xuất pháp từ hiện thực khách quan, tôn trọng quy luật và làm theo quy luật khách quan. Đồng thời phát huy nỗ lực của con người trong việc tác động và đẩy nhanh sự vận động, biến đổi của quy luật khách quan. + Nhưng đồng thời phảI biết phát huy những nhân tố chủ quan, năng động, sáng tạo. phảI biết khơI dậy trong nhân dân lòng yêu nước, ý chí quật cường, phát huy tài trí của người Việt Nam, quyết tâm đưa đất nước ra khỏi nghèo nàn lạc hậu. Bài 2 HAI NGUYÊN LÝ CHUNG VÀ BA QUY LUẬT CƠ BẢN CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT I. HAI NGUYÊN LÝ CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT 1. Mối liên hệ phổ biến. Các nhà triết học duy tâm tôn giáo thừa nhận có mối liên hệ phổ biến nhưng họ cho nguồn gốc của nó là từ thần linh, thượng đế sinh ra. Các nhà triết học siêu hình không thừa nhận mối liên hệ phổ biến. Họ cho các sự vật hiện tượng có thể tồn tại một cách cô lập, tách rời cái nào riêng cái đó cái này bên cạnh cái kia, giữa nó không có sự liên hệ ràng buộc nhau. Chủ nghĩa Mác- Lênin cho rằng, thế giới vô vàn các sự vật, hiện tượng nhưng chúng thống nhất với nhau ở tính vật chất, nên tất yếu giữa chúng phải có mối liên hệ chằng chịt với nhau. Mối liên hệ có tính phổ biến: vì không phải chỉ có một sự vật liên hệ với nhau, mà các yếu tố các bộ phận cấu thành sự vật cũng liêm hệ. Mối liên hệ có tính đa dạng, muôn vẻ: + Có liên hệ bên trong, có mối liên hệ bên ngoài + Có mối liên hệ chung toàn vũ trụ, có mối liên hệ riêng biệt + Có mối liên hệ trực tiếp, có mối liên hệ gián tiếp. + Có mối liên hệ tất nhiên, có mối liên hệ ngẫu nhiên + Có mối liên hệ cơ bản, có mối liên hệ không cơ bản * Ýnghĩa của nguyên lý: Nó là cơ sở lý luận của quan điểm toàn diện, một trong những nguyên tắc phương pháp luận Macxit. Nguyên tắc này đòi hỏi: Khi xem xét sự vật, hiện tượng phải xem xét các mặt, các mối liên hệ của nó, nhưng cũng phải biết được đâu là mối liên hệ cơ bản, chủ yếu, như vậy mới nắm được bản chất sự vật, hiện tượng. Chống quan điểm phiến diện, xem xét qua loa một vài mối liên hệ đã vội đánh giá sự vật một cách chủ quan. Chống quan điểm chiết trung, san bằng các mối liên hệ, xem chúng có vị trí ý nghĩa như nhau.. Chống quan điểm nguỵ biện, bám vào một mối liên hệ không cơ bản, biện minh cho một khuynh hướng tư tưởng nào đó. 2. nguyên lý về sự phát triển. Các nhà triết học siêu hình cho rằng phát triển của sự vật, hiện tượng chỉ là sự tăng giảm đơn thuần về số lượng. Phê phán quan điểm sai lầm trên triết học Mác - Lênin cho rằng, các sự vật, hiện tượng không những có mối liên hệ phổ biến và luôn vận động phát triển, vận động là tuyệt đối, vĩnh cửu là phương thức tồn tại của vật chất. Vận động của thế giới diễn ra phức tạp, có thể đi xuống, có thể lặp lại, song đi lên là khuynh hướng thống trị và tất yếu, khuynh hướng này chính là phát triển. - Phát triển là khuynh hướng chung của thế giới, có tính phổ biến: + Trong giới tự nhiên vô sinh, từ quá trình phân giải và hợp các chất vô cơ hình thành những sự vật đơn giản đến phức tạp, rồi hình thành những sự vật đơn giản đến phức tạp, rồi hình thành nên các hành tinh, trái đất và thế giới nói chung. + Trong giới tự nhiên hữu sinh, từ sự sống, đơn bào, đa bào, đến các giống loài động vật bậc thấp, bậc cao,. . .rồiđến con người. + Trong xã hội, cho đến nay, lịch sử xã hội loài người đã trải qua một số chế độ xã hội, xã hội sau bao giờ cũng cao hơn xã hội trước về mọi mặt. + Trong tư duy, con người ngày càng đi sâu vào thế giới vi mô và thế giới vĩ mô khám phá những điều bí ẩn của nó, từng bước biến “ vật tự nó” thành “vật cho ta” chứng tỏ nhận thức con người giai đoạn sau cao hơn giai đoạn trước. - So với vận động nói chung thì phát triển là khuynh hướng chung, khuynh hướng thống trị. Phát triển có tính chất phổ biến, được thể hiện trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Nguyên nhân của phát triển là do sự liên hệ, tác động qua lại giữa các mặt, các yếu tố trong lòng các sự vật, hiện tượng, chứ không phải do bên ngoài ép đặt và không phải do ý muốn chủ quan của con người tạo ra. ý nghĩa phương pháp luận của nguyên lý: - Nguyên lý này là cơ sở lý luận của quan điểm lịch sử - cụ thể và phát triển, khắc phục quan điểm phi lịch sử và định kiến khi xem xét các sự vật và hiện tượng trong thế giới. - Phải có quan điểm biện chứng khi xem xét sự phát triển. Quan điểm đó chỉ ra rằng, phát triển là con đường quanh co, phức tạp luôn lấy cái đối lập làm tiền đề. Do đó phải có thái độ khoa học với cái cũ, với qúa khứ, với cái mới phát sinh và kế thừa. Từ nguyên lý phát triển là khuynh hướng chung của thế giới, cho thấy 20 năm đổi mới ta đã đạt được những thành tựu to lớn: “ Kinh tế tăng trưởng khá nhanh; sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá phát triển, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang đẩy mạnh. Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt.Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc cũng cố và tăng cường. Chính trị ổn định.” II. Thế giới vận động và phát triển theo quy luật 1. Phạm trù quy luật Quy luật là mối quan hệ bản chất, tất nhiên và lặp đi, lặp lại giữa các sự vật hiện tượng hoặc giữa các mặt, các bộ phận trong một sự vật hiện tượng cùng loại. - Tùy theo sự xem xét và khái quát mà có thẻ phân ra thành nhiều loại quy luật 2. Quy luật tự nhiên và quy luật xã hội Dù là quy luật tự nhiên hay quy luật xã hội đều là quy luật khách quan vốn có của thế giới vật chất. Nó không do ai sinh ra, cũng như tiêu diệt đi. Quy luật tự nhiên và quy luật xã hội có sự khác nhau: Quy luật tự nhiên diễn ra một cách tự động- tự phát, thông qua sự tác động của tự nhiên. Quy luật xã hội, hình thành bao giờ thông qua hoạt động của con người có ý thức, song vẫn khách quan. Quy luật xã hội thường được biểu hiện ra như một xu hướng có tính định hướng, chứ không biểu hiện như một quan hệ trực tiếp đối với từng người, từng việc. Sản xuất vật chất là cơ sở quyết định sự tồn tại và phát triển xã hội; quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Kết quả tác động của quy luật như thế nào còn phù thuộc vào hoạt động của con người. Quy luật xã hội và hoạt động của con người có ý thức là không tách rời nhau. 3. Tính khách quan của quy luật và vai trò của con người. - Quy luật có tính khách quan vốn có, vì nó là mối liên hệ bản chất tất nhiên bên trong của sự vật, hiện tượng trong thế giới. Không ai sáng tạo, hay phá bỏ. Quy luật có tính khách quan song con người có thể nhận thức và vận dụng nó, phục vụ mình. - Con người nhận thức quy luật trước khi hành động và khi hành động phải theo quy luật, tôn trọng quy luật, đây chính là nội dung của phạm trù tự do; tự do là nhận thức và hành động đúng quy luật tất yếu. - Tuy nhiên bằng sức mạnh của ý thức, con người từ chổ phát hiện ra quy luật, nhận thức đúng quy luật có thể đẩy nhanh sự vận động của quy luật và uốn nắn quy luật theo đúng mục đích của mình. III.Những quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật 1. Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập(thường gọi tắt là quy luật mâu thuẫn ) * Mâu thuẫn biện chứng -Triết học Mác- Lênin cho rằng, bất kỳ sự vật hiện t ượng nào cũng là một thể thống nhất của các mặt đối lập. Mặt đối lập là những mặt trái ngược nhau, tồn tại trong cùng một sự vật, hiện tượng. Hai mặt đối lập biện chứng phải là hai mặt đối lập của nhau, cùng tồn tại trong cùng một sự vật, hiện tượng và cùng tham gia tạo thành bản chất của sự vật hiện tượng đó. Ví dụ: Đồng hóa và dị hóa ;Cực âm và cực dương; nóng và lạnh .. . - Từ mặt đối lập mà sinh mâu thuẫn biện chứng. Mâu thuẫn biện chứng là mâu thuẫn trong đó bao hàm sự thống nhất và đấu tranh các mặt đối lập. Thống nhất để tạo thành các sự vật hiện tượng; đấu tranh với nhau để làm cho sự vật, hiện tượng vận động, phát triển không ngừng và đến một thời điểm nào đó chúng chuyển hóa cho nhau để cho sự vật vượt nó, tạo thành cái khác cao hơn nó. * Nội dung cơ bản của quy luật Sự vật nào cũng là thể thống nhất các mặt đối lập, Mỗi sự vật đều là thể thống nhất các mặt đối lập. Đó là thống nhất những mâu thuẫn. Như vậy mọi sự vật đều có mâu thuẫn của chính bản thân nó. . . Các mặt đối lập nương tựa vào nhau, làm tiền đề tồn tại cho nhau. Không có mặt đối lập này thì không có mặt đối lập kia và ngược lại.. Không có sự thống nhất các mặt đối lập thì không tạo thành sự vật. Các mặt đối lập trong mỗi sự vật vừa thống nhất, vừa đấu tranh với nhau. Sự đấu tranh các mặt đối lập là sự chuyển hoá, bài trừ nhau. Sự đấu tranh các mặt đối lập dẫn đến chuyển hoá các mặt đối lập.. Chuyển hoá các mặt đối lập nhất thiết phảI thông qua đấu tranh cac mặt đối lập. - Đấu tranh của các mặt đối lập là nguồn gốc, động lực của sự phát triển. Sự vật là thể thống nhất của các mặt đối lập, chừng nào thể thống nhất này còn tồn tại thì sự vật còn tồn tại. Đấu tranh của các mặt đối lập làm cho thể thống nhất cũ bị phá vỡ, thể thống nhất mới đựơc xác lập, sự vật phát triển. - Đấu tranh của các mặt đối là tuyệt đối, còn thống nhất là tương đối. Sự thống nhất của các mặt đối lập là tuyệt đối, còn thống nhất là tương đối, vì bất kỳ một sự thống nhất nào cũng là một sự thống nhất có điều kiện, tạm thời, thoáng qua, gắn liền với đứng im tương đối của sự vât. - Đấu tranh các mặt đối lập là tuyệt đối vì nó diễn ra liên tục không bao giờ ngừng, trong suốt quá trình tồn tại của các mặt đối lập. Đấu tranh gắn liền với vận động, mà vận động là tuyệt đối cho nên đấu tranh cũng là tuyệt đối . * Một số loại mâu thuẫn: Mỗi sự vật, hiện tượng đều có nhiều loại mâu thuẫn. Vai trò của mỗi loại mâu thuẫn là khác nhau. Cụ thể có các loại mâu thuẫn sau: - Mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài. Mâu thuẫn bên trong là mâu thuẫn giữa các mặt, những bộ phận bên trong của sự vật. Mâu thuẫn bên ngoài là mâu thuẫn giữa sự vật này với sự vật khác. Sự phân biệt mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài chỉ có tính tương đối. Mâu thuẫn bên ngoài có ảnh hưởng đến sự phát triển của sự vật nhưng nó phảI thông qua mâu thuẫn bên trong. - Mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản: Mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn tồn tại trong suốt quá trình tồn tại của sự vật. Nó quyết định bản chất và quá trình phát triển của sự vật. Mâu thuẫn không cơ bản là mâu thuẫn đặc trưng cho một phương diện nào đó của sự vật. Nó không giữ vai trò quyết định bản chất sự vật và phụ thuộc vào mâu thuẫn cơ bản. - Mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn thứ yếu: Mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn nổi lên hàng đầu ở mỗi giai đoạn nhất định của quá trình phát triển của sự vật. Nó chỉ có tác dụng quyết định đối với các mâu thuẫn khác trong cùng một giai đoạn nào đó. Mâu thuẫn thứ yếu là mâu thuẫn không giữ vai trò quyết định trong các giai đoạn phát triển của sự vật. - Mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng: Mâu thuẫn đối kháng là mâu thuẫn giữa những lực lượng xã hội(giai cấp có lợi ích căn bản đối lập nhau, không thể điều hòa) như mâu thuẫn giữa giai cấp chủ nô và nô lệ trong xã hội chiếm hữu nô lệ; giữa giai cấp nông dân và giai cấp phong kiến trong xã hội phong kiến; Giữa tư sản và vô sản trong xã hội tư bản. Mâu thuẫn không đối kháng là mâu thuẫn giữa những lực lượng, khuynh hướng xã hội có đối lập về lợi ích không căn bản, cục bộ, tạm thời. Chẳng hạn như mâu thuẫn giữa công nhân và nông dân. * Vị trí và ý nghĩa phương pháp luận của quy luật. - Theo Lênin xác định vị trí của quy luật mâu thuẫn hay nói rộng hơn là lý luận về mâu thuẫn là “hạt nhân của phép biện chứng”. Quy luật này được xem là hạt nhân của phép biện chứng bởi lẽ, một mặt nó nói lên nguồn gốc, động lực của sự tự thân vận động phát triển; mặt khác, lý luận về quy luật mâu thuẫn quán xuyến các quy luật cơ bản và không cơ bản khác của phép biện chứng duy vật. - Ý nghĩa Phương pháp:Từ quy luật mâu thuẫn xây dựng phương pháp tư duy mâu thuẫn đó là phương pháp luôn đặt ra những tình huống đối lập của nhau trên cùng một vấn đề xem xét . + Con người thì có mặt xấu và mặt tốt, ưu điểm và nhược điểm, một sự vật thì có mặt suy tàn và mặt nẩy sinh, cũ và mới; một hiện tượng thì có mặt tích cực và mặt tiêu cực, được và mất.. . Do đó, phải khắc phục kiểu tư duy đơn giản, xuôi chiều dễ dãi, như lời Hêghen nói: “không nên đối xử ân cần với các sự vật”. + Mâu thuẫn là cái khách quan vốn có của sự vật, là nguồn gốc động lực bên trong của sự phát triển, do vậy nghiên cứu sự vật phải nghiên cứu những mâu thuẫn của nó. Sự vật khác nhau thì mâu thuẫn khác nhau. Trong một sự vật một quá trình có nhiều mâu thuẫn, và mỗi mâu thuẫn lại có vai trò khác nhau. . . nên khi nghiên cứu và giải quyết mâu thuẫn phải có quan điểm cụ thể, để có những phương thức, những biện pháp, phương tiện, những lực lượng để giải quyết mâu thuẫn. + Giải quyết mâu thuẫn phải theo phương thức đấu tranh các mặt đối lập, chứ không theo hướng dung hòa các mặt đối lập. 2. Quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về lượng dẫn tới sự biến đổi về chất và ngược lại (gọi tắt là quy luật lượng chất ). Quy luật lượng chất vạch ra cách thức của sự vận động phát triển. * Nội dung cơ bản của quy luật: Mỗi sự vật, hiện tượng đều là thể thống nhất của hai mặt đối lập lượng và chất. - Khái niệm “chất” và “lượng”: Chất của sự vật là tổng hợp những thuộc tính khách quan, vốn có của nó để xác định sự vật là cái gì và phân biệt nó với cái khác Thế giới vô vàn những sự vật khác nhau về chất. Chất của sự vật, hiện tượng mang tính khách quan, tương đối ổn định, biểu hiện thông qua những thuộc tính. Lượng của sự vật là tổng hợp những thuộc tính khách quan, vốn có của nó biểu thị những con số của các yếu tố, các thuộc tính cấu thành nó, quy mô to nhỏ, tốc độ nhanh chậm, cường độ mạnh yếu, nhịp điệu của quá trình vận động phát triển. Lượng là cái khác quan vốn có của sự vật, có khi nó là yếu tố quy định bên trong, cấu thành sự vật. Nhưng cũng có khi lượng thường được biểu thị bên ngoài của sự vật. Sự vật càng phức tạp thì các thông số thuộc về lượng càng phức tạp. Lượng có khi được xác định bằng những con số cụ thể, cũng có khi được xác định bằng sự trừu tượng hóa: cách mạng ngày càng lớn mạnh, ngày càng trưởng thành chẳng hạn nói lên sư tăng lên về lượng nhưng rất trừu tượng. Sự phân biệt giữa chất và lượng chỉ có tính tương đối, trong mối quan hệ này thì nó là lượng, nhưng trong mối quan hệ khác thì nó là chất. Tính tương đối về sự khác nhau giữa chất và lượng đòi hỏi tư duy con người không thể máy móc khi nhận thức chúng, mà tùy vào mối quan hệ cụ thể của nó để xác định là nó là chất hay lượng. * Mối quan hệ biện chứng giữa chất và lượng: Sự vật bao giờ cũng là sự thống nhất của hai mặt dối lập lượng và chất, lượng nào, chất ấy và chất nào thì lượng ấy. Không có chất lượng nói chung tồn tại tách rời nhau. Sự thống nhất giữa lượng và chất được thể hiện trong giới hạn nhất định gọi là “độ”. Vậy “độ " là giới hạn trong đó có sự thống nhất giữa lượng và chất, hay độ là giới hạn ở đó đã có sự biến đổi về lượng nhưng chưa có sự thay đổi về chất. Sự biến đổi chính là chất lượng biến đổi, nhưng chất là mặt tương đối ổn định, lượng là mặt biến động hơn. Lượng biến đổi trong giới hạn “độ” thì sự vật chưa biến đổi, nhưng lượng biến đổi vượt “độ” thì nhất định gây nên sự thay đổi về chất. Chất biến đổi thì sự vật biến đổi, chất biến đổi gọi là “nhảy vọt”. Nhảy vọt xẩy ra tại “điểm nút”. Điểm nút là tột đỉnh của giới hạn mà ở đó xẩy ra sự nhảy vọt. Lượng chuyển thành chất phải có điều kiện. Không phải cứ tăng thêm về lượng ở bất kỳ điều kiện nào cũng dẫn đến sự thay đổi về chất Chất mới ra đời đòi hỏi lượng mới, đó là chiều ngược lại của mới quan hệ giữa lượng và chất. Thật vậy, sau khi chất mới ra đời, do sự biến đổi dần dần của lượng gây ra thì chất mới lại quy định sự biến đổi về lượng. Sự quy định đó thể hiện ở chổ: làm cho quy mô, tốc độ, nhịp điệu giới hạn phát triển về lượng thay đổi. * Những hình thức bước nhảy Thế giới các sự vật hiện tượng muôn hình, muôn vẻ nên các bước nhảy cũng muôn vẻ. Bước nhảy trong tự nhiên khác bước nhảy trong xã hội. Bước nhảy trong tự nhiên diễn ra tự động, tự phát. Bước nhảy trong xã hội được thực hiện thông qua hoạt động của con người. Những bước nhảy khác nhau về quy mổ, hình thức. Những bước nhảy khác nhau về tốc độ, nhịp điệu * Vị trí và ý nghĩa phương pháp luận của quy luật: - Vị trí của quy luật này trong phép biện chứng duy vật là khái quát cách thức của sự phát triển theo đó thì sự phát triển của sự vật, hiện tượng trong thế giới là mối quan hệ biện chứng giữa lượng đổi dẫn đến chất đổi, giữa tiệm tiến và nhảy vọt, giữa từ từ và đột biến, giữa tiến hóa và cách mạng, đó là một quy luật khách quan. - ý nghĩa: + Từ lý luận của quy luật này xác định nguyên tắc phương pháp luận trong nhận thức và hành động là: phải kết hợp biện chứng giữa tôn trọng quy luật khách quan với phát huy nổ lực chủ quan của con người. Khắc phục cả hai khuynh hướng tả khuynh và hữu khuynh: Tả khuynh: Tư tưởng nóng vội, thường không chú ý đến tích luỹ về lượng. Hữu khuynh là tư tưởng ngại khó, sợ sệt, không giám thực hiện bước nhảy, không giám làm cách mạng. 3. Quy luật phủ định của phủ định. Quy luật phủ định của phủ định vạch ra khuynh hướng của sự vận động phát tiển. * Phủ định biện chứng: Thế giới vật chất tồn tại vĩnh viễn, vận động, phát triển không ngừng. Một dạng vật chất nào đó xuất hiện rồi mất đi sẽ được thay thế bằng một dạng vật chất khác, sự thay thế đó được gọi là phủ định. Có hai loại phủ định; phủ định siêu hình và phủ định biện chứng: - Phủ định siêu hình là phủ định làm cho sự vật vận động thụt lùi, đi xuống, tan rã, nghĩa là không tạo điều kiện cho sự phát triển. - Phủ định biện chứng, là phủ định gắn liền với sự vận động đi lên, vận động phát triển. Nghĩa là nó phải tạo điều kiện, tiền đề cho sự phát triển. Phủ định biện chứng có những đặc điểm chủ yếu sau: Phủ định biện chứng là sự tự phủ định của các sự vật, do mâu thuẫn bên trong tạo ra. Phủ định biện chứng là phủ định có kế thừa những yếu tố tích cực của sự vật cũ, những yếu tố này, gia nhập cái mới, nhưng không còn giữ nguyên như cũ mà được cải biến đi cho phù hợp với cái mới. Phủ định biện chứng là phủ định vô tận. Cái mới phủ định cái cũ, nhưng rồi cái mới lại cũ đi và bị cái mới khác phủ định. Không có lần phủ định nào là phủ định cuối cùng. Phủ định biện chứng có ý nghĩa quan trọng trong nhận thức và hoạt động thực tiễn. Nó đòi hỏi phải tôn trọng tính khách quan trong sự phủ định. Chống tư tưởng chủ quan, duy ý chí trong phủ định, nghĩa là hoặc phủ định sạch trơn, hoặc kế thừa tất cả. * Nội dung cơ bản của quy luật: Tính chu kỳ của sự phát triển. Sự vật nào vận động phát triển cũng có tính chu kỳ nhưng sự vật khác nhau thì chu kỳ vận động, phát triển khác nhau. Chu kỳ phát triển là từ một điểm xuất phát, trải qua một số lần phủ định sự vật dường như quay trở lại điểm xuất phát nhưng trên cơ sở cao hơn. Số lần phủ định đối với mỗi chu kỳ của từng sự vật cụ thể có khác nhau. Có sự vật, chu kỳ vận động phát triển chỉ có hai lần phủ định (hạt thóc- cây lúa- những hạt thóc) . Có sự vật chu kỳ vận động phát triển tới 5 lần phủ định, như chu kỳ của Bướm (Bướm- trứng- tằm- kén - nhộng- bướm). Nhưng khái quát lại chỉ có hai lần phủ định cơ bản đối lập nhau mà thôi: + Phủ định lần thứ nhất làm cho sự vật trở thành cái đối lập với chính nó, tức chuyển từ cái khẳng định sang cái phủ định ( A B). + Phủ định lần thứ hai,( phủ định cái phủ định) : sự vật mới ra đời, đối lập với cái đối lập, nên sự vật dường như quay trở lại cái cũ nhưng trên cơ sở cao hơn. Đó là đặc điểm cơ bản của quy luật phủ định của phủ định. A pđ lần 1 B pđ lần 2 A᾽ Cái khẳng đinh Cái phủ định cái phủ định của phủ định. Khuynh hướng của sự phát triển, hình thức “xoáy ốc” của sự phát triển. Phép biện chứng duy vật thừa nhận, vận động, phát triển đi lên là xu hướng chung của thế giới, nhưng không diễn ra theo đường thẳng mà diễn ra theo đường “ xoáy ốc” quanh co, phức tạp. Sở dĩ như vậy vì, trong điều kiện nhất định cái cũ tuy đã cũ, nhưng còn có những yếu tố, những mặt, những bộ phận mạnh hơn cái mới. Cái mới, vì là mới nên còn non nớt chưa có khả năng thắng ngay cái cũ. Có lúc, có nơi cái mới hợp quy luật của sự phát triển, nhưng bị cái cũ tác động trở lại, gây khó khăn cản trở, cái mới phải tạm thời thụt lùi; vì vậy phát triển có tính quanh có, phức tạp diễn ra theo đường “ xoáy ốc”. * Vị trí và ý nghĩa phương pháp luận của quy luật - Vị trí quy luật này cho phép phép biện chứng duy vật là khái quát con đường và khuynh hướng của sự phát triển. Khuynh hướng chung của vận động là phát triển, con đường của sự phát triển là quanh co, phức tạp. - ý nghĩa phương pháp luận của quy luật có thể khái quát thành hai quan điểm lớn sau: +Một là, quan điểm biện chứng về sự phát triển: sự phát triển là quanh co, phức tạp, luôn diễn ra trong quan hệ với cái đối lập: cái mới ra đời từ cái cũ, cái tiến bộ ra đời từ cái lạc hậu. + Hai là, quan điểm về cái mới : theo quy luật này thì cái mới ra đời hợp quy luật bao giờ cũng có sự lặp lại cái cũ nhưng ở một hình thức, một thuộc tính nào đó ở giai đoạn đầu, cái mới còn non yếu thì sự lặp lại cái cũ thường dẫn tới sự ngộ nhận hiện tượng tái sinh cái cũ từ đó tìm cách vùi dập truy bức nó. Dó đó quan điểm đúng đắn là khi thấy một cái mới nào đó xuất hiện phải bình tĩnh xem xét, nếu nó là cái mới hợp quy luật phải tạo điều kiện, nâng đỡ. Sự phát triển diễn ra theo đường “xoáy ốc”, do vậy phải kiên trì chờ đội, không nôn nóng, vội vàng, tin tưởng cái mới, hợp quy luật nhất định chiến thắng. Bài 3 NHẬN THỨC KHOA HỌC VÀ HOẠT ĐỘNG THỰC TIỄN I. BẢN CHẤT CỦA NHẬN THỨC. 1. Những quan điểm khác nhau Cả chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm đều thừa nhận con người có khả năng nhận thức thế giới, nhưng giữa họ có sự đối lập nhau: - Chủ nghĩa duy tâm chủ quan không thừa nhận đối tượng nhận thức tồn tại khách quan, bên ngoài cảm giác và ý thức của con người. Họ cho rằng nhận thức chỉ là "sự tổ hợp những cảm giác ", con người chỉ nhận thức được chính những cảm giác của mình, không nhận thức được chân lý khách quan. - Chủ nghĩa duy tâm khách quan tuy thừa nhận khả năng nhận thức của con người và coi nhận thức là một quá trình biện chứng, nhưng nhận thức chỉ là sự hồi tưởng về đời sống quá khứ của "ý niệm", hoặc "ý niệm tuyệt đối" tự nhận thức về bản thân mình. Như vậy họ tự phủ nhận nhận thức chân lý khách quan như chủ nghĩa duy tâm chủ quan. - Các trào lưu của chủ nghĩa duy vật phi Mácxit tuy có thừa nhận đối tượng nhận thức tồn tại khách quan, song họ còn hạn chế trên 3 mặt sau đây: + Một là, không xem nhận thức là một quá trình biện chứng, là quá trình giải quyết mâu thuẫn để tiến lên. + Hai là, không thấy sự chuyển hoá và mối quan hệ giữa nhận thức bằng các giác quan (nhận thức cảm tính) với nhận thức bằng bộ não (nhận thức lý tính). + Ba là, không thấy được vai trò của thực tiễn trong nhận thức và ngay cả khái niệm thực tiễn cũng được hiểu một cách lệch lạc. - Các trường phái "bất khả tri", "hoài nghi luận" bằng cách này, cách khác đều phủ nhận khả năng nhận thức của con người (Hium). Hoặc chỉ nhận thức được các hiện tượng bề ngoài chứ không biết được bản chất bên trong của sự vật, hiện tượng, bởi bản chất ấy thuộc lĩnh vực "vật tự nó" ( cantơ). 2. Quan điểm triết học Mác – Lênin về bản chất nhận thức Bản chất của nhận thức là sự phản ánh các sự vật,hiện tượng trong thế giới khách quan vào giác quan và bộ não con người . Nhưng đó không phải là sự phản ánh đơn giản thụ động, mà là sự phản ánh tích cực, sáng tạo của chủ thể trước khách thể. Chủ thể nhận thức là con người, song không phải là con người cá nhân, yên tĩnh mà là con người xã hội đang tiến hành hoạt động sống. Con người gồm hai mặt tự nhiên và xã hội, trong đó yếu tố xã hội là quyết định bản chất con người. Khách thể nhận thức là các sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan đã được con người kéo vào tầm ngắm của mình. Nó có thể là các sự vật trong tự nhiên, các hiện tượng trong xã hội hoặc là các hiện tượng trong thế giới tinh thần đã được khách thể hoá trở thành đối tượng của nhận thức. Nhận thức là sự phản ánh giữa chủ thể và khách thể. Thực tiễn đã chứng minh không có cái gì con người không biết được, chỉ vì con người chưa biết mà thôi. Còn thực tiễn đóng vai trò cầu nối giữa chủ thể và khách thể Nhận thức là sự phản ánh hiện thực kháhc quan, nhưng đó không phảI là sự phản ánh thụ động, tức thì, mà là phản ánh chủ động, sáng tạo. Triết học Mác – Lênin còn chỉ ra rằng con người không chỉ nhận thức thế giới mà còn cải tạo thế giới. III. THỰC TIỄN VÀ VAI TRÒ THỰC TIỄN ĐỐI VỚI NHẬN THỨC. 1. Phạm trù thực tiễn Thực tiễn là toàn bộ những hoạt động vật chất cảm tính, có tính lịch sử – xã hội dưới sự chỉ đạo của tư duy nhằm cải tạo thế giới hiện thực. Khái niệm thực tiễn trên gồm có những nội dung cơ bản sau: - Thứ nhất, thực tiễn phải là những hoạt động vật chất – cảm tính, gồm các hình thức như: lao động sản xuất của cải vật chất, đấu tranh chính trị xã hội và thực nghiệm khoa học. Như vậy, hoạt động tinh thần thuần tuý không được coi là hoạt động thực tiễn. - Thứ hai,thực tiễn phải là hoạt động cộng đồng và nó bị chi phối bởi hoàn cảnh lịch sử. -Thứ ba,thực tiễn phải có tư duy can thiệp từ khâu đầu đến khâu cuối: xác định mục đích, tìm kiếm công cụ, phương tiện và phương pháp. . ., tất thảy đều phải có tư duy. Nếu vắng tư duy trong bất kỳ khâu nào thì không có thực tiễn của con người mà chỉ là hoạt động tinh thần thuần tuý. - Thứ tư, thực tiễn phải nhằm cải tạo thế giới trong hiện thực. Nghĩa là hoạt động ấy phải nhằm biến đổi thế giới khách quan theo chiều hướng có lợi cho con người. Đồng thời hoạt động ấy phải diễn ra trong hiện thực khách quan chứ không phải trên lời nói hay tư duy. 2. Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức a. Thực tiễn là cơ sở, nguồn gốc của nhận thức Qua thực tiễn con người bắt đối tượng phải bộc lộ những thuộc tính cho mình nhận thức. Qua thực tiễn con người ngày càng sáng tạo ra những công cụ lao động tinh xảo hơn: máy móc, cơ khí, tin học, tự động hoá. ..Những công cụ phương tiện đó đã nối dài giác quan của con người, làm tăng lên không ngừng khả năng nhận thức. Qua thực tiễn, phạm vi giao tiếp của con người, được mở rộng làm cho ngôn ngữ phát triển hoàn thiện. Cùng với ngôn ngữ là sự phát triển của tư duy, sự tinh nhạy của giác quan, tạo điều kiện cho con người nhận thức thế giới sâu sắc hơn. b. Thực tiễn là động lực, mục đích của nhận thức. Ăngghen viết: “Nếu trong xã hội xuất hiện một nhu cầu kỹ thuật thì điều đó sẽ thúc đẩy khoa học tiến lên nhiều hơn một chục trường đại học”. Điều đó có nghĩa là, động lực thúc đẩy nhận thức phát triển không phải là bản thân nhận thức, không phải là ham muốn nhận thức để thoả trí tò mò, mà chính là từ thực tiễn. Mục đích chính của nhận thức là để phục vụ thực tiễn của con người. Chính thực tiễn là người đặt hàng cho nhận thức và nhận thức hướng vào để giải quyết những vấn đề do thực tiễn đặt ra. c. Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý Chân lý là những nhận thức đúng đắn của con người được thực tiễn kiểm nghiệm. Loài người có thể có nhiều cách để kiểm tra đúng sai của tri thức, nhưng xét cho đến cùng đều phải quay về thực tiễn để kiệm nghiệm. Theo định nghĩa trên đây về chân lý trên thực tế trong lịch sử đã khẳng định rằng, chỉ có thực tiễn mới là tiêu chuẩn cuối cùng và tối cao của chân lý. Tiêu chuẩn thực tiễn đanh thép, hùng mạnh nhất để chứng minh chân lý. Tuy nhiên, theo phép biện chứng thì cái gọi là tuyệt đối cũng có tính tương đối. Do đó thực tiễn là tiêu chuẩn chân lý vừa có tính tuyệt đối vừa có tính tương đối. + Tuyệt đối thể hiện, nó là tiêu chuẩn duy nhất, khách quan, cuối cùng để kiểm nghiệm chân lý, ngoài ra không còn cách khác. + Còn tính tương đối là ở sự giới hạn không gian và thời gian về sự vận động của thực tiễn. II. HAI GIAI ĐOẠN CỦA QUÁ TRÌNH NHẬN THỨC 1. Nhận thức cảm tính(trực quan sinh động) Nó phản ánh trực tiếp khách thể bằng các giác quan, và diễn ra qua các hình thức cơ bản kế tiếp nhau: cảm giác, tri giác, biểu tượng. a. Cảm giác: Là hình thức đầu tiên của sự phản ánh hiện thực khách quan của quá trình nhận thức, là kết quả tác động của sự vật vào giác quan con người. Nhưng nó chỉ phản ánh những mặt những thuộc tính riêng lẻ của sự vật như: nóng, lạnh, mùi vị, âm thanh, màu sắc.. . b. Tri giác. Là sự liên kết các nhận thức cảm giác lại để phản ánh đối tượng trong tính tổng thể, toàn vẹn. Tuy nhiên đây vẫn chỉ là phản ánh bề ngoài của đối tượng một cách trực tiếp. c. Biểu tượng Biểu tượng là sự hình dung lại sự vật, hình ảnh của sự vật còn lưu lại trong trí nhớ của con người khi không còn đối diện trực tiếp với sự vật, hiện tượng đó. Tuy vẫn chỉ là bề ngoài của sự vật nhưng do liên quan đến cơ chế bộ nhớ của bộ não nên có thể coi biểu tượng là hình thức trung gian chuyển sang giai đoạn nhận thức cao hơn. 2. Nhận thức lý tính (tư duy trừu tượng) Đây là giai đoạn cao của quá trình nhận thức, dựa trên những tài liệu do trực quan sinh động đem lại. Tư duy trừu tượng được biểu hiện dưới những hình thức cơ bản sau: Khái niệm. Là hình thức cơ bản của tư duy trừu tượng, nó phản ánh cái chung, bản chất, tất yếu của sự vật. Dựa trên những tài liệu cảm tính, trải qua quá trình phân tích so sánh, tổng hợp, khái quát, trừu tượng hoá…khái niệm được hình thành. Các khái niệm không đứng im, chúng luôn vận động, phát triển. Khái niệm ngày một bổ sung hoàn thiện, để phản ánh đúng hiện thực. b. Phán đoán: Là hình thức của tư duy trừu tượng, dựa trên sự liên kết vận dụng những khái niệm đã biết, nhằm khẳng định hay phủ định một thuộc tính nào đó của sự vật, hiện tượng. c. Suy lý: Suy lý là hình thức của tư duy trừu tượng, dựa trên những phán đoán đã biết làm tiền đề đề rút ra những phán đoán mới. Những phán đoán mới này là những tri thức được rút ra bằng con đường gián tiếp mà không thông qua thực tiễn. Suy lý có vai trò quan trọng ở chỗ, dựa trên cái hiện tại, bằng năng lực tư duy, trí tuệ con người có thể dự báo tương lại. 3. Sự thống nhất biện chứng giữa nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính. a. Sự khác nhau giữa nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính. + Nếu nhận thức cảm tính được thực hiện một cách trực tiếp với đối tượng thì nhận thức lý tính là gián tiếp. + Nếu hận thức cảm tính chủ yếu thu được những thuộc tính bề ngoài của sự vật, hiện tượng thì nhận thức lý tính thu được thu thuộc tính về bản chất, quy luật tất yếu bên trong của đối tượng. + Nếu nhận thức cảm tính cần đến vai trò của cảm giác, giác quan thì nhận thức lý tính lại cần đến vai trò của bộ não. b. Sự thống nhất biện chứng giữa nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính. Hai giai đoạn nhận thức này tuy có sự khác nhau về chất, trình độ và phạm vi nhưng chúng luôn làm tiền đề bổ sung cho nhau. Nhận thức cảm tính cung cấp dữ liệu cho nhận thức lý tính; nhận thức lý tính bổ sung cho nhận thưc cảm tính, làm cho quá trình nhận thức cảm tính tiếp theo nhạy cảm hơn. Ví vậy, không nên tách rời hai giai đoạn này. Trong thực tiễn hoạt động nhận thức của con người không có sự phân chia giữa hai giai đoạn mà thường diễn ra đồng thời. Do đó hai giai đoạn nhận thức chỉ có ý nghĩa đại thể trong tư duy, còn trong thực tiễn đây là hai trình độ của một quá trình nhận thức thống nhât. IV. CHÂN LÝ 1. KháI niệm chân lý Chân lý là những tri thức của con người, phù hợp với hiện thực khách quan đã được thực tiễn kiểm nghiệm. 2. Một số đặc trưng của chân lý. a. Tính khách quan. Chân lý tuy là nhận thức của con người, nhưng nội dung của nó là hiện thực khách quan, không lệ thuộc vào con người.. b. Tính cụ thể Không có chân lý chung chung trừu tượng, đúng với mọi điều kiện hoàn cảnh, mà chỉ có chân lý cụ thể, xác định, gắn với điều kiện, hoàn cảnh, không gian, thời gian cụ thể. c. Tính tương đối và tính tuyệt đối. Chân lý tương đối là tri thức của con người phản ánh đúng hiện thực khách quan, nhưng chưa đủ, chưa toàn diện, chưa bao quát hết thảy mọi mặt của hiện thực khách quan và luôn bị chế ngự bởi điều kiện lịch sử. Chân lý tuyệt đối là tri thức con người về thế giới khách quan, phải đạt được: hoàn toàn đúng đắn, hoàn toàn đầy đủ, hoàn toàn chính xác về mọi phương diện. Tri thức đó phải là tri thức của cả loài người, bao gồm nhiều thế hệ kế tiếp nhau, diễn ra trong thời gian vô tận. Ranh giới giữa chân lý tuyệt đối và chân lý tương đối chỉ là tương đối. V.QUAN HỆ GIỮA ĐỔI MỚI NHẬN THỨC ĐỔI MỚI XÃ HỘI Ở NƯỚC TA 1. Thực tiển cách mạng đòi hỏi phải đổi mới nhận thức. Đất nước được giải phóng, thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội chúng ta đã đạt được những thành tựu về nhiều mặt. Tuy nhiên trên nhiều mặt đời sống kinh tế – xã hội còn trì trệ, lệch lạc, dẫn đến khủng hoảng kéo dài, khó khăn chồng chất, mất lòng tin giữa dân với Đảng. Thực trạng đó đòi hỏi đổi mới nhận thức, đổi mới tư duy. Đổi mới nhận thức còn là yêu cầu của thời đại.Trước xu thế toàn cầu hóa, hội nhập đòi hỏi chúng ta phải đổi mới sâu sắc, toàn diện, trong đó có đổi mới nhận thức, đang là yêu cầu sống còn, là quy luật tồn tại và phát triển của các nước xã hội chủ nghĩa. Đại hội VI (1986 ) Đảng đã đưa ra đường lối đổi mới toàn diện. Trong đó nhấn mạnh đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế; phảI nắm vững quy luật khách quan, lấy dân làm gốc. Với phương châm “ nhìn thẳng sự thật, đánh giá đúng sự thật, rõ sự thật” Đại hội đã nhìn thẳng, phân tích những hạn chế, sai lầm. Đồng thời đề ra những quan điểm tư tưởng mới về kinh tế xã hôị và các mặt khác. Đại hội đã đánh dấu một bước ngoặt của cách mạng Việt Nam. 2. Nội dung và phương hướng đổi mới nhận thức. Đổi mới nhận thức về thực chất, mang ý nghĩa cách mạng trên lĩnh vực tư tưởng, do vậy, nó không hạn chế trong lĩnh vực, phạm vi nào, nhưng đổi mới kinh tế là cơ bản nhất, hàng đầu nhất. Đổi mới không chỉ là đổi mới phương pháp khắc phục siêu hình, máy móc, mà đổi mới cả nội dung nhận thức, làm cho nó phản ánh đúng hiện thực khách quan. Đại hội Đảng X khẳng định: “Đổi mới mạnh mẽ nội dung, hình thức, biện pháp giáo dục chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; tuyên truyền sâu rộng đường lối, chủ trương của đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước; bồi dưỡng lòng yêu nước, yêu nhân dân, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tăng cường giáo dục phẩm chất đạo đức cách mạng trong toàn Đảng, toàn dân, đặc biệt là thế hệ trẻ” Đổi mới nhận thức nhưng không phủ nhận thành quả khoa học lý luận đã đạt được, những thành quả của Đảng, những giá trị thực tiễn đã đạt được, mà phải bổ sung, kế thừa, phát triển. Đổi mới nhận thức phải gắn liền với đổi mới hoạt động thực tiễn, đồng bộ, toàn diện: 3. Phải làm gì để dổi mới nhận thức. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu học tập lý luận Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đây là hệ tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động của chúng ta. Học tập chủ nghĩa Mác không có nghĩa thuộc lòng từng câu, từng chữ, mà cốt là hiều được tinh thần của nó. Biết vận dụng nó vào đời sống để giảI quýêt những vấn đề cuộc sống đặt ra. Biết kế thừa và phát triển những di sản tư tưởng, lý luận của chủ tịch Hồ Chí Minh và các vị lãnh đạo của Đảng, coi đó là thành quả giá trị về sự vận dụng sáng tạo lý luận Mác- Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam. Tiếp thu chọn lọc những thành tự lý luận, những kinh nghiệm thực tiễn thành công và không thành công của các Đảng anh em, giá trị văn hóa, tri thức nhân loại. Thường xuyên tổng kết kinh nghiệm thực tiễn cách mạng nước ta, nâng lên thành lý luận. Tạo điều kiện thuận lợi cho đổi mới nhận thức, tạo bầu không khí dân chủ trong đời sống tinh thần. Thành tựu 20 năm đổi mới chứng tỏ đường lối đổi mới của đảng ta là đúng đắn và sáng tạo, phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Bài 4 TỰ NHIÊN VÀ XỘI HỘI - NHỮNG ẢNH HƯỞNG CỦA MÔI TRƯỜNG- SINH THÁI VÀ DÂN SỐ ĐỐI VỚI XÃ HỘI I. SỰ TÁC ĐỘNG QUA LẠI GIỮA TỰ NHIÊN VÀ XÃ HỘI 1Khái niệm tự nhiên và xã hội Tự nhiên (giới tự nhiên) là toàn bộ những điều kiện vật chất, là môi trường sống, khách quan vốn có của con người như đất đai, núi đồi, sông hồ, bầu trời, khí hậu, tài nguyên thiên nhiên . . . Hiểu theo nghĩa rộng, tự nhiên là toàn bộ thế giới vật chất tồn tại khách quan. Con người cũng là một bộ phận, sản phẩm phát triển cao của tự nhiên. Xã hội là một tổ chức, kết cấu riêng của con người, qua đó con người xác lập các mối quan hệ với nhau và mối quan hệ với tự nhiên nhằm đảm bảo sự tồn tại và phát triển của mình..Xã hội là hình thức vận động cao nhất của vật chất. Vì thế Mác cho rằng: Xã hội tồn tại dưới bất kỳ hình thái nào là gì? Đó là sản phẩm sự tác động qua lại giữa người và người trong quá trình sản xuất 2. Quan hệ giữa tự nhiên và xã hội - Tự nhiên và xã hội thống nhất với nhau ở chính bản thân con người. Giới tự nhiên là nguồn gốc, là tiền đề và điều kiện cho sự xuất hiện và phát triển xã hội. Ăngghen: “Quá trính lao động đã biến vượn thành người” Sau khi ra đời con người có quan hệ mật thiết với nhau từ đó mà có xã hội. Bản thân con người cũng là sự thống nhất hai mặt tự nhiên - xã hội. Xét về mặt tự nhiên, con người là một động vật cấp cao, nên tất yếu phải có những mặt sinh vật, bị chi phối bởi những quy luật sinh học;. . .Con người sống trong môi trường tự nhiên nhưng một sinh vật, nghĩa là con người sống bằng giới tự nhiên, con người là một bộ phận của tự nhiên. Xét về mặt xã hội, con người với tư cách người, đích thực là người, khi được sống trong môi trường xã hội, môi trường quan hệ giữa người và người. Chỉ có mặt xã hội con người mới có tư cách là người. Như vậy tự nhiên và xã hội chính là môi trường sống của con người. - Tự nhiên và xã hội thống nhất với nhau ở tính vật chất của nó. Xã hội và tự nhiên dù khác nhau đến đâu, khác nhau thế nào chăng nữa, thì chúng cũng đều là những dạng của thế giới vật chất, nên chúng thống nhất với nhau ở tính vật chất. Tự nhiên ảnh hưởng tác động trở lại xã hội, Tự nhiên luôn là tiền đề, điều kiện ảnh hưởng thường xuyên, đối với sự tồn tại và phát triển xã hội. Tuy nó không phải là yếu tố quyết định xã hội, yếu tố quyết định xã hội là lao động sản xuất. Song, tự nhiên là môi trường sống của xã hội. Nơi cung cấp thiết yếu cho xã hội. Điều kiện tự có ảnh hưởng trực tiếp tới năng suất lao động.. Ảnh hưởng của xã hội đối với tự nhiên là xã hội tác động vào tự nhiên thông qua hoạt động thực tiễn của con người, mà trước hết là lao động sản xuất ra của cải vật chất. Lao động chính là yếu tố đầu tiên, cơ bản nhất tạo nên sự thống nhất hữu cơ giữa tự nhiên và xã hội. Bằng lao động con người tác động vào tự nhiên khai tự nhiên tạo ra của cải vật chất đáp ứng nhu cầu của mình. Nếu tự nhiên là nguồn cung cấp duy nhất tư liệu sinh hoạt và tư liệu sản xuất cho con người thì ngược lại, con người và xã hội là người tiêu thụ biến đổi tự nhiên nhanh nhất, mạnh nhất. Con người với tư cách là người tiêu thụ có đặc trưng: Một là, có thể sử dụng tất cả các nguồn vật chất vốn có trong tự nhiên. Từ sinh vật, động vật, khoáng sản đều được con người sử dụng. Hai là,Hiệu quả tiêu thụ tài nguyên thiên nhiên thường là thấp, thậm chí rất thấp. II. MÔI TRƯỜNG - SINH THÁI VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG XÃ HỘI 1. Khái niệm môi trường sinh thái. a. Môi trường. Môi trường là nơi sinh sống và hoạt động của con người, là nơi tồn tại của xã hội. (Đây là môi trường tự nhiên chứ không phải là môi trường xã hội) Vấn đề môi trường sinh thái hiện nay là vấn đề toàn cầu, cấp bách, khó giải quyết nhất của thời đại hiện nay. 2. Ảnh hưởng của môi trường sinh thái đối với xã hội. Những vấn đề nổi lên của môi trường – sinh thái hiện nay, ảnh hưởng xấu đối với con người và xã hội, đó là: Sự cạn kiệt tài nguyên. Con người sống cần phải tác động vào tự nhiên, khai thác tự nhiên theo nhu cầu của mình. Song sự tác động của con người vào tự nhiên có hai hướng, nếu con người tác động vào tự nhiên đúng quy luật bảo đảm cho cân bằng sinh thái, sẽ làm cho tự nhiên phong phú, phát triển bền vững. Ngược lại, nó sẽ kìm hãm tự nhiên phát triển Sự ô nhiểm môi trường Với việc khai thác tài nguyên thiên nhiên một cách thái quá, phá vỡ sự cân bằng sinh thái, tất yếu sẽ bị tự nhiên “trả thù” một cách tương ứng. Ăngghen viết: “ Nền văn minh phát triển một cách tự phát, không có sự hướng dẫn một cách có ý thức khoa học thì sẽ để đằng sau nó một bãi hoang mạc.” Việc khai thác rừng một cách bừa bãi tất yếu dẫn đến lụt lội, hạn hán, xói mòn. Việc dùng một lượng lớn hóa chất độc hại để diệt cỏ, diệt côn trùng. . . làm ô nhiểm môi trường trong diện rộng môi trường đất và nước. Việc thải khí đốt vào không khí gây nên ô nhiểm không khí, hiệu ứng nhà kính, lỗ thủng Ô Zôn, mưa a xít, tăng nhiệt độ trái đất, sa mạc hóa. . . Nguyên nhân do đâu? Có nhiều nguyên nhân dẫn đến ô nhiểm, nhưng trước hết là do sự tác động vô ý thức của con người vào tự nhiên. Sở dĩ như vậy vì con người còn thiếu nhiều tri thức về tự nhiên, con người, xã hội. Con người quá chăm chú đến lợi ích trước mắt, cho mình, còn lợi ích lâu dài của xã hội loài người hoặc của người khác thì chưa được chú ý. Nguyên nhân kém hiểu biết về tự nhiên, về quan hệ giữa con người với tự nhiên và thiếu tự giác vận dụng triệt để những điều đã biết vào thực tiễn thì còn nguyên nhân sâu xa làm ô nhiểm môi trường là về bản chất chế độ xã hội.Ăngghen viết: “ chủ nghĩa tư bản trong quá trình phát triển đã tập trung vơ vét, khai thác đến mức tối đa không chỉ sức lao động của con người mà cả những tài nguyên thiên nhiên và môi trường, nhằm thu hút lợi nhuận cao, nhanh nhất. Đó là nguyên nhân có bản đưa đến mâu thuẫn giữa con người với con người và con người với tự nhiên. Để giải quyết mâu thuẫn này, tất yếu xóa bỏ chủ nghĩa tư bản, thiết lập chủ nghĩa cộng sản. Vì chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới giải quyết được mâu thuẫn giữa con người với tự nhiên và con người với người”. Ngày nay việc bảo vệ môi trường – sinh thái một cách thông minh, khôn ngoan trong phạm vi mỗi nước và trên toàn thế giới, đã trở thành vấn đề cấp bách của cả nhân loại. Ở Việt Nam, gần 1 thế kỷ dưới ách thống trị của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ môi trường bị tàn phá nghiêm trọng, nạn khai thác quá mức tài nguyên vì lợi ích trước mắt đã làm môi trường bị tàn phá. Môi trường Việt nam đang rống lên một tiếng chuông báo động. Để tăng cường bảo vệ, cải thiện môi trường, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, như Đại hội X chỉ ra: “Coi trọng việc thực hiện mục tiêu và nhiệm vụ bảo vệ môI trường trong mọi hoạt động kinh tế, xã hội. Thực hiện tốt chương trình nghị sự XXI( viết tắt bằng tiếng anh là MDG) Ngăn chặn các hành vi gây ô nhiểm môi trường. Xử lý tốt mối quan hệ giữa tăng dân số, phát triển kinh tế và đô thị hóa với bảo vệ môi trường, phát triển bền vững. Tăng cường quản lý, bảo đảm khai thác tài nguyên hợp lý và tiết kiệm. Nhà nước tăng cường đầu tư và đổi mới chính sách thu hút vốn đầu tư xã hội vào lĩnh vực môi trường; thu gom, xử lý chất thải. Phát triển ứng dụng công nghệ sạch. Hoàn chỉnh pháp luật, tăng cường quản lý nhà nước đi đôi nâng cao ý thức và trách nhiệm của mọi người dân, của toàn xã hội đối với phòng ngừa ô nhiễm, bảo vệ và cải thiện môi trường. Một số chỉ tiêu đến năm 2010: “ Đưa tỉ lệ che phủ rừng lên 42% - 43 % ; 95 % dân cư thành thị và 75% dân cư nông thôn được sự dụng nước sạch; 100% cơ sở sản xuất mới xây dung phải áp dụng công nghệ sạch hoặc được trang bị các thiết bị giảm ô nhiễm, xử lý chất thải; trên 50% các cơ sở sản xuất kinh doanh đạt tiêu chuẩn về môi trường; 100% số đô thị loại 3 trở lên, 50% số đô thị loại 4 và tất cả các khu công nghiệp, khu chế xuất có hệ thống xử lí nước thải; 90% chất thải rắn thông thường, 80% chất thải rắn nguy hại, 100% chất thải y tế được thu gom và xử lý đạt tiêu chuẩn môi trường”. III. DÂN SỐ VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ ĐỐI VỚI XÃ HỘI 1. Vai trò của dân số đối với xã hội Dân số đối với sự phát triển xã hội Vai trò của dân số đối với sự phát triển xã hội thể hiện trên các mặt: Về số lượng dân số, số lượng dân số ít hay nhiều đều ảnh hưởng đến sản xuất xã hội, đến sự tồn tại, phát triển của quốc gia đó. Dân số quá ít phân công lao động sẽ gặp khó khăn, ngược lại dân số quá động, tổ chức quản lý không tốt sẽ đưa lại nhiều hậu quả cho xã hội. Về chất lượng dân số. Chất lượng dân số của một quốc gia nói lên trình độ dân số của quốc gia đó cao hay thấp. Một nước có chất lượng dân số cao thì lực lượng lao động của nước đó phải là những người có tay nghề thành thạo. Chất lượng dân số cao có vai trò to lớn trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế- xã hội nhanh chóng, mạnh mẽ. Chất lượng dân số thấp thì nó tác động ngược lại. Về mật độ dân số. Đó là sự phân bố dân số trong một quốc gia có hợp lý hay không. Phân bố dân số hợp lý là điều kiện cần thiết để kết hợp chặt chẽ giữa lao động với tài nguyên thiên nhiên, phát triển sản xuất, có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển kinh tế – xã hội. Về tốc độ phát triển dân số.Dân số tăng nhanh hay chậm đều ảnh hưởng đến sản xuất, kinh tế- xã hội. Việc tăng dân số phụ thuộc vào tỷ lệ sinh, tỷ lệ tử trong năm. 2. Sự bùng nổ dân số hiện nay. Dân số thế giới lúc đầu rất ít, cách đây vạn năm mới có khoảng 10 triệu người. Sau 2.500 năm, dân số tăng gấp đôi. Nó chỉ bùng nổ vào 100 năm lại đây, đặc biệt là vào những thập kỷ 50. 60, 70 của thế kỷ XX. Năm 1900, dân số thế giới khoảng 1,6 tỷ người. Năm 1950 2,5 tỷ Năm 1987 5 tỷ Năm 2000 6,2 tỷ Dự báo năm 2050 9,5 đến 10 tỷ Sự bùng nổ dân số diễn ra ở các nước đang phát triển. Có thể nói bùng nổ dân số là nguy cơ, mọi hiểm họa mà loài người không thể tính hết. Sự gia tăng dân số và mức tiêu thụ tài nguyên nhanh, dẫn đến một nghịch lý toàn cầu: Thứ nhất,tỷ lệ tăng dân số hiện nay, thấp nhất là ở những nước thu nhập cao, cao nhất là ở những nước thu nhập thấp. Thứ hai, mức tiêu thụ tài nguyên thiên nhiên cũng vậy. 3. Sự ngăn chặn gia tăng dân số. Đứng trước nguy cơ “bùng nổ dân số”, cạn kiệt môi trường, con người tự vạch ra những hướng khắc phục sau: -Cần làm cho mọi người hiểu biết rằng, đây là vấn đề toàn cầu, nên phải toàn thế giới cùng thống nhất hành động theo tinh thần: “cứu lấy trái đất”, vì cuộc sống bền vững của loài người, mới giải quyết được. -Phải làm cho mọi người hiểu rằng, khả năng chịu đựng của trái đất- môi trường sinh thái là rất có hạn, cho nên sử dụng nó một cách hợp lý, hiệu quả, tiết kiệm, thông minh nhất. -Phải làm cho mọi người thấy rằng, gia tăng dân số quá nhanh, khai thác tài nguyên quá mức, bừa bãi dẫn đến ô nhiễm, suy thoái môi trường, thủ phạm không phải là ai khác mà chính là con người. Một số chỉ tiêu về dân số và chất lượng dân số đến năm 2010 Đại hội X dã chỉ ra: “Tốc độ phát triển dân số khoảng 1,14%%%; lao động nông nghiệp năm 2010 chiếm dưới 50% lao động xã hội; trong năm năm( 2006-2010) tạo việc làm cho trên 8 triệu người lao động, tỉ l;ệ thất nghiệp ở thành thị dười 5%vào năm 2010; tỉ lệ hộ nghèogiảm xuống còn 10-11% vào năm 2010. Bài 5 LĨNH VỰC KINH TẾ CỦA ĐỜI SỐNG XÃ HỘI NHỮNG QUY LUẬT CƠ BẢN CỦA SỰ VẬN ĐỘNG VÀ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI I. LĨNH VỰC KINH TẾ CỦA ĐỜI SỐNG XÃ HỘI. 1. Sản xuất ra của cải vật chất là yêu cầu khách quan của sự tồn tại và phát triển của xã hội. a. Quan niệm của chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật siêu hình về lịch sử. Các nhà triết học, xã hội học, sử học theo quan điểm duy tâm xưa nay đều quy nguyên nhân và động lực của sự vận động và phát triển xã hội vào lĩnh vực tư tưởng, tinh thần. + Chủ nghĩa duy tâm chủ quan cho rằng, nguyên nhân và động lực phát triển xã hội thuộc về tư tưởng của những vĩ nhân. + Chủ nghĩa duy tâm khách quan và tôn giáo thì tìm nguyên nhân và động lực đó trong các lực lượng siêu tự nhiên như “ ý niệm tuyệt đối “, chúa, thượng đế, thánh Ala.. . Ngay cả những học thuyết triết học đã đạt thế giới quan duy vật khá cao về tự nhiên (như nhà duy vật Phoibắc) nhưng khi giải thích về những vấn đề xã hội vẫn không khỏi tránh khỏi duy tâm. Chẳng hạn ông cho rằng tôn giáo là động lực chính của sự phát triển lịch sử, là căn cứ để phân biệt các thời kỳ lịch sử. b. Quan điểm triết học Mác- Lênin về lịch sử. Con người làm ra lịch sử của mình, song muốn làm ra lịch sử trước hết họ phải sống, muốn sống họ phải có ăn, mặc và chổ ở. Muốn vậy họ phải lao động sáng tạo ra của cải vật chất. Dó đó sản xuất ra của cải vật chất là yêu cầu khách quan, là cơ sở của sự tồn tại và phát triển xã hội. Sản xuất cơ sở vật chất là cơ sở hình thành các loại quan điểm tư tưởng, các quan hệ và thiết chế xã hội khác nhau. Trong mỗi hình thái kinh tế xã hội, các quan điểm chính trị, pháp quyền, đạo đức, nghệ thuật, triết học, tôn giáo. . ., các quan hệ xã hội như gia đình, chủng tộc, dân tộc, quốc tế. .. ,và các thiết chế xã hội như nhà nước, tòa án, nhà thờ. . .đều được hình thành và phát triển trên cơ sở trình độ nhất định của sản xuất vật chất. Sản xuất vật chất còn là cơ sở cho tiến bộ xã hội. Trong các yếu tố cấu thành hình thái kinh tế- xã hội thì lực lượng sản xuât là yếu tố năng động nhất, luôn phát triển một cách khách quan. Khi lực lượng sản xuất phát triển từ trình độ này lên trình độ khác thì trước hết nó kéo theo sự thay đổi quan hệ sản xuất, từ quan hệ sản xuất nó kéo theo sự thay đổi quan hệ xã hội khác và các tiêu chí của tiến bộ xã hội, làm cho xã hội phát triển từ thấp lên cao. 2. Cấu trúc và vai trò của phương thức sản xuất. a. Cấu trúc của phương thức sản xuất. Phương thức sản xuất là cách thức tiến hành sản xuất của cải vật chất trong một giai đoạn lịch sử nhất định của xã hội loài người. Mỗi phương thức sản xuất bao gồm hai mặt cấu thành là lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Lực lượng sản xuất là mối quan hệ của con người với giới tự nhiên, là trình độ chinh phục tự nhiên của con người, là mặt tự nhiên của phương thức sản xuất. Lực lượng sản xuất bao gồm: tư liệu sản xuất và người lao động với trình độ thói quen và kỹ năng lao động của họ. Tư liệu sản xuất có đối tượng lao động và tư liệu lao động trong đó công cụ lao động là yếu tố quan trọng nhất. Quan hệ sản xuất là mối quan hệ giữa con người với nhau trong quá trình sản xuất, là mặt xã hội của phương thức sản xuất. Quan hệ sản xuất bao gồm: Quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ tổ chức, quản lý quá trình sản xuất và quan hệ phân phôí sản phẩm lao động. Ba mặt đó có quan hệ hữu cơ với nhau trong đó quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất là mặt quyết định các quan hệ khác. Trong lịch sử đã từng tồn tại hai kiểu quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất là sở hữu tư nhân và sở hữu xã hội. Trong quan hệ sở hữu tư nhân, giai cấp nào chiếm hữu tư liệu sản xuất chủ yếu trở thành giai cấp thống trị, bóc lột và giai cấp nào không có tư liệu sản xuất chủ yếu thì giai cấp đó bị trị, bị bóc lột. Đối với sở hữu xã hội về tư liệu sản xuất, mối quan hệ giữa người và người là bình đẳng hợp tác, tương trợ và giúp đỡ nhau. b. Vai trò của phương thức sản xuất. Phương thức sản xuất quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người, thể hiện trên các phương diện sau đây: - Phương thức sản xuất quyết định bản chất của một hình thái kinh tế - xã hội. Mỗi hình thái kinh tế- xã hội có cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, trong đó cơ sở hạ tầng là những quan hệ sản xuất đang tồn tại, nó là các quan hệ vật chất, do đó nó quyết định các quan hệ tinh thần của xã hội. - Phương thức sản xuất quyết định tổ chức và kết cấu của một hình thái kinh tế- xã hội. Tổ chức kết cấu của một hình thái kinh tế - xã hội bao gồm từ tổ chức kết cấu kinh tế đến tư tưởng, các giai cấp, đảng phái và thiết chế chính trị - xã hội. Toàn bộ những tổ chức, kết cấu ấy không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người mà do phương thức sản xuất quyết định. - Phương thức sản xuất quyết định sự chuyển biến của xã hội loài người qua các giai đoạn lịch sử khác nhau. Lịch sử loài người trước hết là lịch sử của sản xuất và thực chất là sự phát triển kế tiếp nhau của các phương thức sản xuất. Khi phương thức sản xuất cũ mất đi, phương thức sản xuất mới ra đời thì hình thái kinh tế- xã hội cũ cũng mất theo và hình thái kinh tế- xã hội mới ra đời. Do sự quyết định của phương thức sản xuất như vậy, nên khi nghiên cứu hiện tượng xã hội phải tìm nguồn gốc phát sinh từ phương thức sản xuất, từ tính tất yếu của kinh tế. II NHỮNG QUY LUẬT CƠ BẢN CỦA SỰ VẬN ĐỘNG VÀ PHÁT TRIỂN CỦA XÃ HỘI 1. Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. a. Khái niệm tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. -Tính chất của lực lượng sản xuất là tính cá nhân hay tính xã hội trong việc sử dụng tư liệu lao động mà chủ yếu là công cụ lao động của con người để tạo sản phẩm + Nếu công cụ chỉ cần một người sử dụng cũng có thể tiến hành sản xuất được như con dao, cái cuốc, cái quay sợi. ..tức là thủ công đơn giản thì tính chất của lực lượng sản xuất là tính chất cá nhân. + Nếu công cụ lao động là những máy móc cơ khí liên hoàn đòi hỏi có nhiều người cùng sử dụng mới tạo ra sản phẩm hoàn chỉnh thì tính chất của lực lượng sản xuất là mang tính chất xã hội. - Trình độ của lực lượng sản xuất là trình độ phát triển của công cụ lao động, của khoa học công nghệ, của phân công lao động và của người lao động, trong đó phân công lao động và trình độ chuyên môn hóa là biểu hiện rõ ràng nhất. Tiêu chí quan trọng nhất và được coi là bậc thang phát triển của lực lượng sản xuất là công cụ lao động. Theo đó thì lịch sử có những trình độ: lực lượng sản xuất thủ công; lực lượng sản xuất cơ khí và nữa cơ khí, lực lượng sản xuất cơ khí hóa và tự động hóa; lực lượng sản xuất tự động hóa và công nghệ thông tin. b. Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất. Lực lượng sản xuất là nội dung vật chất, kỹ thuật và quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của phương thức sản xuất. Dó đó, mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mối quan hệ nội dung và hình thức, trong đó nội dung quyết định hình thức và hình thức tác động trở lại nội dung. Sự quyết định của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất biểu hiện cụ thể: + Tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất như thế nào thì quan hệ sản xuất phải nh thế ấy. + Khi lực lượng sản xuất đã thay đổi về tính chất và trình độ thì quan hệ sản xuất cũng phải thay đổi theo. + Khi lực lượng sản xuất cũ mất đi, lực lượng sản xuất mới ra đời thì quan hệ sản xuất cũ cũng mất đi và quan hệ sản xuất mới phải ra đời để đảm bảo sự phù hợp. Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất. Nguyên tắc của sự tác động trở lại nếu quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất thì nó thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, ngược lại nếu quan hệ sản xuất không phù hợp thì nó kìm hãm, thậm chí phá vỡ lực lượng sản xuất. Do đó, không chấp nhận một quan hệ sản xuất quá bảo thủ, lạc hậu và quan hệ sản xuất “vượt trước”, " tiên tiến" so với lực lượng sản xúât. Một quan hệ sản xuất được coi là phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất khi nó tạo ra những tiền đề, những điều kiện cho các yếu tố của lực lượng sản xuất kết hợp với nhau hài hòa để sản xuất diển ra một cách bình thường và để lại hiệu quả kinh tế cao. Sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất không phải thực hiện một lần là xong mà phải là một quá trình luôn tạo ra một “cân bằng động”. Nghĩa là một sự phù hợp cụ thể nào đó giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất luôn bị phá vỡ đi thay vào đó sự phù hợp khác cao hơn. c. Sự vận dụng quy luật này trong cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Xuất phát từ nước nông nghiệp lạc hậu, tự cung tự cấp đi lên chủ nghĩa xã hội, lại do hậu quả nặng nề của cuộc chiến tranh ác liệt, lâu dài. Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là hoàn toàn mới mẻ, chưa có tiền lệ lịch sử. Dó đó, trong thời kỳ đầu tuy đạt được những thành tựu lớn nhưng cũng vấp phải những sai lầm khuyết điểm, đó là: bệnh chủ quan, duy ý chí, bất chấp quy luật khách quan; nóng vội xóa bỏ các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, tập thể khi nó còn lý do tồn tại: mở rộng quan hệ sản xuất tập thể, quốc doanh khi nó chưa đủ điều kiện, kéo dài cơ chế quản lý bao cấp . . . Để khắc phục những sai lầm khuyết điểm đó, Đảng đã xác định nội dung cơ bản của đường lối đổi mới kinh tế là: phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước theo hướng xã hội chủ nghĩa: đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhìn từ gốc độ quy luật này thì đường lối đó nghĩa là: Thực trạng nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội còn tồn tại nhiều trình độ và tính chất khác nhau của lực lựơng sản xuất, tức là có nhiều thành phần kinh tế Đã là nền kinh tế nhiều thành phần thì các thành phần đều bình đẳng trước pháp luật; mối quan hệ giữa các thành phần về cơ bản được xây dựng trên cơ sở sản xuất, trao đổi hàng hóa và nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của nhà nước, thành phần kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. 2. Quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. a. Khái niệm cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của một hình thái kinh tế xã hội nhất định. Bao gồm 3 loại: Quan hệ sản xuất thống trị, quan hệ sản xuất tàn dư của hình thái kinh tế- xã hội trước và quan hệ sản xuất mầm móng của xã hội tương lai, trong đó quan hệ sản xuất thống trị là chủ đạo. Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm tư tưởng(chính trị, pháp quyền,đạo đức, nghệ thuật, tôn giáo, triết học. . .) và những thiết chế xã hội tương ứng (nhà nước, đảng phái, tôn giáo, các tổ chức quần chúng). . .được hình thành trên một cơ sở hạ tầng nhất định và phản ánh cơ sở hạ tầng đó. Mỗi bộ phận của kiến trúc thượng tầng có đặc trưng riêng, có quy luật vận động riêng, có mối liên hệ riêng với cơ sở hạ tầng, nhưng giữa chúng có sự liên hệ và tác động lẫn nhau và cùng nẩy sinh từ một cơ sở hạ tầng nào đó. Trong kiến trúc thượng tầng thì hệ tư tưởng chính trị và thiết chế của nó là nhà nước là bộ phận có quyền lực mạnh nhất. Nhờ nó mà giai cấp thống trị có thể áp đặt hệ tư tưởng thống trị của giai cấp mình cho các giai cấp khác và toàn xã hội. b. Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng. Cơ sở hạ tầng như thế nào thì kiến trúc thượng tầng như thế đó, thể hiện: + Khi cơ sở hạ tầng biến đổi thì đòi hỏi kiến trúc thượng tầng cũng biến đổi theo. + Khi cơ sở hạ tầng cũ mất đi, cơ sở hạ tầng mới ra đời, thì sớm muộn kiến trúc thượng tầng cũ mất đi, kiến trúc thượng tầng mới ra đời để đảm bảo sự tương ứng. + Khi cơ sở hạ tầng cũ mất đi, cơ sở hạ tầng mới ra đời thì sớm muộn kiến trúc thượng tầng cũ mất đi, kiến trúc thượng tầng mới ra đời để tương ứng. Kiến trúc thượng tầng có sự tác động trở lại: + Bất kỳ trong tình huống nào kiến trúc thượng tầng cũng ra sức bảo vệ cơ sở hạ tầng đã sinh ra nó. + Nếu là kiến trúc thượng tầng tiên tiến thì nó sẽ tác động cùng chiều với sự vận động của những quy luật kinh tế khách quan, trong trường hợp này nó sẽ thúc đẩy cơ sở hạ tầng phát triển. Ngược lại, nếu kiến trúc thượng tầng bảo thủ, trì trệ nó sẽ tác động ngược chiều với sự vận động của những quy luật kinh tế khách quan, khi đó nó kìm hãm sự phát triển của cơ sở hạ tầng. Tuy nhiên, sự kìm hãm đó chỉ mang tính tạm thời sớm muộn cũng bị cái tất yếu đánh đổ thay thế bằng một kiến trúc thượng tầng mới thích ứng với cơ sở hạ tầng. + Mỗi bộ phận của kiến trúc thượng tầng tác động trở lại cơ sở hạ tầng theo những hình thức và hiệu lực khác nhau, trong đó nhà nước là bộ phận có vai trò quan trọng nhât và có hiệu lực mạnh mẽ nhất. c. Sự vận dụng quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của Đảng trong đường lối đổi mới. Xây dựng cơ sở hạ tầng theo quan điểm đổi mới của Đảng ta là nhằm tạo ra những cơ sở hạ tầng không thuần nhất với kiểu quan hệ sản xuất khác nhau. Các loại quan hệ sản xuất đó vừa cạnh tranh với nhau, vừa liên hợp, liên kết với nhau cùng phát triển. Song tất cả đều vận động theo định hướng cùng đi lên chủ nghĩa xã hội. Trên nền tảng cơ sở hạ tầng đã được xác định đó, một kiến trúc thượng tầng tương ứng với nó hình thành. Để phản ánh được cơ sở hạ tầng thống nhất trong đa dạng, để đảm bảo sự năng động cao của kiến trúc thượng tầng trong việc tác động trở lại và định hướng xã hội chủ nghĩa cho cơ sở hạ tầng, Đảng ta đã xác định bản chất của hệ thống chính trị trong thời kỳ quá độ là: + Hệ thống chính trị - xã hội của nước ta phải mang bản chất giai cấp công nhân, Đảng cộng sản Việt Nam là lãnh đạo duy nhất, lấy học thuyết Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động làm cho hệ tư tưởng đó thành hệ tư tưởng chủ đạo trong đời sống tinh thần của nhân dân ta. + Các bộ phận trong hệ thống chính trị- xã hội (nhà nước, các tổ chức tôn giáo, các đoàn thể quần chúng. . .) có nhiệm vụ, chức năng riêng, có phương thức hoạt động riêng, song phải nhằm mục tiêu chung là chủ nghĩa cộng sản mà giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội. Bài 6 CẤU TRÚC XÃ HỘI: GIAI CẤP VÀ CÁC TỔ CHỨC CHÍNH TRỊ – XÃ HỘI I. KHÁI NIỆM CẤU TRÚC XÃ HỘI VÀ HAI LOẠI CẤU TRÚC XÃ HỘI 1. Định nghĩa cấu trúc xã hội. Xã hội loài người về bản chất là có tính cộng đồng. Mỗi cộng đồng người chỉ tồn tại, vận động và phát triển trong một cấu trúc nhất định. Cấu trúc xã hội là sự sắp xếp, mối quan hệ và cơ chế vận hành của các bộ phận, các thành tố trong một hình thái kinh tế xã hội nhất định, trong đó phương thức sản xuất là cơ sở, nền tảng của cấu trúc. 2. Hai hình thức cơ bản của cấu trúc xã hội. a. Cấu trúc xã hội phi giai cấp. Đây là cấu trúc xã hội của thời kỳ cộng sản nguyên thủy, nó mang những đặc tr ưng sau: + Phương thức sản xuất là quan hệ sở hữu tập thể về tư liệu sản xuất và sản phẩm làm ra dựa trên trình độ thấp kém của lực lượng sản xuất. + Hình thức tổ chức xã hội là cộng đồng thị tộc, bộ lạc hay liên minh bộ lạc chủ yếu dựa trên quan hệ huyết thống. + Mỗi cộng đồng tự đặt ra những quy tắc chung mà những quy tắc này được hình thành từ những phong tục tập quán, kinh nghiệm lâu đời trong quá trình sống và lao động chung được mọi người tự nguyện tuân theo. + Trong xã hội đó mọi người đều bình đẳng, chưa có của riêng, chưa có giai cấp, chưa có nhà nước. Các chức vụ trong cộng đồng do toàn thể các thành viên bầu ra trên uy tín, tài đức, kinh nghiệm và sự cống hiến của người đó. b. Cấu trúc xã hội có giai cấp. Lực lượng sản xuất phát triển là nguyên nhân kinh tế làm cho xã hội phân chia thành những giai cấp khác nhau, trong đó có hai giai cấp đối kháng là giai cấp thống trị, bóc lột và giai cấp bị trị, bị bóc lột. Sự xuất hiện các giai cấp trong xã hội đã hình thành cấu trúc xã hội có giai cấp với những đặc trưng sau: + Phương thức sản xuất là quan hệ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất dựa trên sự phát triển của lực lượng sản xuất. + Hình thức tổ chức xã hội là các tổ chức chính trị xã hội dựa trên quan hệ nòng cốt là quan hệ giai cấp, mang đậm tính giai cấp và thường do giai cấp thống trị chi phối, chủ động lập ra để điều hành xã hội phục vụ giai cấp mình. + Quan hệ giữa các giai cấp là quan hệ giữa thống trị và bị trị, bóc lột và bị bóc lột. Các hình thức bóc lột ngày càng tàn bạo và tinh vi. Trong xã hội xuất hiện các cấu trúc xã hội có giai cấp sau: + Một là: Cấu trúc xã hội chiếm hữu nô lệ với hai giai cấp cơ bản là chủ nô và nô lệ, tổ chức chính trị đầu tiên là nhà nước chủ nô. + Hai là: Cấu trúc xã hội chế độ phong kiến với hai giai cấp cơ bản là địa chủ và nông dân, tổ chức chính trị quan trọng là nhà nước phong kiến, lấy hệ tư tưởng của giai cấp phong kiến làm nền tảng tinh thần xã hội. + Ba là: Cấu trúc xã hội tư bản chủ nghĩa với hai giai cấp cơ bản là tư sản và vô sản và các tổ chức chính trị - xã hội là nhà nước tư sản, pháp luật tư sản . . . Giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản là chế độ cộng sản chủ nghĩa vẫn còn các giai cấp khác nhau nên cấu trúc xã hội vẫn là cấu trúc xã hội có giai cấp song về bản chất hoàn toàn khác với cấu trúc xã hội có giai cấp trước đây trong lịch sử. II. GIAI CẤP VÀ ĐẤU TRANH GIAI CẤP 1. Khái niệm giai cấp a. Định nghĩa và đặc trưng cơ bản của giai cấp. V. I. Lênin nêu ra định nghĩa: “ người ta gọi là giai cấp, những tập đoàn người to lớn gồm những người khác nhau về địa vị của họ trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử, khác nhau về quan hệ của họ(thường thì những quan hệ này được pháp luật quy định và thừa nhận) đối với tư liệu sản xuất, về vai trò của họ trong tổ chức lao động xã hội và như vậy là khác nhau về cách thức hưởng thụ phần của cải xã hội ít hay nhiều mà họ được hưởng. Giai cấp là những tập đoàn người mà tập đoàn này thì có thể chiếm đoạt lao động của tập đoàn khác do chổ các tập đoàn có địa vị khác nhau trong một chế độ kinh tế- xã hội nhất định.” Từ định nghĩa trên có thể nêu ra bốn đặc trưng cơ bản sau: + Giai cấp là những tập đoàn người có địa vị khác nhau đối với tư liệu sản xuất. + Các giai cấp có mối quan hệ khác nhau trong tổ chức lao động xã hội. + Các giai cấp có vai trò khác nhau trong tổ chức lao động xã hội. + Các giai cấp có sự khác nhau về phương thức và quy mô thu nhập của cải xã hội Bốn đặc trưng có quan hệ mật thiết với nhau trong đó đặc trưng về sở hữu tư liệu sản xuất là quyết định nhất. Định nghĩa về vật chất của Lênin có giá trị cả về lý luận lẫn thực tiễn, nó không những chỉ ra nguồn gốc phát sinh giai cấp, mà còn là cơ sở để xác định kết cấu giai cấp trong một hình thái kinh tế- xã hội nhất định. b. Nguồn gốc giai cấp. Nguồn gốc sâu xa và cơ bản nhất dẫn tới sự xuất hiện giai cấp là vấn đề kinh tế, thể hiện trên hai quá trình: - Một là: Do sự phát triển của lực lượng sản xuất, của cải làm ra ngoài tiêu dùng hàng ngày còn có phần dư thừa, tạo khả năng khách quan cho một bộ phận người có điều kiện chiếm đoạt của dư đó, biến nó thành quyền lực vật chất nô dịch người khác. - Hai là: Do sự phân công lao động xã hội phát triển, chăn nuôi và nghề thủ công tách khỏi trồng trọt, lao động trí óc tách khỏi lao động chân tay. . .tạo tiền đề cho giai cấp thống trị ra đời từ tầng lớp trí óc. c. Kết cấu giai cấp. Một hình thái kinh tế- xã hội có một kết cấu giai cấp khác nhau do phương thức sản xuất của hình thái đó quy định, song nhìn chung đều có một kết cấu giai cấp theo cách thức sau: + Giai cấp cơ bản là những giai cấp xuất hiện và tồn tại gắn với phương thức sản xuất thống trị. + Giai cấp không cơ bản là những giai cấp xuất hiện và tồn tại gắn với phương thức sản xuất tàn dư của xã hội cũ và phương thức sản xuất mầm mống của xã hội tương lai. + Ngoài ra trong mỗi hình thái kinh tế xã hội còn có những tầng lớp xã hội khác như tầng lớp trí thức, tiểu tư sản, tiểu thương, tiểu chủ. . . Nghiên cứu kết cấu giai cấp và sự biến đổi của nó sẽ giúp cho việc hiểu sâu sắc về địa vị, vai trò và thái độ chính trị của mỗi giai cấp đối với cách mạng xã hội và các cuộc vận động lịch sử. 2. Vấn đề đấu tranh giai cấp. a. Định nghĩa đấu tranh giai cấp. V.I. Lênin định nghĩa: “Đấu tranh giai cấp là đấu tranh của một bộ phận nhân dân này chống lại một bộ phận khác, cuộc đấu tranh của quần chúng bị tước hết quyền, bị áp bức và lao động, chống bọn có đặc quyền đặc lợi, bọn áp bức và bọn ăn bám, cuộc đấu tranh của những người công nhân làm thuê hay những người vô sản chống những người hữu sản hay giai cấp tư sản”. Những cuộc tranh chấp về lợi ích không cơ bản giữa các bộ phận dân cư trong một giai cấp hay giữa các cá nhân với nhau trong xã hội không phải là đấu tranh giai cấp. Điều kiện tiến hành cuộc đấu tranh giai cấp là “đấu tranh chống một giai cấp thì chỉ có một giai cấp khác, và nhất thiết phải là một giai cấp hoàn toàn biệt lập và hoàn toàn đối lập với kẻ thù mình, mới có thể tiến hành được. b. Vai trò của đấu tranh giai cấp. Trong xã hội có giai cấp đối kháng thì đấu tranh giai cấp là động lực cơ bản và trực tiếp của sự phát triển xã hội, bởi vì: + Mâu thuẫn giai cấp là biểu hiện về mặt xã hội của mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất năng động, cách mạng ( đại diện cho giai cấp bị trị). Mâu thuẫn giai cấp tất yếu dẫn đến đấu tranh giai cấp, đỉnh cao là cách mạng xã hội, thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển, thay thế hình thái kinh tế- xã hội cũ bằng hình thái kinh tế- xã hội mới. + Ngay cả thời kỳ chưa diễn ra cách mạng xã hội thì đấu tranh giai cấp cũng làm cho lực lượng sản xuất nói riêng và xã hội nói chung phát triển. Ví dụ: Đấu tranh của công nhân buộc giới chủ phải đổi mới quản lý, cải tiến kỹ thuật. . . + Cuộc đấu tranh của giai cấp bị trị đã buộc giai cấp bị trị phải tiến hành những cải cách mang tính chất tiến bộ như cải thiện quyền dân sinh, dân chủ, quyền tự do cho con người. Đồng thời bản thân giai cấp bị trị cũng phải tự cải tạo, tự đổi mới mình trong thực tiễn đấu tranh. Không những thế cuộc đấu tranh giai cấp cũng tạo điều kiện thúc đẩy sự phát triển của văn hóa, nghệ thuật, văn học và các mặt khác của đời sống xã hội. c. Đấu tranh giai cấp của giai cấp công nhân. Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản diễn ra ngay từ khi mới ra đời và phát triển từ thấp lên cao, từ tự phát đến tự giác. Trong thời kỳ chưa có chính quyền cuộc đấu tranh đó có đặc điểm: + Hình thức đấu tranh kinh tế được coi là hình thức đấu tranh đầu tiên của giai cấp vô sản. Lúc đầu chỉ mang tính tự phát như đòi tăng lương, giảm giờ làm, đập phá máy móc, đòi cải thiện điều kiện sống. . . + Cao hơn là đấu tranh chính trị với mục tiêu là đập tan chính quyền của giai cấp tư sản và thiết lập chính quyền mới của mình. Muốn vậy giai cấp vô sản phải tổ chức thành giai cấp, có Đảng lãnh đạo, có hệ tư tưởng Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng, có khối liên minh giai cấp công nhân. + Hình thức đấu tranh tư tưởng thường được tiến hành khi có Đảng Cộng sản ra đời để tập hợp, giáo dục, giác ngộ giai cấp vô sản thấy rõ vai trò, sứ mệnh lịch sử của mình. Đồng thời giúp giai cấp vô sản tiếp thu hệ tư tưởng Mác- Lênin và thoát khỏi sự ảnh hưởng của các tư tưởng phi vô sản. - Khi giai cấp vô sản đã giành được chính quyền thì cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản vẫn tiếp tục diễn ra bởi vì: + Giai cấp tư sản tuy đã bị đánh đổ nhưng vẫn chưa bị tiêu diệt, còn sức mạnh về

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docct_90_t_ph_1_5462.doc
Tài liệu liên quan