Thực hiện chính sách sách ưu đãi xã hội ở Thành phố Hồ Chí Minh – Thực trạng và giải pháp

Tài liệu Thực hiện chính sách sách ưu đãi xã hội ở Thành phố Hồ Chí Minh – Thực trạng và giải pháp: TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 33 (58) - Thaùng 10/2017 95 Thực hiện chính sách sách ưu đãi xã hội ở Thành phố Hồ Chí Minh – Thực trạng và giải pháp The implementation of community policy in Ho Chi Minh City – The reality and solutions ThS. Nguyễn Minh Trí, Trường Đại học Công nghệ TP.HCM Nguyen Minh Tri, M.A., Ho Chi Minh City University of Technology Tóm tắt Bài viết tập trung phân tích thực trạng và giải pháp thực hiện chính sách ưu đãi xã hội ở Thành phố Hồ Chí Minh. Tăng trưởng kinh tế đã tạo ra nguồn lực vật chất cho thành phố tăng cường đầu tư vào chính sách ưu đãi xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đó, vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế. Dựa trên phân tích những thành tựu và những hạn chế, bài viết đã đưa ra những định hướng thực hiện tốt chính sách ưu đãi xã hội ở Thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian tới. Từ khóa: tăng trưởng kinh tế, chính sách ưu đãi xã hội. Abstract This article aims to analyze the reality and solutions o...

pdf7 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 263 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thực hiện chính sách sách ưu đãi xã hội ở Thành phố Hồ Chí Minh – Thực trạng và giải pháp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 33 (58) - Thaùng 10/2017 95 Thực hiện chính sách sách ưu đãi xã hội ở Thành phố Hồ Chí Minh – Thực trạng và giải pháp The implementation of community policy in Ho Chi Minh City – The reality and solutions ThS. Nguyễn Minh Trí, Trường Đại học Công nghệ TP.HCM Nguyen Minh Tri, M.A., Ho Chi Minh City University of Technology Tóm tắt Bài viết tập trung phân tích thực trạng và giải pháp thực hiện chính sách ưu đãi xã hội ở Thành phố Hồ Chí Minh. Tăng trưởng kinh tế đã tạo ra nguồn lực vật chất cho thành phố tăng cường đầu tư vào chính sách ưu đãi xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đó, vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế. Dựa trên phân tích những thành tựu và những hạn chế, bài viết đã đưa ra những định hướng thực hiện tốt chính sách ưu đãi xã hội ở Thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian tới. Từ khóa: tăng trưởng kinh tế, chính sách ưu đãi xã hội. Abstract This article aims to analyze the reality and solutions of implementing the community policy in Ho Chi Minh city. The economic growth has created material resources which the city authorities can utilize to increase investment in community policy. Besides these achievements, however, there still exist many limitations. Based on the analysis of the achievements and limitations, the article recommends good solutions to the implementation of community policy in Ho Chi Minh city in the future. Keywords: economic growth, community policy. 1. Mở đầu Thành phố Hồ Chí Minh với vị trí, vai trò là đầu tàu phát triển kinh tế, luôn đạt tốc độ tăng GDP hàng năm gấp 1,66 lần so với cả nước, đóng góp 23% GDP cả nước, 28% tổng thu ngân sách quốc gia1. Những thành tựu về tăng trưởng kinh tế ở thành phố cao đã góp phần tăng ngân sách chi cho chính sách ưu đãi xã hội; ngược lại, chính sách ưu đãi xã hội góp phần giảm bớt những khó khăn khi gặp những rủi ro xảy ra, nhanh chóng ổn định ổn định cuộc sống, hòa nhập xã hội tham gia vào sàn xuất - kinh doanh thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Từ năm 1945 đến nay, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn quán triệt quan điểm: “Thực hiện chính sách ưu đãi xã hội và vận động toàn dân tham gia các hoạt động đền ơn, đáp nghĩa, uống nước nhớ nguồn đối với các lão thành cách mạng, những người có công với nước, Bà mẹ Việt Nam Anh THỰC HI N CHÍNH SÁCH SÁCH ƯU ĐÃI XÃ H I Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP 96 hùng, thương binh và cha mẹ, vợ con liệt sỹ, người được hưởng chính sách xã hội”2. Đây là chủ trương xuyên suốt trong các văn kiện của Đảng và được điều chỉnh theo tình hình kinh tế - xã hội của đất nước để đối tượng được hưởng chính sách có cuộc sống ổn định. Thực hiện chủ trưởng trên, cùng với tốc độ tăng trưởng kinh tế tương đối toàn diện, Thành phố Hồ Chí Minh đã dành sự ưu đãi cả về vật chất và tinh thần, tạo điều kiện để các đối tượng hưởng chính sách ưu đãi xã hội ngày càng tốt hơn, và đã mang lại hiệu quả tích cực, góp phần ổn định chính trị, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, cũng cố lòng tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước. 2. Nội dung 2.1. Thành tựu thực hiện chính sách ưu đãi xã hội ở Thành phố Hồ Chí Minh Khác với nhiều nước, suốt mấy chục năm qua, nhân dân ta đã trải qua hai cuộc kháng chiến thần thánh để bảo vệ độc lập tự do chủ quyền đất nước. Thấm nhuần sâu sắc đạo lý và truyền thống tốt đẹp của dân tộc, thực hiện lời dạy ân cần của Chủ tịch Hồ Chí Minh: thương binh, bệnh binh, gia đình quân nhân, gia đình liệt sĩ là những người có công với Tổ quốc, với nhân dân. Cho nên bổn phận chúng ta là phải biết ơn, phải yêu thương và giúp đỡ họ có việc làm thích hợp, quyết không để họ đói rét3. Giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với chính sách ưu đãi xã hội nhằm khẳng định sự tôn vinh, cống hiến, hy sinh của các liệt sỹ và người có công với cách mạng. Trải qua hơn 30 năm đổi mới, đặc biệt là kết quả 10 năm thực hiện Chỉ thị số 07-CT/TW ngày 14/12/2006 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về “Tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo đối với công tác thương binh liệt sỹ và người có công” và phong trào “Đền ơn đáp nghĩa”, Thành phố Hồ Chí Minh đã không ngừng chủ động cụ thể hóa quan điểm, đường lối của Đảng, Nhà nước Việt Nam phù hợp với tiềm lực của địa phương và mang lại hiệu quả hết sức thiết thực góp phần làm đẹp truyền thống “uống nước nhớ nguồn” của dân tộc, ổn định chính trị, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thành phố phát triển đậm nét nhân văn, nghĩa tình cụ thể: Công tác xác định đối tượng chính sách. Ngay từ những ngày đầu giải phóng, thành phố đã quan tâm chỉ đạo tổ chức thực hiện các chính sách đối với thương binh, liệt sĩ và người có công. Theo báo cáo Sở LĐTB&XH Thành phố Hồ Chí Minh, hiện đang quản lý 260.000 hồ sơ có công với cách mạng, trong đó có 48.997 người có công đang hưởng trợ cấp ưu đãi hằng tháng của Nhà nước với kinh phí trên 61,1 tỷ đồng/tháng. Bên cạnh đó, thành phố chỉ đạo tập trung giải quyết tồn đọng, vướng mắc trong thực hiện chính sách ưu đãi người có công; về cơ bản đã giải quyết xong chính sách tồn động sau chiến tranh về công tác xác nhận thương binh, liệt sĩ. Đến tháng 8/2015, tổng số người có công và thân nhân hưởng đúng chế độ ưu đãi tại thành phố là 64.552 trường hợp, chỉ còn 15 trường hợp hưởng chưa đầy đủ (0,02%) đang tiếp tục chờ hoàn chỉnh thủ tục để giải quyết; huy động quỹ đền ơn, đáp nghĩa được 141 tỷ đồng4; vận động kết nghĩa đỡ đầu cho 551 trường hợp; và tất cả người có công và thân nhân của họ được mua thẻ BHYT, được ưu tiên khám chữa bệnh miễn phí tại các cơ sở y tế Ngoài ra, thành phố cũng đầu tư xây dựng khu nhà để nuôi dưỡng, chăm sóc người có công với cách mạng và Bà mẹ Việt Nam Anh hùng già yếu, neo đơn, không nơi nương tựa được thực hiện chu đáo, đầy đủ. Nhờ sự quan NGUYỄN MINH TRÍ 97 tâm thường xuyên, liên tục của Đảng bộ và Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, đời sống của các gia đình chính sách, có công không ngừng được cải thiện về vật chất và văn hóa. Theo báo cáo UBND thành phố hiện 100% xã, phường, thị trấn đã hoàn thành mục tiêu nâng cao mức sống của người hưởng chính sách có công bằng hoặc cao hơn mức sống của người dân cùng địa bàn cư ngụ, tạo niềm phấn khởi cho các đối tượng chính sách, giúp họ ổn định cuộc sống. Thêm vào đó, người thành phố với truyền thống nghĩa tình cao cả, chính sách ưu đãi người có công không chỉ thực hiện ở thành phố, mà còn lan tỏa đến các hộ gia đình chính sách ở các tỉnh nghèo lân cận. Thành phố đã tặng hàng trăm nhà tình nghĩa, trường học, trạm y tế và phụng dưỡng suốt đời hàng trăm Mẹ Việt Nam anh hùng của tỉnh Bến Tre, Quảng Ngãi. Những việc làm nghĩa tình, đầy trách nhiệm của thành phố đã góp phần làm xoa dịu những nổi đau mất mát của họ, góp phần làm yên lòng dân, ổn định xã hội tạo điều kiện cho sự phát triển bền vững đất nước đất nước. Không chỉ dừng lại ở việc đảm bảo đời sống, vai trò của chính sách ưu đãi còn giúp người có công có cơ hội tham gia vào quá trình thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của thành phố, nâng cao đời sống vật chất. Phong trào xây dựng nhà tình nghĩa. Thành phố Hồ Chí Minh, nơi khởi nguồn phong trào “Nhà tình nghĩa” vào tháng 2/1982 đến nay đã mang lại những kết quả thiết thực góp phần chia sẽ những khó khăn trong đời sống của những gia đình có công với tổ quốc. Hơn 35 năm, phong trào xây dựng nhà tình nghĩa đã nhanh chóng lan tỏa sâu rộng, thu hút đông đảo mọi nguồn lực trong xã hội. Tính đến cuối năm 2015, thành phố đã hoàn thành cơ bản xây dựng nhà tình nghĩa cho đối tượng chính sách có công gặp hoàn cảnh khó khăn về nhà ở, với tổng số là 16.450 nhà tình nghĩa với số tiền hơn 189 tỷ đồng; sửa chữa, chống dột 10.928 nhà, trị giá 54 tỷ đồng, hoàn thành công tác xây dựng “Nhà tình nghĩa” cho gia đình chính sách5, và trở thành địa phương đầu tiên trong cả nước khởi nguồn cho phong trào xây dựng “Nhà tình nghĩa”. Phong trào khơi dạy lòng yêu nước, tinh thần trách nhiệm cho các tầng lớp thanh thiếu niên trong xã hội. Thành phố đã có những chủ trương, chính sách hỗ trợ thiết thực, chăm lo cho các gia đình chính sách, được các tầng lớp nhân dân, các cơ quan, đơn vị tích cực hưởng ứng. Ngoài việc thực hiện các chế độ trợ cấp theo quy định của Trung ương, thành phố còn vận động chăm lo, hỗ trợ thêm mỗi tháng cho người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học bị mất bệnh suy giảm khả năng lao động từ 21% - 40% mức 400.000 đồng, hỗ trợ mỗi tháng cho bà mẹ Việt Nam anh hùng 2.000.000 đồng đến cuối đời. Đồng thời, vận động các đơn vị phụng dưỡng nâng mức hỗ trợ hàng tháng lên ít nhất 1.000.000 đồng/tháng/mẹ. Tổ chức thăm và tặng quà diện chính sách, có công trong các dịp lễ, tết với kinh phí bình quân gần 50 tỷ đồng/năm, tặng sổ tiết kiệm cho 1.326 người với số tiền 1,7 tỷ, tất cả người có công và thân nhân của họ được mua BHYT, được khám chữa bệnh miễn phí tại các cơ sở y tế6. Những kết quả trên đã thể hiện sự quan tâm đặc biệt của chính quyền thành phố đối với những người đã cống hiến xương máu cho đất nước đã tạo điều kiện giúp họ ổn định cuộc sống, làm xoa dịu nỗi đau mất mát cho họ, góp phần yên dân, ổn định xã hội. THỰC HI N CHÍNH SÁCH SÁCH ƯU ĐÃI XÃ H I Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP 98 Từ những phân tích trên, giúp chúng tôi rút ra nhận xét chung: Với tốc độ tăng trưởng kinh tế ổn định đã tạo điều kiện thuận lợi để thành phố giải quyết thành công mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với chính sách ưu đãi xã hội một cách toàn diện, góp phần giữ gìn sự ổn định về xã hội, kinh tế, chính trị của thành phố, giảm bất bình đẳng, phân hoá giàu nghèo, tạo nên sự đồng thuận giữa các giai tầng, các nhóm xã hội trong quá trình phát triển, hướng đến bảo đảm mức sống tối thiểu cho người dân, bảo vệ giá trị cơ bản và là thước đo trình độ phát triển của thành phố trong quá trình phát triển và hội nhập. Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố khóa IX nhận định: “Thực hiện tốt chính sách ưu đãi người có công, quan tâm chăm lo các đối tượng bảo trợ xã hội. thành phố luôn quan tâm giải quyết các vấn đề bức xúc của xã hội, cải thiện đời sống vật chất, văn hóa tinh thần của các tầng lớp Nhân dân”7. Chính sách ưu đãi xã hội, dưới sự chỉ đạo của Thành phố, phối hợp với các sở - ngành liên quan và các tổ chức, cá nhân trong và ngoài thành phố thực hiện đầy đủ các chế độ, đúng đối tượng, đã hoàn thành xác định gia đình chính sách. Với việc chăm lo đời sống vật chất, tinh thần của nhóm đối tượng có công ở thành phố đã nhận được sự đồng tình cao của xã hội, góp phần tạo sự công bằng và phát triển bền vững của thành phố. 2.2. Nguyên nhân của những thành tựu và một số hạn chế trong thực hiện chính sách ưu đãi xã hội ở Thành phố Hồ Chí Minh Đạt được những thành tựu trên do nhiều nguyên nhân khác nhau, tựu trung lại do: thành phố đã nhận thức đúng đắn chủ trưởng của Đảng “tăng trưởng kinh tế nhanh, hiệu quả cao và bền vững đi đôi với giải quyết những vấn đề bức xúc về xã hội, cải thiện đời sống nhân dân, tạo tiền đề vững chắc cho bước phát triển cao hơn”8, đảm bảo an sinh xã hội cho mọi người dân thành phố. Cùng với nhận thức, thành phố đã thể chế hóa đồng bộ, ban hành nhiều văn bản phù hợp thực tế địa phương, nhằm tập trung các nguồn lực của toàn xã hội để giúp đỡ, hỗ trợ, tạo điều kiện cho đối tượng chính sách vươn lên trong cuộc sống. Quan trọng hơn nữa, nhận thức của người dân đã có sự thay đổi cơ bản và thực hiện tăng trưởng kinh tế với chính sách an sinh xã hội, nhất là quyền lợi và nghĩa vụ của mình, từ đó từng bước vươn lên thay đổi nếp suy nghĩ, loại bỏ dần tư tưởng an phận, trông chờ, ỷ lại, và người dân thành phố ngày càng biết tận dụng các cơ hội từ những chính sách trợ giúp của thành phố để phấn đấu tự vươn lên ổn định cuộc sống. Cùng với đó là yếu tố văn hóa, truyền thống của người Việt Nam nói chung và của người dân thành phố nói riêng đã góp phần không nhỏ vào giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với sách trợ giúp xã hội và chính sách ưu đãi xã hội với những biểu hiện cụ thể, thiết thực qua đó xây dựng tinh thần đoàn kết, hợp tác, tương trợ giữa những người yếu thế, chia sẽ trách nhiệm và đẩy mạnh xã hội hóa nên đã huy động các nguồn lực để cùng Nhà nước giải quyết các vấn đề về chính sách an sinh xã hội ngày càng tốt hơn, kể cả trong điều kiện tăng trưởng kinh tế thành phố có xu hướng giảm. Tuy nhiên, việc thực hiện chính sách ưu đãi xã hội ở Thành phố Hồ Chí Minh vẫn còn nhiều hạn chế như: triển khải thực hiện Pháp lệnh Ưu đãi người có công trên địa bàn thành phố vẫn còn một số đối tượng chưa được xem xét, xác minh, kết luận là người có công do hồ sơ, giấy tờ NGUYỄN MINH TRÍ 99 không còn, thiếu chứng cứ. Đội ngũ làm công tác này ở các đơn vị, địa phương thường xuyên thay đổi. Mặc dù hệ thống chính sách đã nhiều lần được bổ sung, sửa đổi phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội và đời sống chung của nhân dân, nhưng khi xây dựng chế độ chính sách cho người có công, Nhà nước lại dựa vào mức chi tiêu bình quân của xã hội để làm cơ sở tính tiền trợ cấp, nên vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu tối thiểu trong sinh hoạt của người có công, đặc biệt là đối với các thành phố có mức chi tiêu dùng luôn cao. Việc phối hợp giữa cấp trên và cấp dưới ở một số quận, huyện trong chỉ đạo kiểm tra chưa tốt, thẩm định hồ sơ còn đơn giản, thiếu chặt chẽ và các chính sách ưu đãi xã hội thường chậm và chưa đồng bộ với chính sách kinh tế. Sở dĩ còn những hạn chế trên là do, một số cán bộ làm công tác ưu đãi xã hội còn thiếu kinh nghiệm, thiếu sự am hiểu cần thiết về chế độ, chính sách nên thực hiện chưa tốt; mặt khác, hệ thống chính sách ưu đãi xã hội chậm đổi mới, chồng chéo, nhiều đầu mối; chưa phát huy hết mọi nguồn lực trong xã hội để thực hiện tốt chính sách đối với người có công. Những hạn chế trên đã làm giảm hiệu quả của việc giải quyết tăng trưởng kinh tế chính sách ưu đãi xã hội ở Thành phố Hồ Chí Minh, vì vậy đòi hỏi cần phải nhanh chóng khắc phục để tăng trưởng kinh tế thực sự lan tỏa đến các đối tượng thụ hưởng chính sách thực sự công bằng. 2.3. Một số giải pháp mang tính định hướng thực hiện chính sách ưu đãi xã hội ở Thành phố Hồ Chí Minh thời gian tới Với tốc độ tăng trưởng kinh tế ổn định, thành phố luôn quan tâm đến thực hiện chính sách ưu đãi xã hội phù hợp với trình độ phát triển kinh tế của thành phố, tạo sức lan tỏa trong cả nước, góp phần “thực hiện chính sách an sinh xã hội đạt nhiều kết quả thiết thực”9. Ðảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh lần thứ X đã xác định nhiệm vụ: “Đảm bảo gia đình người có công có mức sống bằng hoặc cao hơn mức sống trung bình của người dân cùng địa bàn quận, huyện; tăng cường các giải pháp hỗ trợ người có công phát triển sản xuất, học nghề, tạo việc làm, tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản, nhất là các hộ trong diện nghèo, cận nghèo, ở nông thôn, người trong diện di dời, tái định cư; huy động các nguồn lực thực hiện tốt công tác đền ơn đáp nghĩa”10. Để hoàn thành nhiệm vụ này, Thành phố Hồ Chí Minh cần tập trung vào một số giải pháp sau: Một là, thực hiện tốt chính sách ưu đãi xã hội đối với người có công phù hợp với tốc độ tăng trưởng kinh tế. Để đảm bảo gia đình người có công có mức sống bằng hoặc cao hơn mức sống trung bình của người dân cùng địa bàn quận, huyện thành phố, cần: rà soát, đẩy nhanh việc giải quyết các trường hợp còn tồn đọng về xác nhận, công nhận người có công đảm bảo tất cả người có công với cách mạng đều được hưởng các chính sách ưu đãi của Nhà nước. Đề xuất, điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện tiêu chí áp dụng cho đối tượng cụ thể và các chế độ phù hợp với trình độ phát triển kinh tế của thành phố từng thời kỳ. Đẩy mạnh các phong trào “Đền ơn đáp nghĩa”, “Uống nước nhớ nguồn”, “Xã phường làm tốt công tác thương binh, liệt sĩ, người có công” phát triển nhiều hình thức hoạt động đền ơn đáp nghĩa với nội dung phong phú, thiết thực, phù hợp với điều kiện mới, để phong trào thực sự thắm nhuần sâu sắc trong các thế hệ người Việt Nam. Triển khai thực hiện có hiệu quả công tác xây dựng, quản lý “Quỹ đền ơn đáp nghĩa” ở các cấp, tăng cường việc kiểm tra chi trả THỰC HI N CHÍNH SÁCH SÁCH ƯU ĐÃI XÃ H I Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP 100 trợ cấp, phụ cấp cho diện chính sách và công tác đăng ký, quản lý, công tác lưu trữ hồ sơ người có công tại các quận, huyện. Hai là, hoàn thiện hệ thống pháp luật ưu đãi xã hội. Hiện nay chúng ta chưa luật hóa công tác ưu đãi xã hội. Việc điều chỉnh các hoạt đồng này chỉ dừng ở mức dưới luật, với hệ thống văn bản khá đồ sộ, luôn thay đổi, thiếu đồng nhất và chặt chẽ dẫn đến thực thi chưa hiệu quả. Vì thế, cần sớm luật hóa làm căn cứ cho việc thực hiện hiệu quả công tác ưu đãi xã hội. Ba là, đổi mới cơ chế, chính sách tài chính ưu đãi xã hội. Trong những năm qua, nguồn tài chính ưu đãi xã hội nằm trong tình trạng thâm hụt do nhu cầu của xã hội không ngừng tăng, cơ chế thu - chi và quản lý nguồn tài chính còn nhiều hạn chế, việc thu hút các nguồn tài chính khác ngoài ngân sách Nhà nước chưa được chú trọng. Trong điều kiện mới, phải tiến hành đổi mới chính sách tài chính theo hướng đổi mới cơ chế lập dự toán và phân bổ định mức chi tiêu ngân sách Nhà nước ưu đãi xã hội một cách công khai, minh bạch và xuất phát từ nhu cần thực tế (số lượng đối tượng và mức trợ cấp). 3. Kết luận Nền kinh tế Việt Nam nói chung và Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng đã lựa chọn mô hình là phải tăng trưởng bao trùm, vì con người, vì sự công bằng, tăng trương gắn với đảm bảo an sinh xã hội, thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Thời gian qua, mặc dù đã đạt được một số thành tựu trong việc thực hiện chính sách ưu đãi xã hội, tuy nhiên, về cơ bản, tăng trưởng kinh tế ở thành phố chưa đạt được tính bao trùm đến đối tượng ưu đãi. Với những giải pháp được đưa ra, tác giả mong muốn góp phần tìm ra hướng đi đúng đắn trong thực hiện chính sách ưu đãi xã hội bền vững trong giai đoạn từ nay đến năm 2020 và các giai đoạn phát triển tiếp theo. Chú thích: 1. Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh (2016), Thành phố Hồ Chí Minh xây dựng, phát triển và hội nhập 2015 - Ho Chi Minh City construction, development and integration (Song ngữ Anh - Việt), Nxb. Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, tr.281. 2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.106 3. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 12. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 503. 4. Phạm Bá Đinh (2016), “Thành phố Hồ Chí Minh với công tác chăm sóc người có công”, Tạp chí Xây đựng Đảng, số 4/2016, ngày 31/03/2016, tr.25-27. 5. Phạm Bá Đinh (2016), “Thành phố Hồ Chí Minh với công tác chăm sóc người có công”, Tạp chí Xây đựng Đảng, số 4/2016, tr.25-27. 6. Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh (2016), Những vấn đề chủ yếu của Văn kiện Đại hội Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh lần thứ X, nhiệm kỳ 2015-2020, Nxb. Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, tr.100. 7. Ðảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh (2015), Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ X, tr.78 8. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.82. 9. Ðảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh (2015), Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ X, tr.26. 10. Ðảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh (2015), Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ X, tr.140. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. NGUYỄN MINH TRÍ 101 3. Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh (2015), Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ X. 4. Phạm Bá Đinh (2016), “Thành phố Hồ Chí Minh với công tác chăm sóc người có công”, Tạp chí Xây đựng Đảng, số 4/2016, ngày 31/03/2016, tr.25-27. 5. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 12. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 6. Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh (2016), Những vấn đề chủ yếu của Văn kiện Đại hội Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh lần thứ X, nhiệm kỳ 2015-2020, Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, tr.100. 7. Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh (2016), Thành phố Hồ Chí Minh xây dựng, phát triển và hội nhập 2015 - Ho Chi Minh City construction, development and integration (Song ngữ Anh-Việt), Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh. Ngày nhận bài: 20/6/2017 Biên tập xong: 15/10/2017 Duyệt đăng: 20/10/2017

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf16_7379_2215068.pdf