Xu hướng dịch chuyển tự truyện sang tiểu thuyết tâm lý trong văn học Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945

Tài liệu Xu hướng dịch chuyển tự truyện sang tiểu thuyết tâm lý trong văn học Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945: TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 59 - Thaùng 7/2018 138 Xu hướng dịch chuyển tự truyện sang tiểu thuyết tâm lý trong văn học Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945 The Moving Trend from Autobiography to Psychological Novels in Vietnamese Literature in the Period 1930 – 1945 ThS. Trần Thanh Việt, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – ĐHQG Hà Nội Tran Thanh Viet, M.A., University of Social Sciences and Humanities – Vietnam National University, Hanoi Tóm tắt Văn học nước nhà giai đoạn 1930 – 1945 đã chứng kiến nhiều nhà văn viết tự truyện: Nguyên Hồng, Lan Khai, Nguyễn Tuân, Vũ Bằng, Tô Hoài, Nam Cao... Cũng chính những nhà văn này, trước yêu cầu đổi mới nền văn học và theo dòng chảy tự nhiên của tiểu thuyết hiện đại, đã chuyển mình sang sáng tác tiểu thuyết tâm lý. Có thể khẳng định rằng giai đoạn văn học 1930 - 1945 đã xuất hiện xu hướng dịch chuyển từ tự truyện sang tiểu thuyết tâm lý. Xu hướng dịch chuyển này diễn ra với dấu hiệu hết sức rõ ràn...

pdf9 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 326 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Xu hướng dịch chuyển tự truyện sang tiểu thuyết tâm lý trong văn học Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 59 - Thaùng 7/2018 138 Xu hướng dịch chuyển tự truyện sang tiểu thuyết tâm lý trong văn học Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945 The Moving Trend from Autobiography to Psychological Novels in Vietnamese Literature in the Period 1930 – 1945 ThS. Trần Thanh Việt, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – ĐHQG Hà Nội Tran Thanh Viet, M.A., University of Social Sciences and Humanities – Vietnam National University, Hanoi Tóm tắt Văn học nước nhà giai đoạn 1930 – 1945 đã chứng kiến nhiều nhà văn viết tự truyện: Nguyên Hồng, Lan Khai, Nguyễn Tuân, Vũ Bằng, Tô Hoài, Nam Cao... Cũng chính những nhà văn này, trước yêu cầu đổi mới nền văn học và theo dòng chảy tự nhiên của tiểu thuyết hiện đại, đã chuyển mình sang sáng tác tiểu thuyết tâm lý. Có thể khẳng định rằng giai đoạn văn học 1930 - 1945 đã xuất hiện xu hướng dịch chuyển từ tự truyện sang tiểu thuyết tâm lý. Xu hướng dịch chuyển này diễn ra với dấu hiệu hết sức rõ ràng từ căn cứ tác phẩm tiểu thuyết. Đó là dấu hiệu nhân vật chính mang hình bóng tác giả, và chi tiết, sự kiện trong tác phẩm vừa thực vừa có thể được hư cấu. Từ khoá: xu hướng dịch chuyển, tự truyện, tiểu thuyết tâm lý, văn học Việt Nam 1930-1945. Abstract There were many famous autobiographers in Vietnamese literature in the period 1930-1945: Nguyen Hong, Lan Khai, Nguyen Tuan, Vu Bang, To Hoai, Nam Cao... In order to meet the needs of literature innovation, together with the natural flow of modern novels, those writers have transformed themselves into psychological novelists. It can be argued at that time Vietnamese literature has emerged as a shift from autobiography to psychological novels. This shift has taken place with very clear signs from the basis of the novels where the main characters bearing the characteristics of the writers; and the details or events in novels can be both realistic and fictitious. Keywords: the moving trend, autobiography, psychological novels, Vietnamese literature in the period 1930 – 1945. Đặt vấn đề Trong giai đoạn văn học 1930 - 1945, quãng thời gian mới có mười lăm năm nhưng với tốc độ hiện đại hoá diễn ra nhanh chóng, với sự xuất hiện nhiều nhà văn tài năng, nhiều tiểu thuyết có giá trị đã ra đời và để lại dư âm lớn đến tận ngày nay. Văn học nước nhà giai đoạn 1930 – TRẦN THANH VIỆT 139 1945 đã chứng kiến nhiều nhà văn viết tự truyện: Nguyên Hồng, Lan Khai, Nguyễn Tuân, Vũ Bằng, Tô Hoài, Nam Cao... Và cũng chính những nhà văn này, trước yêu cầu đổi mới nền văn học, theo dòng chảy tự nhiên của tiểu thuyết hiện đại, đã chuyển mình sang sáng tác tiểu thuyết tâm lý. Có thể khẳng định rằng, trong giai đoạn văn học này đã xuất hiện xu hướng dịch chuyển từ tự truyện sang tiểu thuyết tâm lý. 1. Cơ sở xác định sự dịch chuyển tự truyện sang tiểu thuyết tâm lý Khảo sát văn học Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945, chúng tôi nhận thấy hầu hết các nhà văn thành công với thể tài tiểu thuyết tâm lý đã từng trước đó thành công với tiểu thuyết dạng tự truyện. Dù sáng tác tiểu thuyết tâm lý hay tự truyện, các nhà văn đều gửi gắm hình bóng và tâm sự của chính cuộc đời mình vào hình tượng nhân vật. Đây là những thể loại đắc địa để các nhà văn giai đoạn này thể hiện sự cách tân nghệ thuật tự sự của tiểu thuyết: nhân vật tâm lý, kết cấu tâm lý, ngôn ngữ tâm lý. Và bao hàm trong đó, là thành công của nghệ thuật phân tích tâm lý nhân vật. Ngoài ra, chính lịch sử chính trị - xã hội giai đoạn này đã tạo nên yêu cầu đổi mới nền văn học và góp phần gây nên trào lưu viết tiểu thuyết tâm lý. Sự chuyển hoá từ tiểu thuyết tự truyện sang tiểu thuyết tâm lý là quá trình phức tạp. Văn học Việt Nam lúc này đã chứng kiến sự chuyển hoá như thế khi có nhiều nhà văn theo cả khuynh hướng hiện thực hay lãng mạn đều viết tự truyện, mà những cuốn tự truyện ấy đều hàm chứa bên trong một quá trình vận động sang tiểu thuyết tâm lý. Khó có thể căn cứ vào tiểu thuyết của các nhà văn theo khuynh hướng lãng mạn như Tự lực văn đoàn hay tiểu thuyết của các nhà văn theo khuynh hướng hiện thực như Nguyên Hồng, Tô Hoài, Nam Cao để đưa ra những tiêu chí phân biệt rạch ròi đâu là tự truyện, đâu là tiểu thuyết tâm lý. Nhưng trên cơ sở nghiên cứu quá trình tự chuyển hoá trong quan điểm sáng tác của các nhà văn và quá trình ra đời của các tác phẩm, có thể thấy sự dịch chuyển tự truyện sang tiểu thuyết tâm lý đã diễn ra liên tục trong giai đoạn văn học này. Từ những năm 1940 trở đi, tự truyện xuất hiện nhiều đã đưa tiểu thuyết tâm lý phát triển lên một tầm cao mới về nghệ thuật biểu hiện. Trong đó có, Những ngày thơ ấu (1939) của Nguyên Hồng, Thiếu quê hương (1940) của Nguyễn Tuân, Mực mài nước mắt (1941) của Lan Khai, Cai (1943) của Vũ Bằng, Cỏ dại (1944) của Tô Hoài, Sống mòn (1944) của Nam Cao... [1]. Như vậy, có thể khẳng định sự ra đời gần như cùng lúc của những cuốn tự truyện đã chứng tỏ có sự giao thoa giữa tự truyện và tiểu thuyết tâm lý. Sự giao thoa này không theo hướng tiểu thuyết tâm lý ảnh hưởng đến tự truyện như thế nào mà ngược lại, trên bước đường hiện đại hoá tiểu thuyết, các nhà văn phần nhiều lấy chất liệu xây dựng hình tượng nhân vật từ những trải nghiệm của chính cuộc đời mình. Vì thế, tự truyện trở thành tiểu thuyết. Tự truyện hướng đến quá trình hình thành tiểu thuyết tâm lý bởi ý muốn của nhà văn, bởi ý thức mãnh liệt về thể loại của người sáng tác và hơn thế nữa, bởi thị hiếu của độc giả đương thời. Chính nghệ thuật phân tích tâm lý nhân vật trong tự truyện và trong tiểu thuyết tâm lý giai đoạn này đã chứng minh, có một sự vận động trong quan niệm nghệ thuật của các nhà văn, trong bản thân quá trình hiện đại hoá tiểu thuyết. Sự dịch chuyển từ tự truyện sang tiểu thuyết tâm lý diễn ra trên cả nội dung tư tưởng và nghệ thuật. XU HƯỚNG DỊCH CHUYỂN TỰ TRUYỆN SANG TIỂU THUYẾT TÂM LÝ TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM 140 Cơ sở để chúng tôi khảo sát sự tác động qua lại giữa tự truyện và tiểu thuyết tâm lý từ nghệ thuật tự sự của tác giả ở bài viết này, ngoài căn cứ thời điểm xuất hiện tác phẩm trên văn đàn còn dựa vào sự vận động, phát triển của nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết của cả giai đoạn. Tiểu thuyết tâm lý, từ Tố Tâm (1925) của Hoàng Ngọc Phách đến Bướm trắng (1939) của Nhất Linh, Sống mòn (1944) của Nam Cao là cả một chặng đường rất dài, chặng đường chứng kiến sự phát triển vượt bậc của nghệ thuật tiểu thuyết. Bướm trắng đại diện cho khuynh hướng tiểu thuyết lãng mạn và Sống mòn đại diện cho khuynh hướng tiểu thuyết hiện thực. Ở đó, nhà văn thể hiện tài năng phân tích tâm lý nhân vật đến mức điêu luyện. Xin được nói thêm, Sống mòn xuất hiện vào năm 1944 nhưng đến năm 1956 tác phẩm này mới được xuất bản và phổ biến rộng rãi tới số đông công chúng yêu văn học. Tuy nhiên chính sự ra đời của Sống mòn vào năm 1944 đã góp phần khẳng định, Nam Cao viết tự truyện và tiểu thuyết tâm lý đã đạt tới đỉnh cao nghệ thuật tự sự. Đây là cuốn tiểu thuyết tâm lý thành công, nhưng cũng là cuốn tự truyện ghi lại cuộc đời hoạt động sôi nổi cùng biết bao suy tư, chiêm nghiệm của chính tác giả, nhà văn Nam Cao. Nhiều nhà văn viết tiểu thuyết không phải để xuất bản ngay thành sách mà đăng dưới dạng truyện nhiều kỳ trên báo hoặc tạp chí. Vì thế, tuy chưa có sự ủng hộ nhiệt tình từ đội ngũ các nhà phê bình lúc bấy giờ nhưng khuynh hướng dịch chuyển tiểu thuyết từ tự truyện sang tâm lý là một đã diễn ra và thành công. Theo Từ điển thuật ngữ văn học, tự truyện là “Tác phẩm văn học thuộc loại tự sự, tác giả tự viết về cuộc đời mình” [6; tr.389]. Lại Nguyên Ân trong 150 thuật ngữ văn học quan niệm rằng, tự truyện là “tác phẩm văn học tự sự, thường được viết bằng văn xuôi trong đó tác giả tự kể và miêu tả cuộc đời của bản thân mình” [2; tr.378]. Trong tự truyện, nhân vật tác giả xuất hiện song trùng với con người thật ngoài đời mình; còn trong tiểu thuyết, nhân vật luôn có sự hư cấu, do bàn tay nhào nặn của nhà văn mà thành. Tuy vậy, nhân vật trong tự truyện cũng có sự hư cấu nhất định. Với tự truyện, tác giả “thường tập trung vào quá trình hình thành và lịch sử thế giới nội tâm của mình trong sự tương tác giữa nó với thế giới bên ngoài” [2; tr. 379]. Đặc điểm này xuất hiện nhiều trong tiểu thuyết vào cuối những năm 1930 đến đầu những năm 1940 ở nước ta và khá gần gũi với tính chất nghệ thuật của tiểu thuyết tâm lý. Ở đây, chúng tôi không nhằm tranh luận xem tự truyện hay tiểu thuyết tâm lý nằm ở vị trí nào trong mối quan hệ vô cùng mật thiết, thậm chí khó có thể tách bạch giữa giữa khuynh hướng hiện thực và khuynh hướng lãng mạn, mà nhằm mục đích nhấn mạnh khả năng dịch chuyển từ tự truyện sang tiểu thuyết tâm lý. Tự truyện nở rộ trong văn học Việt Nam từ những năm 1940 trở đi và trên thực tế, nó cũng tồn tại dưới hình thức tiểu thuyết đời tư, phản ánh đời tư của các tác giả; trong đó, đối tượng được hướng đến là các diễn biến tâm lý. Tự truyện góp phần đưa tiểu thuyết tâm lý trở thành một xu hướng phát triển của tiểu thuyết Việt Nam, giúp tiểu thuyết Việt Nam gặt hái nhiều thành tựu. Điểm giao thoa giữa hai loại hình tiểu thuyết này chính là việc xây dựng hình tượng nhân vật chính. Ở đó, nhà văn chọn quá trình diễn biến tâm lý của nhân vật chính làm đối tượng hướng đến của ngòi bút văn chương. Mọi nỗ lực của nhà văn đều nhằm mục TRẦN THANH VIỆT 141 đích phân tích tâm lý của nhân vật. Quá trình diễn biến tâm lý của nhân vật tạo nên sức hấp dẫn của cuốn tiểu thuyết. Nhân vật trong tự truyện dễ dàng giao thoa với nhân vật trong tiểu thuyết tâm lý. Sự giao thoa đó đã diễn ra, cho phép đặt Sống mòn của Nam Cao vào tiểu thuyết tự truyện hay tiểu thuyết tâm lý đều được, mặc dù Thứ là nhân vật chính có tính chất hư cấu. Chỉ có những tâm trạng, suy tư của anh ta mới là những mảnh ghép chân thực về con người và tính cách của Nam Cao. Tương tự, nhân vật Tôi trong Những ngày thơ ấu của Nguyên Hồng là nhà văn nhưng sức hấp dẫn của cuốn tự truyện không chỉ là những biến cố trong cuộc đời nhân vật, mà còn là những xúc cảm, suy tư của đứa trẻ sống trong hoàn cảnh bất hạnh, những suy nghĩ về thân phận, về gia đình và nhất là về người mẹ tội nghiệp giàu tình thương con. Giữa tiểu thuyết Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945 nói chung và tự truyện giai đoạn này nói riêng luôn có điểm gặp gỡ nhau. Đó là, bất kể thuộc khuynh hướng hiện thực hay thuộc khuynh hướng lãng mạn, nhân vật chính trong tiểu thuyết thường ít nhiều mang bóng hình của tác giả. Ở đó, các nhà văn có gửi gắm những trải nghiệm của cuộc đời mình vào nhân vật trong tác phẩm. Một cơ sở nữa chúng tôi muốn nhắc đến là bối cảnh xã hội Việt Nam lúc bấy giờ cũng như nhu cầu tự thân vận động, đổi mới nền văn học đã dẫn đến việc tiểu thuyết có những bước phát triển nhanh chóng. Hầu hết các công trình nghiên cứu tiểu thuyết Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX đều đề cập đến cơ sở này. Trên thực tế, những tác phẩm mà chúng tôi khảo sát đều xuất hiện vào thời điểm tiểu thuyết phát triển mạnh mẽ nhất cả về số lượng và chất lượng, đó là vào cuối những năm 30 sang đầu những năm 40 của thế kỷ XX. Đã có nhiều công trình nghiên cứu những đóng góp của Tự lực văn đoàn với tiến trình văn học dân tộc. Trong giai đoạn này, tiểu thuyết của các nhà văn như Khái Hưng, Nhất Linh, Thạch Lam.., đã thực sự dịch chuyển sang tiểu thuyết tâm lý. Căn cứ vào thực tế sáng tác của các nhà văn, trong phạm vi bài viết này, chúng tôi đề cập đến sự dịch chuyển từ tự truyện sang tiểu thuyết tâm lý qua khảo sát sáng tác của một số nhà văn như Những ngày thơ ấu (1939) của Nguyên Hồng, Thiếu quê hương (1940) của Nguyễn Tuân, Mực mài nước mắt (1941) của Lan Khai, Cai (1943) của Vũ Bằng, Cỏ dại (1944) của Tô Hoài, Sống mòn (1944) của Nam Cao. 2. Xu hướng dịch chuyển nhân vật chính mang bóng hình tác giả sang nhân vật chính hoàn toàn hư cấu Nhân vật chính trong những cuốn tự truyện trên con đường vận động chuyển sang tiểu thuyết tâm lý bao giờ cũng gần gũi thậm chí song trùng với hình bóng của chính tác giả. Nguyên Hồng, Nguyễn Tuân, Lan Khai, Vũ Bằng, Tô Hoài, Nam Cao.., viết tiểu thuyết đều nhằm sáng tạo nên hình tượng nhân vật để khám phá những diễn biến tâm lý còn ẩn sâu trong tâm hồn con người. Đó cũng là nguyên nhân giải thích vì sao phần nhiều các tự truyện trong quá trình dịch chuyển sang tiểu thuyết tâm lý đã thúc đẩy sự phát triển tiểu thuyết theo khuynh hướng lãng mạn. Điều đó thể hiện khá rõ trong tác phẩm của các nhà văn như Nguyễn Tuân, Lưu Trọng Lư, Lan Khai... Với những sáng tác theo khuynh hướng văn học hiện thực cũng thế, tác phẩm luôn chất chứa nỗi niềm tâm sự, u uẩn, dằn vặt khôn nguôi của tác giả. Cái thống khổ của cuộc đời, sự chèn ép của xã hội nửa thực dân, nửa phong kiến đương thời, cái lầm XU HƯỚNG DỊCH CHUYỂN TỰ TRUYỆN SANG TIỂU THUYẾT TÂM LÝ TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM 142 lạc mà đời một văn nghệ sĩ vướng vào, có khi chỉ là cái cớ để người viết bày tỏ suy tư, chiêm nghiệm của chính mình. Đó là những tác phẩm của Nguyên Hồng, Vũ Bằng, Tô Hoài, Nam Cao... Ở đây nhân vật trong tiểu thuyết có quan hệ song trùng với hình tượng tác giả người đang kể lại câu chuyện về cuộc đời mình bằng giọng trực tiếp hoặc bán trực tiếp. Thật không khó nhận ra trong tiểu thuyết Mực mài nước mắt, hình tượng nhân vật Khải lại chính là bóng hình của nhà văn Lan Khai. Nỗi khốn khó của lớp văn sĩ tiền chiến được Lan Khai giãi bày cả trong tác phẩm, từ cái tên văn sĩ Khải – Lan Khai cho đến người vợ hiền thảo, những đứa con thơ, ông cụ thân sinh là một nhà Nho làm nghề bốc thuốc mấy đời ở tỉnh Tuyên Quang cho đến chuyến xe chuyển nhà về quê đón Tết, ở lại vùng quê xa xôi ấy và tạm chôn đi giấc mộng văn chương. Lan Khai đã rút ruột mình để đưa vào Mực mài nước mắt những lời khắc khoải đắng cay: “Chỉ còn độc một kế là viết cho xong quyển tiểu thuyết này. Khải cầm lấy bút. Trời, suốt đời chàng, Khải có lẽ không mong gì còn có lúc thoát ly được cái khổ đánh đĩ ngòi bút chăng? Nếu vậy thì đổi quách nghề như Kim đã nói” [9; tr.265]. Lúc nào Khải cũng sống trong hoảng hốt, lo sợ, phải gồng mình lên để tránh nợ, để tự hỏi làm cách nào để kiếm ra tiền. Nhưng chưa lúc nào chàng có thể trả lời câu hỏi ấy một cách thoả đáng. Cho đến tận ngày chàng phải thu xếp cùng vợ con về quê, bỏ lại Hà thành, bỏ lại giấc mộng văn chương, chàng vẫn không thôi trăn trở, khổ đau về việc này. Trong Thiếu quê hương, người đọc có thể nhận ra nhân vật Bạch khá gần gũi với lối sống và thú “xê dịch” của nhà văn Nguyễn Tuân. Cuộc đời Bạch gắn với những chuyến đi. Chiếc va li bằng da thuộc có dán nhãn của đủ mọi khách sạn, những nơi mà Bạch đã đi qua được chàng vô cùng nâng niu, quý trọng. Thiếu quê hương lôi cuốn người đọc bởi những trang phân tích tâm lý mà cảnh vật được miêu tả có khi chỉ là cái cớ để nhân vật bộc lộ tâm sự. Khi biết Dung, người vợ mới cưới đã đem kỳ cọ sạch những nhãn dán trên chiếc va li, “Bạch đứng trước cái va li buồn thiu có hàng nửa giờ đồng hồ, mồ hôi toát ra đầm đìa, dáng điệu bơ phờ thương xót như một người quyến luyến với một cố nhân già đang thở hắt mãi ra để mà về trời, mỗi phút qua là làm giá lạnh một đoạn mình mảy tái xám thêm lại. Bạch cứ thế mà điếng cả người cho đến suốt ngày hôm sau, không ăn được, không ngủ được” [10; tr.917]. Ở một tiểu thuyết khác, Nam Cao đã đưa người đọc đến với cuộc đời của một anh giáo khổ trường tư luôn phải dằn vặt, sám hối để cố gắng sống tốt hơn giữa cuộc đời toàn những toan tính, lọc lừa, vô cảm vùi mãi con người ta xuống vũng bùn. Chính Thứ từng thừa nhận: “Đáng ghét, đáng nguyền rủa ấy là cái sống lầm than nó đã bắt buộc người ích kỷ, nó đã tạo ra những con người tàn nhẫn và tham tham” [5; tr.62]. Thứ đến “một cái nhân loại rất mênh mông, rất bao la rộng rãi, cái nhân loại hỗn độn đang bị khổ cực, đau đớn, điên cuồng vì những lỗi lầm của mọi người” và “Y náo nức muốn dự một phần nào vào việc xây dựng lại cái nhân loại ấy” [5; tr.63]. Nhưng rồi, Thứ đã quên rất nhanh những điều mộng tưởng rất đỗi xa xôi ấy: “Nhưng chẳng bao lâu, y lại phải trở về thực tế, với cuộc đời chật hẹp của y. Sau buổi học chiều, y lại phải gặp Oanh” [5; tr.64]. Anh giáo khổ trường tư đã có lúc dằn vặt: “Y có rất nhiều gánh nặng. Càng nhìn xa, y càng thấy đời y cứ càng ngày TRẦN THANH VIỆT 143 càng thắt chặt vào, càng chật chội thêm. Y có thể khổ hơn lên, không thể sướng ra” [5; tr.74-75]. Những gánh nặng như thế bủa vây khiến cho nhân vật Thứ không có lối thoát. Sự căng thẳng tinh thần thường xuyên ở Thứ chính là sự giằng co giữa hai mặt cao thượng và thấp hèn trong cùng một nhân vật. Nhà văn Vũ Bằng trong Cười Đông, cười Tây, cười kim, cười cổ [4; tr.128] kể rằng trong truyện ngắn Cười với trăng đăng trên Tiểu thuyết thứ Bảy, nhân vật chính đúng là Nam Cao. Trong Những ngày thơ ấu, Nguyên Hồng bộc bạch: “Biết bao nhiêu cảm giác, bao nhiêu ý tưởng, đằm thắm và say sưa đã rung động và mơn man cõi lòng tôi. Tâm tư tôi không còn lởn vởn những sự phẫn uất ghen hờn nên những cái gì là tốt đẹp của một trẻ nhỏ đều được hoàn toàn nảy nở trong những giấc mơ tươi sáng và quen quen ấy” [8; tr.290]. Đằng sau những xúc cảm, những dòng nước mắt là sự thương yêu của người mẹ đối với đứa con thơ. Không chỉ trong tiểu thuyết tự truyện này mà trong nhiều truyện ngắn khác, Nguyên Hồng luôn hồi tưởng lại quá khứ. Quá khứ ấy để lại trong lòng đứa trẻ vết sẹo không dễ liền lại theo thời gian. Đó cũng là sức hấp dẫn của tự truyện. Sau này Nguyễn Đăng Mạnh có kể lại rằng, Nguyên Hồng là người dễ xúc động và rất dễ khóc. Đấy là cá tính mà cũng là phong cách của ông, nó ảnh hưởng ngay trong văn chương. Tô Hoài viết Cỏ dại hồi tưởng lại quãng thời thơ ấu của chính mình. Bằng giọng văn hóm hỉnh, dí dỏm, Tô Hoài đưa người đọc trở ngược lại quá khứ về với tuổi thơ ông, với cái tôi nội cảm đầy tâm trạng của chú bé Bưởi, tên nhân vật chính trong truyện: “Tôi gọi Nhâm vu vơ dưới ngòi bút, trong ánh đèn dầu đêm mùa xuân này. Có khi nào những dòng ký ức của anh mà em đọc đến, hẳn em không giấu được mỉm cười ngạc nhiên rằng sao anh khéo nhớ ma mãnh thế. Nhâm đã quên và chắc là bây giờ chẳng còn những ngày rầu rĩ như thế. Tôi thì tôi nhớ dai, nhớ lắm em ạ” [7; tr.83]. Có thể thấy, sự ra đời của nhiều tự truyện trong những năm 40 của thế kỷ XX, cũng đánh dấu mốc thời gian tự truyện dịch chuyển sang tiểu thuyết tâm lý. Ta bắt gặp điều đó trong Những ngày thơ ấu (1939) của Nguyên Hồng, Thiếu quê hương (1940) của Nguyễn Tuân, Mực mài nước mắt (1941) của Lan Khai, Cỏ dại (1941) của Tô Hoài, Cai (1943) của Vũ Bằng và Sống mòn (1944) của Nam Cao. Trong hầu hết những cuốn tự truyện có hướng chuyển sang tiểu thuyết tâm lý, nhân vật chính của tiểu thuyết đúng là những mảnh ghép từ cuộc đời của chính tác giả, thông qua những dòng hồi tưởng chứa chan kỷ niệm về quá khứ đã trôi qua không trở lại. Khi người đọc được đắm chìm trong quá khứ cùng nhân vật chính, tiểu thuyết gần với tự truyện; khi người đọc cùng nhân vật chính quay lại thực tại (thời gian trong tác phẩm), tiểu thuyết là cuốn tiểu thuyết tâm lý. 3. Xu hướng dịch chuyển chi tiết, sự kiện xác thực sang chi tiết, sự kiện hoàn toàn hư cấu Một đặc điểm nổi bật của một số tiểu thuyết có khuynh hướng tự truyện trong thời gian này là, tác phẩm chứa đựng nhiều chi tiết có thể có thật vì nhân vật chính chính là tác giả (Những ngày thơ ấu, Cai, Cỏ dại). Song ngay cả những chi tiết hiện lên qua dòng hồi tưởng đầy chủ quan của tác giả cũng chưa chắc có thật, thậm chí có tác phẩm, tác giả chỉ vận dụng cuộc đời mình như chất liệu xây dựng nhân vật, cho nên trong tác phẩm đan xen cả chi tiết có thật và chi tiết hư cấu. Trí tưởng tượng của XU HƯỚNG DỊCH CHUYỂN TỰ TRUYỆN SANG TIỂU THUYẾT TÂM LÝ TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM 144 nhà văn buộc phải vận dụng mọi tri thức tích luỹ, mọi vốn sống để thực hiện điều này. Đây là chỗ tạo nên sức hấp dẫn của tự truyện đồng thời đây cũng là điểm tạo nên sự mới lạ, gây sự tò mò của độc giả khi tiếp nhận tiểu thuyết tâm lý (Thiếu quê hương, Mực mài nước mắt, Sống mòn). Đây là điểm hấp dẫn của tự truyện trong giai đoạn này. Tự truyện của nhiều nhà văn như Vũ Bằng, Nguyên Hồng, Tô Hoài khá gần gũi với tiểu thuyết tâm lý. Việc những tác phẩm như Những ngày thơ ấu, Cai, Cỏ dại chứa đựng nhiều chi tiết khó có thể kiểm chứng đã nói lên điều đó. Sự mập mờ giữa thực và ảo trong việc chọn chi tiết, tổ chức “lắp ráp” nên hình tượng nhân vật, từ đó bộc bạch những tâm sự sâu kín của nhân vật mà cũng là tác giả, khiến cho việc đánh giá quá trình dịch chuyển từ tự truyện sang tiểu thuyết tâm lý trở nên phức tạp. Nhưng cũng vì thế, tác phẩm còn giữ mãi sự cuốn hút người đọc về mặt thể loại, ngay cả khi tác phẩm được nhà văn ý thức thể loại rất rõ ràng (trường hợp Cai, Vũ Bằng đặt tên là hồi ký) thì sự tiếp nhận của người đọc vẫn nghiêng về việc xem tác phẩm này là một tiểu thuyết. Mà một cuốn tiểu thuyết dứt khoát có sự hư cấu, nhiều chi tiết ảo chứ không thật, nên có những khi nhân vật chính trong tiểu thuyết Cai đã không chỉ còn là hình bóng của chính nhà văn nữa. Trong tiểu thuyết Cai, Vũ Bằng hồi tưởng lại những ngày tháng vật vã cắt cơn nghiện thuốc phiện của chính mình, còn độc giả khi đọc lại chứng kiến sự biến chuyển trong tâm trạng một nhân vật từng nghiện thuốc phiện với bao cảm giác đáng sợ: “Tự trong thẳm cùng của lòng tôi, nở lên một cái ý tưởng rất não nùng là mong được chết đơn độc ở một cái xó xỉnh nào, không có một con mắt quen thuộc nào trông thấy” [3; tr. 144]. Rồi người đọc xúc động với tâm tình của Vũ Bằng khi gặp lại Liên Hường, bạn tình và cũng là bạn nghiện năm xưa: “Đến một ngã ba, chúng tôi từ giã nhau như hai người bạn không may trên đường đời. Nàng đi về với thuốc phiện. Còn tôi, tôi đi về... nhà” [3, tr. 208]. Có thể thấy, trong tự truyện ở giai đoạn này, cốt truyện không bao gồm nhiều sự kiện, tình tiết éo le. Những biến cố trong cuộc đời của tác giả không được miêu tả tỉ mỉ với nhiều tình tiết gay cấn. Đổi lại nhà văn thoải mái tận dụng những chi tiết, những biến cố từng xảy ra với mình để bày tỏ tâm trạng, chiêm nghiệm, suy tư. Từ Những ngày thơ ấu (1939) của Nguyên Hồng trở đi, đặc điểm nghệ thuật của tự truyện đã tiệm cận đặc điểm nghệ thuật của tiểu thuyết tâm lý, đó là lấy biểu hiện tâm lý, lấy quá trình phân tích tâm lý làm đối tượng phản ánh của tiểu thuyết. Chính nhà văn Vũ Bằng, trong Khảo về tiểu thuyết, [4; tr.56] lưu ý bạn đọc: “Một nhân vật sống không cứ phải nói nhiều, hò hét nhiều, hành động nhiều nhưng tự gây ra sự tình, biến cố, chỉ định lấy những cảnh ngộ, và cảm nghĩ rất phiền phức. Sống đây là sống tất cả vật chất và tinh thần, sống cái đời sống bên ngoài và sống cả cái đời sống bên trong nữa – mà có khi lại sống cái đời sống bên trong nhiều hơn đời sống bên ngoài” [4; tr. 56]. Ý kiến của Vũ Bằng đã chứng minh cho quan điểm sáng tác của nhiều nhà văn lúc bấy giờ, rằng viết tự truyện hay tiểu thuyết tâm lý, việc chú ý gây dựng cho nhân vật cái đời sống bên trong là quan trọng. Chính đời sống bên trong của nhân vật mới đủ tạo nên sức hấp dẫn của tác phẩm đối với bạn đọc lúc bấy giờ cũng như sau này. Nhân vật có đời sống bên trong là “nhân vật sống” theo cách gọi của Vũ Bằng. TRẦN THANH VIỆT 145 Rõ ràng là trong tự truyện, những chi tiết, sự kiện thuộc về đời tư của nhà văn trên thực tế chỉ còn là chất liệu, phương tiện để nhà văn truyền tải những diễn biến tâm lý vô cùng tinh vi, phức tạp trong tâm hồn nhân vật chính, tức hình bóng của chính mình, suy nghĩ của chính mình phản chiếu lại trong cuốn tiểu thuyết. Những giãi bày, tâm sự, những dằn vặt, đớn đau khi hồi tưởng quãng đời đã trải qua lại trở thành đối tượng chính của cuốn sách. Trong khi đó, ở tiểu thuyết tâm lý, chính quá trình biến chuyển tâm lý của nhân vật lại là mục đích mà nhà văn hướng tới. Chính những suy tư, trải nghiệm của nhân vật chính trở thành mục đích của văn chương. Những chuyện trong hiện tại chỉ là cái cớ khơi gợi cho nhân vật chính hồi tưởng câu chuyện đã xảy ra trong quá khứ để nghĩ suy, để độc thoại nội tâm, để lý giải những gì xảy ra trong hiện tại. Ngay cả khi đó, những gì xảy ra trong quá khứ cũng có thể chỉ còn là cái cớ để nhân vật tỏ bày tâm sự mà thôi. Trong tự truyện của Nguyên Hồng, Tô Hoài, Vũ Bằng.., từ việc sắp đặt các chi tiết, sự kiện ít mang tính xác thực đến việc tăng cường các tình huống tâm lý để lôi cuốn người đọc dõi theo những diễn biến tâm lý phức tạp của nhân vật, đã chứng tỏ quá trình dịch chuyển từ tự truyện sang tiểu thuyết tâm lý diễn ra một cách liên tục. Quá trình này được đánh dấu bởi hàng loạt những tác phẩm như Những ngày thơ ấu (1939) của Nguyên Hồng, Mực mài nước mắt (1941) của Lan Khai, Cai (1943) của Vũ Bằng, Cỏ dại (1944) của Tô Hoài, Sống mòn (1944) của Nam Cao... Việc tăng cường tình huống tâm lý, tăng cường ngôn từ miêu tả cảm xúc để xây dựng nhân vật trong tự truyện đã góp phần tạo nên quá trình dịch chuyển nói trên. Ngoài ra, từ nhân vật Tôi trong Những ngày thơ ấu của Nguyên Hồng, nhân vật Khải trong Mực mài nước mắt của Lan Khai, nhân vật Tôi trong Cai của Vũ Bằng đến nhân vật Thứ trong Sống mòn của Nam Cao, tiểu thuyết giai đoạn này đã chứng kiến một quá trình vận động và phát triển: dịch chuyển từ việc tập trung miêu tả hành động của nhân vật sang tập trung miêu tả tâm lý nhân vật, dịch chuyển từ việc xây dựng nhân vật có nhiều yếu tố xác thực trong tự truyện sang xây dựng nhân vật mang nhiều yếu tố hư cấu trong tiểu thuyết tâm lý. Kết luận Như vậy, văn học Việt nam giai đoạn 1930 – 1945 đã chứng kiến sự giao thoa nghệ thuật giữa tự truyện với tiểu thuyết tâm lý. Nhưng hơn hết, cùng với quá trình dịch chuyển tiểu thuyết luận đề sang tiểu thuyết tâm lý của các nhà văn trong nhóm Tự lực văn đoàn, sự giao thoa này khẳng định xu hướng dịch chuyển từ tự truyện sang tiểu thuyết tâm lý với những dấu hiệu nổi bật như những mảnh ghép số phận của nhân vật trong tiểu thuyết tâm lý song trùng với những mảnh ghép cuộc đời của chính tác giả và những chi tiết, sự kiện trong tự truyện lung linh giữa hai bờ thực và ảo, khó kiểm chứng khiến cho tự truyện gần gũi với tiểu thuyết. Sức hấp dẫn của tự truyện với tiểu thuyết tâm lý là ở chỗ đó. Đích đi đến của nhà văn viết tự truyện là phân tích tâm lý. Đích đi đến của nhà viết tiểu thuyết cũng chính là quá trình phân tích tâm lý. Từ cơ sở trên, chúng tôi đi đến nhận định: tiểu thuyết Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945 có sự dịch chuyển mạnh mẽ từ tự truyện sang tiểu thuyết tâm lý. Điều đó chứng tỏ tiểu thuyết hiện đại nước nhà đã đạt được thành tựu rất lớn góp phần hoàn tất quá trình hiện đại hoá nền văn học XU HƯỚNG DỊCH CHUYỂN TỰ TRUYỆN SANG TIỂU THUYẾT TÂM LÝ TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM 146 Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Vũ Tuấn Anh, Bích Thu (2006), Từ điển tác phẩm văn xuôi Việt Nam tập 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 2. Lại Nguyên Ân (2003), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội. 3. Vũ Bằng (2006), Vũ Bằng toàn tập tập 1, Nxb Văn học, Hà Nội. 4. Vũ Bằng (2006), Vũ Bằng toàn tập tập 4, Nxb Văn học, Hà Nội. 5. Nam Cao (2002), Nam Cao toàn tập tập 2, Nxb Văn học, Hà Nội. 6. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2006), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 7. Tô Hoài (1995), Tự truyện, Nxb Văn học, Hà Nội. 8. Nguyên Hồng (2004), Bỉ vỏ, Những ngày thơ ấu, Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội. 9. Lan Khai (1999), Mực mài nước mắt, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội. 10. Nguyễn Tuân (2000), Nguyễn Tuân toàn tập tập 1, Nxb Văn học, Hà Nội. Ngày nhận bài: 28/10/2017 Biên tập xong: 15/7/2018 Duyệt đăng: 20/7/2018

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf99_1683_2215004.pdf
Tài liệu liên quan