Vài nét về các phương thức thể hiện tình vợ chồng trong văn học trung đại Việt Nam - Ngô Thị Thanh Nga

Tài liệu Vài nét về các phương thức thể hiện tình vợ chồng trong văn học trung đại Việt Nam - Ngô Thị Thanh Nga: Tập 183, số 07, 2018 Tập 183, Số 07, 2018 Tạp chí Khoa học và Công nghệ CHUYấN SAN KHOA HỌC XÃ HỘI – NHÂN VĂN – KINH TẾ Mục lục Trang Hoàng Thị Phương Nga - Mụ hỡnh du lịch văn học “Làng Vũ Đại ngày ấy” 3 Phạm Thị Thu Hoài, Trần Thị Thanh - Tiếng lúng trong truyện về đề tài giỏo dục của Văn Thành Lờ 9 Ngụ Thị Thanh Nga, Phạm Thị Hồng Võn - Vài nột về cỏc phương thức thể hiện tỡnh vợ chồng trong văn học trung đại Việt Nam 15 Nguyễn Thị Thắm, Nguyễn Minh Sơn - í thức đối thoại của Nguyễn Ngọc Tư với văn học truyền thống thụng qua những nhõn vật nữ trong tập truyện Khụng ai qua sụng 21 Đặng Thị Thựy, Nguyễn Diệu Thương - Lụ gớch của cỏc hiện tượng “phi lụ gớch” trong ca dao, tục ngữ người Việt 27 Đinh Thị Giang - Những nhõn tố ảnh hưởng đến lối sống của người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ hiện nay 33 Nguyễn Diệu Thương, Nguyễn Thị Lan Hương - Phương thức tạo hàm ý trong tiểu phẩm trào phỳng 39 Nguyễn Thu Quỳnh, Vỡ Thị Hiền - Từ ngữ chỉ đồ gia dụng trong tiếng Thỏi ở ...

pdf11 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 503 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vài nét về các phương thức thể hiện tình vợ chồng trong văn học trung đại Việt Nam - Ngô Thị Thanh Nga, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tập 183, số 07, 2018 Tập 183, Số 07, 2018 T¹p chÝ Khoa häc vµ C«ng nghÖ CHUYÊN SAN KHOA HỌC XÃ HỘI – NHÂN VĂN – KINH TẾ Môc lôc Trang Hoàng Thị Phương Nga - Mô hình du lịch văn học “Làng Vũ Đại ngày ấy” 3 Phạm Thị Thu Hoài, Trần Thị Thanh - Tiếng lóng trong truyện về đề tài giáo dục của Văn Thành Lê 9 Ngô Thị Thanh Nga, Phạm Thị Hồng Vân - Vài nét về các phương thức thể hiện tình vợ chồng trong văn học trung đại Việt Nam 15 Nguyễn Thị Thắm, Nguyễn Minh Sơn - Ý thức đối thoại của Nguyễn Ngọc Tư với văn học truyền thống thông qua những nhân vật nữ trong tập truyện Không ai qua sông 21 Đặng Thị Thùy, Nguyễn Diệu Thương - Lô gích của các hiện tượng “phi lô gích” trong ca dao, tục ngữ người Việt 27 Đinh Thị Giang - Những nhân tố ảnh hưởng đến lối sống của người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ hiện nay 33 Nguyễn Diệu Thương, Nguyễn Thị Lan Hương - Phương thức tạo hàm ý trong tiểu phẩm trào phúng 39 Nguyễn Thu Quỳnh, Vì Thị Hiền - Từ ngữ chỉ đồ gia dụng trong tiếng Thái ở tỉnh Điện Biên 45 Nguyễn Thị Thu Oanh, Hoàng Thị Mỹ Hạnh - Vị thế, vai trò cầm quyền của Đảng Cộng Sản Việt Nam giai đoạn 1945 - 1975 và một số bài học kinh nghiệm 51 Đỗ Hằng Nga, Phạm Quốc Tuấn - Việc thu thuế trong làng xã qua tư liệu hương ước cải lương tỉnh Thái Nguyên 57 Lê Văn Hiếu - Hiệu quả hoạt động của mô hình “ban tuyên vận” xã, phường, thị trấn và “tổ tuyên vận” thôn, bản, tổ dân phố ở tỉnh Lào Cai trong giai đoạn hiện nay 63 Thái Hữu Linh, Nguyễn Thị Thu Hiền, Nguyễn Thị Thanh Hà - Vai trò của hậu phương Bắc Thái trong cuộc tổng tiến công Mậu Thân năm 1968 69 Phạm Anh Nguyên - Sức hấp dẫn trong Hài đàm của Phan Khôi 73 Nguyễn Thị Hường, Nguyễn Thị Mão, Nguyễn Tuấn Anh - Nâng cao hiệu quả tổ chức các hoạt động ngoại khoá trong dạy học môn giáo dục công dân ở các trường trung học phổ thông trên địa bàn thành phố Thái Nguyên hiện nay 79 Nguyễn Văn Dũng, Đào Ngọc Anh - Thực trạng thể chất của sinh viên không chuyên thể dục thể thao Trường Đại hoc Sư phạm – Đại học Thái Nguyên 85 Trần Bảo Ngọc, Lê Ngọc Uyển, Bùi Thanh Thủy và cs - Thực trạng xếp loại tốt nghiệp sinh viên diện cử tuyển ở trường Đại học Y Dược – Đại học Thái Nguyên giai đoạn 2013-2017 91 Nguyễn Thúc Cảnh - Nghiên cứu xây dựng hệ thống bài tập có nội dung thực tế trong giảng dạy cơ học cho học sinh trung học phổ thông 97 Hà Thị Kim Linh, Chu Thị Bích Huệ - Giáo dục kiến thức pháp luật cho phụ nữ vùng dân tộc thiểu số ở huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên 105 Nguyễn Thị Thanh Hồng, Nguyễn Thị Khánh Ly, Vũ Kiều Hạnh - Tăng cường sự tham gia của sinh viên vào các hoạt động học tiếng Anh trong lớp học đông nhiều trình độ của sinh viên năm thứ nhất trường Đại học Y Dược – Đại học Thái Nguyên 111 Phạm Thị Huyền, Vũ Thị Thủy - Vận dụng phong cách nêu gương theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng phong cách làm việc đối với cán bộ chủ chốt ở nước ta hiện nay 117 Đàm Quang Hưng - Thiết kế bài học khoa học lớp 4, lớp 5 theo hướng tìm tòi thực nghiệm 123 Hoàng Thị Thu Hoài - Những khó khăn trong việc dạy và học từ vựng tiếng Anh chuyên cho sinh viên chuyên ngành điều dưỡng, trường Cao đẳng Y tế Thái Nguyên và một số giải pháp đề xuất 129 Journal of Science and Technology 183(07) N¨m 2018 Nguyễn Lan Hương, Văn Thị Quỳnh Hoa - Những nhân tố ảnh hưởng đến khả năng nói tiếng Anh của sinh viên năm thứ nhất trường Đại học Nông Lâm – Đại học Thái Nguyên 135 Vũ Kiều Hạnh - Những yếu tố quyết định đến mức độ đọc hiểu của sinh viên năm thứ hai tại trường Đại học Nông Lâm – Đại học Thái Nguyên 141 Nguyễn Thị Quế, Hoàng Thị Nhung - Hỏi đúng để tự học và học tập cộng tác thành công – hướng tới xây dựng người học ngoại ngữ độc lập trong bối cảnh hội nhập khu vực và quốc tế 147 Ngô Thị Thu Hà, Nguyễn Thị Hoài Thu - Ứng dụng các phương pháp giảng dạy tích cực nhằm nâng cao chất lượng dạy – học tiếng Việt cho học viên quốc tế tại Học viện Kỹ thuật Quân sự 153 Dương Văn Tân - Đánh giá hiệu quả áp dụng trò chơi vận động trong phát triển thể lực chung cho sinh viên trường Đại học Kỹ thuật Công nghiệp – Đại học Thái Nguyên 159 Bùi Thị Hương Giang - Nâng cao năng lực giao tiếp giao văn hóa trong dạy và học ngoại ngữ 165 Trần Hoàng Tinh, Nông La Duy, Phạm Văn Tuân - Xây dựng trung đội tự quản trong quản lý giáo dục tính kỷ luật cho sinh viên tại trung tâm giáo dục quốc phòng và an ninh trong giai đoạn hiện nay 171 Trần Thị Yến, Khổng Thị Thanh Huyền - Sử dụng hình thức đọc chuyên sâu để nâng cao khả năng viết học thuật cho sinh viên chuyên ngành tiếng Anh 177 Đỗ Thị Hồng Hạnh, Hoàng Mai Phương - Đào tạo nghề cho lao động nông thôn trên địa bàn huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn 183 Trần Thùy Linh, Trần Lương Đức, Nguyễn Thị Thùy Trang - Cách tiếp cận của pháp luật cạnh tranh liên minh châu Âu về hành vi lạm dụng mang tính trục lợi 189 Nguyễn Thị Thanh Hà, Phạm Việt Hương - Xây dựng bộ tiêu chí và chỉ số kinh tế phù hợp để đánh giá quản lý rừng bền vững ở huyện Định Hóa 195 Đinh Thị Hoài - Truyền thông marketing sản phẩm và dịch vụ thông tin - thư viện tại Trung tâm Học liệu Đại học Thái Nguyên 201 Nguyễn Thị Thanh Xuân - Nghiên cứu nhân tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của khách hàng sử dụng dịch vụ khách sạn tại Thanh Hóa, Việt Nam 207 Dương Thị Tình - Đóng góp của xuất khẩu hàng hóa tới tăng trưởng kinh tế của tỉnh Yên Bái 213 Lê Minh Hải, Trần Viết Khanh - Phân tích tổ chức không gian lãnh thổ du lịch tỉnh Thái Nguyên 219 Hà Văn Vương - Vận dụng lý thuyết Ecgônômi trong tổ chức môi trường làm việc tại văn phòng chi nhánh may Sông Công II - Công ty Cổ phần Đầu tư và Thương mại TNG 227 Mai Anh Linh, Nguyễn Thị Minh Anh - Đánh giá chất lượng dịch vụ và sự hài lòng của khách hàng: nghiên cứu thực nghiệm tại siêu thị Lan Chi, Thái Nguyên 233 Đinh Hồng Linh, Nguyễn Thu Nga, Nguyễn Thu Hằng - Sử dụng hàm Loga siêu việt để đánh giá hiệu quả kinh doanh của các ngân hàng Việt Nam 239 Ngô Thị Thanh Nga và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 183(07): 15 - 20 15 VÀI NÉT VỀ CÁC PHƯƠNG THỨC THỂ HIỆN TÌNH VỢ CHỒNG TRONG VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VIỆT NAM Ngô Thị Thanh Nga*, Phạm Thị Hồng Vân Trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên TÓM TẮT Tình yêu nói chung, tình vợ chồng nói riêng là tình cảm thiêng liêng cao quý của con người. Chính vì thế mà những ngáng trở của giáo lý phong kiến khắc nghiệt cũng không thể khuất lấp được tình cảm cao đẹp đó. Trong bài viết này, chúng tôi đề cập đến một số phương thức thể hiện tình cảm vợ chồng trong văn học trung đại Việt Nam cụ thể là hai phương thức cơ bản: tự bạch (các tác giả tự giãi bày câu chuyện tình vợ chồng của chính mình) và nhập vai (mượn câu chuyện của người khác để thể hiện tình cảm vợ chồng). Qua hai phương thức phản ánh này, người đọc phần nào thấy được những tình cảm trân quý thiết tha sâu nặng trong tình vợ chồng đồng thời cũng thấy được sự phong phú của tâm hồn con người Việt Nam dù ở bất kỳ hoàn cảnh sống nào. Từ khóa: Tình vợ chồng, văn học, Việt Nam trung đại, phương thức, tự bạch. ĐẶT VẤN ĐỀ * Văn học viết Việt Nam từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XIX là nền văn học tồn tại và phát triển trong xã hội phong kiến. Mười thế kỷ văn học này còn được gọi là văn học trung đại (hay văn học cổ). Lực lượng sáng tác chủ yếu là tầng lớp trí thức chịu ảnh hưởng sâu sắc của Hán học. Quan niệm về văn học của họ là coi trọng mục đích giáo huấn “thi dĩ ngôn chí”, “văn dĩ tải đạo”. Đạo đức Nho gia khuôn nén con người mà chủ yếu là tầng lớp Nho sĩ. Họ phải “khắc kỷ phục lễ”, phải “tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”, hay “an bần lạc đạo”... Để chứng tỏ quyền lực tối cao và phục vụ cho lợi ích của mình, giai cấp phong kiến thống trị áp đặt con người cả thể xác và tâm hồn. Con người bị trói buộc bởi các mối quan hệ, đặc biệt là mối quan hệ nam nữ, quan hệ yêu đương. Việc kết hôn phải do cha mẹ sắp đặt, phải được xã hội thừa nhận. Có thể nói, lễ giáo phong kiến đã kiềm tỏa tình cảm của con người, không để cho tình cảm riêng tư xuất hiện, đặc biệt là tình yêu đôi lứa. Nhưng lịch sử loài người luôn vận động phát triển. Cùng với quá trình thức tỉnh, trỗi dậy lớn mạnh của con người cá nhân, thì * Tel: 0982548560; Email: thanngamy@yahoo.com.vn cái “tôi” trong văn học được biểu hiện rõ hơn, tình cảm cá nhân, tình yêu (vốn có nguồn gốc sâu xa từ văn học dân gian) dần đậm nét và định hình trong văn học trung đại. Các nhà nho đã dành những trang thơ văn viết về đời sống riêng tư, về tình cảm vợ chồng thiết tha và cảm động. NHỮNG PHƯƠNG THỨC THỂ HIỆN CỤ THỂ Các tác giả tự giãi bày câu chuyện của chính mình Tình yêu nói chung, tình vợ chồng nói riêng là tình cảm thiêng liêng cao đẹp, chính vì vậy dù có bị ngáng trở và kìm nén bởi lễ giáo thì tình cảm ấy vẫn luôn bền bỉ sống. Lần đầu tiên trong lịch sử văn học nước nhà, có một bậc đại Nho dám nói lên tình yêu của mình đối với vợ mà không phải mượn câu chuyện tình của người khác. Đó chính là Nguyễn Trãi - một nhân vật lớn ở thế kỷ XV, một nhà chính trị quân sự lỗi lạc, một danh nhân văn hóa thế giới. Qua bài thơ Tiếc cảnh số 10, ông đã gửi nỗi nhớ nhung xen lẫn giận hờn tới người thiếp yêu của mình: Loàn đan ướm hỏi khách lầu hồng, Đầm ấm thì thương kẻ lạnh lùng. Ngoài ấy dầu còn áo lẻ, Cả lòng mượn đắp lấy hơi cùng. (Quốc âm thi tập, Tiếc cảnh số 10) [1, tr. 457] Ngô Thị Thanh Nga và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 183(07): 15 - 20 16 Nguyễn Thị Lộ là người thiếp yêu mà Nguyễn Trãi dành tình cảm sâu sắc nhất bởi bà không phải là một phụ nữ tầm thường. Nguyễn Thị Lộ là một cô gái quê sắc nước hương trời của làng Hải Triều (Thái Bình). Ở bà hội đủ những phẩm chất tuyệt vời như: vẻ đẹp nghiêng nước nghiêng thành, sự duyên dáng, thông minh, có học vấn, tài đối đáp sắc sảo, đức hạnh, tính năng động trong mọi công việc... Bà được vua Lê Thái Tông cho vời vào cung, phong chức Lễ nghi học sĩ (dạy lễ nghi cho các cung phi và công chúa). Kể từ đó, Nguyễn Trãi đành phải xa người vợ yêu của mình. Qua bài Tiếc cảnh số 10, ông muốn gửi nỗi nhớ thương cùng với chút hờn ghen trách móc nhẹ nhàng tới người vợ yêu của mình. Trước người vợ tài sắc, Nguyễn Trãi đã bộc bạch lòng mình một cách chân tình. Ở đây, người đọc không thấy dấu vết gì của một vĩ nhân mà chỉ thấy tình vợ chồng đích thực, trọn vẹn. Từ thế kỷ XVIII trở đi, những chuyển biến mạnh mẽ của lịch sử, xã hội đã tác động sâu sắc đến đời sống văn học. Tư tưởng dân chủ phát triển tạo điều kiện cho con người cá nhân xuất hiện, nhu cầu giải phóng tình cảm đã trở nên cấp thiết, một trong những tình cảm cần được giải phóng là tình vợ chồng. Tình yêu và hạnh phúc gia đình trở thành một trong những vấn đề chủ yếu của con người thời đại. Lớp nhà nho đương thời không còn coi tình yêu là một điều đáng sợ như các bậc nho sĩ xưa, mà họ luôn coi trọng tình cảm này. Tình yêu trở nên cao đẹp và là cội nguồn của hạnh phúc. Đề tài tình yêu như có ma lực thu hút hầu hết các tầng lớp xã hội: những sĩ phu đạo mạo, những quan lại trang nghiêm, những tiểu thư khuê các ... đều nói về chuyện tình yêu, tình vợ chồng. Một số thi sĩ không chỉ mượn nỗi lòng của kẻ khác, câu chuyện của người khác để biểu đạt tình yêu mà còn trình bày trực tiếp trước công chúng độc giả chuyện tình yêu của chính mình. Đó là Nguyễn Kiều đau quặn lòng trước linh cữu Đoàn Thị Điểm - người vợ yêu của ông, đồng thời cũng là một trong những nữ sĩ tài ba nhất trong lịch sử văn học nước Nam: Đào chưa quả đã vội khô, Quế đang thơm mà đã rủ! Rừng sâu bể rộng. Nàng hỡi đi đâu? Ngọc nát châu chìm, lòng tôi quặn nhớ. Những muốn: Chèo thuyền nan, mà sớm phát. Đưa giá liễu để chóng về. Hẹn lại quê nhà an táng. Dốc đem ý hậu theo đi. (Văn tế Đoàn Thị Điểm) [2] Hay là Ngô Thì Sĩ đau khổ, đã phải thốt ra lời cái ý nghĩ day dứt “Nếu sớm biết vì làm quan xa mà phải ly biệt đau khổ đến thế, thì chức vạn hộ hầu có đáng kể gì” trong Khuê ai lục [3.184]; là Phạm Nguyễn Du khóc nức nở: “Ôi ta với nàng chỉ một, cớ sao đang sum họp phải chia lìa” trong Đoạn trường lục [4.52]; là Hoàng hậu Lê Ngọc Hân bàng hoàng, hụt hẫng “nỗi con côi cút, nỗi mình bơ vơ!” trong Ai tư vãn [5.20]. Ngay cả Tự Đức - vị vua nổi tiếng trong lịch sử triều Nguyễn cũng từng than tiếc, nhớ nhung một người phi yêu dấu chẳng may thác sớm: Ới Thị Bằng ơi ! đã mất rồi! Ới tình, ới nghĩa, ới duyên ôi! Và còn muốn: Đập cổ kính ra, tìm lấy bóng, Xếp tàn y lại, để dành hơi. (Khóc Bằng phi) [6] Có lẽ, đây là hai câu hay nhất, lãng mạn nhất và cảm động nhất trong bài thơ Khóc Bằng phi của vua Tự Đức. Nhân vật trữ tình vì quá nhớ thương người bạn đời nên đập vỡ tấm gương cũ mà nàng đã từng soi để mong tìm thấy bóng nàng trong đó, và xếp chiếc áo cũ mà nàng đã từng mặc, đem cất kỹ để giữ lại dư hương của nàng. Còn viết về cuộc chia tay “không bao giờ gặp lại” với người vợ cả, Nguyễn Khuyến lại sử dụng ngôn ngữ mộc mạc hơn nhưng vẫn chan chứa nghĩa tình. Câu đối Khóc vợ của Nguyễn Khuyến không chỉ giúp người đọc hình dung ra bức chân dung của người vợ cả lam lũ, suốt Ngô Thị Thanh Nga và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 183(07): 15 - 20 17 đời chịu thương chịu khó mà còn cho thấy nỗi lòng của nhà thơ khi vợ mất: Lão cũng đã mừng thay! Nhờ được bà hay lam, hay làm, thắt lưng bó que, xắn váy quai cồng, tất tả chân đăm đá chân chiêu, vì lão đỡ đần trong mọi việc; Bà đi đâu vội bấy! Để cho lão vất vơ vất vưởng, búi tóc củ hành, buông quần lá toạ, gật gù tay đũa chạm tay chén, cùng ai kể lể chuyện trăm năm. (Khóc vợ) [7, tr. 269-270] Bà cả là người vợ mà Nguyễn Khuyến vô cùng yêu quý, bởi bà là người kề vai sát cánh cùng chồng vượt qua bao khó khăn thử thách. Bà lo lắng, gánh vác, đỡ đần mọi việc để chồng an tâm thi cử và chăm lo việc nước. Vì vậy, khi bà mất đi thì ông cũng mất luôn một chỗ dựa tinh thần, khiến ông sống “vất vưởng” một mình nơi trần thế, biết cùng ai “kể lể chuyện trăm năm”. Nguyễn Khuyến là một nhà nho sống dưới chế độ phong kiến nên chịu ảnh hưởng của Đạo nho khá nhiều và cũng giống như bao người đàn ông khác trong xã hội cũ, Nguyễn Khuyến có tới bốn bà vợ. Tuy nhiên, ông không thể hiện uy quyền và khuôn họ vào những luật lệ khắt khe mà Nho giáo đề ra đối với người phụ nữ. Vì thấu hiểu nỗi gian truân, vất vả của người phụ nữ nên ông luôn quan tâm, yêu thương, bảo ban vợ cũng như trân trọng, đề cao người bạn đời tri âm tri kỉ của mình. Mặc dù Nguyễn Khuyến dành nhiều tình cảm cho bà cả nhất, song không quá thiên vị ai, ông san sẻ tình cảm của mình cho bốn bà. Ông khóc thương, day dứt ân hận khi người vợ hai mất ở nơi đất khách quê người mà không kịp gặp mặt bà lần cuối (Lữ thấn khốc nội)[8], ông bày tỏ nỗi đau xót khi người vợ tư bất hạnh chết trẻ lại không con (Vãn thiếp Phạm thị)[8], ông đau đớn đến tột độ thương người vợ cả mất đi mà chưa một lần được sống trong cảnh vinh hoa phú quý (Điệu nội)[8]. Nguyễn Khuyến chỉ có 6 tác phẩm viết về người vợ, tuy số lượng không nhiều nhưng cũng đủ cho thấy ông là một người chồng thương yêu tin tưởng vợ hết mực, luôn đề cao và coi trọng tình nghĩa vợ chồng. Cũng giống như Nguyễn Khuyến, Tú Xương có những sáng tác rất cảm động về vợ của mình với sự trân trọng nể vì. Vợ ông là bà Phạm Thị Mẫn, xuất thân dòng dõi nho gia “con gái nhà dòng, lấy chồng kẻ chợ”. Bà là người vợ đảm đang chịu khó, quanh năm buôn bán nơi đầu sông cuối bến để nuôi chồng ăn học cùng với đàn con thơ dại. Mọi việc lớn nhỏ trong nhà đều do một tay bà Tú gánh vác. Vì vậy, Tú Xương viết về vợ như một sự tri ân, thể hiện thái độ trân trọng của nhà thơ đối với vợ. Qua các bài Thương vợ, Văn tế sống vợ... Tú Xương đã khắc họa rõ nét và sống động hình ảnh người vợ tảo tần với những nét phẩm chất điển hình của người phụ nữ Việt Nam với những câu thơ cảm động như: “Quanh năm buôn bán ở mom sông/ Nuôi đủ năm con với một chồng/ Lặn lội thân cò khi quãng vắng/ Eo sèo mặt nước buổi đò đông,” [9, tr. 36]. Như vậy có thể nói, tình cảm vợ chồng là một trong những tình cảm thiêng liêng cao quý vì thế các giáo điều phong kiến cũng không thể khuất lấp được. Các nho sĩ phong kiến, các nhà Nho vốn được đào luyện trong môi trường nho giáo lại chính là những người đã dám bộc bạch trực tiếp tình cảm ấy ở trong thơ. Điều này thật đáng trân trọng. Mượn câu chuyện của người khác để giãi bày Viết về tình vợ chồng, các nhà nho trung đại không chỉ kể về chuyện tình của chính mình mà họ còn mượn nỗi lòng của kẻ khác, câu chuyện của người khác để biểu đạt tình yêu, khát vọng hạnh phúc của con người. Ở Chuyện người con gái Nam Xương (Truyền kì mạn lục), Nguyễn Dữ ca ngợi sự gắn bó son sắt trong tình cảm vợ chồng giữa Vũ Nương và Trương Sinh. Vợ chồng họ đã từng có thời gian sống hạnh phúc, không để xảy ra chuyện thất hòa. Hạnh phúc đó không chỉ do sự cố gắng của một mình Vũ Nương, mà còn do Ngô Thị Thanh Nga và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 183(07): 15 - 20 18 Trương Sinh hết lòng chăm chút và nâng niu tổ ấm của mình. Tình cảm của Trương Sinh dành cho Vũ Nương hoàn toàn hồn nhiên, trong sáng và đáng quý. Thế nhưng hạnh phúc của vợ chồng họ quá ngắn ngủi. Nguyên nhân chính và sâu xa dẫn đến vợ chồng âm dương cách biệt là do “tính đa nghi”, “hay ghen” của chồng. Trong tình yêu, ghen tuông là điều khó tránh khỏi. Cơn ghen khiến người chồng mất khả năng kiểm soát hành vi của bản thân, chàng đã “mắng mỏ, nhiếc móc, đánh đuổi” vợ. Khi Vũ Nương quyên sinh, chàng Trương động lòng thương xót tìm vớt thây nàng. Đây là một hành động đáng trân trọng, thể hiện tình cảm của chàng với người vợ bất hạnh. Sống trong sự dằn vặt, hối hận, Trương Sinh đã lập đàn tràng giải oan cho Vũ Nương tại bến Hoàng Giang. Có thể nói, đó là cố gắng cuối cùng của chàng để níu kéo hạnh phúc đã mất, nhưng tất cả đã quá muộn màng. Qua những truyện viết về tình cảm vợ chồng như Chuyện người con gái Nam Xương, Chuyện người nghĩa phụ ở Khoái Châu,... Nguyễn Dữ muốn nhắn gửi tới người đọc một thông điệp: hãy biết trân trọng, xây dựng, bảo vệ tình cảm gia đình, hạnh phúc lứa đôi. Có thể nói, nếu ở thế kỷ XVI, Nguyễn Dữ đã đề cập đến tình vợ chồng nhưng vẫn đậm chất giáo huấn và màu sắc hoang đường kì ảo thì từ thế kỷ XVIII trở đi, các nhà nho viết về tình vợ chồng không còn là thứ tình e ấp, bóng gió, kín đáo mà tình yêu luôn gắn với khát khao hạnh phúc ái ân. Niềm khát khao hạnh phúc ái ân ấy đã được các nhà thơ thể hiện trong những thi phẩm hàng đầu của văn chương thế kỷ XVIII – XIX như: Chinh phụ ngâm khúc (Đặng Trần Côn - Đoàn Thị Điểm), Truyền kỳ tân phả (Đoàn Thị Điểm), Cung oán ngâm khúc (Nguyễn Gia Thiều), Truyện Kiều (Nguyễn Du),... Chinh phụ ngâm khúc là lời than thở bi đát về cuộc sống lẻ loi của người chinh phụ. Chiến tranh đã làm cho vợ chồng nàng đang sống hạnh phúc phải chia lìa đôi ngả. Người chồng ra đi biền biệt, đến ngày hẹn mà vẫn không trở về. Nàng sống trong tâm trạng ngóng trông, chờ đợi, khát khao có được một cuộc sống bình thường, vui vẻ hạnh phúc bên người chồng. Năm tháng qua đi, nhớ thương ngày một chất chồng trong lòng người chinh phụ. Nàng tìm đến giấc mộng ái ân với chồng để giải thoát cho nỗi nhớ mong đằng đẵng của mình: Duy còn hồn mộng được gần, Đêm đêm thường tới giang tân tìm người. Tìm chàng thuở Dương Ðài lối cũ, Gặp chàng nơi Tương Phố bến xưa. (Chinh phụ ngâm khúc) [10, tr.55] Cung oán ngâm khúc là bài ca ai oán của người cung nữ tài sắc lúc đầu được nhà vua yêu chuộng, ái ân nồng nàn thắm thiết nhưng chẳng bao lâu đã bị ruồng bỏ. Nàng đã sống hết mình, yêu hết mình, nhưng tình yêu của thân phận cung nữ đã không giúp nàng tìm được hạnh phúc. Nàng sống trong tâm trạng sầu tủi, buồn bã, nhớ nhung, giận hờn, trách móc, thương cho tuổi xuân xanh của người con gái trôi qua chóng vánh. Nàng khao khát được yêu thương, được hòa hợp về thể xác và tâm hồn với người mình yêu. Nàng thấp thỏm chờ đợi sự đoái hoài của đấng quân vương. Trong cuộc đời chờ đợi dài dằng dặc của nàng, những giây phút cùng nhà vua chung chăn chung gối được xem như một kỷ niệm lớn. Mỗi khi hồi tưởng lại ngày đầu được nhà vua sủng ái, người cung nữ vẫn còn rạo rực khát khao: Cái đêm hôm ấy đêm gì, Bóng dương lồng bóng đồ mi trập trùng. (Cung oán ngâm khúc) [10, tr.147] Đâu chỉ có Đăng Trần Côn, Nguyễn Gia Thiều mới viết về niềm khao khát hạnh phúc ái ân của vợ chồng, mà Nguyễn Du cũng đã đề cập tới điều này trong Truyện Kiều. Dưới ngòi bút tài tình của Nguyễn Du, tình cảm vợ chồng Thúy Kiều - Thúc Sinh trong những ngày đầu thật êm ấm và tràn ngập niềm hạnh phúc ái ân, quấn quýt: Ngô Thị Thanh Nga và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 183(07): 15 - 20 19 Một nhà sum họp trúc mai, Càng sâu nghĩa bể càng dài tình sông. Hương càng đượm lửa càng nồng, Càng sôi vẻ ngọc càng lồng màu sen. [11, tr.244] hay đầy bịn rịn, lưu luyến trong buổi chia tay: Vầng trăng ai xẻ làm đôi Nửa in gối chiếc nửa soi dặm trường (Truyện Kiều) [11, tr.252] Như vậy, tình cảm yêu thương, tình vợ chồng nồng ấm, thiết tha của con người không chỉ được phản ánh một cách trực tiếp qua những câu chuyện cảm động của chính các nhân vật trữ tình tự bạch - tác giả mà còn được thể hiện một cách gián tiếp. Các tác giả văn học trung đại đã mượn những nỗi niềm, những câu chuyện của người khác để thể hiện những cung bậc réo rắt của tình yêu nói chung, tình vợ chồng nói riêng. Có thể nói đây là một trong những âm hưởng đẹp nhất của văn học thời kỳ này. KẾT LUẬN Qua các mặt phân tích của vấn đề, chúng tôi nhận thấy, vượt qua những giáo lý “khắc kỷ, phục lễ” khắc nghiệt của lễ giáo phong kiến, các tác giả văn chương trung đại đã thể hiện rất sâu sắc tình cảm vợ chồng qua các sáng tác của mình bằng những phương thức khác nhau. Trong bài viết này, chúng tôi đề cập đến hai phương thức cơ bản: tự bạch (các tác giả tự giãi bày câu chuyện tình vợ chồng của chính mình) và nhập vai (mượn câu chuyện của người khác để thể hiện tình cảm vợ chồng). Qua hai phương thức phản ánh này, những cung bậc và sắc thái khác nhau trong tình cảm vợ chồng đã phản ánh sự phong phú của tâm hồn con người Việt Nam. Từ những bài thơ nhỏ lẻ mang ý vị tình yêu của Nguyễn Trãi đến những truyện ca ngợi tình nghĩa vợ chồng trong Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ, cho thấy chủ đề tình vợ chồng dần dần đậm nét và định hình trong văn học trung đại. Từ thế kỷ XVIII trở đi, với sự phát triển mạnh mẽ của tư tưởng nhân đạo, tinh thần dân chủ, chủ đề tình yêu nói chung, tình vợ chồng nói riêng đã nở rộ góp phần làm nên sự phong phú, đa diện của văn học Việt Nam thời trung đại. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam - Viện Sử học (1969), Nguyễn Trãi toàn tập, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 2. Phạm Trọng Chánh (2015), Mối tình Nguyễn Kiều và Đoàn Thị Điểm, Nguồn Chimviet.free.fr, truy cập ngày 14/04/2018. 3. Trần Thị Băng Thanh (1992), Ngô Thì Sĩ – Những chặng đường thơ văn, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 4. Phạm Nguyễn Du (2001), Đoạn trường lục, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 5. Lương Văn Đang - Nguyễn Thạch Giang - Nguyễn Lộc (1994), Những khúc ngâm chọn lọc, tập 2, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 6.ựĐứchoàngđế/KhócBằn gphi/poemS5saLcceaEp6YRNqcwaKrQ. 7. Lại Văn Hùng (giới thiệu và tuyển chọn) (2009), Nguyễn Khuyến tác phẩm chọn lọc, Nxb Giáo dục Việt Nam. 8. Nhóm bài thơ: Thơ chữ Hán (Nguyễn Khuyến) 9. Vũ Văn Sỹ, Đoàn Ánh Dương (tuyển chọn và giới thiệu) (2009), Trần Tế Xương tác phẩm chọn lọc, Nxb Giáo dục Việt Nam. 10. Lương Văn Đang - Nguyễn Thạch Giang - Nguyễn Lộc (1994), Những khúc ngâm chọn lọc, tập 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 11. Nguyễn Du, Truyện Kiều (1975), Hà Huy Giáp giới thiệu, Nguyễn Thạch Giang khảo đính và chú thích, Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội. Ngô Thị Thanh Nga và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 183(07): 15 - 20 20 SUMMARY A BRIEF DESCRIPTION OF THE MODES OF EXPRESSING CONJUGAL SENTIMENTS IN THE VIETNAM MEDIEVAL LITERATURE Ngo Thi Thanh Nga*, Pham Thi Hong Van TNU - University of Education Love in general, the conjugal sentiments in particular is the noble spirit of human beings. Therefore, the hindrances of the harsh feudal doctrine can not be hidden by such sentiments. In this article, we discuss some of the modes in which couples express feelings in the VietNam medieval literatute, namely two basic ways: self-disclosure (self-confessed authors her husband) and role play (borrowing stories of other people to express their feelings for the couple). Through these two modes of reflection, the reader is able to see the deeply cherished feelings of deep conjugal sentiments, at the same time to see the richness of the human soul in each age. Keywords: Conjugal sentiments, Viet Nam medieval, literature, mode, self-disclosure. Ngày nhận bài: 16/4/2018; Ngày phản biện: 06/5/2018; Ngày duyệt đăng: 29/6/2018 * Tel: 0982548560; Email: thanngamy@yahoo.com.vn oµ soT T¹p chÝ Khoa häc vµ C«ng nghÖ SOCIAL SCIENCE – HUMANITIES – ECONOMICS Content Page Hoang Thi Phuong Nga - Literature tourism model “the old Vu Dai village” 3 Pham Thi Thu Hoai, Tran Thi Thanh - Slang in Van Thanh Le's stories about education problems 9 Ngo Thi Thanh Nga, Pham Thi Hong Van - A brief description of the modes of expressing conjugal sentiments in the Vietnam medieval literature 15 Nguyen Thi Tham, Nguyen Minh Son - The opposite view of Nguyen Ngoc Tu to Vietnamese traditional literature via the main female characters in Khong ai qua song 21 Dang Thi Thuy, Nguyen Dieu Thuong - The logic of “non logic” phenomenon in Vietnamese folk verses, proverbs 27 Dinh Thi Giang - Factors affecting current lifestyle of Vietnamese people in the northern delta 33 Nguyen Dieu Thuong, Nguyen Thi Lan Huong - Mechanisms creating implication in satirical jokes 39 Nguyen Thu Quynh, Vi Thi Hien - Household vocabulary of Thai language in Dien Bien province 45 Nguyen Thi Thu Oanh, Hoang Thi My Hanh - Position, role of the communist party of Vietnam in the period 1954 – 1975 and some lessons learned 51 Do Hang Nga, Pham Quoc Tuan - Collection of taxes in the villages through material of reformist village convention in Thai Nguyen province 57 Le Van Hieu - The efficiency of the model "propaganda department" in communes, wards, township and "commander" in villages, cities at the current period in Lao Cai province 63 Thai Huu Linh, Nguyen Thi Thu Hien, Nguyen Thi Thanh Ha - The role of the rear Bac Thai in the 1968 general offensive 69 Pham Anh Nguyen - The attraction in “Hai dam” of Phan Khoi 73 Nguyen Thi Huong, Nguyen Thi Mao, Nguyen Tuan Anh - Enhancing the efficiency of extracurrucular activities in teaching civic education at high schools in thai nguyen city these days 79 Nguyen Van Dung, Dao Ngoc Anh - Physical status of non-sports students at Thai Nguyen University of Education 85 Tran Bao Ngoc, Le Ngoc Uyen, Bui Thanh Thuy et al - The reality of degree classification in non- examination students at University of Medicine and Pharmacy – Thai Nguyen University in the period from 2013 to 2017 91 Nguyen Thuc Canh - The need for buiding an exercise system with practical content to teach mechanics to high school 97 Ha Thi Kim Linh, Chu Thi Bich Hue - Educate legal knowledge for ethnic minority women in Vo Nhai district, Thai Nguyen province 105 Nguyen Thi Thanh Hong, Nguyen Thi Khanh Ly, Vu Kieu Hanh - Improve students’ participation in English learning activities in large mixed ability classes of the freshman students at Thai Nguyen University of Medicine and Pharmacy 111 Pham Thi Huyen, Vu Thi Thuy - Manipulate exemplary style according to the President Ho Chi Minh’s thought in building work style for key caders at present period 117 Dam Quang Hung - Science lesson planning for grade 4, 5 according to experimental research 123 Hoang Thi Thu Hoai - Difficulties in teaching and learning ESP vocabulary for nursing students at Thai Nguyen Medical College and some solutions 129 Nguyen Lan Huong, Van Thi Quynh Hoa - Determinants affecting English speaking performance of the first- year students at Thai Nguyen University of Agriculture and Forestry 135 Journal of Science and Technology 183(07) N¨m 2018 Vu Kieu Hanh - Determinants to the reading comprehension performance level of the second- year students at Thai Nguyen University of Agriculture and Forestry 141 Nguyen Thi Que, Hoang Thi Nhung - Asking the right question for successful self-studying and cooperative learning - towards independent language learners in the context of ASEAN community and global integration 147 Ngo Thi Thu Ha, Nguyen Thi Hoai Thu - Apply interactive teaching methods to improve the quality of teaching and learning Vietnamese to international students at Military Technical Academy 153 Duong Van Tan - An assessment of the effectiveness in application of games in general physical development for students at Thai Nguyen University of Technology 159 Bui Thi Huong Giang - Improving intercultural communicative competence in foreign language teaching and learning 165 Tran Hoang Tinh, Nong La Duy, Pham Van Tuan - Building self-managed platoon in disciplinary education for students at the center for defense and security education in the current phase 171 Tran Thi Yen, Khong Thi Thanh Huyen - Improving academic writing performance for english majors through intensive reading 177 Do Thi Hong Hanh, Hoang Mai Phuong - Vocational training for rural workers in Cho Moi district, Bac Kan province 183 Tran Thuy Linh, Tran Luong Duc, Nguyen Thi Thuy Trang - European union competition law approach on exploitative abuses 189 Nguyen Thi Thanh Ha, Pham Viet Huong - Setting up an appropriate set of economic criteria and indicators for evaluating sustainable forest management in Dinh Hoa district 195 Dinh Thi Hoai - Marketing promotion for information - library product and service at the Learning Resource Center of Thai Nguyen University 201 Nguyen Thi Thanh Xuan - Factors affecting customer satisfaction in hotels at Thanh Hoa province, Vietnam 207 Duong Thi Tinh - Contributions of goods export to the economic growth of Yen Bai province 213 Le Minh Hai, Tran Viet Khanh - Tourism space organization of Thai Nguyen province 219 Ha Van Vuong - Apply the ergonomics theory in working environment organization at the office of Song Cong grarment branch II – TNG Investment and Trading Joint Stock Company 227 Mai Anh Linh, Nguyen Thi Minh Anh - Assessing service quality and customer satisfaction: an empirical study at Lan Chi supermarket, Thai Nguyen city 233 Dinh Hong Linh, Nguyen Thu Nga, Nguyen Thu Hang - Applying logarithmic function to evaluate the business efficiency of Vietnam banks 239

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf338_366_1_pb_613_2127090.pdf
Tài liệu liên quan