Ảnh hưởng vitamin C lên tăng trưởng và một số chỉ tiêu miễn dịch của cá lóc nuôi thương phẩm trong vèo

Tài liệu Ảnh hưởng vitamin C lên tăng trưởng và một số chỉ tiêu miễn dịch của cá lóc nuôi thương phẩm trong vèo: 109 Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 4(89)/2018 Protein requirement of Orange-fin loach fingerling Nguyen Thanh Hieu, Duong Nhut Long, Lam My Lan, Lam van Hieu and Tran Minh Phu Abstract The study was to determine dietary protein requirement of orange-fin loach (Botia modesta) fingerlings. The experiment was randomly set up with 7 treatments of protein levels 25%, 30%, 35%, 40%, 45%, 50%, and 55% with the same energy (4 Kcal/g) and lipid levels (6%) and 3 replications. Orange-fin loach (4.47 ± 0.13 g) was nursed in 50 L plastic tanks with the density of 1 fish/L (50 fish/tank) for the duration of 8 weeks. The results showed that the specific growth rates (SGR) of orange-fin loach increased and feed conversion ratio (FCR) decreased with the increase of protein levels from 25% to 45% in diets. However, in the treatment 50% and 55% protein SGR of fish decreased and FCR increased. Dietary protein requirement of orange-fin loach fingerlings (4.47 g) wa...

pdf6 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 163 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ảnh hưởng vitamin C lên tăng trưởng và một số chỉ tiêu miễn dịch của cá lóc nuôi thương phẩm trong vèo, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
109 Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 4(89)/2018 Protein requirement of Orange-fin loach fingerling Nguyen Thanh Hieu, Duong Nhut Long, Lam My Lan, Lam van Hieu and Tran Minh Phu Abstract The study was to determine dietary protein requirement of orange-fin loach (Botia modesta) fingerlings. The experiment was randomly set up with 7 treatments of protein levels 25%, 30%, 35%, 40%, 45%, 50%, and 55% with the same energy (4 Kcal/g) and lipid levels (6%) and 3 replications. Orange-fin loach (4.47 ± 0.13 g) was nursed in 50 L plastic tanks with the density of 1 fish/L (50 fish/tank) for the duration of 8 weeks. The results showed that the specific growth rates (SGR) of orange-fin loach increased and feed conversion ratio (FCR) decreased with the increase of protein levels from 25% to 45% in diets. However, in the treatment 50% and 55% protein SGR of fish decreased and FCR increased. Dietary protein requirement of orange-fin loach fingerlings (4.47 g) was 45.3%. Keywords: Orange-fin loach, Botia modesta, protein requirement, fingerling rearing Ngày nhận bài: 14/12/2018 Ngày phản biện: 20/12/2018 Người phản biện: TS. Châu Tài Tảo Ngày duyệt đăng: 19/1/2018 1 Khoa Thủy sản, Trường Đại học Cần Thơ ẢNH HƯỞNG VITAMIN C LÊN TĂNG TRƯỞNG VÀ MỘT SỐ CHỈ TIÊU MIỄN DỊCH CỦA CÁ LÓC NUÔI THƯƠNG PHẨM TRONG VÈO Mai Thanh Lâm1, Phạm Minh Đức1 và Trần Thị Thanh Hiền1 TÓM TẮT Nghiên cứu nhằm xác định phương pháp bổ sung tối ưu và hàm lượng vitamin C thích hợp vào thức ăn giúp kích thích tăng trưởng và sức khỏe cá lóc (Channa striata) nuôi thương phẩm. Nghiên cứu được thực hiện trong 5 tháng gồm 2 thí nghiệm: Thí nghiệm 1 gồm 4 nghiệm thức được bố trí hoàn toàn ngẫu nhiên (4 lần lặp lại) với loại thức ăn A được bổ sung các mức vitamin C trước khi ép viên (0, 500, 750 và 1000 mg/kg thức ăn) và thí nghiệm 2 gồm 4 nghiệm thức được bố trí hoàn toàn ngẫu nhiên (4 lần lặp lại) với loại thức ăn B được trộn vitamin C bằng phương pháp truyền thống mỗi ngày với hàm lượng tương tự thức ăn A. Kết quả nghiên cứu cho thấy việc bổ sung vitamin C vào thức ăn trước khi ép viên mang lại hiệu quả tốt hơn trộn vitamin C bằng phương pháp truyền thống mỗi ngày thông qua các chỉ số về tăng trưởng, tỷ lệ sống và miễn dịch. Thức ăn công nghiệp cho cá lóc bổ sung vitamin C với hàm lượng từ 500 mg/kg thức ăn đã cải thiện tăng trưởng, tỷ lệ sống, cải thiện sức khỏe cá tăng lợi nhuận. Từ khóa: Cá lóc đen, vitamin C, miễn dịch I. ĐẶT VẤN ĐỀ Cá lóc (Channa striata) được nuôi phổ biến ở Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) bởi chất lượng thịt thơm ngon và giá thành hợp lý. Mô hình nuôi cá lóc đa dạng như nuôi thâm canh trong ao đất, nuôi vèo trong ao và nuôi trong bể lót bạt. Số liệu thống kê năm 2017 từ Chi cục Thủy sản của 5 tỉnh nuôi cá lóc chủ yếu ở ĐBSCL (An Giang, Đồng Tháp, Trà Vinh, Vĩnh Long và Cần Thơ) cho thấy diện tích (chủ yếu nuôi trong ao đất) và sản lượng cá lóc nuôi tăng mạnh trong thập niên 2006 - 2016 từ 132,2 ha tăng lên 552,9 ha và từ 15,9 ngàn tấn tăng lên 85,6 ngàn tấn; dẫn đến nhu cầu về sản lượng thức ăn công nghiệp cho cá lóc tăng theo từ 22,3 ngàn tấn tăng lên 119,9 ngàn tấn trong cùng thời gian. Tuy nhiên, nuôi cá lóc còn một số trở ngại về bệnh do ký sinh trùng, vi nấm và vi khuẩn (Phạm Minh Đức và ctv., 2012); thực tế cho thấy cá lóc nuôi ngày càng tăng trưởng chậm và tỉ lệ cá lóc bị gù tăng. Nuôi cá lóc an toàn và phát triển bền vững thông qua việc bổ sung Vitamin C vào thức ăn phù hợp (lượng và phương pháp bổ sung VTMC) giúp tăng cường sức khỏe cho cá lóc, tăng cường hệ thống miễn dịch, cá lóc khỏe, ít bị bệnh và hạn chế sử dụng kháng sinh. 110 Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 4(89)/2018 II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Vật liệu nghiên cứu Nguồn cá lóc giống thí nghiệm được sản xuất ở tỉnh Đồng Tháp, khối lượng ban đầu 9 g/cá lóc giống, cá khỏe và không có dấu hiệu bệnh lý. Nguồn vitamin C (L-Ascorbate-Polyphosphate), hàm lượng AA 35%, bền nhiệt, sử dụng phổ biến trong nuôi trồng thủy sản, xuất xứ từ Hebei Welcome Pharm, Trung Quốc. Nguồn thức ăn gồm 2 loại thức ăn công nghiệp sau (i) Thức ăn A (TAA): thức ăn được sản xuất tại Công ty cổ phần thức ăn chăn nuôi Việt Thắng dựa theo công thức thức ăn cho cá lóc có hàm lượng protein 45%; lipid 9% và năng lượng 4,2 Kcal/g (Trần Thị Thanh Hiền và ctv., 2016) và (ii) Thức ăn B (TAB): thức ăn cá lóc công nghiệp (có hàm lượng protein, lipid và năng lượng tương tự như thức ăn A), đang được sử dụng phổ biến trên thị trường hiện nay. Ao nuôi thực nghiệm có diện tích 3000 m2, mức nước 3 m, hệ thống cấp nước nổi và thoát nước chìm. Hệ thống vèo thí nghiệm có thể tích 12 m3 (2 ˟ 2 ˟ 3), vèo có mắc lưới 2 ly. Bốn vèo nhỏ được đặt trong 1 vèo lớn có kích thước mắc lưới 3 phân. 2.2 Phương pháp nghiên cứu 2.2.1. Bố trí thí nghiệm Thí nghiệm nhằm đánh giá ảnh hưởng của vitamin C với nồng độ khác nhau được bổ sung vào thức ăn: Thí nghiệm 1 (TN1), phương pháp phối trộn trực tiếp vào nguyên liệu trong quá trình chế biến thức ăn, gồm 4 nghiệm thức (NT) sau TN1: (TAA không có VTMC); NT2: (TAA + 500 mg VTMC/kg); NT3: (TAA + 750 mg VTMC/kg) và NT4 (TAA + 1000 mg VTMC/kg) và Thí nghiệm 2 (TN2), phương pháp truyền thống là hòa tan rồi trộn vào thức ăn công nghiệp (phương pháp này được áp dụng phổ biến trong thực tế), thí nghiệm 2 (TN2) gồm 4 nghiệm thức sau NT1: (TAB không có VTMC); NT2: (TAB + 500 mg VTMC/kg; NT3: (TAB + 750 mg VTMC/kg) và NT4 (TAB + 1000 mg VTMC/kg), tất cả NT được lặp lại 4 lần, thời gian thí nghiệm là 5 tháng. Mật độ cá lóc thí nghiệm 50 con/m2 (600 con/vèo). 2.2.2. Quản lý và chăm sóc thí nghiệm Cá được cho ăn theo nhu cầu, 2 lần/ngày (vào 8 giờ và 16 giờ), sau 30 phút cho cá ăn, TA dư sẽ được vớt ra và xác định khối lượng nhằm xác định chính xác hệ số tiêu tốn TA. Số lượng cá chết được ghi nhận hằng ngày. Yếu tố môi trường gồm nhiệt độ, pH và oxy hòa tan được đo theo nhịp 1 lần/tuần (mỗi lần đo gồm sáng vào lúc 7 giờ và chiều vào lúc 15 giờ) bằng máy YSI 556 (USA) và các yếu tố TAN, NH3 và NO2 được đo 1 lần/tuần bằng test kit SERA (Germany), qui chuẩn hóa với phương pháp phân tích trong phòng thí nghiệm. 2.2.3. Chỉ tiêu đánh giá a) Chỉ tiêu tăng trưởng Khối lượng cá ban đầu (Wi) được xác định khi bố trí thí nghiệm. Tăng trưởng của cá được xác định bằng cách cân toàn bộ số cá trong mỗi vèo theo nghiệm thức khi kết thúc thí nghiệm và đếm số lượng cá còn lại. Tăng trọng WG (g) = Wt – Wi; lượng thức ăn ăn vào FI (%/cá/ngày) = lượng thức ăn vào/ khối lượng cá/t; hệ số thức ăn FCR = Lượng thức ăn ăn vào (khối lượng khô)/Khối lượng cá gia tăng; hiệu quả sử dụng protein PER = WG/Lượng đạm ăn vào; tỷ lệ sống SR (%) = (Số cá sau thí nghiệm ˟ 100)/ Số cá ban đầu và tỉ lệ cá lóc gù được tính: cá gù (%) = (số cá gù/tổng số cá còn lại) ˟ 100. b) Chỉ tiêu đáp ứng miễn dịch Chỉ tiêu huyết học (tế bào hồng cầu và bạch cầu) và lysozyme được xác định vào tháng nuôi thứ 2 và 4, mỗi nghiệm thức thu ngẫu nhiên 9 mẫu cá để thu mẫu huyết học và phân tích lysozyme. Tế bào hồng cầu được cố định theo phương pháp của Natt và Herrick (1952). Tế bào bạch cầu cố định theo phương pháp của Hrubec và cộng tác viên (Hrubec et al., 2000). Chỉ số lysozyme được phân tích theo Ellis và cộng tác viên (1990). 2.2.4. Chỉ số đánh giá hiệu quả kinh tế Lợi nhuận = Giá bán – Giá thành 2.2.5. Xử lý số liệu Các giá trị trung bình được tính trên chương trình Excel. So sánh trung bình giữa các nghiệm thức theo ANOVA một nhân tố và phép thử Duncan với mức ý nghĩa P<0,05 bằng chương trình thống kê SPSS 21.0. 2.3. Thời gian và địa điểm nghiên cứu Thí nghiệm thực hiện từ tháng 3 đến tháng 8/2017 tại khu thực nghiệm của Công ty cổ phần Thức ăn chăn nuôi Việt Thắng, tỉnh Đồng Tháp. III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 3.1. Điều kiện chất lượng môi trường nước ao nuôi thực nghiệm Điều kiện chất lượng môi trường nước ao nuôi thực nghiệm được quản lý và kiểm soát chặt chẽ 111 Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 4(89)/2018 nhằm đảm bảo môi trường nước nuôi tốt cho sự tăng trưởng của cá lóc. Nhiệt độ, pH và oxy hòa tan môi trường nước lần lượt dao động là 29,2 ± 0,9 oC; 8,1 ± 0,1; 1,8 ± 0,3 mg/L vào buổi sáng và 31,3 ± 0,8 oC; 8,2 ± 0,2; 3,7 ± 0,4 mg/L vào buổi chiều. Một số yếu tố thủy hóa gồm TAN; NO2-; NH3 lần lượt dao động là 0,55 ± 0,14 mg/L; 0,06 ± 0,01 mg/L; 0,005 ± 0,001 mg/L. 3.2. Tăng trưởng của cá lóc sau 5 tháng nuôi thực nghiệm Kết quả cho thấy sau 5 tháng nuôi được bổ sung vitamin C ở thí nghiệm 1 cá có tốc độ tăng trưởng cao nhất (573,5 ± 34,3 g/con) ở nghiệm thức A500 (bổ sung 500 mg vitamin C/kg thức ăn), khác biệt có ý nghĩa thống kê so với nghiệm thức đối chứng (P<0,05) (Bảng 1); thấp nhất (461,6 ± 40,1 g/con) ở nghiệm thức đối chứng (A0) và khác biệt có ý nghĩa thống kê so với các nghiệm thức còn lại (P<0,05). Mặt khác, tỷ lệ sống của cá ở các nghiệm thức cho ăn thức ăn có bổ sung vitamin C cao hơn và khác biệt có ý nghĩa thống kê so với nghiệm thức đối chứng (P<0,05). Kết quả nghiên cứu phù hợp với nghiên cứu trong phòng thí nghiệm của Nguyễn Tường Khanh (2017) khi nuôi cá lóc trong bể composite có bổ sung 500 mg vitamin C/kg thức ăn cá đạt tăng trưởng tốt nhất. Đối với cá nuôi cho ăn thức ăn bổ sung vitamin C theo phương thức của hộ nuôi, trộn bằng tay mỗi ngày (TAB) với các hàm lượng khác nhau, cá đạt khối lượng trung bình từ 375,9 ± 22,6 đến 399,8 ± 28,1 g/con (Bảng 1). Kết quả cho thấy tăng trưởng và tỷ lệ sống của cá có hay không có bổ sung vitamin C đều khác biệt không có ý nghĩa thống kê (P>0,05). Vì vậy, trộn vitamin C bằng tay mỗi ngày theo cách người nuôi đã không mang lại hiệu quả khi sử dụng vitamin C làm thức ăn cho cá. Vitamin C rất dễ tan trong nước và rất dễ bị oxy hóa trong điều kiện ánh sáng mặt trời và không khí (Linster and Van Schaftingen, 2007). Trong thí nghiệm này, vitamin C được sử dụng là loại ascorbate-2-poly phosphate (APP) giảm khả năng tan trong nước và bị oxy hóa của vitamin C (Halver et al., 2002; D’ Abramo et al., 1997). Tuy nhiên, do phương thức trộn vitamin C truyền thống, lượng vitamin C bị tan vào nước trước khi cá ăn vào nên không thể hiện hiệu quả. 3.3. Hiệu quả sử dụng thức ăn Đối với TAA, khi hàm lượng vitamin C trong thức ăn tăng, lượng thức ăn ăn vào của cá (FI) tăng (Bảng 1). FI của nghiệm thức A1000 cao hơn và khác biệt có ý nghĩa thống kê so với nghiệm thức đối chứng (P<0,05). Tuy nhiên, hệ số thức ăn (FCR) của nghiệm thức A500 là thấp nhất và khác biệt có ý nghĩa thống kê so với nghiệm thức đối chứng và nghiệm thức A1000 (P<0,05). Hiệu quả sử dụng protein (PER) của nghiệm thức A500 là cao nhất nhưng khác biệt không có ý nghĩa thống kê so với các nghiệm thức còn lại (P>0,05). Đối với cá nuôi cho ăn thức ăn bổ sung vitamin C được trộn bằng tay mỗi ngày, lượng thức ăn ăn vào của cá, hệ số thức ăn, hiệu quả sử dụng protein giữa các nghiệm thức khác biệt không có ý nghĩa thống kê (P>0,05). Tương tự như kết quả về tăng trưởng, hiệu quả sử dụng thức ăn của cá khi bổ sung vitamin C theo phương thức của hộ nuôi, trộn bằng tay mỗi ngày đã không thể hiện được hiệu quả. Trong khi đó, thức ăn trộn sẵn vitamin C đã cải thiện hiệu quả sử dụng thức ăn. Điều này tương tự như thí nghiệm nuôi cá lóc trong bể composite có bổ sung vitamin C, sau 8 tuần thí nghiệm, FI đạt 4,29 %/ngày so với đối chứng 3,99 %/ngày và PER đạt 1,92 so với đối chứng 1,52 (Nguyễn Tường Khanh, 2017). Nghiên cứu trên cá rô phi Oreochromis karongae cũng cho kết quả tương tự, cho ăn thức ăn chứa vitamin C với hàm lượng 80 mg/kg thức ăn đã tăng hiệu quả sử dụng protein PER 0,21 so với 0,03 của cá đối chứng (Nsonga et al., 2009). Qua đó, chứng minh được rằng vitamin C đã tác động giúp cá tăng hiệu quả sử dụng thức ăn và khi bổ sung vitamin C ở mức 500 mg/kg thức ăn có hiệu quả tốt hơn. 3.4. Tỉ lệ cá gù Qua bảng 1 cho thấy ở loại TAA tỷ lệ cá gù dao động từ 5,38 - 6,76% và khác biệt không có ý nghĩa thống kê (P>0,05) giữa các nghiệm thức. Tuy nhiên, đối với loại TAB thì tỷ lệ cá gù các nghiệm thức cao hơn so với đối chứng; đồng thời khác biệt có ý nghĩa thống kê (P<0,05) giữa nghiệm thức B750 với nghiệm thức đối chứng. Tỷ lệ cá gù có khả năng do nguồn cá giống. Vitamin C chưa thể hiện rõ ảnh hưởng làm giảm tỉ lệ gù ở cá lóc. 3.5. Số lượng hồng cầu trong máu cá Kết quả định lượng hồng cầu của loại TAA cho thấy số lượng hồng cầu ở các nghiệm thức khác biệt không có ý nghĩa thống kê (P>0,05) sau 2 tháng 112 Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 4(89)/2018 và 4 tháng cho ăn thức ăn có bổ sung Vitamin C (Bảng 2). Số lượng hồng cầu ở các nghiệm thức dao động từ 41,0 - 50,6 ˟ 105 tb/mm3. Điều này chứng tỏ bổ sung vitamin C đã không ảnh hưởng đến số lượng hồng cầu trong máu cá. Tương tự số lượng hồng cầu của loại TAB sau 2 và 4 tháng nuôi dao động 38,5 - 47,9 ˟ 105 tb/mm3. Số lượng tế bào hồng cầu đạt cao nhất ở nghiệm thức B500 (500 mg vitamin C/kg thức ăn) sau 2 và 4 tháng nuôi lần lượt là (38,5 ± 7,1 ˟ 105 tb/mm3; 47,9 ˟ 105 tb/mm3) và khác biệt có ý nghĩa thống kê so với đối chứng (P<0,05) (Bảng 2). Theo Lim và cộng tác viên (2010) khi nghiên cứu trên cá rô phi vằn Oreochromis niloticus cho thấy số lượng hồng cầu trong máu cá tăng lên 1,4 lần khi ăn thức ăn có bổ sung vitamin C với hàm lượng 2000 mg vitamin C/kg thức ăn. So với nghiên cứu của Nguyễn Tường Khanh (2017), số lượng hồng cầu của cá lóc nuôi trong bể composite dao động 3,15 - 4,51 (106 tế bào/mm3) khi cho ăn thức ăn có bổ sung vitamin C với hàm lượng từ 125 - 2.000 mg vitamin C/kg thức ăn. 3.6. Số lượng tổng bạch cầu trong máu cá Bổ sung vitamin C vào thức ăn cho cá lóc đã làm tăng tổng bạch cầu trong máu cá. Sau 2 tháng nuôi, lượng bạch cầu trong máu cá ở nghiệm thức A500 (500 mg vitamin C/kg thức ăn) tăng cao và khác biệt không có ý nghĩa thống kê so với đối chứng (P>0,05) (Bảng 2). Tương tự, sau 4 tháng bổ sung vitamin C, tổng bạch cầu ở các nghiệm thức có sử dụng vitamin C đều tăng cao và đạt cao nhất ở nghiệm thức A750 và khác biệt có ý nghĩa thống kê so với nghiệm thức đối chứng (P<0,05). Đối với TAB, lượng bạch cầu trong máu cá ở nghiệm thức B750 là cao nhất và khác biệt có ý nghĩa thống kê so với các nghiệm thức còn lại sau 4 tháng nuôi (P<0,05) (Bảng 2). Trong khi đó, lượng bạch cầu trong máu cá sau 2 tháng nuôi khác biệt không có ý nghĩa thống kê giữa các nghiệm thức (P>0,05). Như vậy bổ sung vitamin C sẵn có trong thức ăn (TAA) đã làm tăng lượng bạch cầu trong máu cá trong khi phối trộn vitamin C bằng tay đã không ảnh hưởng đến lượng bạch cầu trong máu cá. Kết quả này tương đồng với nghiên cứu của Li và cộng tác viên (1985) trên cá nheo Mỹ cho thấy tổng bạch cầu của cá tăng cao và số lượng đại thực bào gia tăng có ý nghĩa thống kê khi bổ sung vitamin C với hàm lượng 3.000 mg/kg thức ăn. 3.7. Hoạt tính lysozym trong máu cá Sau 2 và 4 tháng bổ sung vitamin C hoạt tính lysozyme đạt cao nhất ở nghiệm thức A750 và khác biệt có ý nghĩa thống kê (P<0,05) so với đối chứng (Bảng 2). Tuy nhiên, sau 4 tháng nuôi thì hoạt tính lysozyme ở các nghiệm thức tăng cao hơn so với đối chứng và đạt cao nhất (391,2 ± 63,1 µg/ml) ở nghiệm thức A500 (bổ sung 500 mg vitamin C/kg thức ăn) và khác biệt không có ý nghĩa thống kê so với đối chứng (P>0,05). Đối với TAB sau 2 tháng ăn thức ăn có bổ sung vitamin C đạt cao ở nghiệm thức B1000 và khác biệt không có ý nghĩa thống kê so với đối chứng (P<0,05) (Bảng 2). Tuy nhiên, sau 4 tháng cá ăn thức ăn có bổ sung vitamin C thì lysozyme có sự gia tăng ở các nghiệm thức so với đối chứng và cao nhất là ở nghiệm thức B750 đồng thời khác biệt có ý nghĩa thống kê so với nghiệm thức đối chứng (P<0,05). Kết quả nghiên cứu phù hợp với báo cáo của Lin và Shiau (2005) khi bổ sung vitamin C vào thức ăn của cá Epinephelus malabaricus cho thấy hoạt tính lysozyme của cá tăng cao sau 21 ngày bổ sung 400 và 800 mg vitamin C/kg thức ăn. 3.8. Hiệu quả kinh tế Sau khi thu hoạch cá vào thời điểm tháng 7/2017 giá bán thực tế là 33.900 đồng/kg. Kết quả cho thấy giá thành sản phẩm có bổ sung vitamin C dao động 25.312 ± 1.356 đến 31.414 ± 2.260 (Bảng 3). Đồng thời đạt thấp nhất ở nghiệm thức A500 (bổ sung 500 mg vitamin C/kg thức ăn) và khác biệt có ý nghĩa thống kê so với đối chứng (P<0,05). Mặt khác, lợi nhuận cho 1 kg cá cũng đạt cao nhất ở nghiệm thức A500 (8.814 ± 1.130 đồng/kg) và khác biệt có ý nghĩa thống kê (P<0,05) so với các nghiệm thức còn lại. Kết quả ở Bảng 3 cho thấy giá thành sản phẩm thấp nhất và lợi nhuận đạt cao nhất ở B500 (bổ sung 500 mg vitamin C/kg thức ăn) và khác biệt không có ý nghĩa thống kê so với các nghiệm thức còn lại (P>0,05). Riêng ở nghiệm thức B1000 thì giá thành sản phẩm lại cao hơn và lợi nhuận thấp hơn so với nghiệm thức đối chứng. Điều này chứng tỏ vitamin C có tác động lên chi phí cá lóc nhưng cũng cần lưu ý hàm lượng vì nếu bổ sung quá mức sẽ gây lãng phí và ảnh hưởng đến lợi nhuận. 113 Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 4(89)/2018 Bảng 1. Tăng trưởng của cá lóc sau 5 tháng nuôi Bảng 2. Số lượng hồng cầu, bạch cầu và lysozyme của cá lóc Ghi chú: Giá trị thể hiện là số trung bình ± độ lệch chuẩn; Giá trị trong cùng một cột có chữ cái (TN1: a, b, c) và (TN2: A, B, C) khác nhau thể hiện sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Ghi chú: Wi: khối lượng đầu; Wf: khối lượng cuối; Yf: Năng suất; FI: lượng TA ăn vào; PER: hiệu quả sử dụng protein; SR: tỉ lệ sống; FCR: hiệu quả sử dụng TA; Hf: tỉ lệ cá gù; Giá trị thể hiện là số trung bình ± độ lệch chuẩn; Giá trị trong cùng một cột có chữ cái (TN1: a, b, c) và (TN2: A, B, C) khác nhau thể hiện sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Nghiệm thức Wi (g/con) Wf (g/con) Yf (kg/vèo) FI (%/cá/ ngày) PER SR (%) FCR Hf (%) Thí nghiệm 1 A0 9,0 461,6 ± 40,1b 190,6 ± 8,9c 5,44 ± 0,40b 1,76±0,16b 69,1 ± 5,84c 1,40 ± 0,11a 6,28 ± 0,68ab A500 9,0 573,5 ± 34,3a 293,3 ± 10,8a 5,69 ± 0,24b 2,12±0,13a 85,3 ± 3,19a 1,16 ± 0,07b 5,38 ± 0,85b A750 9,0 556,2 ± 19,2a 268,3 ± 8,6b 6,00 ± 0,05ab 1,94±0,04ab 80,4 ± 2,20ab 1,27 ± 0,01ab 5,89 ± 0,60ab A1000 9,0 565,3 ± 44,2a 264,6 ± 7,5b 6,35 ± 0,55a 1,84±0,17b 78,3 ± 4,66b 1,35 ± 0,12a 6,76 ± 1,08a Thí nghiệm 2 B0 9,0 398,9 ± 41,2A 172,1 ± 18,2A 6,07 ± 0,11A 1,60±0,09A 71,9 ± 3,04B 1,50 ± 0,07A 8,32 ± 0,98B B500 9,0 399,8 ± 28,1A 185,9 ± 9,1A 6,04 ± 0,19A 1,64±0,09A 77,7 ± 4,18A 1,47 ± 0,08A 9,63 ± 1,49AB B750 9,0 397,9 ± 38,9A 177,7 ± 13,3A 6,08 ± 0,10A 1,61±0,07A 74,6 ± 3,78AB 1,49 ± 0,08A 11,1 ± 0,81A B1000 9,0 375,9 ± 22,6A 173,3 ± 12,0A 6,08 ± 0,05A 1,58±0,03A 76,8 ± 1,80AB 1,48±0,02A 8,91±1,23B Nghiệm thức Tế bào hồng cầu (105 tb/mm3) Tế bào bạch cầu (103 tb/mm3) Lysozyme (µg/ml) 2 tháng 4 tháng 2 tháng 4 tháng 2 tháng 4 tháng Thí nghiệm 1 A0 42,3 ± 7,6a 50,4 ± 1,6a 198,6 ± 39,1a 205,4 ± 15,5b 233,0 ± 4,77b 341,1 ± 94,7a A500 41,0 ± 1,2a 50,6 ± 4,6a 261,3 ± 50a 243,3 ± 28,2ab 272,0 ± 17,7a 391,2 ± 63,1a A750 47,3 ± 4,5a 46,4 ± 6,5a 189,5 ± 76,2a 248,9 ± 31,7a 283,7 ± 4,9a 381,3 ± 53,2a A1000 47,9 ± 5,99a 50,1 ± 4,8a 221,7 ± 53,1a 228,5 ± 15,8ab 287,3 ± 9,5a 306,1 ± 44,5a Thí nghiệm 2 B0 38,5 ± 7,1B 40,5 ± 5,5B 188,8 ± 35,8A 193,0 ± 19,1B 228,6 ± 10,3B 319,9 ± 29,9B B500 48,6 ± 6,8A 47,9 ± 3,6A 222,5 ± 64,2A 197,2 ± 18,2B 224,1 ± 16,9B 277,5 ± 27,2B B750 41,4 ± 5,8AB 46,9 ± 5,8AB 207,5 ± 43,0A 252,6 ± 37,9A 227,9 ± 13,7B 439,3 ± 53,6A B1000 42,6 ± 4,1AB 44,3 ± 1,4AB 249,4 ± 26,8A 214,6 ± 13,2B 286,8 ± 22,9A 315,7 ± 45,0B Bảng 3. Chi phí , lợi nhuận cá lóc Ghi chú: Giá trị thể hiện là số trung bình ± độ lệch chuẩn; Giá trị trong cùng một cột có chữ cái (TN1: a, b, c) và (TN2: A, B, C) khác nhau thể hiện sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05). IV. KẾT LUẬN Nghiên cứu đã khẳng định việc bổ sung vitamin C vào thức ăn trước khi ép viên mang lại hiệu quả tốt hơn bổ sung vitamin C bằng phương pháp truyền thống thông qua các chỉ số về tăng trưởng, tỷ lệ sống và chỉ tiêu miễn dịch. Thức công nghiệp cho cá lóc bổ sung vitamin C với hàm lượng từ 500 mg/ kg thức ăn đã cải thiện tăng trưởng, tỷ lệ sống, cải thiện sức khỏe cá thông qua tăng hàm lượng bạch cầu và lysozyme. TÀI LIỆU THAM KHẢO Phạm Minh Đức, Trần Ngọc Tuấn và Trần Thị Thanh Hiền, 2012. Khảo sát mầm bệnh trên cá lóc (Channa striata) nuôi ao thâm canh ở An Giang và Đồng Tháp. Tạp chí khoa học, Trường Đại học Cần Thơ, 21b: 124-132. NT Chi phí thức ăn (đồng/kg) Giá thành (đồng/kg) Lợi nhuận (đồng/kg) Thí nghiệm 1 A0 26.668 ± 2.034b 31.414 ± 2.260a 2.712 ± 2.034c A500 22.148 ± 1.130a 25.312 ± 1.356c 8.814 ± 1.130a A750 24.182 ± 226ab 27.798 ± 452bc 6.102 ± 452b A1000 25.764 ± 2.260b 29.606 ± 2.260ab 4.520 ± 2.260bc Thí nghiệm 2 B0 26.894 ± 1.356A 32.318 ± 1.880A 2.034 ± 1.582A B500 26.442 ± 1.356A 31.640 ± 1.695A 2.486 ± 1.808A B750 26.894 ± 1.356A 32.318 ± 1.808A 1.650 ± 2.034A B1000 26.668 ± 452A 32.544 ± 904A 1.582 ± 904A 114 Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 4(89)/2018 Nguyễn Tường Khanh, 2017. Ảnh hưởng của vitamin C lên tăng trưởng và đáp ứng miễn dịch của cá lóc (Channa striata). Luận văn tốt nghiệp thạc sĩ, Khoa Thủy sản, Đại học Cần Thơ, 52 trang. D’ Abramo, L.R., D. E. Conklin, D. M. Akiyama, 1997. Crustancean Nutrition. In Advances in World Aquaculture, Volume 6. World Aquaculture Society. Ellis, A.E, 1990. Lysozyme activity. In: Stolen TC, Fletcher PD, Anderson BS, Roberson BS, Muiswinkel WB, editors. Technique in Fish Immunology. New York: SOS Publications; p 101-103. Halver, J.E. & R. W. Hardy, 2002. Fish nutrition. The Third Edition. Academic Press, USA. Hien, T. T. T., P. M. Duc., T. L. C. Tu., T. M. Phu., D. T. M. Thy., & D. Bengtson, 2016. Growth Performance and Immune Response of Snakehead, Channa striata (Bloch 1793) Fed Soy Diets with Supplementation of Mannan Oligosaccharides. Asian Fisheries Science 29: 67-81. Hrubec, T.C., J. L. Cardinale & S. A.Smith, 2000. Hematology and plasma chemistry reference intervals for cultured Tilapia (Oreochromis hybrid). Vet Clin Pathol, 29:7-12. Lim, C., M.Y. Aksoy, T. Welker & P.H. Klesius, 2010. Growth performance, immune response, and resistance to Streptococcus iniae of Nile Tilapia, Oreochromis niloticus, fed diets containing various levels of vitamins C and E. Journal of The World Aquaculture Society, 41(1): 35-48. Lin, M.F. & S.Y. Shiau, 2005. Dietary L-ascorbic acid affects growth, nonspecific immune responses and disease resistance in juvenile grouper, Epinephelus malabaricus. Aquaculture, 244: 215-221. Linster, C.L., E.Van Schaftingen, 2007. Vitamin C. The FEBS Journal, 274(1): 1-22. Natt, M. P., C. A.Herrick, 1952. A new blood diluent for counting the erythrocytes and leukocytes of the chicken. Journal of Poultry Science 31(4): 735-738. Nsonga, A.R., O.J. Kang., W. Mfitilodze, C.K. Soko & A.H. Mtethiwa, 2009. Effect of varying levels of dietary vitamin C (ascorbic acid) on growth, survival and hematology of juvenile tilapia, Oreochromis karongae (Trewavas 1941) reared in aquaria. Brazilian Journal of Aquatic Science and Technology, 13(2): 17-23. Ngày nhận bài: 10/3/2018 Ngày phản biện: 19/3/2018 Người phản biện: TS. Châu Tài Tảo Ngày duyệt đăng: 16/4/2018 Effects of Vitamin C on growth and immune parameters of snakehead culture in hapa Mai Thanh Lam, Pham Minh Duc and Tran Thi Thanh Hien Abstract The experiment was carried out to evaluate the appropriate supplementation method and dose of vitamin C supplemented in feed in order to stimulate on growth and healthy parameters of snakehead (Channa striata). The study was conducted in 5 months, including 2 experiments. The first experiment consisted of 4 treatments of feed A supplemented with different vitamin C of 0, 500, 750 and 1000 mg/kg of feed during processing. The second experiment also included 4 treatments of feed B mixed with the same level of vitamin C as with feed A by traditional method. The results showed that the -inclusion of vitamin C in pellet feed before extrusion was recorded better growth performance, survival rate and fish health compared to addition of vitamin C by traditional method in daily. Addition of vitamin C in diet for snakehead in commercial pellet feed at a level of 500 mg/kg of feed enhanced fish growth performance, survival rate, fish health and increasing profit. Key words: Channa striata, Vitamin C, immune responses

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf18_9196_2152849.pdf
Tài liệu liên quan