Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 23 * Số 3 * 2019 
 92
S3-16 TMH9 KHẢO SÁT ỐNG TUYẾN NƯỚC BỌT QUA NỘI SOI 
TRÊN BỆNH NHÂN CÓ BỆNH LÝ TUYẾN NƯỚC BỌT 
TẠI BỆNH VIỆN CHỢ RẪY TỪ NĂM 2017 - 2018 
Trần Hạnh Uyên*, Trần Anh Bích*, Nguyễn Công Huyền Tôn Nữ Cẩm Tú*, Nguyễn Hữu Dũng**, 
Đinh Lệ Thanh Lan***, Trần Thị Lệ Hằng***, Lê Thị Ngọc Ngân*** 
TÓM TẮT 
Mục tiêu: Khảo sát ống tuyến nước bọt qua nội soi trên bệnh nhân có bệnh lý tuyến nước bọt tại khoa tai – 
mũi – họng bệnh viện Chợ Rẫy từ tháng 10/2017 – tháng 6/2018. 
Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp tiến cứu tại khoa Tai Mũi Họng – Bệnh viện Chợ Rẫy. 
Kết quả: 100% sưng tuyến mang tai 1 bên, không đau. Trên CT và siêu âm có phát hiện tổn thương chiếm 
51,6%, không phát hiện tổn thương là: 48,4%. Qua nội soi ống tuyến nước bọt, có thể phát hiện các bệnh lý sau 
sỏi (67,7%), chít hẹp ống tuyến (12,9%), nút nhầy ống tuyến (9,67%), không có tổn thương (9,67%). 
Kết luận: Nội soi hệ thống ống tuyến nước bọt là kỹ thuật mới, cung cấp chi tiết các hình ảnh trong hệ 
thống ống tuyến, giúp đưa ra các chẩn đoán chính xác, hướng điều trị hiệu quả nhằm bảo tồn tối đa cấu trúc 
tuyến nước bọt cho bệnh nhân và giảm thiểu các biến chứng sau phẫu thuật. 
Từ khóa: nội soi ống tuyến nước bọt, sialendoscopy 
ABSTRACT 
ASSESSSING THE SALIVARY DUCT SYSTEM ON PATIENTS WITH SALIVARY GLAND DISEASE 
BY SIALENDOSCOPY AT CHO RAY HOSPITAL FROM 2017 – 2018 
Tran Hanh Uyen, Tran Anh Bich, Nguyen Cong Huyen Ton Nu Cam Tu, Nguyen Huu Dung, 
Dinh Le Thanh Lan, Tran Thi Le Hang, Le Thi Ngoc Ngan 
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Vol. 23 - No 3- 2019: 92-96 
Objective: Assessing the salivary duct system on patients with salivary gland disease by using 
sialendoscopy at Cho Ray hospital from 10/2017 to 06/2018. 
Methods: Prospective study at ENT department of Cho Ray hospital. 
Results: 100% patients have unilateral swollen, painless salivary glands. All cases of patients underwent 
US and CT-scan, the lesion can be detected in 51.6% of patients, and cannot be detected in 48.4% of patients. The 
intrinsic pathologies can be recognized in the ducts via sialendoscopy: stones (67.7%), strictures (12.9%), mucus 
plugs (9.67%), no pathologies can be found (9.67%). 
Conclusion: Sialendoscopy is the new minimally – invasive surgical technique. Diagnostic sialendoscopy 
allows direct visualization of salivary ducts, enables planning of interventional sialendocopsy and therefore 
preventing salivary gland excisions, reducing the risk of complications after the gland excisions like Frey’s 
syndrome, facial paralysis 
Keywords: sialendoscopy, salivary duct 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Bệnh lý tắc nghẽn ống tuyến ảnh hưởng 
đến khoảng 1,2% dân số(4). Nguyên nhân gây 
ra viêm tuyến nước bọt do tắc nghẽn ống 
tuyến bởi sỏi chiếm tỷ lệ cao nhất là 80%(3), các 
bệnh lý như chít hẹp, nút nhầy, polyp và u 
* Khoa Tai Mũi Họng, Bệnh viện Chợ Rẫy ** Bộ môn Tai Mũi Họng, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh 
*** Điều dưỡng Bệnh viện Chợ Rẫy 
Tác giả liên lạc: TS.BS Nguyễn Hữu Dũng ĐT: 0903676353 Email: 
[email protected] 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 23 * Số 3 * 2019 Nghiên cứu Y học
 93
thường ít gặp hơn, chiếm 20%(4). Trên thế giới 
hiện nay có rất nhiều phương pháp hình ảnh 
học được dùng để chẩn đoán bệnh lý tuyến 
nước bọt: siêu âm, CT–scan, Sialography, MR – 
Sialography, nội soi(5). Sự phát triển của hệ 
thống nội soi đã giúp đưa ra các chẩn đoán 
chính xác, đồng thời là phương pháp can thiệp 
tối thiểu để bảo tồn tối đa hệ thống tuyến nước 
bọt, giảm tỉ lệ các biến chứng. Đây là một 
phương pháp mới để chẩn đoán và điều trị 
bệnh lý ống tuyến nước bọt tại Việt Nam. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng 
Bệnh nhân nhập khoa Tai Mũi Họng bệnh 
viện Chợ Rẫy có bệnh lý tuyến nước bọt dưới 
hàm hoặc mang tai có chỉ định nội soi từ 
2/2017 – 4/2018. 
Phương pháp nghhiên cứu 
Phương pháp tiến cứu tại khoa Tai Mũi 
Họng – Bệnh viện Chợ Rẫy. 
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
Đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng 
Nhóm tuổi tập trung nhiều nhất 20 – 29, 
chiếm 27,8%, nhóm tuổi tập trung ít hơn 20 tuổi 
chiếm 5,6%. 
Nam chiếm 44,4%, nữ chiếm 55,6%. 
Thời gian khởi bệnh đến lúc khám: 01 tháng 
đến 20 năm nhưng bệnh nhân thường đến khám 
sau 01 tháng có triệu chứng. 
Phân bố bệnh lý 
Tuyến mang tai: 22,2%, tuyến dưới hàm 
chiếm 72,2% và tuyến dưới lưỡi là 5,6%. 
Nhóm bệnh lý tắc nghẽn ống tuyến nước 
bọt: 86,1%. Trong đó, tỉ lệ bệnh nhân có sỏi trong 
tuyến nước bọt chiếm tỉ lệ cao nhất là 67,7%, nút 
nhầy chiếm 9,67%, chít hẹp chiếm 12,9%, không 
có tổn thương chiếm 9,67%. 
Triệu chứng lâm sàng 
Nhóm bệnh lý tắc nghẽn ống tuyến: sưng 
(88,9%) và đau (63,9%) 1 bên tuyến dưới hàm 
hoặc tuyến mang tai lặp đi lặp lại nhiều lần. 
55,6% bệnh nhân được ghi nhận triệu chứng có 
liên quan đến bữa ăn. Tỉ lệ sưng đau tuyến nước 
bọt có kèm nhiễm trùng chiếm 13,9%. 
Nhóm bệnh lý u: 100% sưng tuyến mang tai 
1 bên, không đau 
Cận lâm sàng: trên CT và siêu âm có phát 
hiện tổn thương chiếm 51,6%, không phát hiện 
tổn thương là: 48,4%. 
Khảo sát ống tuyến qua nội soi 
U tuyến nước bọt: chưa phát hiện những 
hình ảnh bất thường hay bệnh lý trong ống tuyến. 
Sỏi tuyến nước bọt là bệnh lý chiếm tỉ lệ cao 
nhất: 67,7%. 
Tỉ lệ % sỏi được phát hiện qua CT – Scan 
hoặc siêu âm chiếm 76,2%, sỏi được phát hiện 
qua nội soi chiếm 100%. 
Phân bố của sỏi: tuyến dưới hàm chiếm 
80,9%, tuyến mang tai chiếm 22,2%, và tuyến 
dưới lưỡi chiếm 4,8%. 
Vị trí của sỏi: ống chính của tuyến nước bọt, 
chiếm 57,1%, chạc 1 hoặc đầu ống tuyến nhánh 2 
là 28,5%, chạc 2 chiếm 9,6%. Sỏi nằm tại nhu mô 
của tuyến là 4,8%. 
Tính chất và số lượng sỏi: sỏi trôi chiếm 
57,1%, sỏi nằm cố định chiếm 42,9%. Chỉ có 1 
viên sỏi nằm tại ống tuyến chiếm 66,7%, có ít 
nhất 2 viên sỏi nằm trong ống tuyến, chiếm 33,3%. 
Chít hẹp ống tuyến chiếm 12,9%. 
Phân bố: tuyến dưới hàm chiếm 75%, tuyến 
mang tai chiếm 25%. 
Vị trí chít hẹp: nằm tại nhiều vị trí khác nhau. 
Phân độ: Những ca chít hẹp có đường kính 
lớn hơn hoặc gần bằng 50% đường kính ống soi, 
chiếm 60%. Những ca chít hẹp có đường kính 
nhỏ hơn 50% đường kính ống soi chiếm 40%, đối 
với những trường hợp này không nên dung sức 
để đẩy ống soi qua chỗ chít hẹp vì có nguy cơ 
làm tổn thương và rách ống tuyến rất cao. 
Nút nhầy ống tuyến nước bọt chiếm 9,67%. 
Phân bố: 100% tuyến dưới hàm. 
Vị trí: 33,3% nằm dọc theo ống tuyến 
nhánh thứ 2, 33,3% nằm tại chạc 2, 33,3% nằm 
tại ống chính. 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 23 * Số 3 * 2019 
 94
Không có tổn thương: 9,67%. 
Khoảng cách xa nhất từ nhú tuyến là 9 cm, 
đến được hệ thống ống tuyến nhánh 3. 
Tất cả những bệnh nhân này có hệ thống ống 
tuyến giãn rộng, nước bọt rất đặc và quánh. 
BÀN LUẬN 
Bệnh lý tuyến nước bọt có thể gặp ở mọi lứa 
tuổi, nhưng thường gặp nhất là từ 20 – 29 tuổi. 
Trong số 36 ca, tuổi trung bình của bệnh nhân có 
bệnh lý tuyến nước bọt và có chỉ định nội soi là 
40,3 tuổi. Tỉ lệ mắc bệnh tuyến nước bọt hiện nay 
thường gặp trên những bệnh nhân lớn tuổi. Đó 
là do sự hình thành những sỏi nhỏ trong ống 
tuyến nước bọt thường tăng dần trên những 
bệnh nhân từ 40 tuổi trở lên(1,4). Ngoài ra, việc 
giảm sự tiết dịch của hệ thống ống tuyến nước 
bọt cũng làm tăng sự hình thành của sỏi, tăng 
nguy cơ bị nhiễm trùng trong ống tuyến. 
Hiện nay đã có nhiều nghiên cứu về bệnh lý 
tuyến nước bọt được xuất bản, tuy nhiên vẫn 
chưa có nghiên cứu nào chỉ rõ được mối tương 
quan giữa giới tính và bệnh lý tuyến nước bọt. 
Thời gian từ khi xuất hiện triệu chứng đến 
khi khám phát hiện và điều trị bệnh trong 
nghiên cứu của chúng tôi kéo dài từ 1 tháng đến 
20 năm. Hầu hết bệnh nhân đi khám và điều trị 
khi các triệu chứng này được phát hiện hoặc gây 
ra cảm giác khó chịu trong sinh hoạt hằng ngày 
trong khoảng thời gian 1 tháng. 
Nhiều nghiên cứu cũng khẳng định thời 
gian khởi bệnh của những bệnh nhân có bệnh lý 
tuyến nước bọt thường rất khác nhau, theo tác 
giả Escudier, thời gian từ khi xuất hiện triệu 
chứng đến khi khám phát hiện bệnh lý tuyến 
dưới hàm là khoảng 5 năm 4 tháng, tuyến mang 
tai là 10 tháng(4). Thời gian của tác giả Yu CQ là 
từ 2 tháng đến 3 năm(5). 
Các triệu chứng lâm sàng xuất hiện không rõ 
ràng, không ảnh hưởng quá nặng nề đến người 
bệnh. Do đó bệnh nhân thường không chú ý và 
không đi khám bệnh ngay. Vì vậy, độ chính xác 
của thời gian khởi bệnh của bệnh nhân trong 
nghiên cứu của chúng tôi chỉ có tính tương đối, 
chủ yếu là được tính từ lúc bệnh nhân phát hiện 
ra triệu chứng. 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, ngoài 
phương pháp nội soi, các xét nghiệm cận lâm 
sang khác được chúng tôi thường xuyên thực 
hiện là sử dụng siêu âm, CT-scan. Chúng tôi 
nhận thấy có 31 trường hợp là bệnh lý tắc nghẽn 
tuyến nước bọt, chiếm 86,1%, và 5 trường hợp là 
u tuyến nước bọt, chiếm 13,9%. Trên 31 bệnh 
nhân có bệnh lý tắc nghẽn tuyến nước bọt, có 16 
trường hợp phát hiện được sỏi bằng CT-scan 
hoăc siêu âm, chiếm 51,6%, 15 trường hợp không 
phát hiện thấy các bệnh lý khác, chiếm 48,4%, 
nhưng kết quả siêu âm của những ca này có kích 
thước tuyến nước bọt to hơn bình thường, hình 
ảnh hệ thống ống tuyến bị giãn rộng. 
Đối với 15 ca không phát hiện bệnh lý trên 
CT và siêu âm, chúng tôi tiến hành nội soi ống 
tuyến nước bọt và có thể chia hình ảnh tổn 
thương này thành 4 loại: sỏi, chít hẹp, nút nhầy, 
viêm. Có 5 trường hợp là sỏi, 3 trường hợp phát 
hiện nút nhầy, 4 trường hợp với chít hẹp và 3 
trường hợp không có bệnh lý nào ở ống tuyến. 
Trên 3 bệnh nhân có triệu chứng tắc nghẽn 
tuyến nước bọt dưới hàm nhưng không phát 
hiện bệnh lý. Chúng tôi dùng nội soi đi vào được 
đến chạc 1 hoặc 2, cách miệng ống tuyến khoảng 
9 - 10 cm. Những bệnh nhân này có hệ thống 
ống tuyến giãn rộng, nước bọt rất đặc và quánh, 
có thể là do viêm mạn tính, nên hình ảnh nội soi 
thường mờ, rất khó để đánh giá được hệ thống 
ống tuyến. Việc bơm rửa liên tục giúp rửa sạch 
đầu ống soi, làm loãng độ đặc, và bơm rửa hệ 
thống ống tuyến. Điều này giúp trong việc điều 
trị của bệnh nhân, và làm hình ảnh nội soi trở 
nên rõ hơn, tránh làm trày xước ống tuyến và 
đánh giá đựơc ống tuyến. 
Trong 3 trường hợp nút nhầy tại tuyến dưới 
hàm, chúng tôi nhận thấy phần lớn niêm mạc 
của ống tuyến nhợt nhạt. Nút nhầy có thể nằm 
tại bất kỳ vị trí nào của ống tuyến nước bọt. 
Trong nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy nút nhầy 
của ống tuyến nước bọt thường có các đặc điểm 
sau đây: thường đặc, quánh và đục, thường làm 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 23 * Số 3 * 2019 Nghiên cứu Y học
 95
mờ hình ảnh nội soi nên rất khó quan sát hình 
ảnh ống tuyến. 
Hình 1: Nút nhầy trong ống tuyến 
(Nguồn: 2170104207 – BVCR) 
Hiện nay, chưa có nhiều nghiên cứu về nội 
soi ống tuyến trên những bệnh nhân có u 
tuyến nước bọt. Do có thể làm rách ống tuyến 
nước bọt, các tế bào ung thư di chuyển theo hệ 
thống ống tuyến, đến các vị trí khác. Trong 
nghiên cứu của chúng tôi, chúng tôi đã thực 
hiện được nội soi ống tuyến nước bọt trên 5 ca 
u tuyến mang tai. 
Trên những bệnh nhân này, một số hình ảnh 
cận lâm sàng cho thấy khối u nằm gần ống 
tuyến, có khả năng chèn ép ống tuyến nước bọt. 
Tuy nhiện, qua nội soi, chúng tôi phát hiện hệ 
thống ống tuyến bình thường: niêm mạc hồng 
hào, không phát hiện thấy bệnh lý như sỏi, chít 
hẹp hay ống tuyến bị chèn ép bởi các mô u tuyến 
xung quanh. 
Chúng tôi hiện không phát hiện mối tương 
quan giữa những hình ảnh bất thường trong 
tuyến nước bệnh lý tuyến nước bọt và sỏi. Tuy 
nhiên, cỡ mẫu của chúng tôi còn ít, cần phải 
được thực hiện trên cỡ mẫu lớn hơn để kiểm 
chứng lại điều này. 
Trong 4 ca chít hẹp ống tuyến, có 2 ca chít 
hẹp tuyến dưới hàm, 1 ca chít hẹp tuyến mang 
tai và 1 trường hợp chít hẹp cả 2 bên tuyến dưới 
hàm. Những bệnh nhân này đều có nhiều chỗ 
chít hẹp tại các vị trí khác nhau và có phân loại 
khác nhau. 
Những ca chít hẹp có đường kính lớn hơn 
hoặc gần bằng 50% đường kính ống soi, chiếm 
60%. Trong đó, chỉ có một số trường hợp chúng 
tôi có thể đưa ống soi qua vị trí chỗ hẹp và đánh 
giá ống tuyến sau vị trí hẹp. Chúng tôi nhận 
thấy những trường hợp chít hẹp dạng này 
thường là dạng màng, có thể tại một chỗ hoặc 
một đoạn ngắn của ống tuyến, chủ yếu là nằm 
tại phân nhánh 1 hoặc 2. 
Hình 2: Chít hẹp dạng màng S1, xung quanh chỗ hẹp 
là lớp màng mỏng tại tuyến Wharton [Nguồn: 
2170034996 – BVCR] 
Hình 3: Lớp màng mỏng xung quanh chỗ chít hẹp, có 
thể dùng ống soi nong và đi qua vị trí chỗ hẹp để đánh 
giá ống tuyến [Nguồn: 2170034996 – BVCR] 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, những ca 
chít hẹp nặng thường có đường kính < 50% của 
ống nội soi 1,1 mm, hoặc chít hẹp bịt kín hoàn 
toàn ống tuyến, có nhiều mô sẹo hoặc mô xơ 
xung quanh chỗ chít hẹp, có thể là do viêm lâu 
ngày, hoặc do chấn thương. Những trường hợp 
này không nong được bằng nội soi và không 
đánh giá được hệ thống ống tuyến sau chỗ hẹp. 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 23 * Số 3 * 2019 
 96
Trên 21 trường hợp bệnh nhân sỏi tuyến 
nước bọt, phát hiện được sỏi cản quang trong 
tuyến nước bọt trên CT và siêu âm, chiếm 76,2%. 
Tỉ lệ sỏi không cản quang phát hiện được trong 
lúc nôi soi ống tuyến là 23,8%. Chúng tôi nhận 
thấy những trường hợp sỏi không phát hiện 
được trên CT-scan có thể được phát hiện qua nội 
soi, thường là những dạng sỏi nhỏ, không cản 
quang, nằm sâu trong nhánh ống tuyến. 
Kết quả cho thấy tỉ lệ sỏi tuyến dưới hàm 
thường gặp nhất, sỏi tuyến dưới lưỡi rất chiếm tỉ 
lệ thấp nhất. Do tuyến dưới hàm có đường ống 
tuyến dài, dòng chảy chậm và hàm lượng canxi 
cao nên dễ hình thành sỏi nhất(1,2,4). Tỉ lệ sỏi 
tuyến dưới lưỡi rất thấp là do sỏi thường được 
phát hiện khi đã trôi ra tuyến dưới hàm do ống 
tuyến dưới lưỡi và ống tuyến dưới hàm đổ 
chung ra ống tuyến chính, ra sàn miệng. 
Hình 4: Sỏi trôi nằm tại chạc chia của ống tuyến 
[Nguồn: 2170108905 – BVCR] 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, 57,1% số 
lượng sỏi là sỏi trôi, 42,9 % là sỏi cố định trong 
ống tuyến. Phần lớn sỏi nằm trong ống tuyến là 
dạng 1 viên, chiếm 66,7%, từ 2 viên sỏi trở lên 
chiếm 33,3%. Vị trí của sỏi trôi thường không cố 
định, nằm chủ yếu ở tại chạc 1 hoặc đầu ống 
tuyến nhánh 2. Đối với những trường hợp sỏi 
không cản quang, chúng tôi nhận thấy đây là sỏi 
nhỏ, trôi nằm chủ yếu tại các nhánh nhỏ, chạc 2 
hoặc khúc vòng của ống tuyến. Những sỏi nhỏ 
dạng trôi thường nằm tại chạc chia nhánh rất dễ 
trôi sâu vào bên trong do tác động của ống soi 
hoặc việc bơm rửa(2,5). 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Gupta A, Rattan D (2013). Radiant sialoliths of sub mandibular 
duct: report of two cases with unusual shape. Contemp Clion 
Dent, 4. 78–80. 
2. Marchal F, Dulguerov P (2003). Sialolithiasis management – the 
state of the art. Arch Otolaryngol Head Neck Surg, 129. 951–956. 
3. Mcurk M, Escudier MP, Brown E (2004). Modern management 
of obstructive salivary gland disease. Ann R Australas Coll Dent 
Surg, 17. 45–50. 
4. Trần Minh Trường, Trần Anh Bích, Nguyễn Công Huyền Tôn 
Nữ Cẩm Tú (2017). Tổng quan về nội soi ống tuyến nước bọt. 
Tạp chí Y học, Đại học Y Dược TP.HCM, số đặc biệt hội nghị khoa học 
kỹ thuật bệnh viện Chợ Rẫy, tập 21(2):tr.1-4 
5. Yu CQ, Yang C, Zheng LY, Wu DM, Zhang J, Yun B (2008). 
Selective manage- ment of obstructive submandibular 
sialadenitis. Br J Oral Maxillofac Surg, 46: 46–49. 
Ngày nhận bài báo: 08/11/2018 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 10/12/2018 
Ngày bài báo được đăng: 10/03/2019