Sổ tay sơ cấp cứu

Tài liệu Sổ tay sơ cấp cứu: THL © 2010 Page 1 Sổ tay sơ cấp cứu SƠ CẤP CỨU LÀ GÌ ? Sơ cấp cứu là những trợ giúp hay chữa trị ngay lúc ban đầu cho nạn nhân bị bất cứ chấn thương, sự cố hay bị một căn bệnh đột ngột nào đó trước khi có xe cấp cứu, bác sĩ, hoặc người có chuyên môn đến chữa trị. Việc sơ cấp cứu dó là vô cùng cần thiết bởi vì thời gian chờ đợi bác sĩ hay những người cấp cứu đến có thể làm nạn nhân lâm vào tình trạng nguy hiểm hay không thể cứu được nữa cho dù được đưa đến bệnh viện. Tính mạng nạn nhân lúc đó có thể đo từng phút từng giây. Nói một cách khác đó là những lúc mà sự trợ giúp kịp thời của bạn có thể cứu sống được một con người. Thực tế đã xảy ra những sự việc hết sức đau lòng và đáng tiếc không đáng xảy ra nếu những người xung quanh nạn nhân có kiến thức về sơ cấp cứu. Mục đích của việc sơ cấp cứu: 1. Bảo toàn tính mạng cho nạn nhân, người thân và có khi chính bản thân mình. 2. Hạn chế ảnh hưởng của căn bệnh. 3. Giúp nạn nhân hồi phục. 4. Người sơ cấp cứu là người: ...

pdf45 trang | Chia sẻ: khanh88 | Lượt xem: 986 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Sổ tay sơ cấp cứu, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
THL © 2010 Page 1 Sổ tay sơ cấp cứu SƠ CẤP CỨU LÀ GÌ ? Sơ cấp cứu là những trợ giúp hay chữa trị ngay lúc ban đầu cho nạn nhân bị bất cứ chấn thương, sự cố hay bị một căn bệnh đột ngột nào đó trước khi có xe cấp cứu, bác sĩ, hoặc người có chuyên môn đến chữa trị. Việc sơ cấp cứu dó là vô cùng cần thiết bởi vì thời gian chờ đợi bác sĩ hay những người cấp cứu đến có thể làm nạn nhân lâm vào tình trạng nguy hiểm hay không thể cứu được nữa cho dù được đưa đến bệnh viện. Tính mạng nạn nhân lúc đó có thể đo từng phút từng giây. Nói một cách khác đó là những lúc mà sự trợ giúp kịp thời của bạn có thể cứu sống được một con người. Thực tế đã xảy ra những sự việc hết sức đau lòng và đáng tiếc không đáng xảy ra nếu những người xung quanh nạn nhân có kiến thức về sơ cấp cứu. Mục đích của việc sơ cấp cứu: 1. Bảo toàn tính mạng cho nạn nhân, người thân và có khi chính bản thân mình. 2. Hạn chế ảnh hưởng của căn bệnh. 3. Giúp nạn nhân hồi phục. 4. Người sơ cấp cứu là người: 5. Được huấn luyện, thực tập tốt. 6. Được kiểm tra và thường xuyên được tái kiểm tra. 7. Có kiến thức và chuyên môn luôn được cập nhật. THL © 2010 Page 2 CẦM MÁU VẾT THƢƠNG Khi bị vết thương chảy máu, cần: - Nâng cao phần bị thương lên - Dùng khăn sạch (hoặc dùng tay nếu không có khăn) ấn chặt ngay vào vết thương. Giữ chặt cho đến khi máu ngừng chảy, - Nếu máu chảy không cầm được khi ấn chặt vào vết thương, hoặc nếu nạn nhân đang mất nhiều máu: * Cứ ấn chặt vào vết thương * Giữ cho phần bị thương giơ cao lên, càng cao càng tốt * Buộc ga rô tay hoặc chân càng gần chỗ vết thương càng tốt. Xiết chặt vừa đủ làm máu cầm lại. Buộc ga rô bằng một cái khǎn gấp lại hoặc dây lưng rộng, đừng bao giờ dùng một dây thừng mảnh, dây thép... * Chuyển ngay nạn nhân đến cơ sở y tế. Tai nạn giao thông TÓM TẮT CÁC BƢỚC SƠ CẤP CỨU TAI NẠN GIAO THÔNG Các bƣớc sơ cấp cứu tai nạn giao thông chỉ rõ từng bƣớc các hành động cần tiến hành của ngƣời cứu hộ. Những điều cần làm: * Bảo vệ nạn nhân và gọi cấp cứu * Xác định tổn thƣơng và tiến hành sơ cấp cứu * Vận chuyển nạn nhân đến cơ sở y tế (nếu cần thiết) Ngừng tim trong tai nạn giao thông là hậu quả chấn thƣơng. Do vậy, không có máu chảy qua tim và mạch. Trong trƣờng hợp này, việc ép tim ngoài lồng ngực là không cần thiết bởi vì sẽ không có hiệu quả. Kỹ năng này nằm ngoài chƣơng trình Sơ cấp cứu tai nạn giao thông. THL © 2010 Page 3 THL © 2010 Page 4 Sơ đồ cấp cứu . Bảo vệ nạn nhân và gọi cấp cứu Mọi tình huống tai nạn đều có thể tạo ra những nguy hiểm mới. Khi thiếu sự can thiệp của ngƣời cứu hộ thì tính mạng của nạn nhân và những ngƣời xung quanh có thể bị đe doạ. Mọi nguồn nguy hiểm phải đƣợc tách rời hay loại bỏ. Nếu không thể loại bỏ nguồn nguy hiểm đó ngay thì nạn nhân cần đƣợc di chuyển khẩn cấp khỏi nguồn nguy hiểm. Bƣớc đầu tiên của quá trình sơ cấp cứu là ngƣời cứu hộ gọi cấp cứu ngay sau khi quan sát và phân tích tình huống, điều đó cho phép thực hiện sơ cứu khẩn cấp phù hợp hoặc là có phƣơng tiện để vận chuyển nạn nhân đến bệnh viện gần nhất. Những điều cần làm: * Quan sát hiện trƣờng và thu thập thông tin * Quan sát nạn nhân, gọi 115 hoặc cơ sở y tế gần nhất * Di chuyển nạn nhân ra khỏi nơi nguy hiểm (nếu cần thiết) THL © 2010 Page 5 THL © 2010 Page 6 2. Nạn nhân còn tỉnh THL © 2010 Page 7 Cầm máu: Khi nạn nhân bị chảy máu quá nhiều, nếu không can thiệp kịp thời thì tính mạng nạn nhân sẽ bị đe doạ. Chúng ta phải tiến hành cầm máu ngay lập tức bằng cách ấn tay trực tiếp vào chỗ có máu chảy, nếu có thể thì nên đi găng tay. Nếu máu vẫn tiếp tục chảy mặc dù đã cầm máu trực tiếp hoặc là không thể tiến hành ấn tay trực tiếp vào vết thƣơng vì vết thƣơng có kèm dị vật, cần tiến hành cầm máu bằng cách ấn điểm cầm máu. Trong trƣờng hợp ngƣời cứu hộ chỉ có một mình để sơ cấp cứu, hoặc trong trƣờng hợp có nhiều nạn nhân cần đƣợc sơ cấp cúu, và việc tiến hành ấn điểm cầm máu không hiệu quả, thì việc ấn điểm cầm máu đƣợc thay bằng băng garô. Băng garô thực hiện với một miếng băng vải dài rộng ở cánh tay và đùi nạn nhân. Những điều cầm làm: * Ấn trực tiếp vào vết thƣơng bằng gạc, vải sạch (tránh tiếp xúc trực tiếp với máu) * Ấn gián tiếp vào điểm cầm máu nếu vết thƣơng có dị vật. * Đặt Garô cầm máu nếu các phƣơng pháp trên không hiệu quả * Theo dõi băng garô - Chú ý: phải ghi giờ đặt garô và nới garô hàng giờ. Tắc thở hoàn toàn: Nạn nhân trong tình trạng tắc thở hoàn toàn do có dị vật ở đƣờng thở. Nạn nhân tỉnh nhƣng không thở nữa. Nếu không thực hiện sơ cấp cứu ngay thì tính mạng nạn nhân sẽ bị đe doạ. Do vậy, chúng ta phải tiến hành làm thông đƣờng thở ngay lập tức. Những điều cần làm: * Thực hiện ngay kỹ năng làm thông đƣờng thở: Vỗ vào lƣng nạn nhân và dùng thủ thuật Hemlic đứng. THL © 2010 Page 8 Khó thở: Nạn nhân có dấu hiệu xấu về chức năng của phổi. Nạn nhân thở nhanh gấp, tiếng thở khò khè, môi và móng tay thâm tím, toát mồ hôi. Những điều cần làm: * Đặt nạn nhân ở tƣ thế nghỉ nửa nằm nửa ngồi, hoặc ngồi. THL © 2010 Page 9 Choáng: Nạn nhân có dấu hiệu xấu về chức năng của tim, nạn nhân xanh tái, khát nƣớc và toát mồ hôi. Những điều cần làm: * Đặt nạn nhân ở tƣ thế nằm kê cao chân để tăng lƣợng máu chảy về đầu nạn nhân. THL © 2010 Page 10 THL © 2010 Page 11 Chấn thƣơng: Các vết thƣơng nặng Khi nạn nhân có một vết thƣơng nặng, mà vết thƣơng này có thể dẫn đến chảy máy bên trong cơ thể, hoặc là khó thở hoặc là nguyên nhân dẫn đến nhiễm trùng và trầm trọng hơn. Do vậy, chúng ta phải đặt nạn nhân ở tƣ thế hồi phục và gọi cấp cứu. Vết thƣơng vùng ngực: Nếu nạn nhân có vết thƣơng nặng ở vùng ngực thì sẽ đặt nạn nhân ở tƣ thế nửa nằm nửa ngồi hoặc ngồi để nạn nhân dễ thở. Xem ảnh tƣ thế nửa nằm nửa ngồi trang 14. Những điều cần làm : * Đặt nạn nhân ở tƣ thế nửa nằm nửa ngồi. * Nếu vết thƣơng hở: Nút kín vết thƣơng và băng lại. Vết thƣơng hở bụng : Nếu nạn nhân có vết thƣơng nặng ở vùng bụng thì sẽ đặt nạn nhân nằm ngửa, hai đầu gối co lại làm giãn cơ vùng bụng và giảm đau Những điều cần làm: THL © 2010 Page 12 * Giữ nguyên vết thƣơng, dùng bát hoặc hộp cứng úp lên vết thƣơng và băng lại. * Để nạn nhân nằm ngửa hai đầu gối co lại. * Để nạn nhân nằm ngửa hai đầu gối co lại, kê chân lên cao. Vết thƣơng sọ não hở: Những điều cần làm : THL © 2010 Page 13 * Giữ nguyên vết thƣơng, dùng bát úp lên và băng lại. * Kỹ năng băng bó vết thƣơng Gãy xƣơng Nạn nhân bị chấn thƣơng ở xƣơng và khớp. Các thao tác không đúng sẽ làm cho nạn nhân rất đau, chấn thƣơng sẽ phức tạp và trầm trọng hơn. Do vậy, cần phải cố định vùng bị chấn thƣơng. Cần phải cố định vùng nghi ngờ bị gãy xƣơng bằng việc cố định phần khớp ở phía trên và phía dƣới vùng bị thƣơng. Nếu nạn nhân bị chấn thƣơng ở lƣng, cổ và/hay đầu, các thao tác không đúng có thể làm phức tạp thêm và gây hậu quả nghiêm trọng nhƣ bị liệt. Do vậy, cần phải tránh mọi cử động và hai tay giữ chặt đầu nạn nhân. Việc di chuyển nạn nhân chỉ đƣợc tiến hành khi bắt buộc và phải giữ ổn định tối đa vùng đầu (đầu, cổ, phía trên phần lƣng). Kỹ năng cố định gãy xƣơng Cẳng tay Cẳng tay Cẳng chân THL © 2010 Page 14 Cẳng chân Đùi Đùi Cố định gãy xƣơng đùi không có nẹp THL © 2010 Page 15 Cố định gãy xƣơng đùi không có nẹp Những điều cần làm: * Dùng nẹp và dây buộc cố định phần trên và dƣới chỗ gẫy. * Nếu không có nẹp dùng các vật dụng thay thế hoặc dùng dây buộc tay cố định vào thân (nếu gãy tay) và buộc cố định chân gãy vào chân lành (nếu gãy chân). * Tổn thƣơng cột sống phải cố định phần cổ và lƣng rồi đặt lên cáng cứng. . Nạn nhân bất tỉnh Nạn nhân không còn tiếp xúc đƣợc nhƣng vẫn thở. Nếu đặt nạn nhân nằm ngửa, lƣỡi sẽ bị tụt vào trong và dịch nôn ở trong cổ họng sẽ làm nạn nhân khó thở và dẫn đến ngừng thở. Chúng ta phải làm thông ngay đƣờng thở và đặt nạn nhân ở tƣ thế nằm nghiêng an toàn. Phụ nữ mang thai đƣợc đặt ở tƣ thế nằm nghiêng bên trái để cho máu lƣu thông. Những điều cần biết: * Đặt nạn nhân ở tƣ thế nằm nghiêng an toàn, nửa ngƣời bị thƣơng sẽ ở phía dƣới. * Đối với phụ nữ mang thai đƣợc đặt ở tƣ thế nằm nghiêng bên trái. Đặt đầu ngửa về phía sau: THL © 2010 Page 16 nạn nhân bất tỉnh THL © 2010 Page 17 Móc di vật ra THL © 2010 Page 18 THL © 2010 Page 19 Tƣ thế nằm nghiêng an toàn Phần III: Vận chuyển nạn nhân Khi có sự hổ trợ để giúp đỡ nạn nhân (cấp cứu 115 hay giúp đỡ của ngƣời qua đƣờng, thân nhân nạn nhân), chuyển nạn nhân lên cáng sẽ đƣợc tiến hành bảo đảm an toàn cho vùng cột sống bởi 3 hay 4 ngƣời. Việc đặt nạn nhân lên cáng cho phép di chuyển nạn nhân ít bị cử động va chạm nhất ờ vùng lƣng. Các kỹ năng di chuyển nạn nhân phụ thuộc vào vết thƣơng của nạn nhân Phƣơng pháp bắc cầu Phƣơng pháp bắc cầu Phƣơng pháp Xúc thìa THL © 2010 Page 20 Bỏng Tác nhân gây bỏng có nhiều loại: - Bỏng do nhiệt thƣờng gặp nhất, chia thành 2 nhóm: do nhiệt khô (lửa, tia lửa điện, kim loại nóng chảy...) và do nhiệt ƣớt (nƣớc sôi, thức ǎn nóng sôi, dầu mỡ sôi, hơi nƣớc nóng...) - Bỏng do dòng điện chia thành 2 nhóm: do luồng điện có hiệu điện thế thông dụng (1000V). Sét đánh cũng gây bỏng do luồng điện có hiệu điện thế cao. - Bỏng do hóa chất gồm các chất oxy hóa, chất khử oxy, chất gặm mòn, chất gây độc cho bào tƣơng, chất làm khô, chất làm rộp da... Trong thực tế lâm sàng chia thành 2 nhóm: nhóm acid và nhóm chất kiềm. Bỏng do vôi tôi nóng là loại bỏng vừa do sức nhiệt vừa do chất kiềm. - Bỏng do các bức xạ: tia hồng ngoại, tia tử ngoại, tia Rơnghen, tia laser, hạt cơ bản b , g . Lâm sàng: - Viêm da cấp do bỏng (viêm vô khuẩn cấp): bỏng độ I. - Bỏng biểu bì: bỏng độ II - Bỏng trung bì thƣờng gọi là bỏng trung gian, bỏng độ II sâu, bỏng độ III, bỏng độ IIIA, bỏng độ III nông. - Bỏng toàn bộ lớp da còn gọi là bỏng độ III, IIIB, III sâu, bỏng độ IV). Hoại tử ƣớt, hoại tử khô. - Bỏng sâu các lớp dƣới da còn gọi là bỏng độ III, III sâu, độ IV sâu dƣới lớp cân, độ IV, độ V, độ VI, độ VII. Có nhiều cách tính diện tích bỏng, trong thực tế lâm sàng, để dễ nhớ, dễ tính, thƣờng kết hợp các cách sau: - Phƣơng pháp con số 9: đầu mặt cổ 9%, 1 chi trên 9%, ngực bụng 18%, lƣng 18%, 1 chi dƣới 18%, bộ phận sinh dục và tầng sinh môn 1%. - Phƣơng pháp dùng bàn tay ƣớm (bàn tay ngƣời bị bỏng): tƣơng ứng với 1% hoặc 1,25% diện tích cơ thể ngƣời đó. - Phƣơng pháp tính theo con số 1, 3, 6, 9, 18: diện tích khoảng 1%: gan bàn tay (hoặc mu), cổ, gáy, tầng sinh môn - sinh dục ngoài; diện tích khoảng 3%: bàn chân, da mặt, da đầu, cẳng tay, cánh tay, mông (một); diện tích khoảng 6%: cẳng chân, 2 mông; diện tích khoảng 9%: đùi, chi trên; diện tích khoảng 18%: chi dƣới, lƣng - mông, ngực - bụng. Xử trí: - Khi bị bỏng, cần tìm mọi cách để sớm loại trừ tác nhân gây bỏng (dập lửa, cắt cầu dao điện...). Ngay sau khi bị bỏng, ngâm vùng ngay vào nƣớc lạnh (16-20 o C hoặc dƣới vòi nƣớc chảy từ 20-30'. Nếu chậm ngâm lạnh, sẽ ít tác dụng. Nếu bỏng do hóa chất thì phải rửa các hóa chất bằng nƣớc và chất trung hòa. Bǎng ép vừa phải các vết thƣơng bỏng để hạn chế phù nề, thoát dịch huyết tƣơng. Cho uống nƣớc chè nóng, nƣớc đƣờng, Oresol..., thuốc giảm đau. ủ ấm nếu trời rét. Vận chuyển nhẹ nhàng, tránh va chạm gây thêm đau. - Đối với bỏng mắt, cần xử trí kịp thời để bảo vệ mắt: rửa mắt nhiều lần bằng nƣớc lạnh sạch, vô khuẩn và gửi đến chuyên khoa mắt. - Cần chẩn đoán sớm diện bỏng và độ sâu của bỏng để xử trí phù hợp. Có thể dùng chỉ số Frank để tiên lƣợng bỏng: cứ 1% diện bỏng nông là 1 đơn vị, 1% diện bỏng sâu là 3 đơn vị. Khi chỉ số Frank từ 30-70 là sốc nhẹ, từ 70-100: sốc vừa, trên 110: sốc nặng và rất nặng. Đối với trẻ em và ngƣời già dù diện bỏng không lớn (<10% diện tích cơ thể), vẫn có thể xuất hiện các rối loạn bệnh lý của bệnh bỏng. Với phụ nữ có thai cần theo dõi thai nhi, khám sản khoa và chuyển ngay đến chuyên khoa bỏng. THL © 2010 Page 21 - Điều trị sốc bỏng ở bệnh viện cơ sở cần tiến hành ở buồng hồi sức cấp cứu. Phục hồi kịp thời và đủ khối lƣợng máu lƣu hành hữu hiệu bằng cách truyền dịch theo đƣờng tĩnh mạch (dịch keo, dịch điện giải, huyết thanh ngọt đẳng trƣơng). Có thể dùng cách tính: dịch mặn đẳng trƣơng 1ml x kg thể trọng x diện bỏng %; dịch keo 1ml x kg thể trọng x thể trọng x diện bỏng % và cộng với 2000ml dịch glucose 5%. Cách tính thuận lợi cho ứng dụng lâm sàng: trong 24 giờ đầu lƣợng dich truyền chữa sốc bỏng không quá 10% thể trọng. Liều truyền trong 8 giờ đầu từ 1/2-1/3 liều, 16 giờ sau: 1/3-1/2 liều. Trong ngày thứ 2 và thứ 3 (nếu còn sốc), lƣợng dịch truyền chữa sốc bỏng không quá 5% thể trọng bệnh nhân (cho mỗi ngày). - Nếu vô niệu, dùng thuốc lợi niệu lasix, manitol, nếu bị toan chuyển hóa, dùng dung dịch kiềm natri bicarbonat. Sau khi thoát sốc, điều trị toàn thân, chống nhiễm độc bỏng cấp, dự phòng và điều trị nhiễm khuẩn tại vết bỏng và toàn thân, nâng cao sức chống đỡ của cơ thể bằng truyền máu, dùng kháng sinh, nuôi dƣỡng, dự phòng và điều trị các biến chứng. - Tại vết bỏng: bỏng nông: dùng thuốc tạo màng (cao vỏ xoan trà, lá sim, sến, tràm, củ nâu...) sau khi làm vô khuẩn. Nếu bỏng sâu, từ tuần thứ 2 dùng thuốc rụng hoại tử, dung dịch kháng khuẩn, khi có mô hạt mổ ghép da các loại, dùng thêm bǎng sinh học, da nhân tạo nếu bỏng sâu, diện rộng. Với bỏng sâu, diện không lớn mà trạng thái cơ thể bệnh nhân tốt, có thể mổ cắt bỏ hoại tử và ghép da sớm ở các cơ sở chuyên khoa. - Với các di chứng bỏng (sẹo xấu, sẹo dính, sẹo lồi, sẹo co kéo, loét lâu liền...) cần đƣợc điều trị sớm bằng phẫu thuật tạo hình để phục hồi chức nǎng và thẩm mỹ. Các sẹo bỏng nứt nẻ, loét nhiễm khuẩn kéo dài cần đƣợc mổ ghép da để tránh bị ung thƣ da trên nền sẹo bỏng. Những sai lầm khi xử lý vết bỏng Bạn sẽ bôi kem đánh răng hay dội nước mắm vào vết thương khi bị bỏng?... Các kinh nghiệm dân gian này chỉ tổ làm vết bỏng nặng thêm. Theo bạn, khi bị bỏng, việc cần làm ngay là: Bôi kem đánh răng khi bị bỏng là sai lầm - Xát muối. - Dội nƣớc mắm. - Bôi kem đánh răng. - Bôi mỡ trăn. - Nhai đắp một số loại lá (nhƣ lá khoai lang, lá ổi non...). THL © 2010 Page 22 - Bôi mẻ. Nếu chọn một trong các giải pháp trên nghĩa là bạn đã xử trí sai. Theo tiến sĩ Nguyễn Văn Huệ, Phó giám đốc Viện Bỏng Quốc gia, cách xử trí duy nhất đúng khi bị bỏng là: Ngâm ngay vết thƣơng vào nƣớc lạnh sạch trong 30 phút. Vào mùa đông, thay vì ngâm, nên đắp khăn ƣớt lên vết thƣơng. Bƣớc tiếp theo là lấy gạc khô băng ép lên để tránh phồng rồi đến cơ sở y tế, tuyệt đối không bôi bất cứ cái gì. Theo tiến sĩ Huệ, dân gian thƣờng quan niệm khi bị bỏng thì không nên chạm vào nƣớc để tránh phồng. Điều này rất sai lầm, bởi nƣớc giúp hạ nhiệt tại chỗ, khiến tổn thƣơng không ăn sâu vào trong, giảm đau, giảm nguy cơ sốc. Nếu bỏng do axit, vôi tôi thì nƣớc giúp làm loãng các chất này. Nếu không ngâm nƣớc, nhiệt độ sẽ truyền qua da vào sâu các tổ chức bên trong, khiến tổn thƣơng càng trầm trọng, nguy cơ hoại tử rất cao. Rất ít người làm đúng Tiến sĩ Nguyễn Viết Lƣợng, Trƣởng phòng Kế hoạch tổng hợp Viện Bỏng Quốc gia, cho biết, chỉ khoảng 20-30% số bệnh nhân đƣợc xử trí đúng trƣớc khi đến bệnh viện. Số còn lại thƣờng làm sai hoặc không xử trí gì. Do đó mà khoảng 1/3 số ca bỏng đã trở nên trầm trọng hơn khi chuyển tuyến. Theo Tiến sĩ Lƣợng, ngay cả dân thành phố, thậm chí là trí thức cao cấp cũng không biết sơ cứu vết bỏng đúng cách. Ông Lƣợng từng gặp một bệnh nhi mà bố mẹ đều là tiến sĩ. Khi con bị bỏng, họ đã dội nƣớc mắm vào vết thƣơng trƣớc khi đƣa đến bệnh viện. Nhiều phụ huynh khác là giáo viên, nhà báo, nhà khoa học... cũng rất ngạc nhiên khi biết rằng bôi kem đánh răng, mỡ trăn, nƣớc mắm không phải là giải pháp đúng. Theo Tiến sĩ Nguyễn Văn Huệ, việc bôi nƣớc mắm, xát muối sẽ làm bệnh nhân đau đớn hơn, dễ bị sốc, chƣa kể nguy cơ nhiễm trùng. Còn kem đánh răng khi bôi lên vết thƣơng sẽ khiến bệnh nhân đã bỏng lửa lại thêm bị bỏng kiềm nữa. Tổn thƣơng sẽ sâu hơn và dễ hoại tử. Về mỡ trăn, vốn đƣợc y học cổ truyền coi là chữa bỏng hiệu nghiệm, Tiến sĩ Huệ cho biết nó cũng có tác dụng làm mát vết thƣơng nhƣng không đáng kể, thấp hơn nhiều so với nƣớc. Nếu chỉ bôi mỡ trăn, bệnh nhân đã bỏ lỡ cơ hội ngăn tổn thƣơng lan rộng bằng cách ngâm nƣớc mát. Ngoài ra, với làn da đang tổn thƣơng, việc bôi bất cứ cái gì cũng có thể mang đến nguy cơ nhiễm trùng. Các chuyên gia cũng lƣu ý, hiện có nhiều thày thuốc Đông y nhận chữa bỏng bằng các thuốc tạo màng. Phƣơng pháp này có hiệu quả với điều kiện là bỏng nhẹ và phải thực hiện đúng (vệ sinh, loại bỏ các tổ chức hoại tử trƣớc khi dùng thuốc). Nếu không, tổn thƣơng sẽ nặng thêm. Viện Bỏng Quốc gia đã tiếp nhận rất nhiều ca tai biến nghiêm trọng do dùng thuốc tạo màng không đúng. THL © 2010 Page 23 NGỘ ĐỘC RƢỢU Biểu hiện lâm sàng bằng triệu chứng kích thích, sau đến triệu chứng ức chế rồi hôn mê, hơi thở toàn mùi rượu, thở nhanh nông, tim đập nhanh, huyết áp hạ... Xử trí - Điều trị các rối loạn về tri giác, nếu rối loạn cao độ có thể gây liệt hô hấp. - Chống toan chuyển hóa. - Đề phòng hạ đường huyết thứ phát. - Rửa dạ dày bằng dung dịch natri bicarbonat, không dùng apomorphin. - Cho uống từ 1-2 giọt amoniac trong một cốc nước muối (hay cà phê) hoặc cho hít amoniac. - Trợ tim mạch. - Lợi tiểu: Lasix tiêm tĩnh mạch. - Nếu vật vã: cho an thần (cần thận trọng). - Trường hợp nặng: thở oxy, hô hấp hỗ trợ và cho thở nhiều để loại nhanh cồn ethylic. - Truyền glucose 10% 500ml, luân chuyển với dung dịch bicarbonat 14%o - 2 giờ 1 lần. - Đề phòng viêm phổi nếu hôn mê (kháng sinh). Sơ cấp cứu điện giật Điện giật có thể gây ra ngưng tim ngưng thở, làm nạn nhân tử vong đột ngột. Cấp cứu nạn nhân tại chỗ trong 5 phút đầu tiên là rất quan trọng nên được xem là thời gian vàng. THL © 2010 Page 24 Khi phát hiện nạn nhân bị điện giật, cần nhanh chóng tách nạn nhân khỏi nguồn điện. Xác định xem nạn nhân có bị ngưng tim ngưng thở để cấp cứu kịp thời. Bảo vệ vết bỏng cho sạch và gọi xe cấp cứu. Khi nạn nhân bị ngưng thở (quan sát thấy lồng ngực nạn nhân không phập phồng), ngay lập tức phải tiến hành hô hấp nhân tạo tại chỗ cho đến khi tự thở được hoặc xác định nạn nhân chắc chắn đã chết thì mới dừng lại. Cách hô hấp nhân tạo: để nạn nhân nằm ở nơi thoáng đãng, nới rộng quần áo và dây thắt lưng, đệm dưới cổ cho đầu hơi ngửa ra sau để đảm bảo đường hô hấp được thông thoáng, lấy dị vật trong miệng nạn nhân nếu có. Một tay bịt mũi nạn nhân, tay kia kéo hàm xuống dưới để miệng hở ra, ngậm chặt miệng nạn nhân rồi thổi liên tục hai hơi đối với người lớn, một hơi với trẻ em dưới 8 tuổi, sau đó để lồng ngực tự xẹp xuống rồi lại thổi tiếp. Người lớn và trẻ em trên 8 tuổi, mỗi phút phải thổi ngạt 20 lần. Trẻ dưới 8 tuổi, mỗi phút phải thổi ngạt 20-30 lần. Khi nạn nhân bị ngưng tim (áp tai vào lồng ngực không nghe tim đập và sờ mạch không thấy mạch đập), ngay lập tức phải tiến hành cấp cứu nạn nhân tại chỗ bằng cách bóp tim ngoài lồng ngực. Cách xoa bóp tim ngoài lồng ngực: để nạn nhân nằm trên mặt phẳng cứng, người tiến hành ép tim quỳ gối bên trái nạn nhân, hai bàn tay chồng lên nhau rồi để trước tim, tương ứng với điểm giữa hai núm vú hoặc khoang liên sườn 4-5 bên ngực trái, từ từ ấn sâu xuống khoảng 1/3 cho đến một nửa bề dày lồng ngực, sau đó nới lỏng tay ra. Người lớn và trẻ em trên 1 tuổi, số lần ép tim trong một phút khoảng 100 lần. Trẻ dưới 1 tuổi, mỗi phút ép tim hơn 100 lần. Trẻ sơ sinh có thể phải ép tim đến 120 lần/phút. Khi nạn nhân vừa ngưng tim vừa ngưng thở: phải kết hợp cả ép tim với thổi ngạt, cứ 15 lần ép tim lại thổi ngạt hai lần, với trẻ sơ sinh là ba lần ép tim thổi ngạt một lần. Cấp cứu say nắng, say nóng Say nóng, say nắng là tình trạng rối loạn thân nhiệt do phơi mình quá lâu dƣới ánh sáng mặt trời hoặc ở trong môi trƣờng nhiệt độ quá cao. Say nóng diễn tiến từ từ, thân nhiệt không vƣợt quá 400 C còn say nắng thì diễn tiến đột ngột, không có dấu hiệu báo trƣớc, kèm tổn thƣơng thần kinh và có thể gây tử vong. THL © 2010 Page 25 Các dấu hiệu và triệu chứng nhận biết say nóng, say nắng Say nóng:  Da lạnh, ẩm ƣớt và tái mét;  Vã mồ hôi;  Miệng khô;  Mệt mỏi, đuối sức;  Choáng váng;  Nhức đầu;  Buồn nôn, thỉnh thoảng nôn;  Vọp bẻ;  Mạch nhanh và yếu. Say nắng:  Sốt cao (39,80 C trở lên);  Da nóng, khô và đỏ;  Không có mồ hôi;  Thở sâu, mạch nhanh sau đó là thở nông và mạch yếu;  Đồng tử giãn;  Lú lẫn, mê sảng, ảo giác;  Co giật;  Bất tỉnh. Cần làm gì ngay? Bằng mọi cách làm giảm thân nhiệt ngƣời bị nạn.  Đƣa ngay ngƣời bị nạn vào chỗ mát, thoáng gió, quạt mát;  Đặt nằm ngửa, gác chân cao;  Nới lỏng, cởi quần áo; THL © 2010 Page 26  Cho uống nƣớc lạnh có muối;  Chƣờm lạnh bằng nƣớc đá khắp ngƣời (chú ý cổ, nách, háng) hoặc phun nƣớc lạnh vào ngƣời bệnh (tránh phun vào mũi, miệng). Khi nào phải gọi cấp cứu hoặc đƣa đến bệnh viện ngay?  Không uống nƣớc đƣợc;  Nôn liên tục;  Sốt tăng liên tục;  Bất tỉnh;  Kèm triệu chứng khác nhƣ đau ngực, khó thở, đau bụng; Tránh say nóng, say nắng bằng cách nào?  Không ở lâu, làm việc quá sức trong môi trƣờng quá nóng, nắng;  Trẻ em,ngƣời lớn tuổi, bệnh lâu ngày hoặc ngƣời uống rƣợu bia không phơi nắng, nóng lâu.  Vào mùa nắng, tiết nóng: - Uống nhiều nƣớc; - Mặc quần áo rộng, thoáng, thoát mồ hôi. THL © 2010 Page 27 NGỘ ĐỘC THUỐC NGỦ Liều gây chết của Gacdénal là 5g nhưng có người chỉ uống 1g cũng có thể tử vong; liều gây chết của cloran là 10g. Triệu chứng chính - Ngộ độc nhẹ: ngủ say, thở vẫn đều, mạch vẫn đều và rõ, còn phản ứng khi véo da, châm kim... các phản xạ gân và đồng tử giảm hoặc vẫn bình thường. - Ngộ độc nặng: hôn mê sâu, thở chậm và nông, khò khè, mạch nhanh, huyết áp hạ hoặc không đo được, đồng tử co và giảm phản xạ với ánh sáng, phản xạ gân mất. - Tìm barbituric trong nước tiểu (+). Nếu bệnh trạng kéo dài, sǎn sóc không tốt, bệnh nhân có thể liệt trung tâm hô hấp, phù phổi cấp, viêm phổi... Xử trí: - Theo dõi mạch, nhiệt độ, huyết áp, nhịp thở. - Xét nghiệm nước tiểu và chất nôn tìm barbituric (cần 50ml nước tiểu). - Xét nghiệm đường huyết, ure huyết, amoniac huyết, dự trữ kiềm, đường niệu, xeton niệu để loại các nguyên nhân hôn mê khác. - Rửa dạ dày: nếu uống thuốc ngủ chưa quá 6 giờ và bệnh nhân còn tỉnh. Nước rửa pha than hoạt tính: 30-40g trong 500ml nước. Nếu nạn nhân hôn mê sâu: đặt sonde nhỏ vào dạ dày, bơm dung dịch ngọt hoặc kiềm vào dạ dày mỗi lần khoảng 50ml rồi rút ra. Làm nhiều lần cho đến khi sạch dạ dày. - Loại chất độc: bằng cách cho đi tiểu nhiều. Xử trí theo 2 nhóm lớn barbituric: * Barbituric chậm và rất chậm: Phenobarbitan (Gacdenan), Barbitan (Verian). Các thuốc này thải qua thận và gây hôn mê kéo dài. Cho lợi tiểu thẩm thấu và kiềm hóa bằng truyền tĩnh mạch 6 lít dung dịch phối hợp luân chuyển: dung dịch bicarbonat 14%o - 50ml, dung dịch maniton 10% - 500ml, dung dịch glucose 10% - 500ml, thêm vào mỗi chai 1,5g KCl. Đối với phụ nữ và người cỡ nhỏ thì giảm lượng dịch đi một chút. Nếu nạn nhân có bệnh chống chỉ định cho lợi tiểu thẩm thấu như suy tim, suy thận thì nên chạy thận nhân tạo hoặc thẩm phân phúc mạc với các dung dịch kiềm. * Barbituric nhanh hoặc trung gian: loại thuốc này thải nhanh qua gan gây hôn mê ngắn nhưng nguy hiểm hơn do có thể gây ngừng thở nhanh. Xử trí gây đi tiểu không có lợi. Chỉ truyền dịch để giữ thǎng bằng nước và điện giải, nhưng phải sẵn sàng hô hấp hỗ trợ bằng máy hoặc thổi ngạt nếu bệnh nhân ngừng thở hoặc có rối loạn nhịp thở. THL © 2010 Page 28 Nếu không rõ nhiễm độc loại barbituric gì hoặc phối hợp nhiều loại thuốc: chỉ có cách là cho lợi tiểu thẩm thấu vì biện pháp này không gây nguy cơ gì lớn. - Chống trụy mạch: dùng Ouabain... nếu huyết áp tối đa <80mmHg thì truyền thêm Noradrenalin 2-4mg cho mỗi lọ dung dịch glucose 500ml (không pha vào các dung dịch có Na vì Noradrenalin sẽ bị phá hủy. - Thở oxy ngắt quãng từng 15' một: luôn luôn giữ cho đường thở lưu thông, thường xuyên hút đờm rãi, để bệnh nhân nằm đầu thấp và nghiêng đầu cho đờm rãi dễ chảy ra... Sẵn sàng chống ngừng thở, đặt nội khí quản và hô hấp hỗ trợ khi cần. - Chống nhiễm trùng đường hô hấp: cho kháng sinh. - Tiêm lobelin, vitamin... - Theo dõi dự trữ kiềm và điện giải đồ trong thời gian truyền dung dịch kiềm. - Chú ý việc nuôi dưỡng bệnh nhân, chống loét, giữ ấm nếu trời rét hoặc thân nhiệt thấp. VẾT THƢƠNG DO CÔN TRÙNG ĐỐT Khi bị ong chích nạn nhân thƣờng bị hoảng loạn hơn là nguy hiểm. Thời gian đầu có thể rất đau nhức kèm theo sƣng nhẹ. Tuy nhiên có một số ngƣời rất dị ứng với các loại chất độc này là nhanh chóng phát triển thành bệnh nguy hiểm, đó là sốt anaphylactic. Bạn không nên coi thƣờng nếu bị o ng đốt ở miệng hay cố họng vì sƣng phồng có thể làm nghẽn khí đạo. Những điều nên làm Làm giảm đau, giảm sƣng. Sắp xếp để đƣa nạn nhân đi bệnh việc nếu cần. Vết chích trên da Dùng nhíp lấy ngòi chích ra nếu còn. Đắp băng lạnh lên vết thƣơng để giảm đau, sƣng. Sau một hai ngày nếu vẫn còn bị sƣng hay có chiều hƣớng nặng thêm nên đƣa nạn nhân đi bác sĩ. Vết chích trên miệng Cho nạn nhân ngậm đá để giảm sƣng. Đƣa đi cấp cứu ngay. THL © 2010 Page 29 Vết ve cắn Ve là loài sinh vật nhỏ có hình thù giống con nhện thƣờng có trong đám cỏ hay vạt rừng. Chúng thƣờng bám vào động vật hay ngƣời để hút máu, đặc biệt là khi nó cắn không gây đau. Loại ve này lúc còn đói rất nhỏ và có thể không nhìn thấy đƣợc. Vùng da xung quanh vết cắn của chúng sẽ bị sƣng lên và có hình hạt đậu và có thể bị nhiễm trùng Cách gắp ve ra Do khi cắn, miệng ve bám chặt vào da nên bạn có thể dùng loại nhíp đầu nhọn gắp nó. Tuy nhiên bạn nên bẩy nó ra tốt hơn là kéo vì khi kéo mạnh ve sẽ bị đứt ra, đầu còn bám lại. CHẾT ĐUỐI, THẮT CỔ Trong chết đuối, bệnh nhân bị ngạt cấp do nƣớc tràn vào phế nang gây nên 2 rối loạn quan trọng: phù phổi cấp và thiếu oxy. Xử trí nhanh tại chỗ khi mới vớt ở nƣớc lên: vác xốc nạn nhân lên vai, để bụng tỳ đúng vào vai, đầu dốc ngƣợc xuống lƣng ngƣời vác, chạy tại chỗ khoảng 20-30 bƣớc cho nƣớc ở dạ dày, phổi, đƣờng khí đạo thoát ra, đồng thời cũng có tác dụng nhƣ làm hô hấp nhân tạo. Sau đó để nạn nhân nằm đầu thấp, móc sạch đờm rãi, thức ǎn, dị vật... thật khẩn trƣơng. Nguyên tắc - Phải giữ thông đƣờng thở - Kiên nhẫn hồi sinh nạn nhân - Nếu nạn nhân còn thở và tim còn đập nhƣng bất tỉnh: cho thở oxy, thuốc trợ tim mạch, dùng khǎn chà xát cho nóng ngƣời, tiêm kháng sinh đề phòng viêm phổi. - Nếu ngừng thở nhƣng tim còn đập: + Thổi ngạt THL © 2010 Page 30 + Đặt nội khí quản và thở oxy bằng máy hô hấp hỗ trợ bảo đảm trên 10 lít/phút với nhịp đều khoảng 16-20 lần. Chú ý hút đờm rãi. Dùng thuốc trợ tim mạch và kháng sinh nhƣ trên. - Nếu ngừng thở và ngừng tim: xem Ngừng tuần hoàn hô hấp - Tiêm thẳng vào tim 1 ống Ouabain 1/4mg Khi nạn nhân tỉnh: tiêm thuốc trợ tim, giãn phế quản Giữ thǎng bằng nƣớc và điện giải. Chú ý theo dõi tǎng gánh và phù phổi cấp. Nếu có toan chuyển hóa cho THAM hoặc dung dịch Bicarbonat. Cho kháng sinh phòng viêm phổi. Sơ cứu kịp thời để không chết vì sặc thức ăn Ăn uống vội vàng đôi khi làm sặc thức ăn vào phổi. Nếu không kịp thời lấy thức ăn ra sẽ gây tắc đường thở, dẫn đến suy hô hấp cấp, suy tuần hoàn và tử vong. Tai nạn sặc thức ăn có thể xảy ra với bất kỳ ai. Tuy nhiên, thường gặp nhất là ở những người già và trẻ em, do khả năng tự ăn uống của những người này kém, phải nhờ người khác hỗ trợ. Khi sặc thức ăn, nếu làm cho nạn nhân có phản xạ ho sặc tống được thức ăn ra ngoài thì sẽ qua khỏi cơn nguy hiểm ngay từ ở nhà. Vì vậy cấp cứu tại chỗ, tại nơi xảy ra tai nạn trong những phút đầu tiên là cực kỳ quan trọng. Ăn sao tránh bị sặc? Đối với người già: không cho ăn vật cứng và khi ăn nên ở tư thế ngồi. Tốt nhất ăn thức ăn xay nhừ. Khi uống nước hoặc ăn thức ăn quá lỏng (dễ gây sặc) phải vừa uống vừa cúi đầu và uống từ THL © 2010 Page 31 từ. Người chăm sóc chú ý động tác nuốt thức ăn hay thức uống của người già. Sau khi người già nuốt xong muỗng trước mới tiếp tục đút muỗng tiếp theo. Đối với trẻ nhỏ: đút thức ăn từng muỗng nhỏ, từ từ, chọn thức ăn phù hợp, nhất là thời kỳ ăn giặm. Thận trọng khi trẻ vừa ăn vừa khóc, nói chuyện, hoặc la hét, chơi đùa nghịch ngợm. Trẻ chưa mọc đủ răng hàm thì không cho ăn thức ăn cứng như hạt đậu phộng, trái cây sống còn cứng như mận, ổi, củ cải, càrốt sống... Làm gì khi sặc thức ăn? Đối với người già: nếu còn tỉnh, sử dụng thủ thuật Heimlich đứng; nếu hôn mê sử dụng thủ thuật Heimlich nằm (xem ảnh). Đối với trẻ nhỏ: nếu là trẻ sơ sinh và dưới 12 tháng tuổi, dùng phương pháp vỗ lưng ấn ngực (xem ảnh). Đối với trẻ lớn, dùng thủ thuật Heimlich như với người già. Nếu trẻ ngưng thở thì người ứng cứu phải thổi hơi của mình vào mũi, miệng trẻ (hà hơi thổi ngạt) kết hợp vỗ lưng ấn ngực. Thổi ngạt một cái, ấn ngực năm cái (với trẻ sơ sinh thì một lần thổi, ba lần ấn ngực). Trường hợp trẻ ngưng thở, ngưng tim thì hà hơi thổi ngạt kết hợp ấn ngực. Tránh dùng ngón tay móc dị vật. Sau khi đã sơ cứu để lấy thức ăn ra hoặc nạn nhân đã thở lại được, nên chuyển ngay nạn nhân đến bệnh viện để có những xử trí sặc triệt để hơn. Thủ thuật Heimlich đứng: người ứng cứu ra phía sau lưng nạn nhân, ngực áp vào lưng nạn nhân. Vòng hai tay ngang thắt lưng. Đặt nắm tay trái (bàn tay trái nắm lại như nắm đấm) lên bụng nạn nhân ngay dưới mũi xương ức, bàn tay phải xoè ra đặt chồng lên nắm tay trái. Đột ngột ấn mạnh ra sau, hướng lên trên (dồn hơi trong bụng lên ngực để tống dị vật ra ngoài). Làm nhanh năm cái. THL © 2010 Page 32 Thủ thuật Heimlich nằm: người ứng cứu quỳ gối xuống và đặt hai bàn tay chồng lên nhau vùng dưới xương ức của người già. Đột ngột ấn mạnh ra sau và trước. Làm nhanh năm cái. Thủ thuật vỗ lưng ấn ngực: Đặt nạn nhân nằm sấp, đầu thấp xuống trên cánh tay của người ứng cứu rồi dùng lòng bàn tay còn lại vỗ lưng năm cái thật mạnh và nhanh ngay vùng giữa hai xương bả vai. Sau đó lật ngửa nạn nhân lại, dùng hai ngón tay ấn ngực năm cái. Tiếp tục thực hiện lại quy trình trên 5 – 6 lần cho đến khi nạn nhân thở dễ. Ong đốt Triệu chứng: - Đau dữ dội và sƣng đỏ, phù tại chỗ bị ong đốt. - Triệu chứng nặng hơn nếu bị nhiều ong đốt một lúc hoặc nọc ong vào đúng mạch máu. Có thể khó thở, tức ngực, chóng mặt, mạch nhanh, huyết áp hạ, có khi co giật (nhất là trẻ em). Có khi có phản ứng dị ứng: nổi mẩn, phù Quinck... - Nếu bị đốt vào miệng, vào họng có thể bị ngạt thở. Xử trí: THL © 2010 Page 33 - Rút kim châm của ong. - Rửa vết đốt bằng dung dịch thuốc tím 0,1-0,2%. - Chấm vết đốt bằng dung dịch amoniac hoặc một dung dịch kiềm. - Tiêm hydrocortisol 2-3ml tại chỗ đốt. - Chống sốc dị ứng. - Trợ tim mạch: long não, coramin... - Nếu bị ong đốt vào miệng gây phù thanh môn: cho corticoid, nếu ngạt: mở khí quản. NGỘ ĐỘC THUỐC TRỪ SÂU PHOSPHO HỮU CƠ Có 4 loại phospho hữu cơ đã và đang được sử dụng phổ biến ở nước ta là: - Thiophốt (Parathion) màu vàng, mùi tói, dạng nhũ tương. - Vôfatốc (methyl parathion) màu nâu thẫm (dạng nhũ tương) hoặc màu đó tươi (dạng bột) mùi có thối. - Dipterec dạng tinh thể, màu trắng. - DDVP (dichloro diphenyl vinyl phosphat) màu vàng nhạt. Phospho hữu cơ xâm nhập vào cơ thể qua đường hô hấp, da, niêm mạc (nhất là mắt) và chủ yếu là đường tiêu hóa (do bàn tay dính thuốc, ǎn uống nhầm, tự tử, đầu độc...). 4 loại phospho hữu cơ đã và đang được sử dụng phổ biến ở nước ta là: THL © 2010 Page 34 - Thiophốt (Parathion) màu vàng, mùi tói, dạng nhũ tương. - Vôfatốc (methyl parathion) màu nâu thẫm (dạng nhũ tương) hoặc màu đó tươi (dạng bột) mùi có thối. - Dipterec dạng tinh thể, màu trắng. - DDVP (dichloro diphenyl vinyl phosphat) màu vàng nhạt. Phospho hữu cơ xâm nhập vào cơ thể qua đường hô hấp, da, niêm mạc (nhất là mắt) và chủ yếu là đường tiêu hóa (do bàn tay dính thuốc, ǎn uống nhầm, tự tử, đầu độc...). Triệu chứng ngộ độc phospho hữu cơ: có 2 nhóm triệu chứng chính: - Giống muscarin: kích thích hệ thần kinh phó giao cảm, gây: * co đồng tử (có khi co nhó như đầu đinh, * tǎng tiết (vã mồ hôi, nhiều nước bọt), * tǎng co bóp ruột: đau bụng, nôn mửa, * co thắt phế quản: tím tái, phù phổi, có thể liệt hô hấp, * hạ huyết áp. - Giống nicotin: kích thích các hạch thần kinh thực vật và hệ thần kinh trung ương. * giật cơ, co cơ: co giật mi mắt, cơ mặt, rút lưỡi, co cứng toàn thân... * rối loạn phối hợp vận động... * hoa mắt, chóng mặt, run, nói khó, nhìn lóa, nặng thì hôn mê. Thường thì chẩn đoán không khó, nếu là vô tình bị ngộ độc, thì triệu chứng quan trọng và khá đặc trưng là đồng tử co nhỏ, vã mồ hôi và nước bọt tiết nhiều... - Xét nghiệm máu: hoạt độ men cholinesterase bình thường ở nam giới là 2,54 ? 0,53 micromol, nữ giới: 2,18 ? 0,51 micromol. Nếu giảm 30% là nhiễm độc nhẹ, giảm 50%: nhiễm độc vừa, giảm trên 70% là nhiễm độc nặng. - Xét nghiệm nước tiểu định lượng paranitrophenol: chỉ có trong nước tiểu người ngộ độc Thiôphốt và Vôfatốc. Xử trí Phải rất khẩn trương, sớm phút nào lợi phút ấy. - Nếu do uống: bệnh nhân còn tỉnh: ngoáy họng gây nôn, đồng thời cho uống nhiều nước để hòa loãng chất độc. Rửa dạ dày trước 6 giờ, mỗi lần rửa dùng THL © 2010 Page 35 khoảng 20-30 lít nước sạch (đun ấm nếu trời rét), sau 3 giờ phải rửa lại. Hòa vào mỗi lít nước 1 thìa cà phê muối và 1 thìa to (20g) than hoạt tính. Sau mỗi lần rửa, cho vào dạ dày 200ml dầu parafin (người lớn) và 3ml/kg thể trọng (trẻ em). - Nếu hấp thụ qua da: bỏ hết quần áo bị nhiễm và rửa da bằng nước và xà phòng. - Nếu nhiễm vào mắt: rửa mắt bằng nước trong 10'. - Hồi sức: sulfat atropin liều cao: giải quyết triệu chứng nhiễm độc giống muscarin. Phải cho đầu tiên, tiêm ngay tức khắc khi xác định là ngộ độc phospho hữu cơ. Tiêm atropin ngay sau khi đặt nội khí quản và hô hấp hỗ trợ. * Trường hợp ngộ độc nặng: tiêm tĩnh mạch 2-3mg, sau đó cứ cách 10' lại tiêm một lần cho đến khi đồng tử bắt đầu giãn thì chuyển sang tiêm dưới da, cứ cách 30' lại tiêm 1-2mg cho đến khi tỉnh lại và đồng tử trở lại bình thường. Tổng liều có thể tới 20-60mg. Liều thường dùng: 24mg/24h. * Ngộ độc vừa: tiêm dưới da 1-2mg, cứ 15-30' một lần. Tổng liều 10-30mg. * Ngộ độc nhẹ: tiêm dưới da 0,5-1mg, 2 giờ 1 lần. Tổng liều 3-9mg. Theo dõi chặt chẽ nạn nhân trong khi dùng atropin, chú ý triệu chứng nhiễm độc atropin: khô niêm mạc, da khô, đó, đồng tử giãn to, nhịp tim nhanh. Nếu nặng: triệu chứng kích thích mạnh, mê sảng... thì phải ngừng atropin. - Dung dịch PAM 2,5% (biệt dược Pralidoxime, Contrathion) giúp phục hồi hoạt tính men cholinesterase. Chỉ dùng trước 36 giờ kể từ khi nhiễm độc, dùng sau 36 giờ ít hiệu quả. Liều dùng: lúc đầu tiêm tĩnh mạch 1-2g, sau đó nhỏ giọt tĩnh mạch mỗi giờ 0,5g hoặc cách 2-3 giờ tiêm tĩnh mạch 1 lần 0,5-1g. Tổng liều tối đa là 3000mg. Tiêm tĩnh mạch rất chậm 200-500mg trong 5-10 phút. Dùng đúng chỉ định và đúng liều, tiến triển tốt rất nhanh: giảm hôn mê, vật vã, giảm mất phản xạ và rút ngắn thời gian điều trị. - Truyền dung dịch glucose, thở oxy, hô hấp hỗ trợ, chống co giật, kháng sinh... - Chống chỉ định: morphin, aminophyllin. - Chế độ dinh dưỡng: kiêng mỡ, sữa. Nuôi dưỡng qua đường tĩnh mạch trong vài ngày đầu. Khi bệnh đã ổn định, có thể cho ǎn đường và đạm qua sonde. Khi bị chó cắn THL © 2010 Page 36 Bệnh dại không chỉ là nỗi sợ hãi cho các nạn nhân bị súc vật nghi dại cắn mà còn là nỗi bận tâm của những nguời làm công việc phòng chống bệnh dại. Tại sao còn tồn tại một vấn đề nghiêm trọng như vậy khi từ 100 năm nay đã có vaccin phòng chống bệnh dại? Điều này một mặt là vấn đề nhận thức của mọi người trong việc điều trị sau khi bị súc vật nghi dại cắn. Một vaccin dù cho đƣợc chứng minh là hiệu quả nhất cũng không cứu đƣợc bệnh nhân nếu họ đến chích trễ, việc xử lý vết thƣơng không đầy đủ, vết thƣơng quá gần thần kinh trung ƣơng mà lại thiếu huyết thanh dại phối hợp với vaccin. Ngoài ra sự suy giảm miễn dịch chung của cơ thể do đang mắc các bệnh kinh niên nhƣ viêm gan, xơ gan hay đang điều trị các thuốc corticoid gây giảm đáp ứng miễn dịch kéo dài cũng góp phần làm giảm hiệu quả của vaccin. Nên rửa sạch vết thƣơng với thật nhiều nƣớc và xà bông, sau đó sát trùng bằng cồn iod, đi chích vaccin ngay trong những giờ đầu tiên là biện pháp hữu hiệu nhất ngăn cản virus dại xâm nhập vào hệ thần kinh trung ƣơng. Trong một cuộc điều tra nhỏ, chỉ có 16/48 (33,33%) ngƣời đến chích trong vòng 24 giờ; 5/48 (10,42%) sau 48 giờ và 27/48 (56%) đến chích sau 3 ngày. Loại vaccin fuenzalida theo sơ đồ chích và cách chích cần ít nhất là 15 ngày để tạo một mức kháng thể bảo vệ trên 0,5 UI/ml. Nhƣ vậy là do với những vết thƣơng sâu và ở vùng trên của thân thể, việc đi chích vaccin ngay sau khi bị cắn là điều vô cùng quan trọng. Thêm nữa, rất cần một sự phối hợp điều trị của huyết thanh kháng dại có chất lƣợng tốt và đúng cách để bảo vệ tính mạng bệnh nhân. Những trƣờng hợp chết vì bệnh dại bệnh nhân bỏ qua việc đi chích vaccin (từ 77 - 94,6%) hoặc 2 - 3 ngày sau mới đi chích. Bệnh dại có tỷ lệ tử vong cao khi đã lên cơn, bắt buộc chúng ta phải có ý thức đề phòng mà khâu quan trọng nhất là đàn súc vật nuôi phải đƣợc bảo vệ đầy đủ bằng vaccin. Ngoài ra cần khuyến cáo nên chích phòng vaccin cho các nhân viên phòng thí nghiệm làm việc với virus dại và kiểm tra hiệu giá kháng thể. Những ngƣời có nguy cơ cao nhƣ các nhân viên thú y, chăn nuôi, công nhân lâm nghiệp, các nhân viên y tế làm việc tại các khoa lây... nên áp dụng biện pháp phòng ngừa. Sơ cứu nạn nhân bị trật khớp Trật khớp có thể xảy ra ở bất kỳ khớp nào. Nếu nghi ngờ có trật khớp nên gọi ngay cấp cứu. Trong khi chờ đợi chở đi cấp cứu bạn có thể làm những việc sau đây - Đừng di chuyển khớp. - Cố định tư thế mà khớp đang ở vị trí đó ví dụ trật khớp khuỷu, nạn nhân sẽ có tư thế khuỷu gấp. Bạn dùng một miếng vải hay cái áo cố định khuỷu vào thân người. Nói chung trật khớp vùng tay có thể cố định bằng cách cột tay vào thân người, dùng chính thân người làm vật cố định nâng đỡ cho tay. THL © 2010 Page 37 - Nếu là ở chân thì có thể cột hai chân lại với nhau, dùng chân lành làm nẹp cố định cho chân bị tai nạn - Đừng cố gắng nắn khớp. Bạn có thể làm cho tình hình xấu đi nếu bạn không biết cách nắn. - Chườm lạnh lên khớp bị trật nhằm tránh sưng phù. Không nhất thiết là phải chườm đá trực tiếp lên da mà nên chườm qua lớp băng hay áo mà bạn đang dùng để cố định chi bị trật khớp. - Một số khớp bị trật có nguy cơ tổn thương mạch máu cao như khớp gối. Bạn nên hỏi thăm nạn nhân xem có bị lạnh chân, tê hay nhìn thấy chân tím hay không vì đây là những dấu hiệu báo hiệu tình trạng mạch máu có thể bị tổn thương. NGỘ ĐỘC THỰC PHẨM A. Các nguyên nhân gây ngộ độc thực phẩm ? {mosimage}Thực phẩm rất dễ bị ô nhiễm bởi các tác nhân sinh học, các chất độc hại hóa học, độc hại vật lý có thể gây ngộ độc nguy hiểm và ảnh hưởng tới sức khỏe người tiêu dùng. 1. Các tác nhân sinh học chính gây ô nhiễm bao gồm: vi khuẩn, nấm mốc, vi rút và ký sinh vật · Vi khuẩn có ở mọi nơi xung quanh chúng ta. Phân nƣớc thải, rác bụi, thực phẩm tƣơi sống là ổ chứa của nhiều loại vi khuẩn gây bệnh. Trong không khí và ngay ở trên cơ thể ngƣời cũng có hàng trăm loại vi khuẩn, cƣ trú ở da (đặc biệt là ở bàn tay), ở miệng, ở đƣờng hô hấp, đƣờng tiêu hóa, bộ phận sinh dục, tiết niệu. Thức ăn chín để ở nhiệt độ bình thƣờng là môi trƣờng tốt cho vi khuẩn trong không khí xâm nhập và phát triển rất nhanh, đặc biệt các thức ăn còn thừa sau các bữa ăn chỉ cần một vài giờ là số lƣợng vi khuẩn có thể sinh sản đạt đến mức gây ngộ độc thực phẩm. · Nấm mốc thường gặp trong môi trường sống, nhất là ở trong các lợi ngũ cốc, quả hạt có dầu dự trữ trong điều kiện khí hậu nóng ẩm như ở nước ta. Nấm mốc gây hư hỏng thực phẩm, một số loại còn sản sinh ra các độc tố nguy hiểm. Aflatoxin là độc tố vi nấm được biết rõ nhất do nấm Aspergillus Flavus và Aspergillus Parasiticus sản sinh ra trong ngô, đậu và lạc ẩm mốc có thể gây ung thư gan. · Vi rút gây ngộ độc thực phẩm thường có trong ruột người. Các nhuyễn thể sống ở vùng nước ô nhiễm, rau quả tưới nước có phân tươi hoặc các món rau sống chuẩn bị trong điều kiện thiếu vệ sinh thường hay bị nhiễm vi rút bại liệt, vi rút viêm gan. - Virút có thể lây truyền từ phân qua tay người tiếp xúc hoặc từ nước bị ô nhiễm phân vào thực phẩm, với một lượng rất ít virút đã gây nhiễm bệnh cho người. Virút nhiễm ở người có thể lây sang người khác trước khi phát bệnh. THL © 2010 Page 38 · Ký sinh vật thường gặp trong thực phẩm là giun sán. Người ăn phải thịt có ấu trùng sán dây trong thịt bò (sán dây bò), trong thịt lợn (thịt lợn gạo) chưa nấu chín, khi vào cơ thể thì ấu trùng sẽ phát triển thành sán trưởng thành ký sinh ở đường tiêu hóa và gây rối loạn tiêu hóa. - Khi ăn cá nước ngọt như cá diếc, cá rô, cá chép, cá trôi có nang trùng sán lá gan nhỏ chưa nấu chín thì nang trùng chuyển tới ống mật, lên gan và phát triển ở gan thành sán trưởng thành gây tổn thương gan mật - Nếu ăn phải tôm, cua có nang trùng sán lá phổi chưa nấu chín hoặc uống nước có nang trùng thì chúng sẽ xuyên qua thành ruột và qua cơ hoành lên phổi, phát triển thành sán trưởng thành gây viêm phế quản, đau ngực, ho khạc ra máu nguy hiểm. Bệnh do giun xoắn cũng bởi tập quán ăn thịt tái, nem bằng thịt sống, ăn tiết canh có ấu trùng gây nhiễm độc, dị ứng, sốt cao, liệt cơ hô hấp có thể dẫn đến tử vong. 2. Những độc hại hóa học thường gây ô nhiễm trong thực phẩm như: · Các chất ô nhiễm trong công nghiệp và môi trường như: các dioxin, các chất phóng xạ, các kim loại nặng (chì, thuỷ ngân, asen, cadimi) · Các chất hoá học sử dụng trong nông nghiệp: thuốc bảo vệ thực vật, động vật, thuốc thú y, chất tăng trưởng, phân bón, thuốc trừ giun sán và chất hun khói. · Các chất phụ gia sử dụng không đúng qui định: các chất tạo màu, tạo mùi, tạo ngọt, tăng độ kết dính, ổn định, chất bảo quản, chất chống ôxy hóa, chất tẩy rửa và các hợp chất không mong muốn trong vật liệu bao gói, chứa đựng thực phẩm. · Các chất độc hại tạo ra trong quá trình chế biến thịt hun khói, dầu mỡ bị cháy khét, các hợp chất tạo ra do phản ứng hóa học trong thực phẩm, sự sản sinh độc tố trong quá trình bảo quản, dự trữ bị nhiễm nấm mốc (độc tố vi nấm) hay biến chất ôi hỏng. - Các độc tố tự nhiên có sẵn trong thực phẩm như mầm khoai tây, sắn, đậu mèo, măng, nấm độc, cá nóc, cá cóc - Các chất gây dị ứng trong một số hải sản, nhộng tôm các độc hại nguồn gốc vật lý như các mảnh thuỷ tinh, gỗ, kim loại, đá sạn, xương, móng, lông, tóc và các vật lạ khác lẫn vào thực phẩm cũng gây nguy hại đáng kể như gãy răng, hóc xương, tổn thương niêm mạc dạ dày, miệng B. Biểu hiện của ngộ độc thực phẩm TÓM TẮT MỘT SỐ NGỘ ĐỘC THỰC PHẨM THƯỜNG GẶP THL © 2010 Page 39 NGUYÊN NHÂN THỰC PHẨM TRIỆU CHỨNG NGỘ ĐỘC Salmonella Trứng, thịt gia cầm nấu chưa chín. Sốt, tiêu chảy, đau bụng, nôn. Campylobater Sữa tươi, nước chưa khử trùng hoặc đun sôi, thịt gia cầm nấu chưa chín Buồn nôn, đau bụng, tiêu chảy, phân có máu. V. cholerae (phẩy khuẩn tả) Sử dụng nguồn nước ô nhiễm để làm kem, đá hoặc tưới rửa rau quả. Nấu chưa chín hoặc ăn sống cá, nhuyễn thể sống ở nguồn nước bị ô nhiễm. Tiêu chảy phân lỏng nhiều nước kèm theo nôn và đau bụng. Clostridium botulinum(vikhuẩn kị khí) Thực phẩm đóng hộp bị ô nhiễm trong quá trình chế biến: cá, thịt, các loại rau. Giảm trương lực cơ, đặc biệt là ở mắt (nhìn mờ) và ở phổi (gây khó thở). Escherichia Coli Thịt, cá, rau, sữa tưới, nước bị ô nhiễm phân người. Tiêu chảy, có loại gây triệu chứng giống hội chứng lỵ hoặc phân có máu, bệnh tả. Staphylococcus aureus (tụ cầu) Sản phẩm từ sữa, thịt gia cầm nấu chưa chín. Nhiễm trùng từ mũi, tay và da lây sang thức ăn chín. Buồn nôn, nôn, tiêu chảy, đau bụng, không sốt, mất nước nặng. Shigella (lỵ) Sữa và thực phẩm bị ẩm ướt, nhiễm phân. Tiêu chảy, phân có máu, sốt trong những trường hợp nặng. Bacillus cereus Ngũ cốc, rau, sữa, thịt quay hoặc rán. Đau bụng, tiêu chảy, buồn nôn. Thuốc bảo vệ thực vật Các loại rau quả tươi, chè Rối loạn thần kinh trung ương, nhức đầu, mất ngủ, giảm trí nhớ. Tổn thương não gây hội chứng nhiễm độc não do thuỷ ngân, photpho hữu cơ và clo hữu THL © 2010 Page 40 cơ. Ngoài ra còn ảnh hưởng đến tim mạch, hô hấp, tiêu hóa, máu, tiết niệu, nội tiết, tuyến giáp và có thể dẫn đến tử vong. Độc tố vi nấm (Aflatoxin) Đậu, lạc, vừng, hạt hướng dương và các loại ngũ cốc. Gây rối loạn chức năng gan có thể dẫn đến ung thư. Ngộ độc sắn Sắn Nhức đầu, chóng mặt, buồn nôn, các trường hợp ngộ độc nặng có biểu hiện rối loạn thần kinh, co cứng cơ giống như bệnh uốn ván và có thể dẫn tới tử vong sau khoảng 30 phút. Ngộ độc nấm Nấm độc màu vàng sáp (Gyromitra) Ngộ độc xảy ra 8-10 giờ sau khi ăn nấm. Đau bụng, nôn, sau đó xuất hiện vàng da và có thể dẫn đến tử vong. Nấm độc màu nhạt (Amanita phalloides) Xảy ra 9-11 giờ sau khi ăn, gây rối loạn dạ dày, ruột kèm theo đau bụng, vô niệu, gan to, hôn mê, có thể dẫn đến tử vong. Nấm đỏ (Amanita muscaria) Xảy ra sau 1-6 giờ sau khi ăn, gây toát mồ hôi, chảy dãi, nôn mửa, tiêu chảy, co đồng tử, trường hợp nặng có thể hôn mê, co giật. C. Một số biện pháp xử trí thông thường trong ngộ độc thực phẩm Khi có trư ờng hợp nhiễm độc, ngộ độc do thức ăn hoặc nghi ngờ bi ngộ độc thì nhất thiết phải đình chỉ việc sử dụng thức ăn đó và giữ toàn bộ thức ăn thừa, chất nôn, phân, n ước tiểu để gửi đi xét nghiệm, báo ngay cho cơ quan y tế gần nhất đến điều tra xác minh và kịp thời tổ chức cấp cứu người bị ngộ độc. Xử trí cấp cứu trư ớc tiên là phải làm cho ng ười bị ngộ độc nôn ra cho hết chất đã ăn vào, ngăn cản sự hấp thu của ruột đối với chất độc, phá huỷ độc tính đồng thời bảo vệ niêm mạc dạ dày. THL © 2010 Page 41 Loại trừ các chất độc ra khỏi cơ thể: · Gây nôn: thực hiện ngay bằng cách cho ngón tay vào họng để kích thích nôn. · Rửa dạ dày: rửa dạ đày càng sớm càng tốt, chậm nhất là tr ước 6 giờ. Có thể dùng nư ớc ấm, nư ớc muối sinh lý để rửa. · Tẩy ruột: nếu thời gian ngộ độc lâu trên 6 giờ thì có thể dùng thuốc tẩy magie sulphat, natri sulphat. · Gây bài niệu bằng cách truyền dịch. Giải độc: · Dùng phư ơng pháp hấp thụ chất độc bằng than hoạt. · Trung hòa chất độc · Giải độc đặc hiệu theo nguyên nhân gây ngộ độc. Nói chung khi có triệu chứng ngộ độc thực phẩm cần đến cơ sở y tế gần nhất để xử trí kịp thời những biện pháp thông thường. NGỘ ĐỘC DẦU HỎA, XǍNG Triệu chứng - Ho, khó thở, nôn, rối loạn hô hấp, hội chứng đông đặc ở phổi. - Triệu chứng ho, khó thở và sốt chứng tó chất độc đã vào phế quản. - Choáng váng, tím tái, nhức đầu, co giật, ngất... - Triệu chứng viêm dạ dày, ruột nếu uống phải. THL © 2010 Page 42 Xử trí - Nếu hít phải: thở oxy và kháng sinh. - Nếu uống phải: cho uống Ipeca 0,5-1,5g. Nói chung chống chỉ định rửa dạ dày khi uống phải dầu hỏa, xǎng hoặc dẫn xuất, chỉ đặc biệt rửa dạ dày trong trƣờng hợp uống phải một lƣợng lớn có khả nǎng gây những biến chứng thần kinh nguy kịch. - Nếu bệnh nhân hôn mê: đặt nội khí quản và hô hấp hỗ trợ, thông khí mạnh có tác dụng tǎng đào thải chất độc qua phổi. Với trẻ em: - Nếu khó thở tím tái: cho thở oxy, tránh thở oxy qua nội khí quản vì sợ gây tràn khí màng phổi. - Nếu huyết áp tụt: cho Metaraminol (Aramin) 1 ống 1ml (0,01g) tiêm bắp. - Nếu rối loạn thông khí quan trọng: cho corticoid. - Chống chỉ định tuyệt đối các thức ǎn có mỡ, sữa. Ngạt thở do dị vật Một người đang bị ngạt thở thì lồng ngực sẽ không phập phồng, mặt tái nhợt, chân tay lạnh, da xạm, mắt trợn và lồi ra. Nạn nhân có thể không nói được, chỉ ú ớ trong họng và dùng tay cào vào cổ. Nguyên nhân của tình trạng trên thường là do dị vật lọt vào họng. Nếu không được sơ cấp cứu kịp thời, nạn nhân dễ bị tử vong. Dị vật thường lọt vào họng trong những tai nạn như: thức ăn trào ngược từ dạ dày lên họng khi nôn, răng giả tụt sâu vào họng, hóc phải hạt cây, THL © 2010 Page 43 viên bi, trong lúc chơi đùa (ở trẻ em)... Đối với mỗi đối tượng, trong từng hoàn cảnh, các động tác sơ cứu phải được thực hiện khác nhau. Cấp cứu người lớn 1.Tự cấp cứu khi chỉ có một mình Nếu bị nạn khi chỉ có một mình, bạn hãy tự đẩy ép bụng để tống vật lạ ra ngoài bằng hai bàn tay của mình theo các bước sau: - Đứng tựa lưng vào bờ tường phẳng. Dùng một bàn tay nắm chặt, tì sát phần ngón cái và ngón trỏ vào vùng bụng phía trên, ngay dưới xương ức (lòng bàn tay úp xuống). - Sử dụng nắm tay còn lại đấm mạnh vào nắm tay trên bụng, theo chiều từ trước ra sau và từ dưới lên. - Nếu không kết quả thì dùng ghế dựa, hãy áp phần bụng phía trên rốn lên bờ trên của tấm tựa lưng, sau đó dùng sức nặng của thân người gập xuống thành ghế, tạo một sức ép đẩy không khí từ trong ra. Vật lạ sẽ bị bắn ra ngoài. 2.Khi có người cứu trợ Thủ thuật Heimlich: Bước 1: Người cứu đứng sau lưng nạn nhân, một chân trước, một chân sau; chân trước lồng giữa hai chân nạn nhân. Bước 2: Vòng hai tay ra trước, quàng lấy bụng nạn nhân, bàn tay ngoài nắm lấy nắm đấm của bàn tay trong (lòng bàn tay này úp xuống), áp sát vào vùng bụng phía trên rốn, ngay dưới xương ức của nạn nhân. Bước 3: Giật lên thật mạnh và đột ngột theo hướng từ trước ra sau và từ dưới lên, liên tục 4-5 cái. Động tác này phải được thực hiện dứt khoát và không đè ép vào lồng ngực thì mới có hiệu quả. Đối với phụ nữ có thai hoặc người béo phệ, vị trí đặt tay trên ngực tốt nhất là ngay giữa xương ức, cách mỏm ức 2-3 cm. Nên để nạn nhân ngồi tựa vào ghế để thao tác dễ hơn. Thủ thuật vỗ lưng: Đặt nạn nhân ngồi gập người ra trước, đầu thấp hơn ngực. Người cứu dùng một tay đặt ép giữa ngực ngay trên xương ức, tay kia vỗ mạnh 4- 5 cái liên tục vào lưng, vùng giữa hai bả vai của nạn nhân (có thể cho nạn nhân đứng khom người ra phía trước để vỗ lưng). Đối với nạn nhân bất tỉnh: - Đặt nạn nhân nằm ngửa trên nền đất hoặc ván cứng. Người cứu quỳ, cưỡi ngang đùi nạn nhân, hai đầu gối đặt mé ngoài gối của nạn nhân. - Hai bàn tay chồng lên nhau, đặt gót bàn tay dưới lên vùng bụng trên, ngay dưới xương ức. Dùng sức chồm thân người ấn đẩy từ trên xuống dưới và từ bụng hướng lên ngực nạn nhân liên tục 4-5 cái. -Khi vật lạ ra khỏi họng và nằm tại miệng nạn nhân, cần lấy vật này ra một cách thận trọng. Việc thao tác không đúng có thể đẩy vật lạ tụt vào THL © 2010 Page 44 họng trở lại. Cấp cứu trẻ dưới 1 tuổi Tư thế nằm sấp: Đặt tay và chân trẻ ở hai bên đùi người cứu, kê cằm trên gối người cứu, tư thế đầu thấp hơn ngực (không để đầu chúc xuống quá vì vật lạ khi lọt ra dễ chui vào mũi). Vỗ nhanh 1-5 cái lên vùng lưng, giữa hai bả vai của trẻ, giúp tống vật lạ ra. Tư thế nằm ngửa: Cho trẻ nằm dọc theo một cẳng tay người cứu (bàn tay này giữ đầu trẻ). Đặt hai ngón của bàn tay còn lại lên vùng ngực, giữa hai núm vú của trẻ. Dùng sức đẩy của cánh tay người cứu ấn nhanh và mạnh 4 cái liên tục. Nếu chưa có hiệu quả, có thể thực hiện tiếp tục 4-5 lần. Mọi thao tác phải thực hiện nhanh, dứt khoát, không quá mạnh Cách xử trí vết thương bị nhiễm trùng ất kỳ vết thương xuyên qua da nào cũng có thể gây ra nhiễm trùng. Nhiễm trùng xảy ra do mầm bệnh xâm nhập vào cơ thể, hoặc qua vật gây ra vết thương (ví dụ như con dao bẩn) hoặc từ những nguồn khác sau khi gây ra vết thương. Dự phòng nhiễm trùng Có nhiều điều bạn có thể thực hiện để giảm nguy cơ nhiễm trùng. - Nếu thời gian cho phép (ví dụ vết thương không đe doạ mạng sống, vết thương ít nghiêm trọng), hãy rửa tay thật sạch, thật kỹ trước khi xử trí một vết thương hở. Rửa dưới vòi nước chảy để giàm nguy cơ lan truyền mầm bệnh vào vết thương. - Đeo găng tay (nếu có). Găng tay bằng nhựa là một hàng rào bảo vệ tốt để tránh nhiễm bẩn từ vết thương. Hãy đặt sẵn một đôi lên trên bộ dụng cụ sơ cứu của bạn để tránh tiếp xúc trực tiếp với vết thương. - Hạn chế tối đa tiếp xúc trực tiếp với vết thương hở, ví dụ như là yêu cầu bệnh nhân tự dùng tay mình cầm máu nếu có thể. - Hãy băng vết thương lại càng sớm càng tốt. Xử trí vết thương nhiễm trùng - Che vết thương bằng một miếng gạc vô trùng rồi băng gạc lại đúng chỗ vết thương. THL © 2010 Page 45 - Nâng vùng bị thương lên nếu được để giảm phù nề, giảm đau. - Hãy nhờ tư vấn y khoa, điều trị sốc nếu cần. Created by melodylove23 Visit Vittorrent.vn to download more

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfso_tay_so_cap_cuu_7674.pdf
Tài liệu liên quan